HỘI NHẬP VĂN HÓA
VỚI TRIẾT LƯ ĐÔNG VÀ TÂY PHƯƠNG
NGUYỄN CHÍNH
KẾT
Kitô giáo đă được Âu hóa
Kitô giáo và triết lư Hy Lạp
Đông Tây khác nhau
Trước khi được truyền bá
sang Á châu, Kitô giáo đă được truyền bá khắp
đế quốc Rôma, trong đó phần lớn là Âu Châu.
Thủ đô của Kitô giáo là Rôma, là trung tâm của châu Âu
thời đó. Có thể nói vào thời đó Kitô giáo trở
thành tôn giáo của châu Âu.
Do đó, các vị lănh đạo Giáo
Hội, các nhà thần học, các giáo phụ, các nhà chú
giải Kinh Thánh, v.v... hầu hết là người Âu Châu.
V́ thế, mặc khải và sứ điệp của
Đức Kitô đă được suy tư, nghiền
gẫm, giải thích và diễn tả theo cung cách văn hóa
Âu Châu, trong năo trạng và lề lối suy tư của
người Âu Châu. Đương nhiên, cung cách đó,
lề lối và năo trạng đó rất khác với cung
cách, lề lối và năo trạng của người Á châu.
Biết bao nhiêu học giả đă nghiên
cứu và đưa ra những khác biệt rất lớn
và sâu rộng giữa Đông và Tây. Khác biệt đến
nỗi Ruyard Kipling đă phải nói: «Đông là Đông, Tây là Tây, chẳng bao giờ hai bên
thành một được».
Triết lư Hy Lạp phục vụ Kitô giáo
Từ thời Thượng Cổ
đến nay, Âu Châu chịu ảnh hưởng sâu
đậm nền văn hóa và triết lư Hy Lạp. Tại
châu Âu, không có dân tộc nào có được một nền
triết lư cao sâu như Hy Lạp. Hy Lạp tuy thua Rôma
về mặt chính trị và quân sự, nhưng đă thắng
Rôma về văn hóa và triết lư.
Khi giải thích và khai triển mặc
khải Kitô giáo, các Kitô hữu thời đó bắt
buộc phải dùng một triết lư nào đó làm dụng
cụ để khai triển, để làm thần
học. Triết lư được quan niệm và
được dùng như «nô
tỳ cho thần học» (Philosophia ancilla theologi„).
Ở Âu Châu lúc đó, để làm công
cụ cho thần học, c̣n thứ triết lư nào tốt
hơn là triết lư của Hy Lạp? Triết lư này đă
từng được làm công cụ để phục
vụ và khai triển tôn giáo của người Hy Lạp
(thờ thần Zeus...), một tôn giáo được cha A.
Pieris xếp vào loại «tôn giáo
vũ trụ» (religion cosmique), kém xa các tôn giáo lớn
như Kitô giáo, Phật giáo, Lăo giáo... mà cha xếp vào
loại «tôn giáo siêu vũ
trụ» (religions métacosmiques).
Các giáo phụ Latinh và Hy Lạp đă «rửa tội» và tinh luyện
triết lư này thành một công cụ để khai triển
mặc khải và sứ điệp Đức Kitô, một
tôn giáo thuộc loại siêu vũ trụ. Thế là cái «ống kính» mà người ta
dùng để quan sát các sự vật trần thế bây
giờ được đem dùng để khảo sát Thiên
Chúa! Biết làm sao được? C̣n một dụng
cụ nào khác tốt hơn nữa?
Từ đây, tại châu Âu, Kitô giáo
được truyền bá tới đâu, th́ triết lư này
cũng được truyền bá tới đó như
một tên đầy tớ đi theo chủ ḿnh.
Đương nhiên, triết lư này không c̣n thuần túy Hy
Lạp nữa, v́ đă được những triết
gia thiên tài như Augustin, Thomas d’Aquin... hoàn chỉnh cho phù
hợp hơn với Kitô giáo.
Triết lư Hy Lạp
Một công cụ tốt để suy
tư về những thực tại vũ trụ
Văn hóa và văn minh Tây Phương có
thể nói là được xây dựng trên nền tảng
triết lư Hy Lạp. Cứ xem nền văn minh của Tây
Phương hiện nay, với những tiến bộ
về khoa học và kỹ thuật vượt bậc, th́
ta có thể thẩm định được giá trị
và sự vững chắc của triết lư Hy Lạp
như thế nào. Ai cũng phải khâm phục và
ngưỡng mộ nền triết lư ấy, và phải
nh́n nhận rằng nó là một công cụ rất tốt
để giúp con người suy tư, t́m hiểu những
đối tượng thuộc vũ trụ, bị chi
phối bởi không gian và thời gian. V́ nguyên thủy nó là
một công cụ phục vụ cho tôn giáo của
người Hy Lạp, một tôn giáo thuộc loại «vũ trụ».
Tuy nhiên, nếu dùng nó cho những đối
tượng siêu vũ trụ, không bị thời gian và
không gian chi phối, chẳng hạn như Thiên Chúa, hay
những thực tại vĩnh cửu, là những thực
tại trong các tôn giáo «siêu
vũ trụ», th́ e rằng ta đă dùng quá khả
năng của nó.
Chiều hướng thuần lư của
triết lư Hy Lạp
Người Hy Lạp vốn nổi
tiếng về những suy tư thuần lư hay suy tư
trừu tượng. Mọi việc được suy
tư trong đầu óc, hễ thấy hợp với
những nguyên tắc của lư trí th́ được
khẳng định là đúng, đúng một cách tuyệt
đối, thậm chí đúng hơn cả những ǵ ta thấy
được nơi thực tế nữa, v́ chỉ có lư
trí là đáng tin mà thôi, c̣n giác quan trực tiếp thấy
thực tế có thể đánh lừa chúng ta.
V́ thế, chỉ có những suy tư
thuần lư là đáng lưu tâm, c̣n những đối
tượng của giác quan là đời sống cụ
thể cùng với vũ trụ vạn vật đều
không được coi là quan trọng. Nếu có sự mâu
thuẫn giữa lư trí và thực tế mắt thấy, th́
họ cho lư trí luôn luôn đúng c̣n mắt có thể thấy
sai.
So sánh triết Đông và triết Tây
Để có cái nh́n quân b́nh hơn
Chủ trương hội nhập văn
hóa của Công Đồng Vatican II
Khi Kitô giáo được truyền vào Á
châu, các thừa sai Âu Châu đă tŕnh bày Kitô giáo cho
người Á châu theo cung cách văn hóa của châu Âu,
nghĩa là dùng những ư niệm triết lư Tây Phương
để diễn tả. Nhưng sau 400 năm phúc âm hóa,
Kitô giáo vẫn c̣n là một thiểu số, khoảng 8% dân
số, và bị coi là một tôn giáo ngoại lai có nguồn
gốc Âu Châu.
Nay qua Công Đồng Vatican II, Giáo Hội
nhấn mạnh việc lại việc hội nhập
văn hóa, nên sứ điệp Kitô giáo cần phải
được suy tư và tŕnh bày lại theo cung cách văn
hóa Á châu để phù hợp với người Á châu
hơn. Do đó, những người có trách nhiệm phúc âm
hóa cần phải nắm vững triết lư Á châu
để có thể sử dụng nó một cách khéo léo trong
việc suy tư và diễn tả sứ điệp Kitô
giáo.
Cần quan niệm đúng đắn
hơn về triết lư Đông Phương
Nhưng triết lư Á châu dường như
vẫn c̣n là một cái ǵ xa lạ và bị coi nhẹ
nơi rất nhiều Kitô hữu Á châu. Nhiều
người có một thành kiến hay một mặc
cảm tự ty về văn hóa hay triết lư của Á
châu, họ vẫn luôn luôn coi triết Tây là số một,
đang khi nhiều triết gia Tây Phương hiện nay
cho rằng triết học truyền thống Tây
Phương đang bị lung lay từ gốc rễ. V́
thế, chúng ta cần so sánh hai nền triết học
đó để có một cái nh́n tương đối quân
b́nh và ít thành kiến hơn
Giữa triết lư Đông Phương và
Tây Phương có một số khác biệt căn bản.
Trong phần so sánh này, triết lư Tây Phương
được nói đến ở đây là triết lư Tây
Phương xưa, nghĩa là thứ triết lư ảnh
hưởng tới tư tưởng người Tây
Phương và Giáo Hội từ thời Thượng
Cổ đến thế kỷ 19. Hiện nay, triết lư
Tây Phương hiện đại đă thay đổi
rất nhiều, không c̣n những đặc tính cũ mà
chúng ta nói trong phần so sánh này.
Đông Phương trọng thực
tế, Tây Phương nặng suy tưởng
Khả năng trừu tượng hóa
Nói chung, cách suy tư của người Hy
Lạp xưa mang tính cách thuần lư, trừu tượng,
dựa trên những khái niệm
về sự vật hơn là chính sự vật. Người Tây Phương,
nhất là người Hy Lạp xưa, có khuynh
hướng khái niệm hóa, trừu tượng hóa sự
vật mạnh hơn người Đông Phương.
Khả năng trừu tượng hóa đó đánh dấu
một bước tiến bộ của loài người,
v́ khi c̣n sơ khai, con người chỉ biết nắm
sự vật một cách cụ thể, cá biệt, từng
cái một, chứ họ chưa biết trừu
tượng hóa sự vật để có những ư niệm
về chủng loại của sự vật. Cho tới
cuối thời đồ đá cũ, người ta c̣n
dùng nhiều tên gọi khác nhau để chỉ những
cây, những quả, những chim, những thú vật
cụ thể khác nhau, nhưng chưa có những từ
để chỉ những khái niệm trừu tượng
như loài cây, loài quả, loài thú, loài chim.
Biết trừu tượng hóa sự
vật là biết gạt bỏ những nét đặc thù
của hiện hữu (màu sắc, h́nh dạng, tính chất
riêng...) để chỉ nắm lấy cái chung nhất
của hữu thể. Như vậy, trong khi trừu
tượng hóa hữu thể hiện sinh, người ta
chỉ nắm bắt cái phóng ảnh, cái bản sao của
sự vật, chứ không nắm bắt chính sự
vật. Đương nhiên cái phóng ảnh đó sẽ
trở thành bất động trong đầu óc
người suy tư, đang khi chính sự vật th́ luôn
luôn thay đổi. Thật vậy, khi gặp lại
một người xa cách hàng chục năm, ta mới
thấy h́nh ảnh của người đó trong tâm trí ta
không thay đổi ǵ cả, đang khi chính người
đó đă biến đổi nhiều đến nỗi
ta phải ngạc nhiên.
Đầu óc thuần lư của
người Tây Phương
Điều đó có nghĩa là thế
giới của ư niệm và thế giới của sự
vật, mỗi thứ có một qui luật riêng, có cách
vận hành riêng. V́ thế, khi khởi đầu suy tư,
những ư niệm trong đầu ta có thể phù hợp
với thực tế, với sự vật. Nhưng sau
một quá tŕnh suy tư, kết quả của suy tư có
thể khác với kết cục của sự vật ít
nhiều, cho dẫu người suy tư có thể theo
đúng những nguyên tắc của lư trí trong lập
luận của ḿnh.
Do đó, khoa học thời nay vẫn
phải dùng suy tư với những khái niệm trừu
tượng về sự vật, nhưng vẫn luôn luôn
lấy thực tế để kiểm chứng lại,
để sửa đổi những sai trệch trong suy
tư, trước khi có thể suy tư tiếp tục.
Suy tư trừu tượng rất có giá trị, nhưng
nó không thể đi một ḿnh mà không gặp nguy hiểm,
nó luôn luôn phải được kiểm chứng bằng
thực tế mới tránh khỏi trệch
đường, mới có được kết quả
chắc chắn.
Nhưng người Hy Lạp xưa
chỉ tin vào lư trí của ḿnh chứ không tin vào giác quan,
họ cho rằng giác quan có thể bị đánh lừa. Mà
khốn thay thực tế lại chỉ có thể trực
tiếp nắm bắt được bằng giác quan. Do
đó, khinh thường giác quan rốt cuộc trở thành
khinh thường thực tế. Thế là người Hy
Lạp xưa đă coi trọng những suy tư thuần
lư hơn là thực tại. Họ coi trọng những
nguyên tắc của lư trí hơn là những qui luật khách
quan của vũ trụ (1). Nếu có sự
mâu thuẫn giữa lư trí suy tưởng và thực tế
mắt thấy, th́ họ vẫn cho lư trí là đúng. V́
thế, nhiều triết gia đă cho triết học Hy
Lạp là một thứ duy tâm
luận.
Tính thuần lư, ưa suy tư trừu
tượng đó từ thời Parmenides của
người Hy Lạp đă ảnh hưởng lên cách suy
tư, nhận thức và vũ trụ quan của
người Tây Phương và cả các thần học gia
Tây Phương nữa.
Đầu óc thực tế của
người Đông Phương
C̣n người Đông Phương
chuộng thực tế hơn, nên ít khuynh hướng
trừu tượng hơn người Tây Phương, v́
thế, họ không ưa những suy tư thuần lư và
trừu tượng cho bằng những kết luận rút
ra từ thực tế. Họ cũng biết khái niệm
hóa sự vật, nhưng không dừng lại đó. Họ
dùng những khái niệm để suy tư, nhưng
mọi suy tư đều phải lấy thực tế
để kiểm chứng, chứ không để tư
tưởng luẩn quẩn măi trong suy tư.
Những nguyên lư của người Đông
Phương như nguyên lư âm
dương, nguyên lư đồng
nhi dị, nguyên lư phản
phục... đều là kết quả của nhiều
thời gian quan sát thực tế và suy tư, khác với
những nguyên lư của lư trí nơi người Hy Lạp
xưa phát xuất từ những suy tư thuần lư,
bất chấp thực tế.
Nơi người Đông Phương,
những nguyên lư áp dụng cho sự vật hữu h́nh
đều phát xuất từ thực tế. Chỉ
những nguyên lư nào áp dụng cho những thực tại
siêu việt, không thể kiểm chứng bằng thực
tại, hay không thể xuất phát từ sự vật
hữu h́nh th́ mới là suy tư thuần lư, chẳng
hạn như: «Đạo
khả đạo, phi Thường Đạo; Danh khả
danh, phi Thường Danh» (Lăo Tử)... Những nguyên lư
như thế thường có tính phủ định hơn
là xác định: phủ nhận những tính chất không
thể đúng được, nhưng không dám xác
định rơ rệt bằng ngôn ngữ v́ ngôn ngữ và
kinh nghiệm chung của con người quá nghèo nàn và
thấp kém không thể dùng để diễn tả
những thực tại siêu nghiệm.
Vũ trụ quan động của Đông
Phương và vũ trụ quan tĩnh của Tây
Phương
Vũ trụ quan tĩnh của Tây
Phương
Người Tây Phương chịu ảnh
hưởng văn hóa và triết lư Hy Lạp nặng suy
tư thuần lư, coi trọng khái niệm hơn chính sự
vật. Mà thế giới của ư niệm là thế
giới tĩnh, không có chuyển động hay biến
dịch. Thật vậy, khi ta có một ư niệm nào về
sự vật, th́ ư niệm đó không thay đổi theo
thời gian nếu không có những tác động từ bên
ngoài vào: như do quan sát sự vật thay đổi mà
bổ túc hoặc thay đổi ư niệm ấy. C̣n chính
sự vật th́ luôn luôn thay đổi, dù có thể rất
chậm (2).
Khuynh hướng thuần lư của
Parmenides đă lôi kéo cả nền văn hóa Hy Lạp và
văn hóa Tây Phương vào một vũ trụ quan
tĩnh, cho rằng vũ trụ là bất động (3).
Những nguyên lư mà họ gọi là «nguyên lư của lư trí» là tiêu biểu cho vũ
trụ quan tĩnh này. Vũ trụ quan này đă thống
trị nền văn hóa Tây Phương suốt 20 thế
kỷ (4).
Vũ trụ quan động của Đông
Phương
C̣n ở Đông Phương, ngay từ
thời Thượng Cổ, từ thời Hoàng Đế,
Phục Hy, cổ nhân đă biết quan sát vũ trụ
vạn vật và nhận ra tất cả đều thay
đổi, biến dịch. Không chỉ nhận ra sự
biến dịch trong vũ trụ, mà cổ nhân Đông
Phương đă t́m ra những nguyên lư, những quy
luật không thay đổi của sự biến dịch
ấy. Kết quả của những suy tư, nhận xét
về sự biến dịch ấy được hệ
thống hóa và ghi chép trong cuốn Kinh Dịch (Y King). Kinh Dịch của Đông
Phương không phải là kết quả của những
suy tư thuần lư, mà là kết quả của những suy
tư căn cứ trên thực tế quan sát
được, kiểm chứng được,
để rồi rút ra nguyên lư chung theo phương pháp quy
nạp (5).
Vũ trụ của người Tây
Phương và của người Đông Phương khác
nhau ở chỗ: Vũ trụ của người Tây
Phương là vũ trụ trong ư niệm, mà đă là ư
niệm th́ phải tĩnh, không biến đổi,
phải tuân theo những nguyên lư của lư trí hơn là
những nguyên lư của thực tại. C̣n vũ trụ
của người Đông Phương là vũ trụ
thực tế, biến đổi theo những nguyên lư
của nó, độc lập với những nguyên lư
của lư trí. Quan niệm này tương tự như
của Heraclitus: (6) Với thời gian, không
một vật nào đồng nhất với chính nó, lúc nào
vạn vật cũng trở nên khác với chính nó: nóng thành
lạnh, lạnh thành nóng, mới thành cũ, cũ hư
hoại để sinh ra cái mới khác... Vũ trụ luôn
luôn biến đổi theo tŕnh tự: «thành, trụ, hoại, không».
Cái Bất Biến: đỉnh cao của
vũ trụ quan Đông Phương
Sự biến dịch trong vũ trụ
quan Đông Phương là sự biến dịch theo
luật biến dịch của vũ trụ. Nghĩa là
trong khi tất cả mọi sự đều biến
dịch, th́ vẫn có một cái không biến dịch làm
trụ cột cho tất cả những cái biến
dịch. Và cái đỉnh cao nhất của vũ trụ
quan Đông Phương chính là cái không hề biến
đổi này. Người học Dịch lư tới
chỗ thấu suốt th́ phải giác ngộ và nắm
được Cái Bất Biến này: chính do Cái Bất
Biến này mà tất cả mọi cái khác đều
biến dịch.
Đương nhiên, Cái Bất Biến và
những cái luôn biến dịch không nằm trên cùng một
b́nh diện hiện hữu, hay cùng một cấp
độ hiện hữu. Nhưng Cái Bất Biến đó
luôn luôn nằm trong tất cả những thực tại
biến đổi: không một thực tại biến
đổi nào mà không hàm chứa yếu tố bất
biến ấy. Cái Bất Biến ấy chính là nền
tảng cho tất cả những cái biến đổi.
Nhất nguyên của Đông Phương và
nhị nguyên của Tây Phương
Nhị nguyên
Nhị nguyên là tách biệt hai ư niệm
đối lập ra khỏi nhau tới mức chúng chỉ
đối kháng nhau, mà không có nguyên lư nào tổng hợp chúng
thành một thể hay một mối duy nhất. Thí dụ:
tâm vật (hay tinh thần và vật chất), trời
đất, hữu vô, đầu đuôi, sướng
khổ, vinh nhục... Hai thể đối lập đó
đấu tranh với nhau để rồi một mất
một c̣n, nghĩa là cái này có thể có mà không cần cái
kia, và cái kia càng mất đi th́ cái này càng «sống» mạnh. Do quan niệm hai thành phần
đối đăi đó vốn tách biệt nhau, nên mới
phát sinh những vấn đề như: vật chất có
trước hay tinh thần có trước? tại sao có
sự ác trên trần gian?...
Nhất nguyên
C̣n nhất nguyên là chủ trương có
một nguyên lư tổng hợp hai thể đối lập
trong một cặp đối đăi thành một thể hay
một mối duy nhất. Hai thể đối lập
đó chỉ là do sự phân cực của hữu thể,
của thực tại. Chẳng hạn bất cứ
một vật nào cũng tự phân chia thành trong và ngoài, trên
và dưới, trước và sau... Hay như một cục
nam châm luôn luôn có đầu nam đầu bắc, hoặc
như hễ có ḍng điện th́ phải có dây nóng dây
lạnh, cực âm cực dương...
Hai thể đối lập đó
đấu tranh với nhau để cùng tồn tại,
vừa đấu tranh với nhau vừa bổ túc lẫn
nhau, vừa nương nhau mà tồn tại. Hai thể
đó không thể tách rời nhau, v́ cái này mất th́ cái kia
cũng mất theo, cái này sinh th́ cái kia cũng cùng sinh ra
một lượt. Hai thể không thể tồn tại
độc lập, v́ cái này tồn tại được
là nhờ có cái kia. Nhưng hai thể đối lập
đó một khi đă xuất hiện th́ tương tranh
với nhau, và phải tương tranh như thế th́
mới tồn tại, chứ không thể lănh đạm
hay độc lập với nhau. Hai thể đối
đăi nhau đó được gọi bằng một tên
chung là «lưỡng nghi» hay
«âm dương» (7).
V́ vũ trụ quan của Tây Phương
ngày xưa là một vũ trụ quan mang tính thuần lư,
với những ư niệm trừu tượng, phù hợp
với những đ̣i hỏi của lư trí hay với
những nguyên lư của lư trí, hơn là phát xuất từ
việc quan sát sự vật, nên không thấy rơ
được tương quan giữa hai mặt
đối lập của sự vật. V́ không thấy
được tương quan bất khả phân ly đó,
nên người Tây Phương chỉ nh́n thấy tính cách
đối lập, mâu thuẫn của chúng, chứ không
thấy chúng hỗ tương, bổ túc và cần
thiết lẫn nhau, nhất là không nhận ra chúng là hai
mặt của một thể duy nhất. Người
Đông Phương gọi tính chất này của hữu thể
là «nhất nguyên phân cực»
hay «nhất thể
lưỡng cực»
Nhất nguyên phân cực
Người Đông Phương nhận
thấy vũ trụ luôn luôn biến hóa trong tất cả
mọi phạm vi, t́nh huống, trong thời gian và không gian,
sinh ra nhiều sự, nhiều vật, nhiều t́nh lư,
nhiều tính chất khác nhau, trong nhiều mức
độ khác nhau. Chẳng hạn:
– Trong phạm vi thời gian, mỗi
vật, mỗi biến cố đều xảy ra vào thời
điểm riêng của nó, do đó có cái trước có cái sau.
Nói cách khác, thời gian được phân cực thành trước và sau.
– Trong phạm vi âm thanh, mỗi âm
đều có độ cao khác nhau, có cái trầm, có cái bổng.
Vậy âm thanh được phân thành trầm và bổng.
Tương tự như vậy, bất
cứ phạm vi nào của vũ trụ cũng
được phân thành hai cực khác nhau, mỗi phạm
vi có hai tên khác nhau cho hai cực ấy. Các cặp mâu
thuẫn gồm hai cực ấy được tổng
quát hóa thành âm và dương.
Âm và dương tượng trưng cho
những cặp đối đăi nhau trong tất cả
mọi phạm vi của vũ trụ vạn vật:
đực-cái, nam-nữ, nóng-lạnh,
cao-thấp, dài-ngắn, mạnh-yếu,
thiện-ác,... hoặc lư và
trí, tâm và vật, tinh thần và thể chất, thiên đàng
và địa ngục, đạo và đời, thánh và phàm,
thương và ghét, giúp và hại, bản chất và hiện
tượng, sống và chết, gốc và ngọn, nhân và
quả, tinh và noăn, khí và huyết, thủy và hỏa,
thuốc và bệnh... Không một phạm vi nào trong vũ
trụ mà không bị phân cực như thế.
Qui ước về Âm Dương:
Mỗi phạm vi đều phân làm hai
cực: âm và dương. Nhưng cực nào là âm, cực nào
là dương? Người ta thường qui ước
rằng:
– cái ǵ có tính cách tiêu cực, ở
trước, có trước, tĩnh, nhỏ, tối,
mềm, xấu, kém, nở lớn ra, đi xuống... là âm,
– c̣n cái ǵ có tính cách tích cực, ở sau, có
sau, động, lớn, sáng, cứng, tốt, hơn, thu
nhỏ lại, đi lên... là dương.
Thí dụ, trong phạm vi sáng tối, th́ sáng
là dương, tối là âm, sáng nhiều là dương so
với sáng ít là âm, tối mờ là dương so với
tối mịt là âm.
Âm dương luôn luôn đi với nhau:
Không
bao giờ âm hay dương lại đi một ḿnh: âm chỉ là âm khi đi với
dương, dương chỉ là dương khi đi
với âm. Âm mà đi với một cái khác c̣n âm hơn
nó, th́ nó trở thành dương; dương mà đi
với cái khác c̣n dương hơn nó th́ nó trở thành âm.
Do đó, khi có 3 mức độ sáng khác nhau: rất sáng,
sáng vừa, và sáng ít, nếu so với tối, th́ cả 3
mức sáng đó đều là dương. Nhưng cái sáng
vừa sẽ trở thành âm khi đi với cái rất sáng,
và trở thành dương khi đi với cái sáng ít.
Sự phân cực âm dương giống
như hai đầu của một thanh nam châm: đầu
bắc đầu nam. Nếu chặt thanh nam châm ra làm
đôi, th́ ta không được một thanh bắc một
thanh nam, mà cả hai thanh nhỏ ấy đều trở
thành những thanh nam châm có hai đầu bắc nam y như
thanh nguyên thủy. Tương tự như vậy, một
tập thể gồm nhiều người có mức
độ giầu nghèo khác nhau, người ta có thể phân
tập thể ấy thành hai loại người: giầu
và nghèo. Nhưng sau khi chia làm hai tập thể nhỏ
như trên, th́ mỗi tập thể nhỏ ấy vẫn
có thể chia thành hai loại người: giàu và nghèo, hay có
nhiều tiền hơn và có ít tiền hơn. Điều
đó có nghĩa là: âm
dương là tương đối, là so sánh với nhau mà
có. Không có một vật nào
tự bản chất là dương hay âm cả. Khi nói
vật này là âm th́ đă giả thiết có vật khác là
dương rồi.
Hai quan niệm khác biệt
Đây là một điểm khác biệt
giữa Đông và Tây. Nhận thức luận của Tây
Phương xưa cho rằng tự bản chất
một vật có thể là tốt hay xấu mà không cần
phải so sánh hay đối chiếu với vật nào khác.
Một vật đă gọi là xấu th́ không thể là
tốt cho dẫu là so sánh với vật xấu hơn. Nói
cách khác, âm là âm mà dương là dương. Nếu đă là
âm th́ cứ cố định là âm, v́ bản chất
của nó là âm, chứ không do so sánh với cái khác là
dương. Âm và dương, tốt và xấu, sáng và
tối... có thể tách
biệt nhau hoàn toàn, không chút dính dấp ǵ với nhau.
Nếu có sự chung chạ th́ chỉ như đậu
đen và đậu trắng trộn chung với nhau, nếu
cứ kiên nhẫn xếp riêng hai thứ ra, th́ sẽ có lúc
đậu trắng và đâu đen hoàn toàn tách biệt. Do
đó, nhận thức luận và vũ trụ luận
của Tây Phương ngày xưa là nhị nguyên: hai cái đối lập nhau
bắt nguồn từ hai thể đối lập.
C̣n nhận thức luận và vũ trụ
luận của Đông Phương là nhất nguyên: hai cái đối lập là do
một thể phân cực ra, và nếu thể ấy
bị tách làm hai, th́ hai thể mới cũng vẫn có
đầy đủ hai cực đối lập như
thể nguyên thủy. Điều đó có nghĩa là trong
cực này đă có hàm chứa cực kia, nên khi phân làm hai,
mỗi thể nhỏ mới có thể có đầy
đủ hai cực đối lập được.
Vậy là trong âm đă có sẵn dương, và trong
dương đă có sẵn âm. «Âm
trung hữu dương, dương trung hữu âm» (Kinh
Dịch). Âm và dương không
thể nào tách biệt được nhau, nghĩa là
không bao giờ có t́nh trạng cô
âm hoặc cô dương,
thuần âm hoặc thuần
dương được. Điều đó thật
dễ hiểu, v́ khi nào c̣n có sự khác biệt (8) giữa các phần tử trong
một tập thể với nhau, th́ tập thể đó
ắt nhiên phải phân cực thành âm dương. Âm
dương phát sinh là do sự
dị biệt về mức độ (9).
Và v́ vũ trụ quan của Đông
Phương là động biến, nên âm có thể biến
thành dương, dương biến thành âm. Sở dĩ
như thế là v́ trong dương đă có sẵn mầm
âm, và trong âm đă có sẵn mầm dương. Cái mầm
bên trong ấy chỉ chờ cái bên ngoài yếu đi là phát
triển mạnh lên và thay thế cái bên ngoài, và lúc đó, bên
trong lại phát sinh một mầm đối lập
mới. Đó là luật tiêu
tức của âm dương: «âm tiêu dương trưởng, dương tiêu âm
trưởng». V́ thế, vũ trụ trở thành
một ṿng tṛn sinh hóa hóa thành măi măi, âm dương thay nhau lên
ngôi, làm chủ, thay đổi thịnh suy cho nhau, không bao
giờ yên một chỗ cả.
Âm Dương và những tính chất
của âm dương được tượng trưng
và biểu thị bằng Thái Cực Đồ: ṿng
ngoài cùng tượng trưng cho Vô
Cực. Ṿng trong tượng trưng cho Thái Cực. Hai h́nh (giống như con cá) mầu
trắng đen tượng trưng cho Lưỡng Nghi: Âm và
Dương. Ṿng tṛn nhỏ mầu trắng tượng
trưng cho Thiếu
Dương (Dương trong Âm) và ṿng tṛn nhỏ màu
đen tượng trưng cho Thiếu
Âm (Âm trong Dương).
Thái
cực đồ
«Vô
cực sinh Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi,
Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ tượng
sinh Bát Quái,
Bát Quái sinh vạn vật» (Kinh Dịch).
Quan niệm thực tại đơn
diện, và quan niệm thực tại đa diện
Thực tại đơn diện
Triết lư và nhận thức luận Tây
Phương ngày xưa dựa trên những nguyên lư của lư
trí hơn dựa trên thực tại. Theo đó, hữu thể chỉ có thể
là một (L’Être est Un). Và nếu hữu thể chỉ có
thể là một th́ cứ theo đà lư luận đó, hữu thể cũng chỉ có
một mặt, không thể nhiều mặt
được. Do đó, đối với một hữu
thể hay một thực tại, chỉ có một cách nh́n về hữu thể hay
thực tại đó là đúng
mà thôi, tất cả những cách nh́n nào khác mâu thuẫn
với cách nh́n đó phải là sai. Điều đó
được phản ảnh trong nguyên lư bất mâu thuẫn (10) và
triệt tam (11) của
triết lư Tây Phương. Những nguyên lư này đă
giả thiết rằng thực tại chỉ có một
mặt, v́ nếu thực tại mà là đa diện th́
những nguyên lư ấy không c̣n đúng nữa (12).
V́ thế, trong nhận thức luận của Tây
Phương có câu: «Chân lư
chỉ có một» (13).
Do quan niệm này mà người Tây
Phương một khi đă thấy ḿnh là đúng, họ
đương nhiên cho rằng tất cả những ai
quan niệm khác với họ đều sai. V́ theo lư trí,
không thể có hai chân lư khác nhau hay mâu thuẫn nhau, hễ cái
này đúng ắt nhiên những cái khác với nó phải sai,
không thể cùng đúng một lượt (14).
Cũng v́ quan niệm thực tại đơn diện, «chân lư chỉ có một», mà các
triết gia Tây Phương thường có khuynh
hướng nghiêng về một mặt của vấn
đề, dễ đi đến chủ nghĩa
độc đạo (exclusivisme), chỉ có một con
đường. V́ thế, triết học Tây Phương
dễ phát sinh ra các học thuyết: duy tâm, duy vật, duy
linh, duy nghiệm, duy niệm, duy thực, duy hiện
tượng, v.v... giản lược tổng thể vào
một mặt nào đó của nó.
Và cũng v́ lư do đó mà người Tây
Phương có khuynh hướng tranh đấu dành chân lư
hay phần thắng về ḿnh. Do đó, họ
thường xuyên phải tranh đấu với chính
bản thân, với tha nhân, với thiên nhiên vạn vật.
Từ đó người Tây Phương dễ phát sinh
khuynh hướng chiếm đoạt, thống trị, áp
đặt... Điều này được biểu
hiện trong nghệ thuật kiến trúc của Tây
Phương thích dùng những đường gẫy,
đường thẳng, những góc nhọn cao vút lên
trời, biểu hiện niềm kiêu hănh, ḷng ham muốn
chống lại và thống trị thiên nhiên cũng như
vạn vật chung quanh.
Thực tại đa diện
Người Đông Phương không
chỉ suy tư theo lư trí mà c̣n căn cứ trên thực
tế. Mà trên thực tế có sự vật nào chỉ có
một mặt đâu? Mọi sự vật đều có
nhiều mặt, ít nhất với ba chiều kích (dài-rộng-cao)
để người ta có thể nh́n chúng với sáu
mặt khác nhau: trước, sau, trên, dưới, trái,
phải. Sáu mặt ấy ứng với sáu cách nh́n khác nhau, thậm chí có thể mâu thuẫn nhau (15).
Thật là buồn cười nếu có ai đặt
vấn đề rằng: trong sáu cái nh́n ấy, cái nh́n nào
đúng? Và buồn cười hơn nữa nếu có ai
nhất quyết rằng trong sáu cái nh́n ấy, chỉ có
một cái nh́n - cái
nh́n của ḿnh - là
đúng, c̣n năm cái nh́n kia, chiếu theo câu «chân lư chỉ có một»,
ắt phải sai hết. Sự việc buồn
cười trên rất dễ xảy ra nếu người
ta chấp nhận nguyên lư bất mâu thuẫn là đúng và
quan niệm thực tại chỉ có một mặt.
Khả năng chấp nhận và dung ḥa mâu
thuẫn
V́ quan niệm thực tại là đa
diện, v́ không luôn luôn suy nghĩ theo nguyên lư bất mâu
thuẫn của Tây Phương (16), nên
người Đông Phương chấp nhận mâu
thuẫn một cách tương đối dễ dàng
hơn. Khi một người nghĩ thế này và thấy
người khác nghĩ thế kia ngược hẳn
lại với ḿnh, người đó vẫn có thể
nghĩ rằng: biết đâu người kia cũng
đúng như ḿnh, không kém ǵ ḿnh. Có thể nói tại châu Á,
những khuynh hướng chính trị, tôn giáo, văn hóa
khác nhau đôi khi mâu thuẫn nhau vẫn có thể «sống chung ḥa b́nh» với
nhau nhiều hay ít. V́ không theo nguyên lư bất mâu thuẫn,
người Á Đông không đặt quá nặng vấn
đề đúng-sai.
Tại châu Á có ba tôn giáo lớn: Khổng,
Lăo, Phật, và ba luồng tư tưởng lớn ấy
đâu phải không có mâu thuẫn. Nhưng không thấy có
mấy triết gia Đông Phương, hay những tín
đồ thuộc ba tôn giáo ấy đặt vấn
đề: đạo nào đúng đạo nào sai. Họ
nhận ra rằng ba luồng tư tưởng ấy bổ túc cho nhau nhờ có
những điểm mâu thuẫn nhau. Thật vậy,
trong vấn đề xă hội chẳng hạn,
đạo Nho chủ trương nhập thế, c̣n
đạo Lăo chủ trương xuất thế. Hai
chủ trương ấy tuy mâu thuẫn nhau nhưng
vẫn có thể «sống chung
ḥa b́nh» ngay trong một con người. Một học
giả Đông Phương nói rằng trong con người
một sĩ phu Á Đông, có h́nh ảnh một ông Khổng
và một ông Lăo: ông Khổng chi phối hành động, c̣n
ông Lăo chi phối tư tưởng.
Sự mềm dẻo trong tư
tưởng
Cũng do quan niệm thực tại
đơn diện mà những khẳng định của
người Tây Phương về thực tại
thường rất rơ ràng, mạch lạc, dứt khoát,
nhưng mang tính một chiều. Khi nói «điều này tốt» th́ bao hàm rằng nó không
thể xấu, mà nói «điều
này xấu» th́ bao hàm rằng nó không thể tốt. C̣n
những khẳng định người Đông
Phương thường không rơ ràng, dứt khoát như
thế. Khi nói «điều này
tốt» th́ người ta ngầm hiểu là nó cũng có
những mặt xấu hay không tốt của nó, cũng
như khi nói «điều này
xấu» th́ ngầm bao hàm rằng nó cũng có những
mặt tích cực của nó. Quan niệm «không có vật nào thuần âm hay thuần dương»
hay «trong dương có âm và trong
âm có dương» cũng nói lên tính đa diện của
thực tại (17). Do đó, trong tư
tưởng, người Tây Phương có tính dứt khoát
và cứng rắn, c̣n người Đông Phương có
tính mềm dẻo, mơ hồ, không dứt khoát.
Đương nhiên, tính chất nào cũng có những cái
hay cái dở của nó.
Khuynh hướng phân tích và tổng hợp
của Đông và Tây Phương
Tây Phương thiên về phân tích
Khuynh hướng nhị nguyên và nhận
thức luận đơn diện khiến người Tây
Phương có đầu óc phân tích, biện biệt
mạnh. Hoặc có thể ngược lại: v́ có khuynh
hướng phân tích biện biệt mạnh mà họ
trở nên nhị nguyên. Họ quan niệm bản thân và tha
thể hoàn toàn tách biệt nhau, có thể đi đến
đối kháng và đấu tranh với nhau. Điều này
ảnh hưởng đến cách hiểu và cắt
nghĩa Kinh Thánh của người Tây Phương về
Thiên Chúa: Thiên Chúa hoàn toàn tách biệt với vũ trụ
vạn vật, Thiên Chúa và vũ trụ vạn vật
dứt khoát là hai thực
thể khác biệt nhau.
Đông Phương thiên về tổng
hợp
Khuynh hướng nhất nguyên và nhận
thức luận đa diện của Đông Phương
khiến họ có đầu óc tổng hợp mạnh.
Hoặc có thể ngược lại: v́ có khuynh hướng
tổng hợp mạnh mà họ trở nên nhất nguyên.
Họ tổng hợp bản thân và tha thể thành một
thể duy nhất: «vũ
trụ vạn vật đồng nhất thể». Do
đó, người Đông Phương có khuynh hướng
«dĩ ḥa vi quư», đề
cao ḥa b́nh, thích hài ḥa. Họ dễ sống hài ḥa với
chính ḿnh, với tha nhân, với vạn vật, không có khuynh
hướng chiếm đoạt, thống trị và thích áp
đặt mạnh như người Tây Phương. Ta
thấy các tôn giáo phát triển tại Đông Phương
có khuynh hướng tự do, lỏng lẻo, không
đặt nặng cơ cấu, ít giáo điều, ít áp
đặt, dễ chấp nhận và hài ḥa với nhau...
Tính hài ḥa được thể hiện rất rơ nét trong
nghệ thuật: các kiến trúc của Đông
Phương thường dùng nhiều đường cong,
đường ngang, có tính cách trầm lắng, ḥa với
vạn vật, đi vào ḷng người; các bức họa
Đông Phương thường vẽ con người
nhỏ bé ḥa lẫn với thiên nhiên bao la rộng lớn
được vẽ mờ nhạt mịt mù.
Khuynh hướng nhất nguyên này ảnh
hưởng đến cách quan niệm và cắt nghĩa
của người Đông Phương về Thực
Tại Tối Hậu. Thực Tại Tối Hậu và
vũ trụ vạn vật là một. Đó chỉ là hai mặt khác biệt nhau –
bản thể và hiện tượng, hay thể và
tướng – của cùng
một thực thể duy nhất (18).
Triết Tây vị triết học,
Triết Đông vị nhân sinh
Triết học Tây Phương nhằm
thỏa măn trí tuệ
Triết học Tây Phương
trước đây (19) có khuynh hướng suy tư thuần lư, coi
việc thỏa măn lư trí, sự hợp lư, hay sự phù
hợp với đ̣i hỏi của lư trí quan trọng hơn
sự phù hợp với thực tế. V́ thế, nó nhằm thỏa măn nhu cầu
hiểu biết của trí tuệ hơn là phục vụ
đời sống. Chính v́ vậy, triết học
trở nên độc lập với cuộc sống, ở
bên lề cuộc sống. Do đó, người ta có
thể nghĩ một đằng, nhưng sống một
đằng. Triết học không có ảnh hưởng
nhiều trên đời sống, trên những lănh vực
sinh hoạt của đời sống.
Ta thấy rơ ràng tinh thần của triết học Tây
Phương khác hẳn với tinh thần khoa học Tây Phương. Triết học coi
trọng những nguyên lư của lư trí, c̣n khoa học
lại coi trọng cách vận hành của sự vật.
Triết học và khoa học đôi khi mâu thuẫn nhau.
Triết học chỉ có ảnh hưởng quan trọng
trong tôn giáo, được tôn giáo dùng làm dụng cụ
để diễn tả và khai triển những mặc khải
thần linh. Thời Trung Cổ, do ảnh hưởng
của tôn giáo quá nặng, khoa học phải chịu
sự chi phối của triết học và tôn giáo, nên khoa
học không tiến nhanh được. Nhiều nhà khoa
học bị triết học và tôn giáo kết án hoặc
chế tài khi họ tuyên bố những thành quả khoa
học ḿnh khám phá ra vốn đi ngược lại quan
điểm của triết học và tôn giáo, như Bruno,
Galilée, Mendel... (20)
Triết học Đông Phương gắn
liền với đời sống
Ngược lại, người Đông
Phương có đầu óc trọng thực tế hơn
suy tư thuần lư, nên triết học không nhằm thỏa măn nhu cầu của trí tuệ
cho bằng nhu cầu thực tế của đời
sống. V́ thế, triết
học gắn liền với cuộc sống, đóng
vai tṛ chỉ đạo, hướng dẫn cuộc
sống. Tại châu Á, các triết gia thường cũng
là những hiền nhân sống đích thực triết lư
của ḿnh. Ảnh hưởng của triết học trên
cuộc sống rất mạnh, triết học chi
phối mọi lănh vực sinh hoạt của đời
sống. Chẳng hạn như tại châu Á, triết lư
Kinh Dịch được áp dụng trong đạo
học, y học, bốc phệ, địa lư, luân lư,
luận lư, binh pháp, kinh tế, chính trị, các ngành khoa
học, v.v... Không một triết lư nào ở Tây
Phương có ảnh hưởng quan trọng đối
với đời sống như vậy.
Triết Đông với Kitô giáo
So sánh những đặc tính của
triết học Đông Phương và Tây Phương, ta
thấy triết học Đông Phương phù hợp
với sứ điệp Kitô giáo hơn. Trước
hết, Kitô giáo nguyên thủy xuất phát từ Đông
Phương, từ trong bối cảnh văn hóa Đông
Phương. Rất tiếc về sau Kitô giáo đă bị
Âu hóa và dường như đă đánh mất bản
sắc Á châu của ḿnh. Kitô giáo đă trở thành một
tôn giáo nặng tính chất Tây Phương: hầu hết
các ư niệm thần học dùng để giải thích Kitô
giáo đều là những ư niệm triết lư của Tây
Phương.
Việc đưa Kitô giáo trở về với
triết lư Đông Phương, dùng những ư niệm
của triết lư Đông Phương để giải
thích cho người Đông Phương là một việc
làm chính đáng và thích hợp. Rất có thể có nhiều
kết luận quan trọng của thần học Tây
Phương chỉ là cách hiểu hay giải thích mặc
khải theo năo trạng, khuynh hướng và văn hóa
của người Tây Phương. V́ thế, để
dễ dàng thích ứng và hội nhập văn hóa nơi
những dân tộc Á châu, chúng ta cần phải phân biệt
những yếu tố nào thuộc sứ điệp hay
mặc khải không thể thay đổi và những
yếu tố nào thuộc văn hóa có thể thay
đổi.
Cũng như các tôn giáo lớn khác tại
châu Á, Kitô giáo là một tôn giáo để sống hơn là
để biết, và triết lư Đông Phương
cũng nhắm để sống chứ không phải
để thỏa măn nhu cầu lư trí. C̣n triết lư Tây
Phương nhắm thỏa măn trí tuệ hơn để
sống, nên thần học Tây Phương cũng chịu
ảnh hưởng này. Nhiều điều
được xác định một cách dứt khoát và long
trọng đến nỗi sẵn sàng chấp nhận
sự chia rẽ trong nội bộ Giáo Hội nhưng
những xác định ấy không phải để
sống cho bằng để xác định quan
điểm.
Kitô giáo chủ trương quên ḿnh, «hủy ḿnh» (kenosis), kết
hiệp và ḥa ḿnh với Tuyệt Đối và cả
với những ǵ tương đối (21),
th́ triết lư Đông Phương cũng chủ
trương «vô vi» (22),
«vô kỷ, vô công, vô danh» (23),
«vô ngă» hay «phá chấp ngă» (24), v.v... để
phá những ngăn trở cho sự kết hiệp và ḥa
ḿnh với tha thể. Những chủ trương ấy
sẽ trở nên dễ dàng thực hiện khi người
ta nhận ra rằng ḿnh và tha thể chỉ là một, hay «vũ trụ vạn vật
đồng nhất thể» (25).
Phần chú thích
(1)
Người ta đă nhạo báng lối suy tư
trừu tượng quá khích đó như sau: Các triết gia Hy Lạp đă ra
lệnh cho vạn vật: «Hỡi thiên nhiên, đây là một
số qui luật mà ta đặt ra cho mi, mi phải tuân theo
cho nghiêm chỉnh». Thái
độ của các nhà khoa học gia khác hẳn. Họ nói: «Chúng tôi đă nghiên
cứu và phát hiện những chuyển động của
thiên nhiên, và đây là những điều chúng tôi đă khám
phá được. Những
điều này theo như chúng tôi đă quan sát từ
trước tới nay, là những định luật
của thiên nhiên».
(2)
Thực ra, triết lư Hy Lạp vẫn có những
khuynh hướng vũ trụ quan động, chẳng
hạn Heraclitus (576-480 AD) chủ trương vũ trụ
biến dịch và sự biến dịch ấy nằm ngay
trong yếu tính của mọi hữu thể. Do đó, tất cả
đều biến đổi, đều bất
ổn. Ông nói: «Người
ta không thể tắm hai lần trong cùng một ḍng sông»
để diễn tả sự biến chuyển không
ngừng của vạn vật.
Ông chủ trương «hữu
thể là nhiều» v́ ông thấy có nhiều hữu
thể khác nhau ngay trước mắt. Nhưng chủ trương của ông đă
bị chủ trương của Parmenides (540-450 AD)
thắng thế. Ông này
chủ trương «hữu
thể là một». Và
từ đó, ông suy lư ra rằng vũ trụ th́ vĩnh
cửu, duy nhất, liên tục và bất động. Ông cho rằng tất cả
mọi biến đổi ta thấy được
chỉ là biểu kiến, không có thực, do giác quan đánh
lừa ta, v́ theo lư trí thuần lư th́ hữu thể chỉ
có thể là một, v́ khác với hữu thể là phi hữu, mà phi hữu th́
không thể hiện hữu.
Làm sao ông có thể suy nghĩ khác được khi ông
cho rằng nguyên lư đồng nhất là tuyệt
đối: «Hữu thể th́
có, phi hữu th́ không có»? C̣n Heraclitus th́ không chấp
nhận nguyên lư đồng nhất, ông tuyên bố: «Vật
nào cũng vừa là chính nó vừa không phải là chính nó». Ông đưa ra ư niệm về
sự biến dịch và
trở nên để giải thích về hữu
thể. Ư niệm này cho
rằng «hữu thể là phi
hữu». Nhưng không may,
triết lư của ông đă không có đất dụng vơ
giữa một thế giới Hy Lạp mà ai cũng coi
trọng lư trí và khinh thường thực tế (là
những ǵ giác quan nhận thức được).
(3)
Thực ra, trong thực tế, chẳng có ai cho
rằng vũ trụ là bất động và thực
tại là đơn diện cả, cho dù là những triết
gia cực đoan nhất của Tây Phương. Nhưng những nguyên lư mà
người Tây Phương gọi là «nguyên lư của lư trí» lại chỉ có thể
đúng trong một vũ trụ bất động và
đơn diện mà thôi.
(4)
Măi tới thế kỷ 18-19, các triết gia Tây
Phương như Hegel (1770-1831), Renouvrier (1815-1903)… mới
đặt lại vấn đề vũ trụ quan
tĩnh của Tây Phương, và đưa ra một vũ
trụ quan động. V́
thế, vũ trụ quan của triết lư Tây Phương
hiện đại không c̣n tĩnh như xưa, mà rất
là động.
(5)
Đương nhiên, trong những kết quả
đó, không phải kết quả nào cũng đều do
quan sát hay kiểm chứng được, nhất là khi
đối tượng là những thực tại siêu
việt. Đối với
những thực tại ấy, cổ nhân đă suy tư
theo trực quan hay nội quan, và căn cứ trên những
hiểu biết chắc chắn đă có. Chẳng hạn như khi cổ
nhân xác định: «Vô Cực sinh Thái Cực, Thái
Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ
Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái» (Kinh
Dịch), hay «Đạo sinh
Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh Vạn vật»
(Lăo Tử)…
(6)
Theo Heraclitus, «L’être est le
non-être» (Hữu thể là phi hữu).
(7)
Một minh họa giúp ta dễ hiểu sự việc
đấu tranh với nhau để cùng tồn tại,
để bổ túc lẫn nhau, đó là chuyện con diều và sợi giây. Con diều và sợi giây cùng bay
lượn trên trời, đùa giỡn với gió một
cách thanh thản vui thú.
Nhưng con diều bỗng cảm thấy ḿnh không
được tự do v́ bị sợi giây ràng
buộc. Nó muốn bay cao lên
nữa, bay xa hơn nữa, nhưng bị sợi giây
cản lại. V́ thế, nó
rất bực ḿnh v́ sợi giây.
Nó nghĩ nếu nó được giải phóng
khỏi sợi giây, nó sẽ tha hồ bay cao bay xa, và nó
rất đau khổ v́ sợi giây ràng buộc. C̣n sợi giây th́ cũng bực
ḿnh không kém v́ con diều. Nó
luôn luôn bị con diều làm căng thẳng, nhiều khi
như muốn đứt. Nó
không được tự do mà hoàn toàn bị lệ
thuộc vào con diều: con
diều bay đi đâu th́ lôi kéo nó đi tới
đấy, bất chấp nó có muốn hay không. Nó nghĩ nếu nó
được giải phóng khỏi con diều, nó sẽ
tha hồ bay lơ lửng giữa trời, tự do qua
lại, không c̣n bị lôi kéo, căng thẳng nữa. Thế là «hai đứa» quyết
định chia tay, hy vọng rời nhau cuộc
đời sẽ tốt đẹp hơn. Nhưng thực tế thật
không ngờ: vừa rời
nhau th́ cả hai cùng rơi xuống đất.
(8)
Trong vũ trụ, có nguyên lư «Đồng nhi dị» (giống mà khác), nghĩa là
không có hai vật nào hoàn toàn giống nhau, tuy dù có thể có
vô số những điểm giống nhau, nhưng thế
nào chúng cũng phải có những điểm khác nhau. Hai vật cùng loại cũng
được sản xuất trong một nhà máy hiện
đại, xem ra không có
điểm nào khác nhau, nhưng không thể nào không có
điểm khác nhau.
Trước hết, chúng có thể khác nhau về
thời điểm sản xuất, hay không gian sản
xuất, dù chỉ trước hay sau nhau một giây hay cách
xa nhau một mét, số phận chúng cũng khác nhau,
được dùng ở hai nơi khác nhau, thời
điểm hủy diệt cũng khác nhau, v.v…
(9)
Một vài thí dụ làm sáng tỏ vấn đề
hơn: Thế giới
hiện tại gồm 4 tỉ người, trong đó
ắt phải có người khôn người dại. Nhưng giả như ta tuyển
được 10 người khôn nhất thế giới
và cho họ ở chung với nhau, th́ trong 10 người
đó ắt nhiên phải có kẻ khôn nhiều hơn
người khôn ít hơn. Và
trong nội bộ 10 người đó, kẻ khôn nhiều
th́ gọi là khôn, và kẻ khôn ít th́ gọi là dại. Vậy là trong 10 người khôn
nhất thế giới ấy vẫn có kẻ khôn
người dại. Làm sao có
thể không có sự dị biệt giữa 10 người
đó?
Hay trong một pḥng đầy ánh sáng,
chỗ nào cũng sáng.
Người ta tưởng sáng như vậy là không có
bóng tối. Nhưng nếu
ở một góc pḥng nào đó, ta để một ngọn
đèn sáng gấp nhiều lần ánh sáng đă có và cô
lập lại góc pḥng đó, để ánh sáng tại đó
không lọt ra ngoài. Lập
tức, ta thấy căn pḥng có chỗ sáng hơn, có
chỗ tối hơn.
(10)
Nguyên lư bất mâu thuẫn có thể được
phát biểu nhiều cách: «Một mệnh đề không
thể vừa đúng lại vừa sai», hay: «Hai mệnh đề mâu thuẫn
nhau không thể cùng đúng một lượt», hay: «Một
vật không thể vừa là nó vừa không là nó
được». Chữ «mâu thuẫn» do Mao Trạch
Đông dùng đầu tiên, được gợi ư từ
câu chuyện của Mạnh Tử: Một người bán mâu và thuẫn quảng
cáo về mâu của ḿnh: «Mâu
này không có thứ ǵ mà không chọc thủng được»,
rồi lại quảng cáo về thuẫn của ḿnh:
«Thuẫn này không có
thứ ǵ có thể chọc thủng được». Như vậy là hai lời
quảng cáo đó mâu thuẫn nhau.
(11)
Nguyên lư triệt tam được phát biểu: «Một
là vật này là A, hai là vật này không là A, không thể có
trường hợp thứ ba».
Không thể có trường hợp thứ ba nghĩa
là vật ấy không thể vừa là A, vừa không là A
được.
(12)
Đối với một tờ giấy mặt
trắng mặt đen (hai mặt), hai câu «nó trắng» và «nó
đen» cùng đúng một lượt.
(13)
Ở đây chữ chân lư
có thể có hai nghĩa: Chân
Lư (viết bằng chữ hoa) và chân lư (viết chữ thường). Nếu hiểu Chân Lư (viết bằng chữ hoa) th́ câu trên
đúng, nhưng nếu hiểu chân
lư (viết chữ thường), th́ câu trên nghĩa là:
trong nhiều câu phát biểu khác nhau về một thực
tại, chỉ có một câu đúng thôi. Theo nhận thức luận Tây Phương,
cả hai cách hiểu đều đúng.
(14)
Trong lịch sử toán học, ta thấy có ba nền
h́nh học dựa trên ba tiên đề mâu thuẫn nhau:
· H́nh học
Euclide dựa trên tiên đề:
Từ một điểm
ở ngoài một đường thẳng, ta chỉ có
thể kẻ được
một đường thẳng duy nhất song song với đường
thẳng đă cho.
· H́nh học
Riemann dựa trên tiên đề:
Từ một điểm
ở ngoài một đường thẳng, ta không thể kẻ được
một đường thẳng nào song song với đường thẳng đă cho.
· H́nh học
Lobatchevsky dựa trên tiên đề: Từ một
điểm ở ngoài một đường thẳng, ta
có thể kẻ được vô số những đường thẳng phân
biệt song song với
đường thẳng đă cho.
Theo Euclide,
phải kẻ được một đường
thẳng song song, c̣n theo Riemann th́ chẳng kẻ
được đường thẳng nào ̃ mâu thuẫn.
Theo Euclide, không thể
kẻ được đường thẳng thứ hai,
c̣n theo Lobatchevsky th́ kẻ được vô số
đường thẳng thứ hai. Giữa Riemann và Lobatchevsky lại càng mâu thuẫn
nhiều hơn. Trước
thực tế đó, triết học buộc phải
đặt lại vấn đề về nguyên lư bất mâu thuẫn của nhận thức
luận cũ.
Nếu cứ
căn cứ trên nguyên lư bất mâu thuẫn th́ chắc
chắn chỉ có một nền h́nh học đúng mà
thôi. Nhưng trong thực
tế, cả ba đều được ứng dụng
rất đúng trong ba không gian khác nhau. H́nh học Euclide áp dụng đúng trong thế
giới thường ngày của chúng ta. H́nh học Riemann trong ngành vi vật lư, nghiên
cứu thế giới của các nguyên tử và phân
tử. H́nh học Lobatchevsky
trong ngành vật lư không gian của các thiên thể vũ
trụ. Ba thế giới đó
là ba mặt của một thực tại duy nhất là
không gian. Nếu ta quan
niệm không gian chỉ là một thực tại đơn
diện, ắt không thể giải thích được
những mâu thuẫn cùng đúng trên.
(15)
Nếu sáu mặt đó là sáu màu khác nhau,
đương nhiên nếu mặt này đỏ th́ năm mặt kia không đỏ. Đỏ và không đỏ mâu thuẫn nhau. Nếu sáu người nh́n sáu mặt khác nhau
ấy, người nào cũng chỉ nh́n thấy có một
mặt rồi kết luận rằng cả cái vật ấy là màu ḿnh nh́n thấy,
đồng thời cho rằng nếu ḿnh đă nh́n đúng
ắt những người nh́n khác ḿnh phải sai, th́ sáu
người đó sẽ căi lộn nhau giống như
những ông mù rờ voi trong du ngôn của Đức
Phật. Nguyên nhân xảy ra
cái cảnh bi đát căi lộn nhau là v́ sáu người
đó ai cũng tưởng vật muốn nh́n thấy
chỉ có một mặt duy nhất là mặt ḿnh nh́n
thấy, nên có ai quả quyết khác với ḿnh th́ làm sao
ḿnh chấp nhận được? Nhân loại hiện nay đang chiến tranh
thảm sát nhau không phải chỉ để tranh dành
quyền lợi, mà c̣n để bảo vệ chân lư. Bảo vệ cái chân lư mà chính ḿnh
đă chứng nghiệm, đă xác tín, ngỡ rằng đó
là chân lư duy nhất. Ngờ
đâu đó chỉ là «chân lư
của ḿnh», không biết rằng người khác
cũng có «chân lư của họ». Các tôn giáo, các ư thức hệ, các
bè phái chính trị… nhóm nào cũng tự cho rằng chỉ
có lập trường của ḿnh là đúng, và ai cũng
sẵn sàng đổ máu của ḿnh cũng như máu
của phe đối lập để bảo vệ «chân lư của ḿnh». Ai cũng coi bảo vệ chân lư
là một lư tưởng cao đẹp!
(16)
Nguyên lư bất mâu thuẫn vẫn đúng và phải
chấp nhận khi áp dụng trên cùng một mặt của
thực tại. Nhưng không
thể áp dụng trên những mặt khác nhau của
thực tại. Nghĩa là nguyên lư mâu thuẫn không phải
là sai, mà chỉ có thể áp dụng một cách có giới
hạn, trong những trường hợp có thể coi
thực tại chỉ có một mặt. Tương tự như khi lư
luận toán học, người ta có thể coi một
mặt ao hay mặt hồ là một mặt phẳng,
một con đường dài chừng 5 km là một
đường thẳng, để áp dụng những tính
chất của đường thẳng và mặt phẳng
vào chúng, nhưng không thể coi mặt biển Thái B́nh
Dương là một mặt phẳng hay đường
đi của một con tàu trên đó là một
đường thẳng, cho dù nó có cố hết sức
để đi thẳng.
Cũng vậy, người ta có thể coi thực
tại nhỏ bé trong một tam đoạn luận là đơn
diện và áp dụng nguyên lư mâu thuẫn để lư
luận mà vẫn hợp pháp, nhưng không thể coi
mọi thực tại đều đơn diện
để áp dụng nguyên lư mâu thuẫn hầu luôn luôn phủ
nhận những kết luận mâu thuẫn với
những kết luận mà ḿnh đă coi là đúng. Khi ta nói:
anh A tốt, vật B tốt, th́ luôn luôn người
ta nói tới một số mặt nào đó của anh A hay
vật B là tốt, và phải ngầm hiểu có những
người nói ngược lại mà vẫn đúng, v́ anh
A hay vật B có thể có những mặt khác không tốt,
hay cũng những mặt đó nhưng ở một
thời điểm khác là không tốt.
(17)
Một danh nhân Đông Phương nói rằng nếu
ta cho lời nói này là đúng, th́ lời nói ngược
lại cũng đúng không kém.
(18)
Theo quan niệm chung của nhiều tôn giáo Đông
Phương, Thực Tại Tối Hậu và vũ trụ
vạn vật chỉ là một thực tại duy nhất
có hai mặt: bản thể
và hiện tượng (tương tự như một
tờ giấy có hai mặt không thể tách rời nhau, hai
mặt tuy khác nhau nhưng chỉ là một thực tại
duy nhất là tờ giấy).
Bản thể tức Thực Tại Tối Hậu
th́ tuyệt đối, bất biến, vô cùng vô hạn,
không sinh không diệt, tự hữu, là nền tảng cho
vũ trụ vạn vật.
Đó là những thuộc tính rất giống với
những thuộc tính căn bản của Thiên Chúa trong Kitô
giáo). C̣n hiện tượng
tức vũ trụ hay thế giới, vạn vật, th́
tương đối, thay đổi liên tục, hữu
hạn, nay c̣n mai mất, lệ thuộc luật nhân
quả (đă hiện hữu th́ phải có nguyên nhân)… Bản thể không phải là
nguyên nhân sinh ra hiện tượng, mà là nền tảng cho
hiện tượng. Bất
kỳ một hiện tượng nào cũng đều
phải có một nguyên nhân là một hiện tượng
khác. Bản thể và hiện
tượng khác nhau nhưng là một, tương tự
như hai mặt của một tờ giấy khác nhau
(mặt trắng mặt đen chẳng hạn) nhưng hai
mặt chỉ là một. Cách
hiểu này của Đông Phương có thể giải
thích được sự mâu thuẫn trong hai mệnh
đề căn bản của triết học hay hữu
thể học Hy Lạp: «Hữu
thể là một» (L’Être est
Un) của Parménide, và «Hữu
thể là nhiều» (L’Être est multiple) của Héraclite: là một trong bản thể và là
nhiều trong hiện tượng.
Cách giải quyết này (một thực tại có hai
mặt) xem ra tự nhiên hơn cách của Aristote (dùng
thuyết suy loại).
(19)
Từ thế kỷ 19 trở về trước.
(20)
V́ khám phá tuyên bố trái đất quay chung quanh
mặt trời --
điều này đi ngược lại lối suy nghĩ
của triết học và tôn giáo --
nên linh mục Bruno bị Pháp Đ́nh tôn giáo xử thiêu,
thầy ḍng Galilée bị xử khổ sai chung thân (thay v́
xử thiêu nhờ rút lại lời tuyên bố trên
trước ṭa án). Mendel khám
phá ra định luật về lai giống và chủ
trương áp dụng để cải tiến giống
bị người đương thời cho là «phản lại thiên nhiên» và ông
phải sống một cuộc đời cô đơn và
cơ cực.
(21)
Tức tha nhân, vũ trụ vạn vật, thiên nhiên.
(22)
Chủ trương của Lăo Tử. «Vô Vi» là không làm ǵ cả theo ư muốn của
bản ngă, của «cái tôi»
ích kỷ của ḿnh, nếu có làm th́ luôn luôn làm theo
đường lối tự nhiên của «Đạo», để «Đạo»
hành động nơi ḿnh.
(23)
Chủ trương của Trang Tử. «Vô
kỷ, vô công, vô danh» là không v́ ḿnh, làm không cậy công,
không v́ danh của ḿnh.
(24)
Chủ trương của Phật. «Vô ngă» hay «phá chấp
ngă» là coi như không có ḿnh, hay sâu xa hơn là nhận ra «cái tôi» của ḿnh là giả
tạm so với thực tại thâm sâu hơn làm nền
tảng cho ḿnh là Chân Như Phật tánh hay Thực Tại
Tối Hậu.
(25)
Trong triết lư Đông Phương, cái nh́n cho rằng
ḿnh và tha thể chỉ là một, hay «vũ trụ vạn vật đồng nhất
thể» được coi là cái nh́n của những
người trí tuệ giác ngộ, khác với cái nh́n
của người thường chỉ thấy vạn
sự đều là sai biệt.
NGUYỄN CHÍNH
KẾT