HỘI
NHẬP VĂN HÓA THEO CHIỀU DỌC
NGUYỄN CHÍNH
KẾT
T́nh trạng Kitô giáo hiện nay
Số tín hữu Kitô giáo đang sút giảm
Tỷ lệ người Kitô hữu nói
chung và người công giáo nói riêng so với dân số
hiện nay đang sút giảm và sẽ c̣n sút giảm,
nhất là tại châu Âu trong những thập niên qua.
Chẳng hạn tại Pháp, Ư... trước đây là
những quốc gia Kitô giáo, tỷ lệ người Kitô
hữu so với dân số lên đến 70–80%, thế mà
hiện nay số người Kitô hữu sống
đạo (1)
chỉ c̣n khoảng 5% trở xuống. Người ta
dự đoán, t́nh trạng Kitô giáo tại các nước Á
châu trong tương lai cũng sẽ xảy ra tương
tự như tại châu Âu khi các nước này cũng
được công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đô thị hóa và tục hóa như tại châu Âu. Đó là
t́nh trạng báo động khiến tất cả mọi
người Kitô hữu phải tự hỏi «tại sao?», đồng
thời «phải suy nghĩ
lại về cách sống và cách loan báo Tin Mừng của
ḿnh» (2).
Nguyên nhân
Nguyên nhân của t́nh trạng trên có thể
do cách diễn tả sứ điệp Kitô giáo, phong cách
sống đạo của người Kitô hữu, và
cũng rất có thể do một số đường
lối cũ xưa của Giáo Hội... không đáp ứng
được nhu cầu tâm linh đă thay đổi
của con người thời đại. Tất cả
những nguyên nhân kể trên đều là do thiếu thích
ứng hoặc thiếu hội nhập văn hóa, không
phải chỉ theo chiều ngang, mà chủ yếu là theo
chiều dọc.
Hai chiều hội nhập văn hóa
Sự thích ứng và hội nhập văn
hóa có hai chiều: chiều ngang và chiều dọc. Chiều ngang là sự thích
ứng và hội nhập văn hóa theo không gian, từ
nơi này sang nơi khác, từ người thực
hiện phúc âm hóa thuộc những dân tộc có nền
văn hóa này sang người được phúc âm hóa
thuộc những dân tộc có nền văn hóa khác.
Chiều dọc là sự thích ứng và hội nhập
văn hóa theo thời gian, từ người truyền giáo
thuộc thế hệ trước sang người thụ
giáo thuộc thế hệ sau. Thích ứng và hội
nhập văn hóa chiều ngang chúng ta đă nói đến
rất nhiều trong tập sách này. Bây giờ chúng ta nói
đến thích ứng và hội nhập văn hóa chiều
dọc
Hội nhập văn hóa chiều dọc
Hội nhập văn hóa chiều ngang
bớt quan trọng
Hội nhập văn hóa chiều ngang
rất cần thiết khi có sự khác biệt lớn
giữa văn hóa của những người phúc âm hóa
với văn hóa của dân tộc được phúc âm
hóa. Nhưng ngày nay, do các phương tiện thông tin và giao
thông rất tối tân, các dân tộc qua lại và ảnh
hưởng lẫn nhau càng ngày càng nhiều, nên các dân
tộc trên thế giới đang có khuynh hướng
tiến tới một nền văn hóa chung. Sự khác
biệt về văn hóa giữa dân tộc này với dân
tộc khác không c̣n đáng kể nữa. Do đó, việc
hội nhập văn hóa chiều ngang tuy vẫn quan
trọng, nhưng không c̣n quan trọng như xưa nữa.
Thế giới thay đổi nhanh chóng
Ngày nay, thế giới thay đổi
hết sức nhanh chóng, và càng ngày càng nhanh hơn. Những
khám phá và những phát minh mới của khoa học đă
làm thay đổi nếp sống của thế giới,
của xă hội, và do đó, cũng làm thay đổi cách
quan niệm, lối suy nghĩ và phong cách sống của con
người thời đại. Những vấn đề
khó khăn mà thế hệ trước phải đối
đầu không c̣n nữa, thế hệ sau phải
đối đầu với những khó khăn mới,
nhiều khi khác hẳn, đến nỗi người
thế hệ trước nhiều khi không hiểu nổi.
Chẳng hạn việc khám phá ra vô số
các thiên thể c̣n lớn hơn mặt trời gấp
triệu lần, và thái dương hệ chỉ là một
không gian hết sức nhỏ bé trong giải Ngân Hà, và
giải Ngân Hà cũng chỉ là một trong hàng tỉ thiên hà
của vũ trụ mênh mông, khiến người thuộc
thế kỷ 17, 18 về sau không thể nào coi trái
đất hay con người trên đó là trung tâm của
vũ trụ như người xưa. Việc khám phá ra
hai nền toán học phi Euclide (3) đă khiến người ta
phải đặt lại vấn đề và phải
hiểu cho đúng hơn giá trị cũng như cách áp
dụng nguyên lư bất mâu thuẫn của triết học
Tây Phương. Nhiều quan niệm ngày xưa
được coi là chân lư th́ ngày nay chỉ làm cho
người thời đại ph́ cười. Nhiều
phát minh hay giả thuyết của khoa học hiện nay
đang khiến người ta thay đổi cách nh́n hay
quan niệm về thế giới và vạn vật. Chúng ta
không nên lănh đạm với những thay đổi này mà
nên quan tâm để có những cách giải thích chân lư thích
hợp với năo trạng mới của người
thời đại.
Sự bùng nổ thông tin, sự b́nh
đẳng nam nữ, việc sinh sản vô tính, thụ thai
trong ống nghiệm, hiện tượng đồng tính
luyến ái, bệnh sida, nạn ma túy... hoặc những
chủ thuyết mới về tự do, dân chủ...
đang là những vấn đề mà người thời
đại phải đối diện. Chúng có thể gây ra
những phản ứng khác nhau nơi người Kitô
hữu.
Cần thích ứng với thế hệ sau
Thế giới hiện nay thay đổi
thật nhanh chóng, nên năo trạng, quan niệm, lề
lối suy nghĩ, cách sống của thế hệ sau khác
với thế hệ trước khá nhiều. V́ thế,
việc truyền giảng Tin Mừng từ thế hệ
trước sang thế hệ sau đ̣i hỏi phải có
sự thích nghi, phải hội nhập văn hóa: một
thứ thích ứng và hội nhập văn hóa cần mang
tính sáng tạo và được thời đại hóa
nhiều hơn. Nếu không thích ứng và hội nhập
văn hóa như thế, việc rao giảng Tin Mừng
sẽ không đem lại kết quả tốt đẹp.
Thích ứng để biến cải
Thích ứng với thế hệ sau không có
nghĩa là chiều theo hay làm theo khuynh hướng và ư
muốn của họ. Mà là thay đổi cách thức và
phương pháp ứng xử của ḿnh sao cho thích hợp
với bản chất hay khuynh hướng của họ
để đạt được mục đích ḿnh mong
muốn, là biến cải họ theo tinh thần
Đức Kitô. Tương tự như trong vấn
đề giáo dục con cái, nếu muốn thành công, cha
mẹ không thể chỉ áp dụng một phương
pháp hay cách thức giáo dục duy nhất cho tất cả
những đứa con của ḿnh. Mà phải thay
đổi phương pháp hay cách thức theo tâm tính, khuynh
hướng, tŕnh độ của từng đứa con:
đứa đă lớn khác với đứa c̣n nhỏ,
đứa lắm t́nh cảm khác với đứa thiên lư
trí... Không thay đổi cách thức cho phù hợp th́
thường bị thất bại.
«Ḥa» mà không «đồng»
Thích ứng c̣n có nghĩa là ḥa với họ mà không đồng
với họ. Nghĩa là không trở nên giống như
bản chất của họ, mà chỉ t́m cách giống như
họ ở một vài khía cạnh vô hại nào đó
để gần gũi họ, tạo thiện cảm
nơi họ. Hăy nghe thánh Phaolô tŕnh bày cách thích ứng
của ngài: «Mặc dầu là
người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi
đă trở thành nô lệ của mọi người,
hầu chinh phục thêm được nhiều
người. Với người Do Thái tôi đă trở nên
Do Thái để chinh phục người Do Thái. Với
những ai sống theo Lề Luật, tôi đă trở nên
người sống theo Lề Luật, dù không phải
sống theo Lề Luật nữa, để chinh phục
những người sống theo Lề Luật.
Đối với những kẻ sống ngoài Lề
Luật, tôi đă trở nên người sống ngoài
Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa mà
sống theo luật Đức Kitô, để chinh phục
những người sống ngoài Lề Luật. Tôi đă
trở nên yếu với những người yếu,
để chinh phục những người yếu. Tôi đă
trở nên đủ kiểu đủ loại v́ mọi
người, để bằng mọi cách cứu
lấy một số người» (4).
Thái độ ḥa
mà không đồng chính là chủ trương của
Trang Tử. Cho dẫu ḿnh không cùng tư tưởng,
lập trường với họ, suy tư của ḿnh có
thể cao hơn, đúng hơn họ, nhưng ḿnh vẫn
ḥa ḿnh với họ, sống giống như họ,
để giúp đỡ, phục vụ và biến
đổi họ. Trang Tử viết: «Quân tử ḥa nhi bất đồng, tiểu nhân
đồng nhi bất ḥa». Không ḥa với người
khác được, đó cũng là dấu chứng ḿnh c̣n
kém cỏi và cao ngạo.
Tính chất của thế hệ trẻ
V́ thế, người Kitô hữu khi loan báo
Tin Mừng cần phải t́m hiểu văn hóa của
người thời đại, nhất là của những
thế hệ sắp tới để loan báo Tin Mừng
cho thích hợp. Một linh mục Việt Nam nhận
định: «Thế giới
ngày nay đề cao tự do, nên rất sợ
những định chế có vẻ ép buộc của
Giáo Hội. Họ đề cao khoa học kỹ
thuật thực nghiệm, nên rất sợ những
tín điều mầu nhiệm của Giáo Hội...» (5). Thế
hệ trẻ là như thế, và chúng ta đang phải rao
giảng Tin Mừng cho họ, trong chính bối cảnh
văn hóa ấy.
Thích tự do dân chủ
Từ cuối thế kỷ 18 đến
nay, thế giới càng ngày càng đề cao tự do dân
chủ và càng không thể chấp nhận những thể
chế độc tài, thích dùng quyền bính để áp
đặt mọi người. V́ thế, càng ngày càng
người ta càng dị ứng với những h́nh
thức áp đặt cho dẫu là vi tế. Ai cũng thích
dân chủ hơn là độc tài, thích được
đề nghị làm hơn là bị ra lệnh làm.
Điều đó ta có thể thấy được
cả nơi các em nhỏ: càng ép buộc chúng th́ chúng càng có
khuynh hướng muốn làm ngược lại.
Do đó, những người có trách
nhiệm trong Giáo Hội nên hiểu rơ tâm lư của
người thời đại để tránh những h́nh
thức áp đặt chừng nào có thể. Đừng hành
động như thời thế giới c̣n thể
chế quân chủ. Chẳng hạn người trên không nên
thường xuyên lấy quyền của ḿnh để
đơn phương quyết định một
điều ǵ liên quan đến cộng đoàn, hoặc
tự ḿnh chỉ định người lănh đạo
một cộng đoàn mà không thèm hỏi ư kiến hay
thăm ḍ ư muốn của những người trong
cộng đoàn ấy. Trường hợp này, tốt
nhất nên dùng phương thức b́nh bầu khi có thể
được. Đối với người thời
đại, ư của bề trên không phải lúc nào cũng
được coi là ư Chúa, là sáng suốt, là đúng hơn ư
của mọi người như quan niệm của
người thời trước. Mà ư Chúa hay sự sáng
suốt rất nhiều khi lại được biểu
hiện nơi ư kiến chung của bề dưới.
Các Kitô hữu thuộc những thế
hệ trước có thể chấp nhận tương
đối dễ dàng các định chế mang tính ép
buộc trong Giáo Hội. Nhưng ngày nay, việc chấp
nhận ấy trở nên khó khăn hơn rất nhiều.
Nếu Giáo Hội vẫn khăng khăng với những
định chế được coi là bất di dịch
ấy, rất có thể trước con mắt của
người thời đại, Giáo Hội trở nên
một cơ cấu dị thường, lạc lơng,
để rồi cuối cùng người ta đành
phải âm thầm tách rời khỏi Giáo Hội như t́nh
trạng Giáo Hội Âu Châu trong những thập niên qua.
Năo trạng khoa học thực nghiệm
Ngày nay, khoa học đang phát triển
mạnh và chi phối cách suy tư và hành động của
con người, nên tinh thần của người thời
đại và thế hệ trẻ là đầu óc khoa
học thực nghiệm: «Chỉ
tin sau khi đă chứng minh» (6), hay chỉ
chấp nhận sau khi đă kiểm chứng bằng
thực tế. Tŕnh độ dân trí ngày nay cũng cao
hơn xưa rất nhiều. Do đó, người ta khó
chấp nhận tin những ǵ không có cơ sở thực
tế. V́ thế, khi tŕnh bày sứ điệp cũng
như những giáo huấn Kitô giáo, chúng ta nên tránh tính cách
giáo điều, mà nên làm nổi bất tính hợp lư hay
tất yếu của sứ điệp hay giáo huấn
ấy. Những kiểu nói: chúng
ta phải thế này, phải
thế kia, mà không nói lên được những lư do
khiến người ta phải như thế, không c̣n thúc
đẩy người ta thực hiện những
điều ấy được nữa.
Phải thay đổi cách sống và cách rao
giảng Tin Mừng
Nhu cầu tâm linh con người thay
đổi
Đời sống văn hóa của
người thời đại, nhất là của các
thế hệ trẻ không c̣n giống như những
thế hệ cũ. V́ thế, nhu cầu tâm linh của
họ cũng thay đổi. Những nề nếp cũ
của Giáo Hội đă từng làm thỏa măn nhu cầu
tâm linh của những thế hệ cũ, hiện nay có
thể không c̣n thỏa măn được nhu cầu tâm linh
của các thế hệ mới. Mà nếu nhu cầu tâm linh
của họ không được thỏa măn,
đương nhiên họ sẽ tự động đi
t́m những tổ chức khác có khả năng thỏa măn
nhu cầu của họ hơn.
Thật vậy, nhu cầu tâm linh của con
người mỗi thời đại mỗi thay
đổi, tương tự như nhu cầu thể
chất. Chẳng hạn cách đây một trăm năm,
một người b́nh dân Việt Nam có thể sẽ
rất hănh diện và cảm thấy ḿnh giầu v́ có
được một chiếc xe đạp, nhờ nó, anh
có thể đi nhanh gấp nhiều lần người
đi bộ. Nhưng ngày nay, một người trung b́nh mà
chỉ có một chiếc xe đạp, cho dẫu là
đẹp và tiện lợi gấp nhiều lần
chiếc xe đạp xưa, th́ có thể có mặc cảm
là ḿnh nghèo và cảm thấy buồn phiền. Anh ta mong có
một chiếc cub hay một chiếc dream.
Có những món hàng cách đây khoảng 10
năm bán chạy như tôm tươi trên thị
trường, nhưng chỉ vài ba năm sau, cũng món hàng
ấy với chất lượng và h́nh thức y như
cũ bán lại bị ế. Tại sao? v́ nhu cầu
của con người đă thay đổi, món hàng cũ
không c̣n hợp với nhu cầu và thị hiếu của
họ. Nếu nhà sản xuất không chịu thay đổi
chất lượng, mẫu mă... họ có thể bị phá
sản v́ hàng không bán được.
Người thời đại vẫn có
nhu cầu tâm linh
Nhu cầu tâm linh có phần nào tương
tự. Ngày nay, tại châu Âu, nhiều người đă
bỏ Kitô giáo, chắc chắn không phải v́ họ không
c̣n nhu cầu tâm linh nữa. Bằng chứng là nhiều khi
họ lại chuyển sang một giáo phái khác, hay một
tôn giáo khác hy vọng được thỏa măn nhu cầu
đó hơn. Vả lại, con người không chỉ là
vật chất mà c̣n là tâm linh, nên đă là con người
th́ luôn luôn có cả nhu cầu vật chất lẫn tâm linh.
Nhu cầu tâm linh không bao giờ mất đi nơi con
người, và theo nguyên lư âm dương, bụng càng
lớn th́ lưng cũng càng lớn, nên nhu cầu thể
chất càng lớn th́ nhu cầu tâm linh cũng lớn theo.
Việc nhiều người không c̣n
sống theo Kitô giáo đ̣i hỏi người Kitô hữu
phải nghiêm túc xét lại «mẫu
mă» và «chất lượng»
những ǵ ḿnh đưa ra nhằm đáp ứng nhu
cầu tâm linh của họ. Họ bỏ Kitô giáo có thể
v́ «mẫu mă» và «chất lượng» cũ
không c̣n thích hợp hay không đáp ứng được nhu
cầu tâm linh hiện tại của họ.
Cần thay đổi cách nh́n và cách sống
đạo
Do đó, người Kitô hữu cần
phải thay đổi cách nh́n cũng như cách tŕnh bày Tin
Mừng và sứ điệp Kitô giáo để chúng phù
hợp hơn với thế hệ trẻ (với
những ưu tư, khát vọng, thao thức, năo trạng,
tâm lư, khuynh hướng, quan niệm, cách suy nghĩ...).
Người Kitô hữu cũng cần thay đổi cung
cách sống đạo của ḿnh để «có sức thu hút anh em ngoài Kitô giáo
và làm phát triển Giáo Hội» hơn (7).
Làm chứng bằng b́nh an và vui tươi
Do tinh thần khoa học và đầu óc
thực nghiệm, người ta chỉ có thể chấp
nhận Kitô giáo là hay nhất, tốt nhất và nên theo khi có
những chứng cứ cụ thể chứng tỏ
điều đó. Chứng cứ lôi cuốn và thuyết
phục họ nhất là họ thấy những
người Kitô hữu chung quanh thường xuyên sống
trong b́nh an và vui tươi bất chấp nghịch
cảnh, đồng thời sống yêu thương nhau và
yêu thương mọi người. Phản chứng
nhất của Tin Mừng là sự lo lắng, nỗi
buồn phiền và cách cư xử thiếu t́nh thương
của người Kitô hữu (8).
Thật vậy, con người thời
đại trọng thực tế hơn lư thuyết, khác
hẳn với người xưa trọng lư thuyết
hơn thực tế. Họ đ̣i hỏi lư thuyết
phải được chứng minh bằng thực
tế. Một lư thuyết được gọi là đúng
khi áp dụng vào thực tế nó đem lại kết
quả tốt, cho dù lư thuyết có nhiều chỗ có vẻ như khó hiểu và
không hợp lư. Trái lại, một lư thuyết có vẻ tuyệt vời, lư
luận mạch lạc và rất có cơ sở, hứa
hẹn một kết quả tốt, nhưng khi áp dụng
vào thực tế lại đem lại một kết
quả không vừa ư, th́ lư thuyết ấy luôn luôn bị
coi là chưa đúng.
Thách thức của người thời
đại
V́ thế, người Kitô hữu cần
xét lại xem cách sống của ḿnh đă chứng tỏ
được niềm tự hào của ḿnh là đúng
chưa? Người thời đại làm sao có thể
chấp nhận được Kitô giáo là tôn giáo đúng
nhất, hay nhất, đem lại hạnh phúc nhất, khi
mà trước mắt họ, đời sống của
người Kitô hữu không tốt hơn, không vui
tươi hạnh phúc hơn những người
thuộc các tôn giáo khác? khi mà những người rao
giảng Kitô giáo đôi khi lại đối xử với
nhau không hơn ǵ những người ngoại đạo?
khi mà người Kitô hữu không dấn thân cho tha nhân
hơn những người khác?
Thách thức của Mahatma Gandhi xưa nói
với người Anh cũng là thách thức của
người thời đại nói với chúng ta. Ông
rất say mê con người Đức Giêsu Kitô, rất
thích tinh thần bát phúc của
Ngài, và ông sống một cuộc đời rất phù
hợp với Tin Mừng, nhưng ông không theo Kitô giáo và
không chấp nhận Kitô giáo là đúng hơn, tốt hơn
tôn giáo của ông chỉ v́ lối sống của
người Kitô hữu mà ông biết không hơn ǵ những
người đồng đạo của ông. Ông thách
thức người Anh là những người vừa
đem Kitô giáo đến với dân tộc ông, vừa nô
lệ hóa dân tộc ông: «Các anh
chỉ cần sống đúng như tôn giáo các anh chỉ
dạy, th́ chắc chắn toàn dân Ấn Độ sẽ
trở thành Kitô hữu hết». Sự thách đố này
quả là nhức nhối đối với rất
nhiều Kitô hữu.
Chứng tỏ bằng thực tế
hơn bằng lời nói
Thời nay, người ta đă quá kinh
nghiệm về những hàng quảng cáo trên tivi, báo chí hay
ngoài đường phố. Mọi quảng cáo đều
nói sản phẩm của ḿnh rất tốt, nhưng
muốn biết sản phẩm đó có thật sự
tốt hay không th́ luôn luôn phải kiểm chứng bằng
thực tế. V́ thế, để phúc âm hóa, để
giới thiệu cho đồng bào chung quanh rằng tôn giáo
của chúng ta là tôn giáo siêu việt, từ trời
xuống, và họ nên theo để được cứu
độ, tốt nhất chúng ta nên chứng tỏ
điều đó bằng lối sống tốt
đẹp đầy yêu thương của ḿnh song song
với những điều tốt đẹp chúng ta nói
về tôn giáo ḿnh. Những lời nói xuông không đi với
chứng từ cụ thể không có sức lôi cuốn
thế hệ trẻ.
Cần tŕnh bày Đức Kitô sống
động
Cần có Đức Kitô sống
động trong ḿnh
Để rao giảng và trở nên «nhân chứng sống động
của Tin Mừng Đức Kitô, th́ phải có Ngài hiện
diện cách sống động trong ḿnh» (9).
Có như thế, những lời rao giảng của ḿnh
mới có sức thu hút mănh liệt. Thật vậy, chỉ
có Đức Kitô mới có sức thu hút, lôi cuốn
người khác theo Ngài như chúng ta từng thấy trong
các sách Tin Mừng (10). Tự sức chúng ta,
hay những bài thuyết giảng của chúng ta không thể
làm cho người ta say mê và theo Ngài. Ư thức
được điều đó, chúng ta cần phải
luôn luôn cảm nghiệm được Đức Kitô
hiện diện trong bản thân ḿnh, đồng thời
sống kết hợp mật thiết với Ngài. Có
cảm nghiệm được như thế, chúng ta
mới giúp người khác cảm nghiệm
được như chúng ta, và lời rao giảng của
chúng ta mới sống động. Nếu không lời rao
giảng của chúng ta chỉ giống như lời
của con vẹt, hay của người «nhai lại bă mía» (11).
Cần cảm nghiệm Đức Giêsu
sống động
Người thời đại hay thế
hệ trẻ ngày nay «không chịu nổi những lư
thuyết mơ hồ trong một cuộc sống
đầy những vấn đề thiết thực
phải lo toan. (...). Chúng ta đă biến Giêsu thành một
nhân vật trong quá khứ mà quên đi một Giêsu sống
động ở hiện tại, một Thiên Chúa hằng
sống đang ở giữa chúng ta (x. Ga 1,14) và ở trong
chúng ta (x. Gl 2,20)» (12). Việc rao giảng
phải được thực hiện làm sao để
«người dạy cũng như người học
đều cảm nghiệm được Đức Giêsu
sống động trong đời ḿnh» (13),
một sự hiện diện đầy sức mạnh,
quyền năng và t́nh yêu chan ḥa trên đời sống
họ.
Đáp ứng lại những đ̣i
hỏi chính đáng do tính thực nghiệm của
người thời đại, chúng ta phải biến tôn
giáo của ḿnh thành một thực tại cảm nghiệm
được. Mà bản chất tôn giáo của chúng ta
từ nguyên thủy chính là một thực tại cảm
nghiệm được. Trong quá tŕnh phát triển, Kitô giáo
đă bị lư thuyết hóa một cách trầm trọng và
đánh mất đi bản chất nguyên thủy của
nó: một tôn giáo để sống chứ không phải
để biết.
Trọng tâm của Kitô giáo là Đức
Kitô, một con người hiện nay vẫn đang
sống động, sẵn sàng ban sự sống, sức
mạnh, quyền năng, t́nh yêu, trí tuệ, hạnh phúc cho
những ai thật sự đến với Ngài, sống
với Ngài, thân thiện với Ngài. Đức Kitô đó
luôn luôn hiện diện trong bản thân mỗi
người. Làm sao cảm nghiệm được
Đức Kitô và làm cho người khác cũng cảm
nghiệm được như vậy, đó chính là
điều mọi Kitô hữu phải làm (14).
Đừng quá chú trọng đến
kiến thức, giáo điều
Nhưng rất tiếc trong quá khứ và
hiện tại «cách đào tạo tu sĩ, chủng sinh,
cũng như cách giảng dạy của các linh mục,
giáo lư viên đối với giáo dân đang làm cho
người ta khó mà cảm nhận được
Đức Giêsu sống động trong ḿnh (...), một
Đức Giêsu đang yêu, đang chết và sống
lại trong chính con người ḿnh» (15).
Thật vậy, trong quá khứ, chúng ta
đă quá chú trọng đến kiến thức hay giáo
điều về Thiên Chúa, về Đức Kitô, mà ít chú
trọng đến việc cảm nghiệm quyền
năng và sự hiện diện sống động
của Thiên Chúa hay Đức Kitô nơi bản thân. Cái
được gọi là «đức
tin» của người Kitô hữu lắm khi chỉ là
chấp nhận xuông những kiến thức hay giáo
điều ấy. Những thứ ấy cho dẫu có
đúng và chính xác đến đâu, cũng không trực
tiếp đem lại sự sống và sức mạnh tâm
linh cho con người. Chỉ có sự kết hiệp và
cảm nghiệm Thiên Chúa thật sự mới đem
lại sức sống cho con người (16).
V́ thế, thế giới cần cảm
nếm và hưởng thụ chính Thiên Chúa hay Đức
Kitô gấp trăm ngàn lần việc hiểu biết
những lư thuyết hay giáo điều nói về các Ngài.
Nếu những lư thuyết hay giáo điều ấy chỉ
là cớ gây chia rẽ trong hàng ngũ các Kitô hữu (17),
th́ chúng ta không nên coi chúng quá quan trọng (18).
Sẵn sàng thay đổi những ǵ có
thể thay đổi
Luật Môsê mà cũng phải thay
đổi
Để dễ dàng thích ứng với nhu
cầu tâm linh của con người thời đại,
nhất là của những thế hệ tương lai,
chúng ta cần phải sẵn sàng thay đổi những ǵ
có thể thay đổi. Thời các Tông Đồ, c̣n ǵ
linh thánh hơn phép cắt b́ và luật Môsê, là những cái
được coi là xuất phát từ chính Thiên Chúa nên
sẽ không bao giờ thay đổi? Thế mà khi chúng không
c̣n thích hợp với con người thời ấy, các
Tông Đồ đă mạnh dạn băi bỏ (19) bất chấp sự phản
đối mạnh mẽ của những Kitô hữu
gốc Do Thái (20).
Nếu Giáo Hội không can đảm như
các Tông Đồ, dám thay đổi những ǵ từ
xưa đến nay vẫn được coi là linh thánh,
là không thể biến đổi, nhưng hiện nay thật sự không c̣n phù hợp
với con người thời đại nữa, th́ e
rằng Giáo Hội không thể làm tṛn sứ mạng mà Thiên
Chúa giao phó.
Luật lệ, tín điều, giáo lư...
chỉ là phương tiện
Phép cắt b́ và luật Môsê có linh thánh
tới đâu th́ cũng là để phục vụ con
người, chúng không linh thánh bằng chính con người,
v́ con người là «h́nh
ảnh của Thiên Chúa» (21), là «con cái Thiên Chúa» (22),
«được thông phần
bản tính của Thiên Chúa» (23). Cũng
vậy, mọi giáo lư, tín điều, luật lệ,
triết lư, thần học... đều được
lập nên v́ con người, để phục vụ con
người, chứ không ngược lại. Những cái
đó chỉ là phương tiện của con
người, và con người mới là mục đích
của chúng. Chúng phải thích ứng với con
người, chứ không phải con người phải
thích ứng với chúng.
V́ thế, bao lâu chúng không c̣n thích hợp hay
cản trở con người đến với Chúa và
đến với nhau, th́ những người có trách
nhiệm hướng dẫn lănh đạo Giáo Hội nên
băi bỏ. Các Tông Đồ
đă làm điều đó trước chúng ta và làm
gương cho chúng ta.
Cần phân biệt cái không thể thay
đổi với cái có thể thay đổi
Cần phân biệt chân lư và cách diễn
tả chân lư
Vậy, để thích ứng với con
người thời đại mới, nếu cần
phải thay đổi, chúng ta nên sẵn sàng thay đổi
những ǵ có thể thay đổi và chỉ cương
quyết giữ lại những ǵ cốt tủy không
thể thay đổi được. Muốn thế, ta
cần phải phân biệt những ǵ không thể thay
đổi với những ǵ có thể thay đổi,
những ǵ là mục đích với những ǵ là
phương tiện, những ǵ là cốt tủy với
những ǵ tùy phụ. Chẳng hạn, trong giáo huấn của
Đức Kitô, - là Ngôi
Lời đă nhập thể vào ngôn ngữ và văn hóa
của con người - và
trong giáo huấn của Giáo Hội, cần phân biệt
đâu là yếu tố cốt tủy của sứ
điệp, và đâu là yếu tố văn hóa
được dùng để diễn tả sứ
điệp. Lẫn lộn hai yếu tố đó, ta
sẽ không quyết đoán được những ǵ có
thể thay đổi và những ǵ không thể thay
đổi.
Những lời trong Kinh Thánh, không phải
lời nào cũng là chân lư nguyên vẹn, trong trạng thái
nguyên tuyền của nó. Mỗi câu trong Kinh Thánh luôn luôn
được h́nh thành bởi hai yếu tố: sứ
điệp hay chân lư và cách thức diễn tả sứ
điệp hay chân lư ấy. Có thể phân biệt nhưng
không thể tách biệt hai yếu tố ấy.
Chân lư có thể được diễn
tả thành nhiều cách
Tương tự như trong triết
học Tây Phương, một vật được
cấu tạo bằng chất thể và mô thể, hay trong
triết học Đông Phương, bằng thể và
tướng, chẳng hạn một chiếc nhẫn vàng,
th́ vàng là thể hay chất thể, c̣n nhẫn là tướng
hay mô thể. Cũng chính vàng với số lượng
đó, người ta có thể làm thành những vật khác
nhau: dây chuyền, bông tai, bức tượng nhỏ, v.v...
Tất cả những vật đó tuy khác nhau, nhưng
đều là miếng vàng đó, chỉ thay h́nh đổi
dạng mà thôi.
Một đoạn Thánh Kinh có thể
được phân tích thành chất thể (hay chân lư
chưa được định thức, chưa
được diễn tả) và mô thể (hay cách thức
diễn tả). Tương tự như một câu nói có
thể được phân tích thành ư và lời. Cũng
một chân lư, một ư tưởng, nhưng có thể
được biểu hiện thành nhiều cách thức
khác nhau, hay nhiều lời khác nhau. Chân lư hay ư tưởng
chỉ là một và không thể thay đổi, nhưng cách
thức diễn tả hay lời th́ có thể thay đổi
nhiều kiểu, tùy thuộc vào cách dùng từ hay quan
niệm săn có của mỗi người, hoặc tùy
thuộc vào nền văn hóa của mỗi dân tộc. Không
nên coi hai yếu tố cấu tạo đó (một bất
biến, một thay đổi) là một khối duy
nhất không thể thay đổi. Chính v́ lầm hai
yếu tố này là một, mà trong quá khứ, nhiều nhà
thần học mới hiểu những huyền thoại
trong Cựu Ước hoàn toàn theo nghĩa đen: Thánh Kinh
kể thế nào th́ sự thật y như vậy.
Chẳng hạn như trong tŕnh thuật
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người,
sứ điệp cốt tủy là «con người và vũ trụ xuất phát từ
Thiên Chúa», c̣n những chuyện cụ thể như tŕnh
tự tạo dựng trong 7 ngày, lấy bùn đất
nặn h́nh người, thổi hơi... là những
yếu tố thuộc văn hóa, để thích ứng
với tŕnh độ và khuynh hướng của người
thời đó. C̣n trong ngôn ngữ, một câu hay một
đoạn văn th́ gồm ư và lời: cùng một ư
tưởng, nhưng có thể diễn tả bằng
nhiều lời khác nhau, hay nhiều lời khác nhau nhưng
cùng diễn tả một ư (24). Cần
nắm được ư và không chấp vào lời.
Cần
hiểu một cách tổng quát hơn
Những minh họa trên về lời và ư chỉ là những minh họa nghèo nàn cho một
thực tế tổng quát, phong phú và rộng lớn
hơn. Để dễ hiểu về vấn đề
này, ta đặt một giả sử (đương nhiên
đă không xảy ra, nhưng vẫn là một khả
thể đối với Thiên Chúa): nếu Thiên Chúa chọn
dân Ấn Độ làm dân riêng để Ngôi Lời sau này
sẽ nhập thể tại Ấn Độ, th́ Cựu
Ước được viết ra có giống như hiện
chúng ta có không? Chắc chắn sẽ khác. Tŕnh thuật h́nh
thành vũ trụ sẽ dùng những yếu tố văn
hóa Ấn Độ để diễn tả. Và trong
trường hợp đó, nếu chúng ta chỉ hiểu
theo nghĩa đen, th́ có thể chúng ta sẽ đi
đến những kết luận về chân lư rất khác
với những kết luận dựa trên Cựu
Ước đang có hiện nay. Nhưng nếu loại
được những yếu tố văn hóa khác
biệt ra, ta sẽ nhận ra ngay hai tŕnh thuật trong hai
bản Cựu Ước (một thật, một giả
sử) là hai cách diễn tả khác nhau của một chân lư
duy nhất: vũ trụ vạn vật xuất phát từ
Thiên Chúa.
Đây là một vấn đề rất
khó đ̣i hỏi phải nghiên cứu sâu xa để phân
biệt được đâu là những yếu tố
thuộc sứ điệp hay chất thể, và đâu là
những yếu tố thuộc cách diễn tả (tức
văn hóa) hay mô thể. Phân biệt như thế, chúng ta
mới an tâm khi phải thay đổi cách diễn tả
chân lư để phù hợp với con người thời
đại. Và có phân biệt như thế, chúng ta mới
dễ nhận ra những cách diễn tả khác với cách
của chúng ta trong các tôn giáo khác có thể chỉ nhắm
đến một chân lư duy nhất.
Trong thế giới nói chung và tại
Việt Nam nói riêng, xă hội đang thay đổi với
tốc độ ngày càng nhanh. Xă hội đang
được công nghiệp hóa, kỹ nghệ hóa, đô
thị hóa... khiến đời sống được
nâng cao hơn nhưng lại bận rộn hơn xưa
rất nhiều. Xă hội thay đổi như thế, nên
trong việc truyền giáo hóa và phúc âm hóa thế giới,
chúng ta cũng cần phải thay đổi những ǵ có
thể thay đổi và được phép thay đổi
để thích ứng với nhu cầu tâm linh mới của
con người hiện đại. Giáo Hội thời
sơ khai đă thích ứng một cách hết sức
mềm dẻo với xă hội thời đại ấy,
đó là một Giáo Hội trẻ, đầy sức
sống.
Nếu một Giáo Hội địa
phương không c̣n khả năng thay đổi
để thích ứng với xă hội của ḿnh, đó là
dấu hiệu cho thấy Giáo Hội đó đang già
cỗi và không c̣n sức sống. V́ thế, các Giáo Hội
địa phương cũng như Giáo Hội toàn
cầu cần phải luôn luôn chứng tỏ sự
trẻ trung của ḿnh. Tuy nhiên, để giữ sự
hiệp thông, sự thay đổi của một Giáo
Hội địa phương cần phải tùy thuộc
vào tinh thần chung của Giáo Hội toàn cầu. Và Giáo
Hội toàn cầu cũng cần phải thay đổi sao
cho phù hợp với nhu cầu thay đổi của các
Giáo Hội địa phương. Có tương quan hai
chiều như thế, sự thích ứng của Giáo
Hội địa phương và Giáo Hội toàn cầu
sẽ không phương hại đến sự hiệp
nhất trong Giáo Hội.
Phần chú thích
(1) Nghĩa là c̣n lui tới nhà
thờ, c̣n lănh nhận các bí tích.
(2) NGUYỄN NGỌC SƠN, Người Mục Tử
Cộng Đồng hướng về tương lai,
Ṭa Giám mục TP. Hồ Chí Minh xuất bản, 1996, trang 78
(số 68), và trang 78 (số 67).
(3) Xem cước chú số 1
ở trang 200.
(4) 1Cr 9,19-22
(5) Sđd.,
trang 19.
(6) Qui tắc thứ nhất
của Descartes trong Discours de la
Méthode.
(7) Sđd.,
trang 78 (số 67).
(8) Thử đặt ḿnh là
một người ngoài Kitô giáo, làm sao ta có thể nghĩ
rằng Kitô giáo là một tôn giáo đúng nhất, hay
nhất, cứu độ nhất, khi những người
Kitô hữu mà ta biết đều sống không hạnh
phúc, không tốt hơn, không xả kỷ hơn những
người ngoài Kitô giáo? Ta c̣n có thể dựa vào chứng
cớ cụ thể nào nữa?
(9) Sđd.,
trang 88 (số 82).
(10) Khi Ngài kêu gọi Simon và
Anrê (Mc 1,16-18), Giacôbê và Gioan (Mc 1,20), và Lêvi (Mc 2,14), tất
cả đều đi theo Ngài ngay tức khắc.
(11) Kiểu nói của
Thiền tông Phật giáo để chỉ những
người không cảm nghiệm được thực
tại, mà chỉ lập lại những lời nói của
những người đă cảm nghiệm
được. Giống như một người
thấy người khác ăn mía khen ngọt, cũng
bắt chước nhai lại bă mía người ta vứt
ra rồi khen ngọt, cho dù chẳng thấy ngọt ngào
chút nào.
(12) Sđd.,
trang 90 (§3).
(13) Sđd.,
trang 91 (§1).
(14) Vivekananda có kể lại
việc cảm nghiệm Thiên Chúa một cách cụ thể
và thật sự của thầy ḿnh là Ramakrishna, một
đạo sĩ Ấn giáo. Ông viết: «Tôi lẻn đến gần người và hỏi
người câu mà cả đời tôi thường hỏi
kẻ khác: «Thưa ông, ông có
tin Thượng Đế không» -- «Có»,
người trả lời. -- «Vậy
ông có thể chứng minh việc ấy được
không?» -- «Được». -- «Bằng cách nào?», -- «V́ tôi thấy Thượng Đế như tôi
thấy anh bây giờ, chỉ có điều là một cách
mănh liệt hơn nhiều».
Câu trả lời này làm tôi cảm phục ngay. Đây là
lần thứ nhất tôi gặp một người dám nói
rằng ḿnh đă thấy Thượng Đế, rằng
tôn giáo là một sự thực mà ta có thể cảm
biết và giác xúc một cách vô cùng cường liệt
hơn là ta có thể cảm giác vạn vật» (JOHN YALE,
Tôn giáo là ǵ? Bản dịch
của Vương gia Hớn, An Tiêm xb, SàiG̣n 1970, trang 21-22).
Xem thêm ANTHONY DE MELLO (s.j.), Contact
with God, Loyola University Press, Chicago 1991, trang 37-38.
(15) Sđd.,
trang 89 (số 84).
(16) Tương tự như
đối với người đói, th́ những lư
thuyết tuyệt vời về một loại thức
ăn cho dù hết sức bổ dưỡng cũng không
làm cho người đó hết đói. Người đói
không cần biết nhiều về thức ăn, mà
cần ăn chính thức ăn đó.
(17) Trong quá khứ, sự
hiệp nhất Giáo Hội đă bị tổn
thương rất nhiều chủ yếu v́ những tranh
luận vô bổ về lư thuyết thần học.
Chẳng hạn thật sự sống với Chúa Thánh
Thần th́ người ta không đặt nặng bằng
tranh luận xem Chúa Thánh Thần nhiệm xuất bởi
Chúa Cha và Chúa Con hay
bởi Chúa Cha qua Chúa
Con. Người ta làm như có thể xác định
được dứt khoát, như 2+2=4, những thực
tại siêu việt mà con người không thể hiểu và
kiểm chứng được ấy bằng ngôn ngữ
nhị nguyên của con người. Rất tiếc là trong
vô số những tranh luận tương tự như
thế, việc xác định dứt khoát thế này hay
thế kia của trọng tài chẳng đem lại ích
lợi bao nhiêu mà cái hại to lớn trước mắt là
gây chia rẽ trầm trọng trong Giáo Hội: biết bao
nhiêu giáo phái phát sinh ra và tách rời Giáo Hội Mẹ v́
những tranh luận vô bổ ấy!
(18) Ở đây không có ư coi
thường sự quan trọng của lư thuyết, mà có ư
nhấn mạnh đến cảm nghiệm thật
sự. Dẫu sao cảm nghiệm vẫn quan trọng
hơn lư thuyết rất nhiều.
(19) Chữ «băi bỏ» này xem ra mâu thuẫn với tinh thần
của đoạn Kinh Thánh: «Anh
em đừng tưởng Thầy đến để băi
bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy
đến không phải để băi bỏ mà để
kiện toàn. V́ Thầy bảo thật anh em, trước
khi trời đất qua đi, th́ một chấm một
phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi cho
đến khi mọi sự được hoàn thành» (Mt
5,17-18). Chúng ta không thể hiểu theo nghĩa đen
đoạn Kinh Thánh này, v́ trong thực tế, các tông
đồ đă băi bỏ luật Môsê và ngày nay chúng ta không
c̣n phải giữ luật Môsê nữa. Băi bỏ ở
đây là để xây dựng, tương tự như phá
nhà cũ đi để xây nên ngôi nhà mới đẹp
hơn, lớn hơn. Luật cũ đă được
băi bỏ để thay thế vào đó một Luật
mới hoàn chỉnh hơn, thích hợp hơn.
(20) Xem Cv 15,5.
(21) St 1,26.27.
(22) Ga 1,12; 1 Ga 3,1.2.
(23) 2 Pr 1,4.
(24) Một minh họa: Một
vị vua muốn t́m hiểu hậu vận của ḿnh
thế nào, nên mời những thầy tử vi, chiêm tinh
giỏi nhất nước đến. Thầy thứ
nhất nói: «Hậu vận
của bệ hạ thật đáng buồn: những
năm cuối cùng cuộc sống của bệ hạ
rất cô đơn, v́ bao nhiêu người thân như hoàng
hậu, cung phi, và các bạn hữu thân thiết
đồng trang lứa với bệ hạ đều
chết hết. Chỉ một ḿnh bệ hạ c̣n
sống, nên bệ hạ sống rất cô đơn».
Nghe thế, nhà vua rất buồn bực và ra lệnh chém
ông thầy thứ nhất đă tiên báo những
điềm gở cho ḿnh. Ông thầy thứ hai nói: «Hậu vận của bệ
hạ thật tốt đẹp không ai bằng: bệ
hạ trường thọ hơn tất cả mọi
người đồng thời với bệ hạ.
Mọi người đều ca tụng sự
trường thọ của bệ hạ và cho rằng
Trời hậu đăi bệ hạ hơn tất cả
mọi người, cho bệ hạ hưởng vinh hoa phú
quí lâu dài hơn ai hết». Nghe xong, nhà vua vui hẳn lên,
và ra lệnh thưởng cho ông thầy thứ hai này
rất nhiều vàng bạc.
NGUYỄN CHÍNH
KẾT