KẾT LUẬN
NGUYỄN CHÍNH
KẾT
T́nh trạng sút giảm của Kitô giáo
Cuối thiên niên kỷ thứ hai, số
người Công giáo đă không tăng lên mà dường
như có chiều hướng giảm đi, số
người gia nhập ít hơn số người ra
khỏi, nhất là tại châu Âu hay tại những
nước có đời sống kinh tế cao, kỹ
nghệ phát triển. Số người Kitô hữu
dường như chỉ gia tăng trong những quốc
gia kém phát triển, gặp nhiều khó khăn về kinh
tế, an ninh, những nơi dân chúng bị áp bức...
Như thế, có phải Kitô giáo chỉ
thích hợp và cần thiết với những người
c̣n đau khổ, thiếu thốn về vật chất,
an ninh, hay với những xă hội c̣n bất công, áp
bức, những quốc gia c̣n kém phát triển, để
an ủi và xoa dịu những đau khổ của họ?
Nhiều người nghĩ như thế, nên họ tiên
đoán rằng sang thiên niên kỷ thứ III, Kitô giáo sẽ
trở thành tượng đài lịch sử khi mà t́nh
trạng kém phát triển và đau khổ kia không c̣n nữa.
Có phải như thế chăng?
Kitô giáo có thể suy tàn không?
Ta không nên dựa vào câu Kinh Thánh: «Ta sẽ xây Hội Thánh Ta trên
Đá này, và quyền lực Tử Thần cũng không
thắng nổi» (1) để rồi
cứ an tâm không làm ǵ cả, chờ Thiên Chúa làm phép lạ
cho Giáo Hội tồn tại măi. Đành rằng đó là
lời tiên tri của Đức Giêsu nên lời ấy phải
đúng, nhưng nó đúng theo chiều hướng nào?
Lời hứa của Thiên Chúa đối
với Abraham: «Ta sẽ làm cho con
cháu ngươi đông như sao trên trời, cát
dưới biển» (2) đă không đúng
theo nghĩa đen như ông tưởng, mà đúng theo
nghĩa bóng (3). Con cháu trong lời hứa
đó không phải theo nghĩa xác thịt, v́ nếu theo
nghĩa đó th́ con cháu ông làm sao đông bằng con cháu
cụ tổ Lạc Long Quân của chúng ta?
Giáo Hội tồn tại được là
nhờ biết thích ứng
Nhưng dù lời tiên tri của Đức
Giêsu đúng theo nghĩa nào, th́ nếu Giáo Hội có tồn
tại măi, ắt lư do tự
nhiên phải là Giáo Hội biết thích ứng với
thế giới. Mà để thích ứng, Giáo Hội
phải biết thay đổi. Chấp nhất vào
những quan niệm cũ, vào truyền thống hàng
mấy ngàn năm của ḿnh, vào những điều mà
người xưa cho là không thể sai lầm
được... th́ sẽ có những trường hợp
Giáo Hội không thể thích ứng với nhân loại
thời đại mới được. Chính Công
Đồng Vatican II đă chủ trương: «Các định chế, luật
pháp, những lối suy tư của người xưa
truyền lại, không phải lúc nào cũng phù hợp
với t́nh thế hiện tại, do đó (nếu cứ
cố chấp theo những điều cũ ấy) sẽ
có những xáo trộn trầm trọng trong phương
thức và trong cả các tiêu chuẩn hành động» (4).
Cần thay đổi những ǵ không c̣n phù
hợp
Do đó, tất cả những ǵ không phù
hợp với con người thời đại, cho dù linh
thánh đến đâu đi nữa, cũng cần phải
thay đổi để thích ứng với nhân loại
luôn luôn biến đổi. Đối với các Tông
Đồ ngày xưa, c̣n ǵ linh thánh hơn Luật Môsê, phép
Cắt B́, là những cái phát xuất trực tiếp từ
Thiên Chúa chứ không phải từ con người?
Những điều linh thánh ấy đă được
lập nên v́ con người, hay con người
được dựng nên để làm theo những
điều linh thánh ấy? Đối với Thiên Chúa, con
người, h́nh ảnh của Ngài, linh thánh hơn, hay
những luật lệ Ngài ra cho con người linh thánh
hơn? Trong việc cứu độ con người. th́
chính con người là mục đích, hay những luật
lệ, tín điều, giáo lư, thần học... là mục
đích?
Sự thích ứng trong Giáo Hội sơ khai
Thánh Linh đă khiến các Tông Đồ
hiểu điều đó, nên các ngài sẵn sàng băi bỏ
những phương tiện không c̣n phù hợp - cho dù rất linh thánh - để có thể thích ứng với con
người, để có thể mở rộng cửa
thiên đàng cho mọi người. Chúng ta thấy trong
Cựu Ước, Luật Pháp Môsê linh thánh thế nào, và
cũng thấy trong Tân Ước, thánh Phaolô đă hạ
giá Luật Pháp ấy xuống như thế nào (5).
Luật Pháp đó phù hợp với con người của
Cựu Ước, nhưng không phù hợp với con
người của Tân Ước (6), do đó
phải băi bỏ.
Giáo Hội đă thích ứng thế nào?
Lề lối tư tưởng, quan
niệm, chủ trương, lẽ sống, nếp sinh
hoạt, nhu cầu tâm linh và thể chất, khuynh
hướng... của người thời đại ngày
nay rất khác với người thời xưa. Nếu
Giáo Hội vẫn cứ theo đường lối cũ,
phương pháp cũ, nếp cũ, th́ Giáo Hội sẽ
trở thành lạc hậu, không đáp ứng
được nhu cầu của con người thời
đại mới. Số người bỏ đạo
ngày càng tăng buộc Giáo Hội phải suy nghĩ về
cách thức ḿnh đă thích ứng với con người
thời đại như thế nào, nếu Giáo Hội
muốn chu toàn nhiệm vụ mà Chúa Kitô đă ủy thác cho
ḿnh.
Thay đổi không phải là chuyện
dễ dàng
Nếu trong quá khứ, Giáo Hội thích
ứng kịp thời th́ Giáo Hội ngày nay chỉ cần
thay đổi chút ít là theo kịp thời đại
mới. Nếu không thích ứng kịp thời mà bị
thế giới bỏ rơi quá xa, th́ Giáo Hội sẽ
phải thay đổi rất nhiều, và đương
nhiên những người có đầu óc bảo thủ
không thể chấp nhận được... Tuy nhiên, thay
đổi cũng không phải là chuyện dễ mà là
chuyện đầy phức tạp. Nếu Giáo Hội thay
đổi để phù hợp với thời đại
th́ Giáo Hội lại trở nên không phù hợp với
một số người bảo thủ không muốn thích
ứng với thời đại. Do đó, muốn thay
đổi, Giáo Hội luôn luôn phải chấp nhận
chống đối.
Những nguyên tắc để thay
đổi
Trước khi bước vào thiên niên
kỷ thứ ba, để thích ứng với con
người thời đại ấy một cách sáng
suốt, ta nên khách quan xét xem những ǵ không thể thay
đổi cần phải giữ lại, những ǵ có
thể thay đổi, và những ǵ cần phải thay
đổi, để Giáo Hội có thể tồn tại
và phát triển.
Vinh quang Thiên Chúa và hạnh phúc con
người
Điều quan trọng nhất mà chúng ta
cần phải nắm vững, đó là vinh quang Thiên Chúa và
hạnh phúc con người. Đó là chính là mục đích
hai mặt mà cả Thiên Chúa lẫn con người
đều nhắm đến và quyết tâm thực
hiện. Đối với Thiên Chúa th́ vinh quang của Ngài
chính là hạnh phúc của con người (7),
và đối với con người th́ hạnh phúc chính là
làm vinh danh Thiên Chúa. Tất cả mọi phương
tiện Chúa dùng hay con người dùng đều không
thể quan trọng bằng chính mục đích Chúa hay con
người nhắm tới. Mục đích th́ không thay
đổi, nhưng phương tiện th́ có thể thay
đổi và cần phải thay đổi tùy theo từng
thời điểm để có thể đạt
được mục đích (8).
Phải thay đổi v́ chính con
người hay thay đổi
Như vậy, việc cứu độ con
người là mục đích của Thiên Chúa th́ không thay
đổi, nhưng phương tiện Ngài dùng để
cứu độ th́ thay đổi, v́ chính con người
thay đổi. Con người thay đổi về
đủ mọi phương diện, nên không có
phương diện nào có thể áp dụng măi măi thích
hợp cho họ cả. Cũng như bệnh nhân thay
đổi căn bệnh của ḿnh theo thời gian, khi
nhẹ khi nặng, khi đau cơ quan này lúc đau cơ
quan khác, nên không thể cứ dùng một toa thuốc
uống hoài từ đầu đến cuối mà hết
bệnh. Phải thay đổi thuốc tùy theo từng
thời điểm. Hay như một học sinh tŕnh
độ ngày một cao, không thể có bài học nào thích
hợp để cứ học hết ngày này qua ngày khác,
năm này qua năm khác. Phải thay đổi bài học
mỗi ngày theo tŕnh độ mỗi ngày mỗi thay
đổi.
Ngoại trừ Thiên Chúa, mọi sự
đều thay đổi
Đương nhiên cũng có những
phương tiện ít thay đổi hay không thay
đổi ứng với một số những mục
đích ít thay đổi hay không thay đổi nơi con
người. Nhưng trên lư thuyết, ngoài Thiên Chúa ra,
chẳng có ǵ là bất biến, là không thay đổi. Ta
thấy, trong Cựu Ước, nhiều luật lệ
chính Thiên Chúa ra cho con người (như luật cắt b́,
v.v...) mà người Do Thái coi như linh thánh, không bao
giờ có thể thay đổi được, nhưng
theo thời gian, luật đó đă phải thay đổi
để thích ứng với sự thay đổi của
con người. Luật Chúa c̣n phải thích ứng với
con người, huống ǵ những điều mà con
người căn cứ trên Luật Chúa, Lời Chúa
để áp dụng cho nhau.
Mọi phương tiện giống như
chiếc đ̣ qua sông
Các phương tiện đều giống
như chiếc đ̣ để chở người qua sông.
Khi đă qua được sông, đ̣ không c̣n thích hợp
nữa, phải dùng phương tiện khác. Kẻ cố
chấp không chịu rời đ̣, hay đ̣i vác đ̣ đi
theo, th́ lúc đó đ̣ trở thành vật cản trở cho
cuộc hành tŕnh chứ không c̣n có lợi nữa. Tất
cả mọi phương tiện đều có thời
của nó, không có phương tiện nào vĩnh cửu
cả.
V́ thế, điều quan trọng là
nhận ra lúc nào nó đắc thời và lúc nào nó lỗi
thời. Khi một phương tiện đắc thời
đang hiện hành, người ta thường coi nó
như vĩnh cửu, tuyệt đối, để nó
trở nên hữu hiệu hơn. Khi nó đă lỗi
thời, người ta phải bỏ nó đi và thay
bằng phương tiện khác, lúc đó người ta
thường phải nêu ra những khuyết điểm,
những hạn chế của nó (9).
Luật hiện nay của chúng ta có thể
bị lỗi thời?
Nếp sống, lối suy nghĩ, quan
niệm, nhu cầu, sở thích... của con người
thời đại thay đổi rất nhiều so
với con người thế kỷ trước, và con
người thế kỷ sau sẽ c̣n thay đổi
nhiều hơn nữa so với con người thế
kỷ này. Muốn cứu độ họ, chúng ta cũng
phải thay đổi cùng với họ. Ngày nay, chúng ta
không c̣n áp dụng luật Môsê như dân Do Thái cách đây
2.000 - 3.000 năm,
mặc dù thời đó họ coi bộ luật này như
tuyệt đối, linh thánh, không thể thay đổi.
Một số điều trong luật đó đă trở
nên tức cười đối với năo trạng
của chúng ta hiện nay.
Nếu luật Môsê đă bị lỗi
thời như thế, th́ liệu những luật lệ
chúng ta đang theo hiện nay có thể không bị lỗi
thời chăng? Liệu chúng c̣n thích hợp với
những người thế kỷ sau, thiên niên kỷ sau
không? Thái độ cố chấp giữ khư khư
những nguyên tắc cũ có chính đáng không? Tại sao
ngày xưa phải theo luật Môsê mà ngày nay không phải theo
nữa? Khi phải thay đổi từ luật Môsê qua
luật mới, có bao nhiêu người chống đối,
phản kháng lại? Phản kháng như thế có chính
đáng không? Lư do khiến họ phản kháng là ǵ? Trả
lời những câu hỏi đó sẽ giúp ta có thái
độ thích hợp hơn đối với luật
hiện tại.
Hành động nên v́ con người hay v́
lề luật?
Xét thái độ của Đức Giêsu, ta
thấy Ngài hành động v́ con người chứ không v́
lề luật hay v́ nguyên tắc. Đành rằng lề
luật được đặt ra để phục
vụ con người, nhưng khi áp dụng luật trong
những trường hợp cụ thể, người ta
thường có khuynh hướng vị luật hơn là
vị con người, bất chấp những
trường hợp đặc biệt mà trong đó lề
luật đi ngược lại con người.
Đức Kitô không chấp nhận thái độ thiếu
thích ứng như thế. Luật Môsê không cho phép chữa
bệnh ngày Sabát, nhưng trước nhu cầu của
bệnh nhân: bị mù mắt (10), bất
toại (11), teo tay (12), v.v..., Ngài
vẫn chữa bệnh cho họ bất chấp lề
luật.
Mục đích quan trọng hơn
phương tiện
Tại sao? V́ đối với Thiên Chúa, và
đúng ra đối với cả chúng ta nữa, con
người quan trọng hơn tất cả những
phương tiện dùng để cứu độ con
người, hạnh phúc con người quan trọng
hơn những phương tiện giúp con người
hạnh phúc. Khi có xung đột giữa mục đích và
phương tiện, th́ phải hy sinh phương tiện
cho mục đích, chứ không ngược lại. Do
đó, chúng ta không nên nhân danh những luật lệ mà chúng
ta «phong thần» hay tuyệt
đối hóa lên, để hy sinh chính con người hay
chính hạnh phúc của con người. Chúng ta dễ
bị thôi miên bởi những luật lệ do chính chúng ta
«phong thần» lên, khiến
chúng ta chỉ nh́n thấy luật lệ và nguyên tắc, mà
không thấy những nhu cầu cụ thể của con
người.
Đừng quá cứng rắn với
những nguyên tắc
Nếu chúng ta quá cứng rắn trong
việc áp dụng nguyên tắc, dần dần người
ta sẽ cảm thấy đạo mà chúng ta rao giảng
trở thành một gánh nặng cho lương tâm, không
đáp ứng được những nhu cầu khẩn
thiết của cuộc sống. Lúc đó họ sẽ
bỏ chúng ta, và chúng ta cũng không thể ảnh
hưởng trên họ, không giúp ích hay cứu rỗi họ
được, v́ họ không thèm nghe chúng ta nữa.
Thật vậy, chúng ta chỉ cứu giúp được
họ bao lâu họ c̣n tin và nghe chúng ta.
Nhiều trường hợp chúng ta
phải cứng rắn, nhưng cứng rắn tới
một mức độ nào đó th́ thích hợp và phải
lẽ. C̣n cứng rắn tới mức độ làm cho
người ta lâm vào thế kẹt một cách không cần
thiết th́ quả là quá đáng. Sự khôn ngoan giúp ta
biết khi nào cần phải mềm dẻo, khi nào cần
cứng rắn, khi nào phải chấp vào nguyên tắc, khi
nào không nên chấp. Đó chính là khả năng thích ứng
một cách hợp lư vào từng trường hợp cụ
thể. Việc hội nhập văn hóa đ̣i hỏi
sự khôn ngoan hay sự thích ứng như thế.
Đừng hy sinh mục đích cho
phương tiện, cái tùy thuộc cho cái chính yếu
Để cụ thể hóa vấn
đề, chúng ta có thể suy nghĩ theo một minh
họa.
Một người Cha rất nhân hậu có
một đàn con đông đảo, trong đó có những
đứa con ngoan, có những đứa hư hỏng, và
có những đứa v́ xa nhà từ hồi nhỏ nên
chưa nhận biết Cha ḿnh. Người Cha nhờ
những đứa con ngoan giúp cho những đứa con
hư hỏng hoặc chưa nhận biết Cha trở
về với cuộc sống tốt đẹp và nhận
biết Cha thật của ḿnh. Người con cả
được Cha giao quyền điều động anh
em trong nhà.
V́ muốn thống
nhất anh em thành một khối duy nhất, cùng chủ
trương, cùng quan niệm, cùng đường lối
hầu dễ dàng thực hiện nhiệm vụ Cha giao
phó, nên người anh cả đă bắt tất cả
mọi anh em trong nhà phải theo đường
hướng mà ḿnh cho là đúng đắn nhất. Biện
pháp để thực hiện sự thống nhất
ấy thật là cứng rắn: ai không theo sẽ bị
trục xuất khỏi gia đ́nh. Kết quả là thay v́
thực hiện được sự thống nhất và
đoàn kết trong nhà, th́ lại xảy ra là: nhiều anh
em trong nhà phải lần lượt rời khỏi gia
đ́nh, lập thành những phe nhóm độc lập, tuy
cùng nhận Cha chung là Cha, nhưng không chịu phục
quyền người anh cả. V́ thế, sự chia rẽ
trong nhà trở thành tệ hơn lúc chưa có chủ
trương thống nhất anh em lại.
Tại sao? V́ người anh cả đă
quá đặt nặng phương
tiện để thống nhất và đoàn kết gia
đ́nh - là chủ
trương, đường lối mà ḿnh cho là đúng
đắn nhất và đ̣i buộc anh em phải theo - coi nó quan trọng hơn chính sự thống nhất và đoàn kết trong
nhà nữa: thà mất chính sự thống nhất và đoàn
kết trong nhà c̣n hơn là để cho phương
tiện dùng để thực hiện sự thống
nhất và đoàn kết ấy trở nên vô hiệu.
Thế là người anh cả đă lầm lẫn
giữa phương tiện và mục đích, lấy
phương tiện làm mục đích, nên đă hy sinh
mục đích cho phương tiện.
Đối với những anh em xa gia
đ́nh từ hồi c̣n nhỏ, chưa biết Cha đích
thực của ḿnh là ai, th́ những người con ngoan có
nhiệm vụ giới thiệu, tŕnh bày người Cha
chung của ḿnh cho họ. Nhưng theo lệnh người
anh cả, ai nhận biết Cha đích thực của ḿnh
và muốn trở về, th́ phải dứt khoát từ
bỏ người cha nuôi đă nuôi ḿnh khôn lớn từ
trước đến nay mà ḿnh tưởng lầm là Cha
ḿnh. Thậm chí có lúc người anh cả c̣n chủ
trương phải coi người cha nuôi đó như
kẻ thù nghịch với Cha ḿnh. Ngoài ra, những
người trở về c̣n phải theo những phong
tục, tập quán của những anh em trong nhà nữa. V́
thế, nhiều người v́ c̣n t́nh nghĩa với cha
nuôi của ḿnh, lại chưa xác tín được
người Cha đích thực của ḿnh, hoặc chưa
thể bỏ phong tục tập quán cũ mà ḿnh vẫn
thấy là hợp lư để theo phong tục mới, nên
đă từ chối việc nhận người Cha
đích thực của ḿnh, không cần biết tới
hạnh phúc hay việc thừa hưởng tài sản
của Cha.
Lần này, người anh cả lại
lầm lẫn giữa cái chính yếu và cái phụ tùy.
Để cho những chuyện tùy phụ ấy trở
thành lư do chính yếu ngăn cản anh em ḿnh về với
Cha th́ quả là quá đáng: coi cái phụ tùy c̣n quan trọng
hơn cả cái chính yếu. Một người cha nhân
từ luôn mong mỏi con cái quay trở về có đ̣i
buộc những đứa con chưa biết ḿnh vừa
mới phần nào nhận ra ḿnh những điều
kiện như thế không, hay đó chỉ là đ̣i
hỏi của những đứa con «ngoan»?
Thiết tưởng chúng ta cần suy
tư nhiều hơn về thái độ của
người cha, người con thứ, và nhất là thái
độ của người con trưởng trong dụ
ngôn «ba cha con» của Chúa
Giêsu (13). Người con trưởng tuy ngoan
nhưng thiếu hẳn t́nh thương và ḷng bao dung,
cả với Cha và với đứa em ruột thịt
của ḿnh.
Thích ứng và hội nhập văn hóa cho
thời đại mới
Việc hội nhập văn hóa trong quá
khứ
Việc hội nhập văn hóa trong công
cuộc phúc âm hóa mới ngày nay không c̣n là việc hội
nhập văn hóa vào nơi này
hay nơi khác, vào dân tộc này hay dân tộc khác cho bằng vào
một thế giới khác.
Trong thiên niên kỷ thứ nhất và
nửa thiên niên kỷ thứ hai, Kitô giáo hầu như
chỉ được gói gọn trong Âu Châu. Sự khác
biệt về mặt văn hóa giữa người phúc âm
hóa và người được phúc âm hóa không đáng
kể, việc hội nhập văn hóa tương
đối dễ dàng thế mà lại được
đặt nặng. V́ thế, việc phúc âm hóa thành công
dễ dàng. Măi tới giữa thiên niên kỷ thứ hai, Kitô
giáo mới phát triển mạnh sang các châu khác, chẳng
hạn như Á châu. Lần này có sự khác biệt rất
lớn về mặt văn hóa giữa người phúc âm
hóa và người được phúc âm hóa, việc hội
nhập văn hóa tương đối khó hơn
trường hợp trước rất nhiều thế mà
lại bị coi nhẹ. V́ thế, việc phúc âm hóa đă
không thành công bao nhiêu.
Hai thiên niên kỷ qua, thế giới thay
đổi tương đối chậm, nhưng từ
cuối thiên niên kỷ thứ hai trở đi, đặc
biệt từ thế kỷ XX, thế giới thay
đổi rất nhanh chóng, nhanh một cách lạ
thường, khiến cho sự khác biệt về văn
hóa, tư tưởng, nếp nghĩ... giữa thế
kỷ trước và thế kỷ sau rất rơ ràng. Sự
khác biệt về văn hóa giữa nơi này với
nơi khác, giữa dân tộc này với dân tộc khác
thời nay không c̣n đáng kể, v́ sự giao lưu
giữa các dân tộc đă trở nên dễ dàng do những
điều kiện về thông tin và giao thông tân tiến. Có
thể nói thế giới đang tiến về một
nền văn hóa chung.
Hội nhập văn hóa vào thế giới
mới
Nhưng thế giới thay đổi quá
nhanh chóng và sâu xa khiến cho văn hóa của thế kỷ
sau có thể khác xa với thế kỷ này. V́ thế,
vấn đề hội nhập văn hóa sứ
điệp Kitô giáo vào thế giới thế kỷ mới
cũng có rất nhiều khó khăn. Cách phúc âm hóa, cách
diễn tả sứ điệp Kitô giáo cho thế kỷ
sau cần phải thay đổi ít nhiều so với
hiện nay để thích ứng với con người
thế kỷ sau.
Nếu chúng ta muốn việc phúc âm hóa
thế giới thế kỷ sau thành công, chúng ta nên rút kinh
nghiệm từ những thành công cũng như thất
bại trong việc hội nhập văn hóa của Kitô
giáo cũng như của các tôn giáo khác trong hai thiên niên
kỷ vừa qua. Thái độ cứng rắn quá đáng,
không chịu thích ứng với t́nh thế đang diễn
ra, sẽ là nguyên nhân cho sự thất bại. Và thái
độ mềm dẻo, sẵn sàng thay đổi
những ǵ tùy phụ, những ǵ là phương tiện
để thích ứng với con người, sẽ
dẫn việc phúc âm hóa đến thành công.
Trong thiên niên kỷ thứ ba, cần
đặt nặng việc thích ứng và hội nhập
văn hóa hơn
Trước thiên niên kỷ thứ ba
của Kitô giáo, một thiên niên kỷ đầy dẫy
thay đổi, những thay đổi chưa từng
thấy, vừa nhanh, vừa sâu, vừa rộng,
người Kitô hữu phúc âm hóa không nên đặt nhẹ
vấn đề thích ứng để kịp thời
với những thay đổi của thế giới.
Việc thích ứng và hội nhập văn hóa sẽ trở
nên vấn đề «sống
c̣n» của Kitô giáo cũng như của các tôn giáo khác:
hoặc thích ứng hoặc sẽ bị đào thải,
chỉ có thể chọn một trong hai. Không sẵn sàng
thay đổi th́ không thể thích ứng được.
Giáo Hội đang sẵn sàng thay
đổi
Nhiều quan niệm từ xưa
đến nay được coi là đúng rất có thể
trở nên lỗi thời trong tương lai. Trong quá
khứ đă xảy ra những trường hợp như
thế. Do đó, chúng ta cần phải sẵn sàng thay
đổi quan niệm cũ của ḿnh theo sự soi
dẫn của Thánh Thần. Không có sự soi dẫn của
Thánh Thần th́ dù bảo thủ hay thay đổi cũng
đều không phải là thích ứng.
Qua các tông huấn hay tông thư mới
nhất của Đức Gioan-Phaolô II, ta cũng thấy
Giáo Hội đang sẵn sàng thay đổi để thích
ứng với thế giới tương lai. Giáo Hội
đang muốn thay đổi và cần phải thay
đổi. Nhưng chắc chắn sẽ có nhiều
người chống lại sự thay đổi, không
phải họ thiếu thiện chí hay chủ trương
chống lại mọi thay đổi, cho bằng họ chưa
nh́n ra sự cần thiết và hợp lư của việc
phải thay đổi.
Cần xét lại những điều ta
vẫn cho là đúng
Nhận ra những điều chưa
đúng hay không thích hợp trong quan niệm đang hiện
hành (14) không phải luôn luôn dễ dàng. Xét
trường hợp của Galilée, ta thấy: khi ông chủ
trương trái đất quay chung quanh mặt trời
chứ không phải ngược lại, th́ ai cũng
lấy làm lạ và cho ông là phi lư. Thậm chí cả
những nhân vật cao cấp trong Giáo Hội cũng không
nhận ra và c̣n kết án ông là phá hoại nữa. Phải
nhiều thế hệ sau người ta mới thấy điều
«phi lư» ấy mới chính là
chân lư, và quan niệm đă hiện hành thời đó (15)
là sai.
Đó là bài học cho tất cả mọi
người: thấy được cái sai trong những
điều ḿnh đang cho là đúng không phải chuyện
dễ dàng! V́ thế, đôi khi chúng ta cũng phải
biết nghi ngờ cả những điều ḿnh đang
cho là đúng, là phải, là hợp lư. Và đó là thái
độ đúng đắn mà các triết nhân vẫn có,
nhờ đó họ mới tránh được những
hành động sai lầm mà «chỉ
có một số đầu óc vĩ đại thật
sự tự do và tràn đầy Thiên Chúa mới có thể
tránh thoát được» (16). Do đó, khi
muốn chống đối lại một thay đổi
nào, nhất là khi sự thay đổi đó lại do
một đầu óc vĩ đại khởi xướng,
như sự thay đổi mà Đức Gioan-Phaolô II
đang chủ trương trong Giáo Hội hiện nay, chúng
ta cần phải dè dặt y như người chủ
trương thay đổi vậy.
Lầm lỗi quá khứ
Trong việc phúc âm hóa và trong sinh hoạt
của Giáo Hội hai thiên niên kỷ qua, một số «con cái» trong Giáo Hội đă
gây ra những sai lầm đáng tiếc mà thiết
tưởng những «con cái»
khác nên rút ra những bài học để tránh trong
tương lai. Tất cả những sai lầm ấy,
chẳng hạn như «tội
phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có
nơi Dân Ngài» hay tội «dùng
đến những phương pháp bất khoan dung và
thậm chí bạo lực trong khi phụng sự chân lư»,
v.v... đều chỉ xuất phát từ một mối
tội duy nhất: quá cứng rắn, thiếu mềm
dẻo và bao dung. Thật vậy, những người
phạm những điều sai lầm ấy không phải
là những người thiếu thiện chí, thiếu
hăng hái nhiệt t́nh, hay thiếu t́nh yêu thương (17).
Tiếc thay, những đức tính quí giá ấy mà lại
đi đôi với sự cứng rắn, thay v́ đi chung
với sự mềm dẻo, bao dung và thích ứng, th́ chúng
sẽ tạo thành một tổ hợp những
đức tính phá hoại.
V́ thế,
trong sinh hoạt của Giáo Hội, nhất là trong việc
phúc âm hóa và hội nhập văn hóa, nếu chúng ta chỉ
biết cứng rắn áp dụng những nguyên tắc mà
ta cho là tuyệt đối, cộng thêm với niềm
tự tin rằng ḿnh không thể sai lầm, chắc
chắn sẽ làm cho công việc của Giáo Hội đi
đến thất bại. Việc phúc âm hóa và hội
nhập văn hóa, nhất trong tương lai, rất
cần có ḷng bao dung để có thể mềm dẻo thích
ứng với mọi t́nh huống, mọi con người.
Phần chú thích
(1) Mt 16,18.
(2) St 22,17.
(3) Nhiều câu Kinh Thánh không
thể hiểu theo nghĩa đen v́ nếu hiểu theo
nghĩa đen th́ rơ ràng là trái với thực tế.
Chẳng hạn câu: «Thầy
bảo thật anh em, trước khi trời đất qua
đi, th́ một chấm một phết trong Lề
Luật (luật Môsê) cũng không thể qua đi
được, cho đến khi mọi sự
được hoàn thành» (Mt 5,18), «Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi,
nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại» (Ga 2,19), v.v…
(4) Công Đồng Vatican II, MV
7 §2.
(5) Xem Rm 2,17-20.21-27; 3,27; 4,2.4;
Gl 6,13; Ep 2,3; Pl 3,9; 3,18; v.v…
(6) X. Gl 3,11.21t; Rm 3,20; Gl 6,12; Pl
3,18…
(7) Quan niệm của thánh
Irênê.
(8) Chẳng hạn, để
đi đến một nơi nào đó (mục đích
không thay đổi), rất nhiều trường hợp
ta không thể chỉ dùng một phương tiện duy
nhất. Có lúc phải đi bộ, có lúc đi xe, có lúc
đi thuyền, và có lúc phải đi máy bay, tùy theo từng
đoạn đường phải đi.
(9) Trong thời Cựu
Ước, luật Môsê là luật hiện hành,
được coi là tuyệt đối, vĩnh cửu,
dường như không bao giờ lỗi thời được.
Có quan niệm như thế, người ta mới tuân hành
một cách triệt để. Nhưng tới thời Tân
Ước, luật Môsê không c̣n thích hợp nữa, thánh
Phaolô đă đưa ra những khiếm khuyết của
luật đó để người ta bỏ luật
đó mà theo luật mới của Chúa Kitô (xem Rm 2,21-27; 3,20;
8,2; Gl 3,11.21; 3,24; 6,12; 6,13; Ep 2,3; Pl 3,18; v.v…).
(10) Ga 9.
(11) Ga 5,1-18.
(12) Mt 12,9-14.
(13) X. Lc 15,11-32.
(14) Mà ḿnh cũng như
mọi người hiện đang cho là đúng.
(15) Mà lúc đó ai cũng cho là
đúng, là chân lư hiển nhiên.
(16) Tông Thư Tertio Millennio Adveniente của Đức Gioan-Phaolô
II, số 35.
(17) Những điều này có
thể nói là họ có quá nhiều nữa là khác.
NGUYỄN CHÍNH
KẾT