SUY TƯ VỀ HỘI NHẬP
VĂN HÓA
KHỞI TỪ LA VANG
NGUYỄN CHÍNH
KẾT
Hội
nhập văn hóa đang là đề tài sốt dẻo
trong các Giáo Hội Công giáo Á châu hiện nay, trong đó có
Việt Nam, v́ chủ đề này vừa được
Thượng Hội Đồng Giám mục Á Châu năm 1998
tại Rôma bàn thảo như một điểm trọng
yếu để phát triển Kitô giáo tại Á châu.
Nỗ lực hội nhập văn hóa
tại Đại Hội La Vang
Hưởng
ứng tinh thần hội nhập văn hóa của
Thượng Hội Đồng Giám mục Á Châu, ta
thấy tại Việt Nam trong thời gian mới đây có
những nỗ lực hết sức đáng khen, chẳng
hạn như tại Đại Hội La Vang mừng 200
năm Đức Mẹ hiện ra, mà đỉnh cao là ba
ngày 13, 14, 15-8-1998 vừa qua, ai cũng thấy những
cố gắng rất lớn và cụ thể về
mặt này. Thật vậy, ban tổ chức đă cố
gắng hội nhập văn hóa tối đa trong cách trang
trí tŕnh bày, trong tất cả mọi lễ nghi, từ thánh
lễ đến những cuộc rước kiệu,
những màn tŕnh diễn nghệ thuật trong thánh lễ và
trong các buổi cầu nguyện… Tất cả đều
mang đậm nét văn hóa dân tộc.
Chẳng
hạn một vài sự kiện sau đây: Pho tượng
Đức Mẹ La Vang cũ làm theo mẫu tượng
Đức Bà Chiến Thắng ở Paris (Pháp) đă
được thay thế bằng pho tượng làm theo
cung cách văn hóa Việt Nam: Đức Mẹ mặc áo dài
Việt Nam mầu thiên thanh, đầu đội măo vàng,
trông sang trọng như một cô dâu mới người
Việt Nam (Đức Mẹ chẳng là Cô Dâu của Thiên
Chúa Cha sao?) nhưng trên tay bế Chúa Giêsu Hài Đồng
mặc áo thụng màu hồng. Lễ đài được
che bằng nhiều cái lọng lớn, xanh vàng đỏ,
biểu tượng cho sự trang trọng của
người Việt xưa. Đầu thánh lễ, có
đoàn giả làm các quan và lính ngự lâm quân thời xưa
với những tàn lọng uy nghiêm đón rước
đoàn đồng tế lên lễ đài, và giữa
lễ lại xuất hiện để dâng của lễ
một cách hết sức trang trọng. C̣n có nhiều màn
tŕnh diễn mang đậm sắc thái truyền thống
dân tộc (cả dân tộc kinh cũng như dân tộc
thiểu số) như múa cung đ́nh, múa quạt…
được xen vào những lúc thích hợp trong thánh
lễ, trong những cuộc rước kiệu, trong
những buổi cầu nguyện chung…
Tất
cả những nỗ lực đó chứng tỏ việc
hội nhập văn hóa tại Việt Nam đang
được những giới có thẩm quyền trong
Giáo Hội Việt Nam đặt nặng và cố gắng
thực hiện. Đó là một điều đáng
mừng cho công cuộc truyền giáo tại Việt Nam.
Trong
hoàn cảnh Giáo Hội Việt Nam hiện nay, vấn
đề hội nhập văn hóa có vẻ vẫn c̣n là
một vấn đề mới mẻ, đôi khi c̣n xa
lạ với nhiều người, thậm chí với
một số linh mục tu sĩ. V́ thế, hiện nay Giáo
Hội Việt Nam chưa xác định được
một đường hướng rơ rệt trong việc
xúc tiến hội nhập văn hóa một cách cụ
thể. Những cách thực hiện hội nhập văn
hóa hiện nay mới chỉ ở trong giai đoạn
dọ dẫm, t́m đường. Sách vở hay báo chí
viết về hội nhập văn hóa c̣n rất hiếm,
nếu có th́ chỉ dừng ở mức độ lư
thuyết, chưa hướng dẫn đi vào cụ
thể.
Trong
bối cảnh ấy, việc hội nhập văn hóa
tại La Vang quả là một nỗ lực hết sức
đáng khen, cần được ủng hộ và xây
dựng. Đang khi rất nhiều nơi chưa có hành
động nào cụ thể chứng tỏ thiện chí
hội nhập văn hóa của ḿnh, th́ Đại Hội
La Vang đă hăng hái và can đảm hưởng ứng
tinh thần hội nhập văn hóa của Công
Đồng Vatican II và Thượng Hội Đồng Giám
mục Á Châu bằng những việc làm cụ thể.
Khi
tiếp xúc với một vài linh mục trong ban tổ
chức Đại Hội, tôi rất thán phục tinh
thần hội nhập văn hóa, sự nghiên cứu sâu xa
về truyền thống văn hóa dân tộc, sự nỗ
lực cũng như công phu để thực hiện
đúng đắn hết sức có thể tinh thần
hội nhập này. Nhưng cho dù có cố gắng hoàn
chỉnh tới đâu, chắc chắn việc hội
nhập này không thể tránh khỏi thiếu sót. Và trong
thực tế, những nỗ lực này đă
được hay bị nhiều người phê b́nh.
Đương nhiên phê b́nh th́ dễ dàng và đỡ ra
mồ hôi hơn đứng ra thực hiện gấp ngàn
lần. Nếu phải đứng ra mà thực hiện th́
những người phê b́nh ấy chưa chắc đă
thực hiện được tốt đẹp và
đúng đắn như thế, nhất là trong điều
kiện khó khăn, hạn chế của ban tổ
chức, và t́nh trạng hội nhập văn hóa c̣n đang
ở những bước dọ dẫm trong thực
hiện.
Có những nỗ lực cụ thể
để thực hiện hội nhập văn
hóa theo tinh thần Thượng Hội Đồng Giám
mục Á Châu đă là một điều đáng khen và
đáng khích lệ cho dù thực hiện thế nào, miễn
là có ư hướng ngay lành theo ư Giáo Hội. Tuy nhiên, việc
hội nhập văn hóa c̣n phải được thực hiện thế nào cho
đúng, cho hợp lư, phải đạo, để
tạo được ích lợi tối đa cho việc
mục vụ và truyền giáo, đó là vấn đề
cần có sự suy nghĩ, bàn thảo và góp ư xây dựng
của rất nhiều người.
Trong
tinh thần đó, tôi xin đưa ra một vài cảm
nghĩ của tôi để góp phần xây dựng
đường hướng hội nhập văn hóa
tại Việt Nam.
Hội nhập văn hóa rất cần
thiết trong truyền giáo
Đúng ra,
việc hội nhập văn hóa phải được
đặt ra một cách nghiêm túc và phổ biến cho
tất cả mọi thừa sai từ khi khởi sự
những cuộc truyền giáo có qui mô tại Á châu, Phi châu
cách đây nhiều thế kỷ. Bây giờ tại
Việt Nam, vấn đề này mới được ư
thức và đặt nặng th́ có thể đă khá muộn
màng. Đương nhiên muộn c̣n hơn không.
Thực
ra, ngay từ thời khởi đầu Giáo Hội,
việc hội nhập văn hóa đă được
thực hiện một cách gương mẫu nhất,
đáng cho mọi thời bắt chước rồi.
Thời đó, sứ điệp Kitô giáo vốn mang bản
sắc văn hóa Á châu đă được hội nhập
vào văn hóa Âu châu một cách tuyệt vời khiến cho
việc truyền giáo tại Âu châu thành công rất tốt
đẹp. Mười mấy thế kỷ sau, khi các
thừa sai ở Âu châu sang truyền giáo tại Á châu và Phi
châu, nhiều vị Giáo Hoàng đă có những thông
điệp hoặc thư chung đề cập và khuyên
nhủ các thừa sai phải tôn trọng và thích ứng
với các nền văn hóa bản địa, trong đó
các ngài đề ra nhiều trường hợp thích
ứng rất cụ thể. Nhưng có thể v́
phương tiện truyền thông lúc đó quá thô thiển,
hay v́ những lư do khách quan khác, nên tinh thần hội
nhập văn hóa không được phổ biến
rộng răi và sâu xa trong giới thừa sai. V́ thế, chúng
ta thấy tại Việt Nam cũng như tại các
nước Á châu khác, việc hội nhập văn hóa không
được đặt nặng, có chăng chỉ là
chủ trương tiến bộ của một số cá
nhân (như Roberto de Nobili, Matteo Ricci, Alexandre de Rhodes, v.v…)
hoặc của một vài đoàn thể cá biệt (như
ḍng Tên…).
Việc
thiếu hội nhập văn hóa là một trong những lư
do quan trọng khiến cho việc truyền giáo tại Á
châu không thành tựu tốt đẹp như tại Âu châu.
Việc hội nhập văn hóa đúng ra phải
được đặt nặng ngay từ thời
đó, v́ thời đó có sự khác biệt rất lớn
về văn hóa giữa các thừa sai là người Âu châu
và các dân tộc Á châu là người thụ giáo. Tóm lại,
việc thích ứng về mặt văn hóa trong công
cuộc truyền giáo thời ấy là một trong những
yếu tố hết sức quan trọng quyết
định việc truyền giáo thành công hay thất
bại.
Hai chiều kích của hội nhập
văn hóa: theo không gian và theo thời gian
Những
nỗ lực hội nhập văn hóa tại La Vang
chủ yếu nằm trong phần lễ nghi, đó là
hội nhập văn hóa về mặt phụng vụ.
Những lễ nghi đó mang tính dân tộc một cách
rất rơ nét, từ tượng Đức Mẹ mặc y
phục Việt Nam đến cách bài trí với những
lọng che, cờ, quạt, cách ăn mặc truyền
thống Việt Nam với áo thụng xanh, khăn gơ, lính
ngự lâm quân… Phải nói rằng nếu những nghi thức
này được thực hiện cách đây từ 50
năm hay 100 năm trở về trước, lúc c̣n
chế độ quân chủ, lúc người Việt c̣n mặc
áo dài, khăn đóng, tóc búi tó, th́ thật là hữu ích, thích
hợp và đúng là hội nhập văn hóa với
trọn ư nghĩa của nó. Cũng như các thừa sai
ngày xưa tới Việt Nam đă bận áo thụng hay áo
the, mặc quần ta đi chân đất để ḥa ḿnh
với người Việt, th́ đó là hội nhập
văn hóa. Những người dân thời đó sẽ
cảm thấy những nghi thức hay những cách ăn
mặc ấy rất gần gũi và rất dễ
chấp nhận, v́ chúng rất phù hợp với nền
văn hóa thời ấy. Thời ấy, việc hội
nhập văn hóa bằng những h́nh thức văn hóa dân
tộc như thế thật cần thiết để dân
Việt cảm thấy đạo Chúa không phải là
một tôn giáo xa lạ của ngoại quốc, mà là
một tôn giáo rất gần gũi, thân quen.
Nhưng
hiện nay, khi mà người Việt đă cắt tóc
ngắn, mặc áo sơ-mi hay veston với quần tây,
miệng nói tiếng Anh và hút thuốc ba số «555», th́ những h́nh thức
lễ nghi hay những cách ăn mặc ấy đối
với họ đă trở thành cổ xưa mà họ
chỉ có thể thấy được trong những màn
tŕnh diễn cải lương. Chúng đă trở nên xa
lạ và ngộ nghĩnh đối với người
thời đại. Cũng như nếu các thừa sai ngày
nay qua Việt Nam mà mặc áo thụng quần ta đi chân
đất như Alexandre de Rhodes xưa th́ rơ ràng là không thích
hợp với nền văn hóa hiện nay của
người Việt, và như vậy không phải là
hội nhập văn hóa. Hội nhập văn hóa đ̣i
hỏi phải có sự tương hợp giữa các nghi
thức, cách ăn nói, diễn tả, cách truyền giáo
với văn hóa, năo trạng của người dân
thời đại.
Đương
nhiên, thỉnh thoảng trong những dịp lễ lớn
như Đại Hội La Vang chẳng hạn, nếu các
Kitô hữu Việt Nam được sống lại khung cảnh
văn hóa của cha ông xưa, giúp họ ư thức
được bản sắc văn hóa của dân tộc
th́ cũng là điều rất hay. Vả lại, ngày nay,
trong thánh lễ, việc chủ tế mặc những
lễ phục của dân tộc ta ngày xưa th́ vẫn là
hội nhập văn hóa, v́ các lễ nghi ở bất
kỳ dân tộc nào cũng đều mang tính truyền
thống của dân tộc, đều giữ lại h́nh
thức cổ xưa của cha ông. Cũng như lễ
phục mà các chủ tế thường mặc ngày nay vốn là một h́nh
thức lễ phục của người Tây Phương thời xưa. Tuy nhiên, lễ
phục Tây Phương ấy ngày nay đă trở thành
rất quen thuộc với người Công giáo, thậm chí
với những người ngoài Kitô giáo, v́ nó đă
được sử dụng ở Việt Nam suốt
mấy thế kỷ qua, nên đang dần dần trở
thành một yếu tố của văn hóa Kitô giáo Việt
Nam ngày nay. Do đó, ngày nay, việc đổi lại
lễ phục gốc Tây Phương thành Đông
Phương thiết tưởng rất hay, nhưng không
c̣n cần thiết nữa.
Tóm
lại, trong nền văn hóa mới của dân tộc ta
hiện nay, những h́nh thức «trở lại mái nhà xưa» như thế chỉ mang tính nghệ thuật,
trang trí, thay đổi bầu khí, v́ thế, thực
hiện những h́nh thức đó là một điều
rất nên rất tốt. Nhưng quả thật hiện
nay chúng không c̣n thật sự cần thiết như trong
các thế kỷ trước nữa.
Để
sự việc trở nên dễ hiểu hơn trong lănh
vực hội nhập văn hóa (ở đây không có ư nói
sang những lănh vực khác), ta có thể dùng một minh
họa nghèo nàn (có thể c̣n què quặt) :
Cha
mẹ tôi là một người rất yêu thương và
tốt bụng đối với con cái, sẵn sàng giúp
đỡ con cái những ǵ nó cần. Nhưng có
điều là các ngài rất sợ con cái bị hư
hỏng, nên rất dè dặt trong việc đáp ứng
những yêu cầu của con cái. V́ thế, sự giúp
đỡ của cha mẹ tôi đối với con cái
đôi khi rất chậm chạp, đến nỗi không
đáp ứng được đúng lúc những nhu cầu
thiết thực nhưng có tính thời gian của con cái.
Chẳng hạn lúc tôi nghèo, tôi rất cần sự giúp
đỡ của các ngài về mặt tiền bạc, th́
lúc đó các ngài lại chỉ giúp tôi bằng những
lời khuyên rất chân thành và đầy yêu thương,
chứ không dám cho tôi tiền v́ cứ sợ tôi non
người trẻ dạ, dễ bị hư hỏng v́ tiền
bạc. V́ thế, thời ấy tôi phải hết sức
vất vả và mất rất nhiều thời gian so
với các bạn tôi, để có thể đủ
sống nuôi gia đ́nh. Nhưng nhờ vận may, ngày nay tôi
đă trở nên giàu có. Về sau cha mẹ tôi rất
hối hận v́ đă không giúp đỡ tôi về tiền
bạc lúc tôi cần.
Khi con
cái tôi đă lớn, tôi yêu cầu cha mẹ tôi cố
vấn và giúp đỡ chúng tôi một cách tích cực trong
việc giáo dục các cháu, và nhờ các ngài khuyên nhủ
chúng, th́ các ngài lại nhớ tới kinh nghiệm quá
khứ, nên đă giúp đỡ cho con cái tôi rất nhiều
tiền. Nhưng lúc này chúng tôi không cần tiền nữa,
mà cần sự giúp đỡ loại khác. Phải chi
với t́nh thương và ḷng tốt sẵn có của cha
mẹ tôi, nếu các ngài thật sự biết
được chính xác chúng tôi cần ǵ để giúp
đỡ một cách kịp thời, th́ đời chúng tôi
đỡ cực biết bao!
Hội
nhập văn hóa, theo nghĩa rộng của nó, là thích
ứng về mặt văn hóa. Mà thích ứng chính là «tùy cơ ứng biến»,
nghĩa là tùy theo từng t́nh huống thay đổi
của từng thời điểm mà hành động hay
ứng xử cho phù hợp. T́nh huống thay đổi
mỗi lúc mỗi khác, không thể lấy cách thích ứng
của t́nh huống trước áp dụng cho t́nh huống
sau được. Hiểu theo nghĩa cụ thể
hơn, hội nhập văn hóa là thích ứng việc
diễn tả sứ điệp Chúa Kitô và đức tin
Kitô giáo theo cung cách văn hóa của dân tộc và của
thời đại. Những h́nh thức lễ nghi ở
Đại Hội La Vang trên đúng là thuộc về cung
cách văn hóa của dân tộc ta, nhưng có lẽ ở
thời đại trước nhiều hơn là thời
đại ngày nay.
Phải hội nhập vào nền văn hóa
nào?
Để
hội nhập văn hóa đúng theo giáo huấn Giáo
Hội, chúng ta phải hội nhập vào nền văn hóa
nào? Phải hội nhập vào nền văn hóa của
thời đại chúng ta đang sống, chứ không
phải vào thời đại xa xưa. Chúa đă chẳng
nói: «Không nên lấy rượu
mới đựng vào bầu da cũ, cũng như không
nên lấy vải mới vá vào áo cũ» (Mt 9, 16-17) sao? Việc hội nhập văn hóa
phải được thực hiện chẳng những
theo không gian, mà theo cả thời gian nữa. Và không gian và
thời gian đó chính là «tại
đây và lúc này» (hic et
nunc).
Việc
dùng lại những h́nh thức văn hóa cổ xưa
của dân tộc cho thời đại ngày nay chỉ là
hội nhập văn hóa theo một nửa ư nghĩa
của từ này, chứ không phải trọn nghĩa.
Nếu không khéo th́ hội nhập văn hóa có thể
trở thành nệ cổ, hoài cổ, hồi tưởng
lại quá khứ, nên hóa thành tụt hậu, thụt lùi.
Thực ra bản chất của hội nhập văn hóa
là phải diễn tả đức tin hay tâm t́nh tôn giáo sao
cho phù hợp với cung cách văn hóa của con
người hay dân tộc ở
thời đại họ đang sống.
Như
vậy, nền văn hóa mà hiện nay chúng ta phải
hội nhập vào là nền văn hóa Việt Nam thời đại ngày nay. Phải
diễn tả sứ điệp Chúa Kitô và đức tin
Kitô giáo theo cung cách của nền văn hóa này chứ không
phải văn hóa thời trước. Đó là một
nền văn hóa có tính tổng hợp, kết hợp
nhiều yếu tố văn hóa thuộc nội
địa cũng như ngoại lai. Trong đó yếu
tố quan trọng nhất là truyền thống văn hóa
Việt Nam cổ điển, chịu ảnh hưởng
của Tam Giáo (Phật, Khổng, Lăo) vốn phát xuất
từ Trung Hoa và Ấn Độ, đă được
truyền lại mấy chục thế kỷ nay. Nhưng
chúng ta c̣n phải kể thêm nền văn hóa Âu châu và
ảnh hưởng của Kitô giáo trên dân tộc Việt
Nam suốt 5, 6 thế kỷ nay, và gần nhất là
ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-xít trên 50
năm qua. Ngoài ra c̣n có ảnh hưởng của năo
trạng khoa học thực nghiệm và kỹ thuật
cơ giới của con người thời đại
trên toàn thế giới. Tất cả những yếu
tố văn hóa ấy tạo nên nền văn hóa Việt
Nam ngày nay. Chắc chắn nền văn hóa của chúng ta
ngày nay không c̣n là nền văn hóa của dân tộc ta cách
đây 50 năm, và càng không phải nền văn hóa cách
đây 200 năm.
Như
vậy, ngay trong truyền thống văn hóa của cùng
một dân tộc, ta thấy có sự khác biệt về
văn hóa giữa các thời đại. Văn hóa của
thời đại này không giống văn hóa của
thời đại trước hoặc sau đó vài
chục năm. Nhân loại càng tiến bộ th́ sự khác
biệt về văn hóa giữa hai thời đại,
giữa hai thế hệ kế tiếp nhau càng lớn.
Điều đó gợi ư cho chúng ta nghĩ tới một
chiều kích khác của hội nhập văn hóa: hội
nhập văn hóa theo chiều dọc.
NGUYỄN CHÍNH
KẾT