ĐẠO HIẾU HAY THẦN HỌC TAM PHỤ

NGUYỄN CHÍNH KẾT

Thần học Tam phụ

Khi rao giảng Tin Mừng cho người Việt Nam, nhiều nhà truyền giáo nhận xét: Tại Việt Nam, một thuận lợi rất lớn cho công việc truyền giáo, đó là tinh thần đạo hiếu. Thật vậy, nhờ ảnh hưởng của đạo Nho, người Việt Nam đặt rất nặng việc Trung Quân, Hiếu Phụ Mẫu (trung thành với vua, hiếu thảo với cha mẹ) (1). Nơi người Việt Nam, việc hiếu thảo với cha mẹ đă được thể hiện thành một tôn giáo gọi là «Đạo thờ Tổ Tiên» hay nói nôm na là «Đạo Ông Bà» (2). Những người theo đạo này thường tự gọi tôn giáo của ḿnh là «Đạo làm người». Điều đó hàm ư rằng muốn làm «người cho ra người» th́ phải biết «thờ cha kính mẹ», nghĩa là phải có «Đạo Hiếu».

Thật vậy, cho tới ngày nay, so với các nước Âu Tây, và với những quốc gia chung quanh, người Việt Nam vẫn c̣n đặt rất nặng «chữ Hiếu». Điều đó rất phù hợp với tinh thần Kitô giáo từ xưa đến nay, nên Giáo Hội cần phải duy tŕ và củng cố. Đặc biệt trong thời đại này, nền móng gia đ́nh đang bị băng hoại, và Giáo Hội đang cố gắng cứu văn nền móng đó, th́ «Đạo Hiếu» cần phải được các bậc hữu trách trong Giáo Hội đặc biệt bảo vệ và phát triển, v́ một trong những yếu tố củng cố nền móng gia đ́nh một cách hữu hiệu là «Đạo Hiếu».

Cũng do ảnh hưởng đạo Nho, ngoài việc coi trọng «Đạo Hiếu», người Việt Nam cũng biết thờ Trời. Nhưng ngày xưa, nghi lễ thờ Trời chính thức dành cho «Thiên Tử» (Con Trời), tức nhà vua. Việc thờ Trời của người dân chỉ được biểu hiện đơn sơ qua việc cắm nhang, cúng gạo, muối và nước ở «Bàn Thiên» (tức bàn thờ Thiên) dựng trước cửa chính trong sân mỗi nhà. Lễ tế Trời của vua gọi là «Tế Nam Giao». Vua có bổn phận đối với Trời, c̣n dân có bổn phận đối với vua. Bổn phận của người dân đối với vua là một ḷng một dạ trung thành (3), cho dẫu có phải hy sinh đến tính mạng.

Thể theo việc thờ Trời và ḷng «Trung Hiếu» của dân Việt, người công giáo Việt Nam xưa đă đưa ra thần học Tam Phụ, để thống nhất ba chiều kích trên của tinh thần người Việt Nam, đồng thời để giúp người dân ư thức hơn về t́nh yêu của Trời đối với ḿnh và bổn phận đáp lại t́nh yêu thương ấy đối với Trời. Đây là một nỗ lực thích ứng và hội nhập văn hóa của người công giáo Việt Nam. Tam Phụ là Ba Cha:

1. Thượng phụ: là «Cha ở trên», tức Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên vũ trụ vạn vật, là Cha chung của muôn loài vạn vật. Ḷng hiếu thảo mà mọi người phải có đối với Ngài được biểu hiện qua sự tôn thờ.

2. Trung phụ: là «Cha ở giữa», tức là vua của nước, là người «thay Trời trị dân», là «Phụ mẫu chi dân», tức cha chung của mọi người dân trong nước. Ḷng hiếu thảo mà mọi người phải có đối với ngài được biểu hiện qua sự tôn kính.

3. Hạ phụ: là «Cha ở dưới», tức là cha mẹ sinh ra mỗi người. Ḷng hiếu thảo mà mọi người phải có đối với các ngài được biểu hiện qua sự thảo kính.

Thần học Tam Phụ có từ thời Alexandre de Rhodes đến Việt Nam (giữa thế kỷ 17) tức từ thời nhà Lê, và tồn tại đến thời của Nguyễn Trường Tộ và Đặng Đức Tuấn (thế kỷ 19). Về sau, v́ chế độ quân chủ không c̣n nữa, nên Trung Phụ trở nên mất ư nghĩa, do đó thần học Tam Phụ bị mất đi một «Phụ», không c̣n hợp thời nữa. Tuy nhiên, ngày nay, trong tinh thần Giáo Hội học, chúng ta có thể hiểu Trung Phụ là Giáo Hội. Giáo Hội đă được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII gọi là «Mẹ và Thầy», và chúng ta vẫn thường nói «Mẹ Giáo Hội». Vậy Giáo Hội là Mẹ của chúng ta, mà cụ thể là Đức Thánh Cha, các Đức Giám Mục, các linh mục. Đó là cha mẹ ở dưới thế sinh thành và nuôi dưỡng chúng ta về mặt tâm linh. Vậy, Giáo Hội là Trung PhuÏ mà chúng ta có bổn phận phải hiếu thảo.

Đối với những người Kitô hữu yêu nước, th́ song song với Mẹ Giáo Hội, chúng ta cũng có Mẹ Tổ Quốc, hay Mẹ Việt Nam, mà chúng ta vẫn thường nghe nói đến trong các bài ca, bài thơ, hay bài văn. Thật vậy, Tổ Quốc Việt Nam đích thực là người mẹ đầy dịu dàng, yêu thương, và cũng là người mẹ đầy đau khổ nhưng rất can trường và anh dũng, mà chúng ta có bổn phận phải yêu thương và hiếu thảo.

Thay vua bằng Giáo Hội và Tổ Quốc vào chỗ Trung Phụ, như vậy, đúng ra ta có Tứ Phụ chứ không phải Tam Phụ. Nhưng Giáo Hội và Tổ Quốc đều là một tập thể xă hội lớn, có nhiều tính chất chung, nên ta có thể xếp chung làm một là Trung Phụ.

Một trong những điểm quan trọng của thần học Tam Phụ là nó nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa chính là Cha Mẹ đúng nghĩa nhất của ta, và chúng ta phải đối xử với Ngài bằng tâm t́nh hiếu thảo của những người con. Thật vậy, xét cho cùng, Thiên Chúa mới là người sinh ra chúng ta, c̣n cha mẹ ruột thịt là người cộng tác với Ngài trong việc sinh ra chúng ta phần xác, và Giáo Hội là người cộng tác với Ngài trong việc sinh ra chúng ta phần hồn. Và Ngài yêu thương chúng ta c̣n hơn cha mẹ ruột thịt của chúng ta muôn vàn lần, đến nỗi t́nh yêu của cha mẹ ruột chỉ là h́nh ảnh t́nh yêu của Cha trên Trời. Hăy ngẫm nghĩ mà xem, có Thiên Chúa là cha mẹ, nghĩa là được làm con cái Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, c̣n ǵ hạnh phúc bằng?

Hiếu thảo với Cha trên trời và với cha mẹ dưới đất

Chúa Giêsu tóm lại toàn bộ lề luật trong hai điều (4):

· «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết ḷng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi» (Đnl 6,4-5). Đó là bổn phận của con người đối Thiên Chúa, là ḷng hiếu thảo mà con người phải có đối với Cha chung trên trời, tức Thượng Phụ. Trong bản mười giới răn, điều luật này được diễn tả thành ba giới răn đầu, từ thứ nhất đến thứ ba.

· «Ngươi phải yêu người thân cận như chính ḿnh» (Lv 19,18). Đó là bổn phận của con người đối với tha nhân. Trong bản mười giới răn, điều này được diễn tả thành bảy giới răn sau, từ thứ tư đến thứ mười. Người thân cận ở đây là tất cả những người chung quanh ta, những người mà ta gặp trong cuộc đời, bất kể tốt xấu, giàu nghèo, sang hèn, tuy nhiên ưu tiên cho những người thân cận nhất. Mà thân cận nhất của ta là ai nếu không phải là cha mẹ ta? Chính v́ thế, giới răn về việc đối xử với cha mẹ là giới răn đầu tiên trong bảy giới răn sau. Đó là giới răn thứ tư: «Thảo kính cha mẹ». Như thế, liền sau nghĩa vụ đối với Thiên Chúa, là nghĩa vụ đối với cha mẹ. V́ thế, việc hiếu thảo đối với cha mẹ có một chỗ đứng rất quan trọng trong luân lư Kitô giáo.

Trong Tam Phụ, th́ Hạ Phụ hay cha mẹ ruột thịt là «phụ tính» (5) mà chúng ta kinh nghiệm được đầu tiên. Từ đó, ta mới bắt đầu có ư niệm về «phụ tính» của Thượng Phụ và Trung Phụ. V́ thế, khi bàn về thần học Tam Phụ, chúng ta khởi sự từ Hạ Phụ.

A. Đạo Hiếu đối với cha mẹ dưới đất (Hạ Phụ)

Trên đời, người đầu tiên yêu thương chúng ta chính là cha mẹ ta. Trước khi chúng ta sinh ra, thậm chí trước khi chúng ta thụ thai trong ḷng mẹ, cha mẹ đă yêu thương chúng ta rồi. T́nh yêu đó càng ngày càng tăng triển sau khi ta sinh ra và trong khi ta lớn lên. Vừa lọt ḷng mẹ, ta đă được bao bọc ấp ủ ngay trong ṿng tay cha mẹ với một t́nh thương bao la nhất, vô vị lợi nhất. T́nh thương đó đúng là vô điều kiện: thật vậy, cho dẫu ta có bị «đui què mẻ sứt», xấu xí, hư đốn, khó tính khó nết hay khó thương đến đâu, cho dẫu không ai có thể thương ta nổi, th́ cha mẹ vẫn một mực yêu thương ta, thậm chí c̣n có thể dồn t́nh thương cho ta hơn những đứa con khác lành lặn, đẹp đẽ, ngoan ngoăn, dễ thương hơn. Ôi, có t́nh thương nào khác trên đời cao cả như thế?

Cha mẹ không chỉ yêu thương ta bằng t́nh cảm xuông, mà bằng những thể hiện cụ thể. Nào là mang nặng đẻ đau, chăm sóc dưỡng nuôi, giáo dục ta nên người. Nào là lo lắng cho chúng ta từng chút, thậm chí lo cho ta hơn cho chính bản thân các ngài, nhất là khi ta c̣n nhỏ. Không thể nào kể hết được công ơn cha mẹ. Văn chương b́nh dân chỉ biết so sánh đơn giản:

«Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
»

«Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẹ hiền
».

Chúng ta được như ngày nay, về thể chất cũng như tinh thần, về tài năng cũng như về đức hạnh, đều là do công ơn của cha mẹ, sẵn sàng chấp nhận đau khổ thiệt tḥi, chịu cực chịu khổ v́ ta.

T́nh thương và công ơn cha mẹ bao la như thế, sự công bằng đ̣i buộc ta phải đáp trả lại: t́nh thương phải được đáp trả bằng t́nh thương.

Trên trần gian này, không ai yêu ta và có công lao với ta hơn cha mẹ, nên ta có bổn phận với cha mẹ ḿnh trước hết. Trong Phật giáo, Đức Phật cũng dạy: «Hiếu vi vạn hạnh chi tiên» (làm người phải lấy chữ hiếu làm đầu). Sách Phật có câu: «Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế» (cha mẹ ở nhà như Phật tại trần). V́ thế, các Phật tử cho rằng không thể thờ Phật mà lại bất hiếu với cha mẹ. Họ quan niệm: cha mẹ chính là hai vị Phật sống ở ngay bên họ, không phải t́m Phật ở đâu xa:

«Có hai Phật sống trong nhà
Sớm hôm lễ niệm đâu cần đi xa
».

Theo Kinh Thánh, hai điều luật căn bản nhất của đạo là «mến Chúa, yêu người» (x. Mc 12,28-39). Nhưng điều luật trước lại được thể hiện bằng điều luật sau, đến nỗi thánh Phaolô tóm lại chỉ c̣n một luật thôi: «Tất cả lề luật được tóm gọn trong một điều này: Hăy yêu người lân cận như chính ḿnh» (Gl 5,14). Ai thực hiện được như thế chính là giữ trọn vẹn toàn bộ lề luật (x. Gl 6,2; Rm 13,8.10; Cl 3,14). Mà người thân cận nhất mà ta phải yêu thương chính là cha mẹ ta. Vả lại «luật vàng» của Chúa là: «Hăy làm cho tha nhân tất cả những ǵ ḿnh muốn họ làm cho ḿnh» (Mt 7,12). Vậy th́ ta muốn cho con cái ḿnh đối xử với ḿnh thế nào, hăy đối xử với cha mẹ ḿnh như vậy. Có bao giờ ta muốn cho con cái ḿnh bất hiếu với ḿnh không?

Việc đền đáp t́nh thương và công ơn cha mẹ dù có làm nhiều đến đâu đi nữa, cũng không nên lấy làm đủ. Đức Phật dạy các đệ tử: «Trên đời này có hai người mà ta không thể trả hết ơn được là cha và mẹ ta. Dù có cơng cha mẹ trên vai suốt cả trăm năm cuộc đời, hay có tán xương lóc thịt để làm thức ăn cho cha mẹ cả trăm ngàn kiếp, cũng chưa đáp đền được công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, v́ công ơn cha mẹ to lớn lắm» (Kinh Vu Lan).

B. Đạo Hiếu đối với Cha trên trời (Thượng Phụ)

Ḷng hiếu thảo đối với cha mẹ phải lớn lao như thế. Nhưng theo người Kitô hữu, ḷng hiếu thảo của chúng ta đối với Cha trên Trời c̣n phải lớn lao hơn. V́ ngay cả cha mẹ ta cũng là do Thiên Chúa ban cho ta. Cha mẹ sinh ra ta, nuôi nấng dạy dỗ ta, công lao có to tát tới đâu th́ cũng là do Thiên Chúa đặt định cho ta cả. Chính Thiên Chúa cho cha mẹ ta sinh ra ta, yêu thương và hy sinh cho ta. V́ thế, Ngài yêu thương ta hơn cả cha mẹ ta, v́ chính Ngài là nguồn yêu thương, Ngài chính là T́nh Thương, và T́nh Thương chính là Ngài (x.1 Ga 4,7-8). Do đó, cha mẹ yêu thương ta bằng chính t́nh thương của Ngài. Ngài đă thể hiện t́nh thương của Ngài đối với ta qua việc chết v́ ta: «Không có t́nh thương nào cao cả hơn t́nh thương của người đă hy sinh tính mạng v́ bạn hữu của ḿnh» (Ga 15,13). Bởi thế, người Kitô hữu đặt t́nh thương đối với Thiên Chúa lên trên hết, trên cả t́nh thương đối với cha mẹ. Theo họ, bổn phận đầu tiên của con người là phải «yêu mến Thiên Chúa hết ḷng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ḿnh» (Đnl 6,5; Mt 22,37). Cha mẹ trần gian dẫu sao cũng chỉ là «thừa tác viên» của Thiên Chúa trong việc sinh ra ta, nuôi dưỡng giáo dục ta. V́ thế, luân lư Kitô giáo có mười giới răn, th́ ưu tiên dành ba giới răn đầu cho ḷng hiếu thảo đối với Thiên Chúa, chỉ dành một giới răn, nhưng là giới răn kế tiếp cho ḷng hiếu thảo đối với cha mẹ trần gian, và cuối cùng là sáu giới răn cho t́nh yêu thương đối với mọi người. Ḷng hiếu thảo đối với cha mẹ tuy đứng đầu các giới răn nói về t́nh yêu thương giữa con người với nhau, nhưng vẫn phải đặt sau ḷng hiếu thảo đối với Thiên Chúa. Nghĩa là phải «đại hiếu» đối với Thượng Phụ.

Thật vậy, đối với người Kitô hữu, t́nh thương cha mẹ mới chỉ là t́nh thương lớn nhất, bao la nhất theo chiều kích ngang giữa người với người mà thôi. T́nh thương đó dù bao la rộng răi tới đâu, cũng chỉ là một h́nh ảnh, một biểu trưng cụ thể nhất giúp ta hiểu được phần nào t́nh thương yêu của Thiên Chúa đối với con người, tức t́nh yêu bao la theo chiều kích dọc. T́nh yêu của cha mẹ đối với ta dù có bao la sâu đậm tới đâu th́ cũng có giới hạn, C̣n t́nh thương của Thiên Chúa th́ vô giới hạn: Ngài yêu thương chúng ta vô cùng. Chính Kinh Thánh đă dùng t́nh thương cha mẹ để giúp ta hiểu được t́nh thương vô hạn của Thiên Chúa: «Người mẹ làm sao quên được đứa con trai ruột của ḿnh? Nhưng dẫu người mẹ có quên con ḿnh đi nữa, th́ Ta cũng không thể quên ngươi! » (Is 49,14). Và cũng tương tự như t́nh yêu của cha mẹ: «Không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa trước, mà chính Ngài đă yêu thương chúng ta trước» (1 Ga 4,10). T́nh yêu Thiên Chúa là thứ t́nh yêu trường cửu, không bao giờ phai tàn.

Công ơn cha mẹ cũng chỉ là h́nh ảnh giúp ta hiểu được công ơn bao la của Thiên Chúa, là «nguồn mọi t́nh phụ tử trên trời dưới đất» (Lễ qui Rôma). V́ yêu thương và v́ hạnh phúc con người, Ngài đă tạo dựng cả vũ trụ bao la này để con người làm chủ, để vũ trụ phục vụ ta. Ngài dựng nên chúng ta để chúng ta hạnh phúc. Nhưng trong quá khứ, chúng ta đă dùng chính tự do và khả năng Ngài ban để chống lại Ngài, khiến chúng ta bị cái hạnh phúc nguyên thủy vô cùng quí giá ấy. Nhưng cho dẫu chúng ta phản bội Ngài như thế, Ngài vẫn không hề từ bỏ chúng ta, mà vẫn tiếp tục yêu thương chúng ta, thậm chí có thể yêu thương hơn cả trước khi chúng ta phản bội. Chính v́ thế, Ngài đă phải lập ra cả một chương tŕnh cứu độ vĩ đại để chuộc lại mạng sống và hạnh phúc của ta. Ngài đă nhập thể làm người, mang lấy thân phận yếu đuối và đau khổ y như chúng ta, chịu chết nhục nhă và thê thảm v́ ta. «… Ngài đă yêu thương những kẻ thuộc về Ngài đến cùng» (Ga 13,1).

C. Tương quan giữa hai thứ hiếu thảo trên

Luật Chúa buộc ta vừa phải hiếu thảo với Cha trên trời, vừa hiếu thảo với cha mẹ dưới đất. B́nh thường hai thứ hiếu thảo này phù hợp nhau, khuyến khích lẫn nhau, thứ này đ̣i buộc phải có thứ kia. Nhưng cũng có nhiều trường hợp hai thứ hiếu thảo đó có vẻ xung khắc với nhau, ngăn trở lẫn nhau.

Thật vậy, hễ ta yêu Thiên Chúa, th́ Thiên Chúa đ̣i buộc ta phải thảo hiếu với cha mẹ ta. V́ Chúa Giêsu nói: «Ai yêu mến Thầy th́ sẽ giữ lời Thầy» (Ga 14,23), mà «đây là giới răn của Thầy: anh em hăy yêu thương nhau như Thầy đă yêu thương anh em» (Ga 15,12). Nếu yêu thương nhau chính là dấu hiệu quan trọng nhất chứng tỏ ḿnh là môn đệ Chúa, là Kitô hữu (x. Ga 13,35) (6), mà cha mẹ là đối tượng yêu thương ưu tiên và tất yếu, nên ai không yêu thương và thảo kính cha mẹ, th́ đó là dấu hiệu chứng tỏ ḿnh chưa phải là Kitô hữu đích thực, mà chỉ là thứ Kitô hữu «hữu danh vô thực» mà thánh Phaolô ám chỉ trong Rm 2,28-29 (7).

Vả lại, theo tư tưởng thánh Gioan th́ cha mẹ hữu h́nh ở gần ta, yêu thương ta, và có công lao cụ thể với ta bằng trời biển như thế, mà ta không thương yêu, th́ làm sao ta có thể yêu Thiên Chúa mà ta không thấy được? V́ thế, ai nói rằng ḿnh yêu Thiên Chúa mà lại không yêu chính cha mẹ ḿnh th́ hiển nhiên là nói dối (x.1 Ga 4,20) (8). Thật vậy, có thật sự yêu cha mẹ ḿnh th́ mới có khả năng yêu mến Thiên Chúa. T́nh yêu của ta đối với Thiên Chúa bắt nguồn từ kinh nghiệm t́nh thương đối với cha mẹ. Tâm t́nh biết ơn và thảo hiếu đối với cha mẹ dưới đất thể hiện ḷng biết ơn và thảo hiếu đối với Cha trên Trời, và cũng là căn bản cho mọi thứ t́nh yêu khác: cha mẹ ḿnh mà ḿnh không yêu thương, th́ làm sao có thể yêu thương những người xa hơn, khó thương hơn, như bạn bè, hàng xóm, quê hương, dân tộc được?

T́nh yêu cha mẹ dẫn chúng ta tới t́nh yêu Thiên Chúa. Nếu cha mẹ là người Kitô hữu, th́ niềm mong ước lớn nhất của họ đối với con cái là mong cho con yêu mến Thiên Chúa và trọn đời sống đẹp ḷng Ngài. Và đối với Kitô hữu, cách thảo hiếu trọn vẹn nhất đối với cha mẹ chính là thật sự yêu mến Thiên Chúa và giữ giới luật Ngài. V́ ai thực ḷng yêu mến Thiên Chúa th́ cũng thành tâm thảo kính cha mẹ, và làm cho cha mẹ được Thiên Chúa chúc phúc.

Nhưng có những lúc hai thứ hiếu thảo trên (với Thượng Phụ và Hạ Phụ) có vẻ như xung đột lẫn nhau. Thánh Kinh có đưa ra một vài trường hợp cụ thể như trong Lc 10,59-60: Một thanh niên được Chúa kêu gọi theo Ngài, nhưng anh ta xin Ngài cho ḿnh về chôn cất cha ḿnh đă. Chúa nói: «Hăy để kẻ chết chôn kẻ chết, c̣n anh, anh hăy theo tôi đi loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa». Chỗ khác Chúa nói: «Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống ḿnh nữa, th́ không thể làm môn đệ tôi được» (Lc 14,26). Hoặc «Ai yêu cha mẹ hơn tôi th́ không xứng đáng với tôi» (Mt 10,37). Chưa rơ vấn đề, ta thấy đ̣i hỏi của Chúa hơi khó hiểu. Thực ra, đối với những người được kêu gọi để làm việc cho Thiên Chúa, để rao giảng Nước Trời - là một việc rất lớn mưu ích cho rất nhiều người, đ̣i hỏi phải dốc hết tâm lực vào đó mới thành công - th́ đ̣i hỏi như thế thật là hợp lư. Cũng như người lo việc quốc gia, nhiều khi phải hy sinh quyền lợi của ḿnh, của gia đ́nh, của cha mẹ cho quyền lợi quốc gia.

Vả lại, giữa Thiên Chúa và cha mẹ, th́ đối với người Kitô hữu, Thiên Chúa phải được yêu thương và hiểu thảo một cách ưu tiên. Thiên Chúa là Chúa Tể vũ trụ, có quyền trên tất cả sự sống, Ngài yêu thương ta hơn bất kỳ tạo vật nào, nên Ngài xứng đáng được ưu tiên như thế. Theo Ngài, phụng sự Ngài, thuộc về Ngài là giá trị cao cả nhất đối với ta. Không ai trên đời có quyền lôi kéo ta ra khỏi Thiên Chúa, có quyền làm thiệt hại linh hồn ta, v́ «người ta có thể lấy ǵ chuộc lại linh hồn ḿnh được? » (Mt 16,26). Giữa hai việc quan trọng hay hai vật quí giá mà ta phải chọn một, th́ sự hợp lư buộc ta phải chọn cái quan trọng hơn, quí giá hơn. Nếu người ta không thể lấy cớ truyền thống hay luật lệ xă hội để vi phạm giới răn của Chúa, cụ thể là giới răn thảo kính cha mẹ, để thoái thác bổn phận làm con (x. Mt 15,1-9), th́ ta lại càng không thể vin vào bất cứ lư do ǵ để thoái thác đạo làm con đối với Cha trên trời, để rồi bất hiếu với Ngài.

Hiếu thảo với Trung Phụ

Trong thần học Tam Phụ, Trung Phụ là vua trong nước. Ngày nay, không c̣n vua nữa, nhưng trong Giáo Hội, ngoài Thiên Chúa là Thượng Phụ và cha mẹ là Hạ Phụ, chúng ta c̣n có cha mẹ khác là người sinh thành và nuôi dưỡng ta về mặt tâm linh. Đó là Giáo Hội, là Trung Phụ.

Thật vậy, nếu Thiên Chúa là Cha sinh ra chúng ta, và cha mẹ ta là thừa tác viên của Ngài trong việc sinh ra phần xác, th́ Giáo Hội chính là thừa tác viên của Thiên Chúa trong việc sinh lại chúng ta làm con cái Thiên Chúa, tức sinh ra phần hồn. Dưới một cách nh́n khác, nếu Giáo Hội là Hiền Thê của Chúa Kitô (x. Ep 5,22tt), th́ Giáo Hội chính là Mẹ của chúng ta trong việc sinh lại chúng ta thành con cái Thiên Chúa. Trong thông điệp «Mẹ và Thầy» (Mater et Magistra), Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đă xác định chức năng làm Mẹ và làm Thầy của Giáo Hội, nghĩa là xác định Giáo Hội đă sinh hạ ta trong Đức Kitô và nuôi dạy ta lớn lên trong đức tin, gieo cấy vào bản thân ta «mầm sống vĩnh cửu». Giáo Hội có đầy đủ chức năng «sinh, thành, dưỡng, dục» của một người mẹ đối với ta:

· Sinh: Giáo Hội đă làm cho ta trở nên con cái Thiên Chúa, tức sinh lại chúng ta bằng nước và Thánh Thần trong Chúa Kitô (x. Ga 3,5; 1 Cr 4,15).

· Thành: Giáo Hội đă làm đúng chức năng như thánh Phaolô: «V́ anh em mà tôi phải chịu đau đớn như người mẹ chuyển bụng sinh con, cho đến khi Đức Kitô được thành h́nh trong tâm hồn anh em» (Cl 4,19).

· Dưỡng: Giáo Hội đă nuôi dưỡng ta bằng cách «mời gọi ta chấp nhận đức tin, làm ta vững mạnh trong đức tin sống động» (CĐ Vatican II, GH 12), và bằng «nhưng bí tích được lập ra để nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu» (PV 59).

· Dục: Giáo Hội tiếp nối công tŕnh của Chúa Kitô trong việc giáo hóa, dạy dỗ con cái Chúa, dẫn đưa họ tới ơn cứu độ.

Với những chức năng đó, Giáo Hội đúng là bậc Cha Mẹ đă sinh thành ra chúng ta. Chúng ta phải biểu lộ ḷng hiếu thảo của ḿnh đối với Giáo Hội bằng ḷng yêu mến, kính trọng, vâng phục, cảm thông, trung thành, sự phục vụ và xây dựng Giáo Hội. Giáo Hội tuy là mẹ, tuy thánh thiện v́ là nhiệm thể của Chúa Kitô, nhưng Giáo Hội vẫn là con người, bao gồm cả người thánh thiện lẫn tội lỗi, cả người sáng suốt lẫn ngu muội. Chính v́ thế, có những lúc những người chính thức đại diện cho Giáo Hội (9) có những hành động không tốt hay quyết định sai lầm, th́ chúng ta vẫn nên tỏ ra một thái độ thông cảm, t́m cách tế nhị để sửa sai với tất cả ḷng yêu thương và kính trọng của ḿnh. Tuyệt đối không nói xấu, chỉ trích… Một người mẹ dù đôi khi có sai trái, lầm lỗi hay tỏ ra hà khắc, th́ cũng vẫn là người đă sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục và luôn luôn yêu thương con cái. Người con hiếu thảo không thể v́ thế mà bất măn, hay tỏ ra bớt kính trọng và yêu thương đối với mẹ ḿnh, nhất là không bao giờ nói xấu hay từ bỏ mẹ ḿnh. Gương của Teilhard de Chardin, matteo Ricci, Roberto de Nobili, Karl Rahner, Yves Congar… lúc nào cũng đáng cho hậu thế bắt chước: cho dù bị Mẹ Giáo Hội chưa hiểu hay hiểu lầm ḿnh, và thậm chí ngược đăi ḿnh, các ông vẫn một mực yêu mến và trung thành với Mẹ Giáo Hội, kiên nhẫn chờ một ngày nào đó, Mẹ sẽ hiểu ḿnh hơn. Đó chính là những người con thật sự hiếu thảo của Giáo Hội.

 Song song với ḷng hiếu thảo và biết ơn đối với Giáo Hội, chúng ta cũng phải nhớ tới t́nh thương và công ơn của Tổ Quốc, Đất Nước, cũng là Mẹ thiêng liêng của chúng ta. Tổ Quốc là người mẹ đă sinh ra chúng ta thành người Việt Nam, đă nuôi dưỡng và bảo vệ chúng ta, đă tạo cho chúng ta những điều kiện dễ dàng để sống ấm no, yên vui, hạnh phúc một cách tổng thể (như chống ngoại xâm, bảo vệ an ninh đời sống, phát triển kinh tế, giáo dục, làm đường xá…) vượt khỏi khả năng hạn hẹp của cha mẹ ruột thịt chúng ta. Ḷng hiếu thảo chúng ta phải có đối với Mẹ Việt Nam là phải trở nên những công dân tốt, tài năng, có phẩm cách đạo đức, yêu quê hương, yêu đồng bào, tôn trọng luật pháp, và sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ và xây dựng đất nước…

V

TAM PHỤ là ba h́nh thức khác nhau của cùng một «phụ tính» hay «mẫu tính» duy nhất của Thiên Chúa: Thiên Chúa chính là «nguồn mọi t́nh phụ tử trên trời dưới đất». Phụ tính và mẫu tính của cha mẹ chúng ta, của Giáo Hội hay Tổ Quốc ta, đều xuất phát từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đă nhờ t́nh phụ tử, mẫu tử của Giáo Hội, của Tổ Quốc, của cha mẹ chúng ta để sinh, thành, dưỡng, dục chúng ta, để chúng ta tồn tại một cách tốt đẹp và hạnh phúc cho đến ngày giờ Ngài qui tụ tất cả chúng ta trong Nước Trời. Những t́nh phụ tử hay mẫu tử đó là h́nh ảnh đơn sơ nhưng đa dạng của t́nh phụ tử và mẫu tử của Thiên Chúa.

V́ thế, khi chúng ta hiếu thảo với Giáo Hội, Tổ Quốc, với cha mẹ chúng ta, là chúng ta hiếu thảo với Thiên Chúa. Câu Kinh Thánh sau đây đúng với Giáo Hội, Tổ Quốc và cha mẹ chúng ta hơn với bất cứ một ai khác trên đời: «Mỗi lần các con làm điều ǵ cho những người bé nhỏ nhất đây, là các con làm cho chính Cha… và mỗi lần các con không làm điều ǵ cho những người bé nhỏ nhất đây, là các con không làm cho chính Cha» (Mt 25,40.45).

Phần chú thích

 (1) Trong ca dao Việt Nam có câu:

 «Trai thời TRUNG HIẾU làm đầu,

Gái thời tiết hạnh làm câu sửa ḿnh»

 (2) Trên bàn thờ của họ luôn luôn có chữ «Cửu Huyền Thất Tổ».

 (3) Người Việt có câu: «Tôi trung không thờ hai chúa».

 (4) Xem Mc 12,28-34; Mt 22,34-40; Lc 10,25-28.

 (5) «Phụ tính»: tính chất của cha mẹ.

 (6) Ga 13,35: «Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau».

 (7) Rm 2,28-29: «Người Do Thái chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, phép cắt b́ chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên ngoài nơi thân xác. Nhưng người Do Thái chính hiệu là người Do Thái tận đáy ḷng, phép cắt b́ chính hiệu là phép cắt b́ trong tâm hồn, theo tinh thần của lề luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật».

 (8) 1 Ga 4,20: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em ḿnh, người ấy là kẻ nói dối; v́ ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, th́ không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy».

 (9) Chẳng hạn như Giáo Hoàng, Giám mục, linh mục hay tu sĩ, cụ thể là những người có trách nhiệm trực tiếp coi sóc phần tâm linh của ḿnh.


Mục Lục