ĐẠO HIẾU HAY THẦN
HỌC TAM PHỤ
NGUYỄN CHÍNH
KẾT
Thần học Tam phụ
Khi rao
giảng Tin Mừng cho người Việt Nam, nhiều nhà
truyền giáo nhận xét: Tại
Việt Nam, một thuận lợi rất lớn cho công
việc truyền giáo, đó là tinh thần đạo
hiếu. Thật vậy, nhờ ảnh hưởng
của đạo Nho, người Việt Nam đặt
rất nặng việc Trung
Quân, Hiếu Phụ Mẫu (trung thành với vua, hiếu
thảo với cha mẹ) (1). Nơi
người Việt Nam, việc hiếu thảo với cha
mẹ đă được thể hiện thành một tôn
giáo gọi là «Đạo
thờ Tổ Tiên» hay nói nôm na là «Đạo Ông Bà» (2). Những
người theo đạo này thường tự gọi
tôn giáo của ḿnh là «Đạo
làm người». Điều đó hàm ư rằng muốn
làm «người cho ra
người» th́ phải biết «thờ cha kính mẹ», nghĩa là phải có «Đạo Hiếu».
Thật
vậy, cho tới ngày nay, so với các nước Âu Tây, và
với những quốc gia chung quanh, người Việt
Nam vẫn c̣n đặt rất nặng «chữ Hiếu». Điều đó rất phù
hợp với tinh thần Kitô giáo từ xưa đến
nay, nên Giáo Hội cần phải duy tŕ và củng cố.
Đặc biệt trong thời đại này, nền móng
gia đ́nh đang bị băng hoại, và Giáo Hội
đang cố gắng cứu văn nền móng đó, th́ «Đạo Hiếu» cần
phải được các bậc hữu trách trong Giáo
Hội đặc biệt bảo vệ và phát triển, v́
một trong những yếu tố củng cố nền
móng gia đ́nh một cách hữu hiệu là «Đạo Hiếu».
Cũng
do ảnh hưởng đạo Nho, ngoài việc coi
trọng «Đạo Hiếu»,
người Việt Nam cũng biết thờ Trời.
Nhưng ngày xưa, nghi lễ thờ Trời chính thức
dành cho «Thiên Tử» (Con
Trời), tức nhà vua. Việc thờ Trời của
người dân chỉ được biểu hiện
đơn sơ qua việc cắm nhang, cúng gạo,
muối và nước ở «Bàn
Thiên» (tức bàn thờ Thiên) dựng trước
cửa chính trong sân mỗi nhà. Lễ tế Trời của
vua gọi là «Tế Nam Giao».
Vua có bổn phận đối với Trời, c̣n dân có
bổn phận đối với vua. Bổn phận
của người dân đối với vua là một ḷng
một dạ trung thành (3), cho dẫu có
phải hy sinh đến tính mạng.
Thể
theo việc thờ Trời và ḷng «Trung Hiếu» của dân Việt, người công
giáo Việt Nam xưa đă đưa ra thần học Tam
Phụ, để thống nhất ba chiều kích
trên của tinh thần người Việt Nam, đồng
thời để giúp người dân ư thức hơn
về t́nh yêu của Trời đối với ḿnh và
bổn phận đáp lại t́nh yêu thương ấy
đối với Trời. Đây là một nỗ lực
thích ứng và hội nhập văn hóa của người
công giáo Việt Nam. Tam Phụ là Ba Cha:
1. Thượng phụ: là «Cha ở trên», tức Thiên Chúa,
Đấng tạo dựng nên vũ trụ vạn vật,
là Cha chung của muôn loài vạn vật. Ḷng hiếu
thảo mà mọi người phải có đối với
Ngài được biểu hiện qua sự tôn
thờ.
2. Trung phụ: là «Cha ở giữa», tức là
vua của nước, là người «thay Trời trị dân», là «Phụ mẫu chi dân», tức cha chung của
mọi người dân trong nước. Ḷng hiếu
thảo mà mọi người phải có đối với
ngài được biểu hiện qua sự tôn
kính.
3. Hạ phụ: là «Cha ở dưới», tức
là cha mẹ sinh ra mỗi người. Ḷng hiếu thảo
mà mọi người phải có đối với các ngài
được biểu hiện qua sự thảo kính.
Thần học Tam Phụ có
từ thời Alexandre de Rhodes đến Việt Nam
(giữa thế kỷ 17) tức từ thời nhà Lê, và
tồn tại đến thời của Nguyễn
Trường Tộ và Đặng Đức Tuấn
(thế kỷ 19). Về sau, v́ chế độ quân
chủ không c̣n nữa, nên Trung Phụ trở nên mất ư
nghĩa, do đó thần học Tam Phụ bị mất
đi một «Phụ», không
c̣n hợp thời nữa. Tuy nhiên, ngày nay, trong tinh thần
Giáo Hội học, chúng ta có thể hiểu Trung Phụ là
Giáo Hội. Giáo Hội đă được Đức Giáo
Hoàng Gioan XXIII gọi là «Mẹ
và Thầy», và chúng ta vẫn thường nói «Mẹ Giáo Hội». Vậy Giáo
Hội là Mẹ của chúng ta, mà cụ thể là
Đức Thánh Cha, các Đức Giám Mục, các linh
mục. Đó là cha mẹ ở dưới thế sinh thành
và nuôi dưỡng chúng ta về mặt tâm linh. Vậy, Giáo
Hội là Trung PhuÏ mà chúng ta có bổn phận phải
hiếu thảo.
Đối
với những người Kitô hữu yêu nước, th́
song song với Mẹ Giáo Hội, chúng ta cũng có Mẹ
Tổ Quốc, hay Mẹ Việt Nam, mà chúng ta vẫn
thường nghe nói đến trong các bài ca, bài thơ, hay
bài văn. Thật vậy, Tổ Quốc Việt Nam
đích thực là người mẹ đầy dịu
dàng, yêu thương, và cũng là người mẹ
đầy đau khổ nhưng rất can trường và
anh dũng, mà chúng ta có bổn phận phải yêu
thương và hiếu thảo.
Thay vua
bằng Giáo Hội và Tổ Quốc vào chỗ Trung
Phụ, như vậy, đúng ra ta có Tứ Phụ chứ
không phải Tam Phụ. Nhưng Giáo Hội và Tổ Quốc
đều là một tập thể xă hội lớn, có
nhiều tính chất chung, nên ta có thể xếp chung làm
một là Trung Phụ.
Một
trong những điểm quan trọng của thần
học Tam Phụ là nó nhắc nhở chúng ta rằng Thiên
Chúa chính là Cha Mẹ đúng nghĩa nhất của ta, và
chúng ta phải đối xử với Ngài bằng tâm t́nh
hiếu thảo của những người con. Thật
vậy, xét cho cùng, Thiên Chúa mới là người sinh ra chúng
ta, c̣n cha mẹ ruột thịt là người cộng tác
với Ngài trong việc sinh ra chúng ta phần xác, và Giáo
Hội là người cộng tác với Ngài trong việc
sinh ra chúng ta phần hồn. Và Ngài yêu thương chúng ta
c̣n hơn cha mẹ ruột thịt của chúng ta muôn vàn
lần, đến nỗi t́nh yêu của cha mẹ ruột
chỉ là h́nh ảnh t́nh yêu của Cha trên Trời. Hăy
ngẫm nghĩ mà xem, có Thiên Chúa là cha mẹ, nghĩa là
được làm con cái Thiên Chúa, được Thiên Chúa
yêu thương, c̣n ǵ hạnh phúc bằng?
Hiếu thảo với Cha trên trời và
với cha mẹ dưới đất
Chúa
Giêsu tóm lại toàn bộ lề luật trong hai điều
(4):
· «Ngươi phải
yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
hết ḷng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi»
(Đnl 6,4-5). Đó là bổn phận của con
người đối Thiên Chúa, là ḷng hiếu thảo mà
con người phải có đối với Cha chung trên
trời, tức Thượng Phụ. Trong
bản mười giới răn, điều luật này
được diễn tả thành ba giới răn
đầu, từ thứ nhất đến thứ ba.
· «Ngươi phải
yêu người thân cận như chính ḿnh» (Lv 19,18).
Đó là bổn phận của con người đối
với tha nhân. Trong bản mười giới răn,
điều này được diễn tả thành bảy
giới răn sau, từ thứ tư đến thứ
mười. Người thân cận ở đây là tất
cả những người chung quanh ta, những
người mà ta gặp trong cuộc đời, bất
kể tốt xấu, giàu nghèo, sang hèn, tuy nhiên ưu tiên cho
những người thân cận nhất. Mà thân cận
nhất của ta là ai nếu không phải là cha mẹ ta?
Chính v́ thế, giới răn về việc đối
xử với cha mẹ là giới răn đầu tiên
trong bảy giới răn sau. Đó là giới răn
thứ tư: «Thảo kính cha
mẹ». Như thế, liền sau nghĩa vụ
đối với Thiên Chúa, là nghĩa vụ đối
với cha mẹ. V́ thế, việc hiếu thảo
đối với cha mẹ có một chỗ đứng
rất quan trọng trong luân lư Kitô giáo.
Trong Tam
Phụ, th́ Hạ Phụ hay cha mẹ ruột
thịt là «phụ tính» (5)
mà chúng ta kinh nghiệm được đầu tiên.
Từ đó, ta mới bắt đầu có ư niệm
về «phụ tính» của
Thượng Phụ và Trung Phụ. V́ thế, khi bàn về
thần học Tam Phụ, chúng ta khởi sự từ
Hạ Phụ.
A. Đạo Hiếu đối với cha
mẹ dưới đất (Hạ Phụ)
Trên
đời, người đầu tiên yêu thương chúng
ta chính là cha mẹ ta. Trước khi chúng ta sinh ra, thậm
chí trước khi chúng ta thụ thai trong ḷng mẹ, cha
mẹ đă yêu thương chúng ta rồi. T́nh yêu đó càng
ngày càng tăng triển sau khi ta sinh ra và trong khi ta lớn
lên. Vừa lọt ḷng mẹ, ta đă được bao
bọc ấp ủ ngay trong ṿng tay cha mẹ với một
t́nh thương bao la nhất, vô vị lợi nhất. T́nh
thương đó đúng là vô điều kiện: thật
vậy, cho dẫu ta có bị «đui
què mẻ sứt», xấu xí, hư đốn, khó tính khó
nết hay khó thương đến đâu, cho dẫu không
ai có thể thương ta nổi, th́ cha mẹ vẫn
một mực yêu thương ta, thậm chí c̣n có thể
dồn t́nh thương cho ta hơn những đứa con
khác lành lặn, đẹp đẽ, ngoan ngoăn, dễ
thương hơn. Ôi, có t́nh thương nào khác trên
đời cao cả như thế?
Cha
mẹ không chỉ yêu thương ta bằng t́nh cảm
xuông, mà bằng những thể hiện cụ thể. Nào
là mang nặng đẻ đau, chăm sóc dưỡng nuôi,
giáo dục ta nên người. Nào là lo lắng cho chúng ta
từng chút, thậm chí lo cho ta hơn cho chính bản thân các
ngài, nhất là khi ta c̣n nhỏ. Không thể nào kể
hết được công ơn cha mẹ. Văn
chương b́nh dân chỉ biết so sánh đơn
giản:
«Công cha như
núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra»
«Lên non mới
biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẹ hiền».
Chúng ta
được như ngày nay, về thể chất cũng
như tinh thần, về tài năng cũng như về
đức hạnh, đều là do công ơn của cha
mẹ, sẵn sàng chấp nhận đau khổ thiệt
tḥi, chịu cực chịu khổ v́ ta.
T́nh
thương và công ơn cha mẹ bao la như thế,
sự công bằng đ̣i buộc ta phải đáp trả
lại: t́nh thương phải được đáp
trả bằng t́nh thương.
Trên
trần gian này, không ai yêu ta và có công lao với ta hơn cha
mẹ, nên ta có bổn phận với cha mẹ ḿnh
trước hết. Trong Phật giáo, Đức Phật
cũng dạy: «Hiếu vi
vạn hạnh chi tiên» (làm người phải lấy
chữ hiếu làm đầu). Sách Phật có câu: «Phụ mẫu tại
đường như Phật tại thế» (cha
mẹ ở nhà như Phật tại trần). V́ thế,
các Phật tử cho rằng không thể thờ Phật mà
lại bất hiếu với cha mẹ. Họ quan
niệm: cha mẹ chính là hai vị Phật sống ở
ngay bên họ, không phải t́m Phật ở đâu xa:
«Có hai Phật
sống trong nhà
Sớm hôm lễ niệm đâu cần đi xa».
Theo Kinh
Thánh, hai điều luật căn bản nhất của
đạo là «mến Chúa, yêu
người» (x. Mc 12,28-39). Nhưng điều luật
trước lại được thể hiện bằng
điều luật sau, đến nỗi thánh Phaolô tóm
lại chỉ c̣n một luật thôi: «Tất cả lề luật được tóm
gọn trong một điều này: Hăy yêu người lân
cận như chính ḿnh» (Gl 5,14). Ai thực hiện
được như thế chính là giữ trọn vẹn
toàn bộ lề luật (x. Gl 6,2; Rm 13,8.10; Cl 3,14). Mà
người thân cận nhất mà ta phải yêu thương
chính là cha mẹ ta. Vả lại «luật vàng» của Chúa là: «Hăy làm cho tha nhân tất cả những ǵ ḿnh muốn
họ làm cho ḿnh» (Mt 7,12). Vậy th́ ta muốn cho con cái
ḿnh đối xử với ḿnh thế nào, hăy đối
xử với cha mẹ ḿnh như vậy. Có bao giờ ta
muốn cho con cái ḿnh bất hiếu với ḿnh không?
Việc
đền đáp t́nh thương và công ơn cha mẹ dù
có làm nhiều đến đâu đi nữa, cũng không
nên lấy làm đủ. Đức Phật dạy các
đệ tử: «Trên đời này có hai người mà ta
không thể trả hết ơn được là cha và
mẹ ta. Dù có cơng cha mẹ trên vai suốt cả trăm
năm cuộc đời, hay có tán xương lóc thịt
để làm thức ăn cho cha mẹ cả trăm ngàn
kiếp, cũng chưa đáp đền được
công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, v́
công ơn cha mẹ to lớn lắm» (Kinh Vu Lan).
B. Đạo Hiếu đối với Cha
trên trời (Thượng Phụ)
Ḷng hiếu
thảo đối với cha mẹ phải lớn lao
như thế. Nhưng theo người Kitô hữu, ḷng
hiếu thảo của chúng ta đối với Cha trên
Trời c̣n phải lớn lao hơn. V́ ngay cả cha mẹ
ta cũng là do Thiên Chúa ban cho ta. Cha mẹ sinh ra ta, nuôi
nấng dạy dỗ ta, công lao có to tát tới đâu th́
cũng là do Thiên Chúa đặt định cho ta cả.
Chính Thiên Chúa cho cha mẹ ta sinh ra ta, yêu thương và hy
sinh cho ta. V́ thế, Ngài yêu thương ta hơn cả cha mẹ
ta, v́ chính Ngài là nguồn yêu thương, Ngài chính là T́nh
Thương, và T́nh Thương chính là Ngài (x.1 Ga 4,7-8). Do
đó, cha mẹ yêu thương ta bằng chính t́nh
thương của Ngài. Ngài đă thể hiện t́nh
thương của Ngài đối với ta qua việc
chết v́ ta: «Không có t́nh
thương nào cao cả hơn t́nh thương của
người đă hy sinh tính mạng v́ bạn hữu
của ḿnh» (Ga 15,13). Bởi thế, người Kitô
hữu đặt t́nh thương đối với Thiên
Chúa lên trên hết, trên cả t́nh thương đối
với cha mẹ. Theo họ, bổn phận đầu tiên
của con người là phải «yêu mến Thiên Chúa hết ḷng, hết linh hồn,
hết trí khôn, hết sức ḿnh» (Đnl 6,5; Mt 22,37). Cha
mẹ trần gian dẫu sao cũng chỉ là «thừa tác viên» của Thiên
Chúa trong việc sinh ra ta, nuôi dưỡng giáo dục ta. V́
thế, luân lư Kitô giáo có mười giới răn, th́
ưu tiên dành ba giới răn đầu cho ḷng hiếu
thảo đối với Thiên Chúa, chỉ dành một
giới răn, nhưng là giới răn kế tiếp cho
ḷng hiếu thảo đối với cha mẹ trần
gian, và cuối cùng là sáu giới răn cho t́nh yêu
thương đối với mọi người. Ḷng
hiếu thảo đối với cha mẹ tuy đứng
đầu các giới răn nói về t́nh yêu thương
giữa con người với nhau, nhưng vẫn phải
đặt sau ḷng hiếu thảo đối với Thiên
Chúa. Nghĩa là phải «đại
hiếu» đối với Thượng Phụ.
Thật
vậy, đối với người Kitô hữu, t́nh
thương cha mẹ mới chỉ là t́nh thương
lớn nhất, bao la nhất theo chiều kích ngang giữa người với
người mà thôi. T́nh thương đó dù bao la rộng
răi tới đâu, cũng chỉ là một h́nh ảnh,
một biểu trưng cụ thể nhất giúp ta
hiểu được phần nào t́nh thương yêu của
Thiên Chúa đối với con người, tức t́nh yêu
bao la theo chiều kích dọc.
T́nh yêu của cha mẹ đối với ta dù có bao la sâu
đậm tới đâu th́ cũng có giới hạn, C̣n
t́nh thương của Thiên Chúa th́ vô giới hạn: Ngài
yêu thương chúng ta vô cùng. Chính Kinh Thánh đă dùng t́nh
thương cha mẹ để giúp ta hiểu
được t́nh thương vô hạn của Thiên Chúa: «Người mẹ làm sao quên
được đứa con trai ruột của ḿnh?
Nhưng dẫu người mẹ có quên con ḿnh đi
nữa, th́ Ta cũng không thể quên ngươi! » (Is
49,14). Và cũng tương tự như t́nh yêu của cha
mẹ: «Không phải chúng ta yêu
mến Thiên Chúa trước, mà chính Ngài đă yêu
thương chúng ta trước» (1 Ga 4,10). T́nh yêu Thiên
Chúa là thứ t́nh yêu trường cửu, không bao giờ
phai tàn.
Công
ơn cha mẹ cũng chỉ là h́nh ảnh giúp ta hiểu
được công ơn bao la của Thiên Chúa, là «nguồn mọi t́nh phụ
tử trên trời dưới đất» (Lễ qui
Rôma). V́ yêu thương và v́ hạnh phúc con người, Ngài
đă tạo dựng cả vũ trụ bao la này
để con người làm chủ, để vũ
trụ phục vụ ta. Ngài dựng nên chúng ta để
chúng ta hạnh phúc. Nhưng trong quá khứ, chúng ta đă dùng
chính tự do và khả năng Ngài ban để chống
lại Ngài, khiến chúng ta bị cái hạnh phúc nguyên thủy
vô cùng quí giá ấy. Nhưng cho dẫu chúng ta phản
bội Ngài như thế, Ngài vẫn không hề từ
bỏ chúng ta, mà vẫn tiếp tục yêu thương chúng
ta, thậm chí có thể yêu thương hơn cả
trước khi chúng ta phản bội. Chính v́ thế, Ngài
đă phải lập ra cả một chương tŕnh
cứu độ vĩ đại để chuộc
lại mạng sống và hạnh phúc của ta. Ngài đă
nhập thể làm người, mang lấy thân phận
yếu đuối và đau khổ y như chúng ta, chịu
chết nhục nhă và thê thảm v́ ta. «… Ngài đă yêu thương những kẻ thuộc
về Ngài đến cùng» (Ga 13,1).
C. Tương quan giữa hai thứ
hiếu thảo trên
Luật
Chúa buộc ta vừa phải hiếu thảo với Cha
trên trời, vừa hiếu thảo với cha mẹ
dưới đất. B́nh thường hai thứ hiếu
thảo này phù hợp nhau, khuyến khích lẫn nhau, thứ
này đ̣i buộc phải có thứ kia. Nhưng cũng có
nhiều trường hợp hai thứ hiếu thảo
đó có vẻ xung khắc
với nhau, ngăn trở lẫn nhau.
Thật
vậy, hễ ta yêu Thiên Chúa, th́ Thiên Chúa đ̣i buộc ta
phải thảo hiếu với cha mẹ ta. V́ Chúa Giêsu nói:
«Ai yêu mến Thầy th́ sẽ
giữ lời Thầy» (Ga 14,23), mà «đây là giới răn của Thầy: anh em hăy yêu
thương nhau như Thầy đă yêu thương anh em»
(Ga 15,12). Nếu yêu thương nhau chính là dấu hiệu
quan trọng nhất chứng tỏ ḿnh là môn đệ
Chúa, là Kitô hữu (x. Ga 13,35) (6), mà cha mẹ là
đối tượng yêu thương ưu tiên và tất
yếu, nên ai không yêu thương và thảo kính cha mẹ,
th́ đó là dấu hiệu chứng tỏ ḿnh chưa
phải là Kitô hữu đích thực, mà chỉ là thứ
Kitô hữu «hữu danh vô
thực» mà thánh Phaolô ám chỉ trong Rm 2,28-29 (7).
Vả
lại, theo tư tưởng thánh Gioan th́ cha mẹ hữu
h́nh ở gần ta, yêu thương ta, và có công lao cụ
thể với ta bằng trời biển như thế, mà
ta không thương yêu, th́ làm sao ta có thể yêu Thiên Chúa mà ta
không thấy được? V́ thế, ai nói rằng ḿnh yêu
Thiên Chúa mà lại không yêu chính cha mẹ ḿnh th́ hiển nhiên
là nói dối (x.1 Ga 4,20) (8). Thật vậy, có
thật sự yêu cha mẹ ḿnh th́ mới có khả năng
yêu mến Thiên Chúa. T́nh yêu của ta đối với Thiên
Chúa bắt nguồn từ kinh nghiệm t́nh thương
đối với cha mẹ. Tâm t́nh biết ơn và
thảo hiếu đối với cha mẹ dưới
đất thể hiện ḷng biết ơn và thảo
hiếu đối với Cha trên Trời, và cũng là
căn bản cho mọi thứ t́nh yêu khác: cha mẹ ḿnh mà
ḿnh không yêu thương, th́ làm sao có thể yêu thương
những người xa hơn, khó thương hơn,
như bạn bè, hàng xóm, quê hương, dân tộc
được?
T́nh yêu
cha mẹ dẫn chúng ta tới t́nh yêu Thiên Chúa. Nếu cha
mẹ là người Kitô hữu, th́ niềm mong ước
lớn nhất của họ đối với con cái là
mong cho con yêu mến Thiên Chúa và trọn đời sống
đẹp ḷng Ngài. Và đối với Kitô hữu, cách
thảo hiếu trọn vẹn nhất đối với
cha mẹ chính là thật sự yêu mến Thiên Chúa và giữ
giới luật Ngài. V́ ai thực ḷng yêu mến Thiên Chúa th́
cũng thành tâm thảo kính cha mẹ, và làm cho cha mẹ
được Thiên Chúa chúc phúc.
Nhưng
có những lúc hai thứ hiếu thảo trên (với
Thượng Phụ và Hạ Phụ) có vẻ như xung
đột lẫn nhau. Thánh Kinh có đưa ra một vài
trường hợp cụ thể như trong Lc 10,59-60:
Một thanh niên được Chúa kêu gọi theo Ngài,
nhưng anh ta xin Ngài cho ḿnh về chôn cất cha ḿnh đă.
Chúa nói: «Hăy để kẻ
chết chôn kẻ chết, c̣n anh, anh hăy theo tôi đi loan báo
Tin Mừng về Nước Thiên Chúa». Chỗ khác Chúa
nói: «Ai đến với tôi mà
không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và
cả mạng sống ḿnh nữa, th́ không thể làm môn
đệ tôi được» (Lc 14,26). Hoặc «Ai yêu cha mẹ hơn tôi th́ không
xứng đáng với tôi» (Mt 10,37). Chưa rơ vấn
đề, ta thấy đ̣i hỏi của Chúa hơi khó
hiểu. Thực ra, đối với những
người được kêu gọi để làm
việc cho Thiên Chúa, để rao giảng Nước
Trời - là một việc
rất lớn mưu ích cho rất nhiều người,
đ̣i hỏi phải dốc hết tâm lực vào đó
mới thành công - th́
đ̣i hỏi như thế thật là hợp lư. Cũng
như người lo việc quốc gia, nhiều khi
phải hy sinh quyền lợi của ḿnh, của gia
đ́nh, của cha mẹ cho quyền lợi quốc gia.
Vả
lại, giữa Thiên Chúa và cha mẹ, th́ đối với
người Kitô hữu, Thiên Chúa phải được yêu
thương và hiểu thảo một cách ưu tiên. Thiên
Chúa là Chúa Tể vũ trụ, có quyền trên tất cả
sự sống, Ngài yêu thương ta hơn bất kỳ
tạo vật nào, nên Ngài xứng đáng được
ưu tiên như thế. Theo Ngài, phụng sự Ngài,
thuộc về Ngài là giá trị cao cả nhất
đối với ta. Không ai trên đời có quyền lôi
kéo ta ra khỏi Thiên Chúa, có quyền làm thiệt hại linh
hồn ta, v́ «người ta có
thể lấy ǵ chuộc lại linh hồn ḿnh
được? » (Mt 16,26). Giữa hai việc quan
trọng hay hai vật quí giá mà ta phải chọn một,
th́ sự hợp lư buộc ta phải chọn cái quan
trọng hơn, quí giá hơn. Nếu người ta không
thể lấy cớ truyền thống hay luật lệ
xă hội để vi phạm giới răn của Chúa,
cụ thể là giới răn thảo kính cha mẹ,
để thoái thác bổn phận làm con (x. Mt 15,1-9), th́ ta
lại càng không thể vin vào bất cứ lư do ǵ
để thoái thác đạo làm con đối với Cha
trên trời, để rồi bất hiếu với Ngài.
Hiếu thảo với Trung Phụ
Trong
thần học Tam Phụ, Trung Phụ là vua trong
nước. Ngày nay, không c̣n vua nữa, nhưng trong Giáo
Hội, ngoài Thiên Chúa là Thượng Phụ và cha
mẹ là Hạ Phụ, chúng ta c̣n có cha mẹ khác là
người sinh thành và nuôi dưỡng ta về mặt tâm
linh. Đó là Giáo Hội, là Trung Phụ.
Thật
vậy, nếu Thiên Chúa là Cha sinh ra chúng ta, và cha mẹ ta là
thừa tác viên của Ngài trong việc sinh ra phần xác, th́ Giáo Hội chính
là thừa tác viên của Thiên Chúa trong việc sinh lại
chúng ta làm con cái Thiên Chúa, tức sinh ra phần hồn. Dưới một cách nh́n khác,
nếu Giáo Hội là Hiền Thê của Chúa Kitô (x. Ep 5,22tt),
th́ Giáo Hội chính là Mẹ của chúng ta trong việc sinh
lại chúng ta thành con cái Thiên Chúa. Trong thông điệp «Mẹ và Thầy» (Mater et
Magistra), Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đă xác định
chức năng làm Mẹ và làm Thầy của Giáo Hội,
nghĩa là xác định Giáo Hội đă sinh hạ ta trong
Đức Kitô và nuôi dạy ta lớn lên trong đức
tin, gieo cấy vào bản thân ta «mầm
sống vĩnh cửu». Giáo Hội có đầy
đủ chức năng «sinh,
thành, dưỡng, dục» của một người
mẹ đối với ta:
· Sinh: Giáo Hội
đă làm cho ta trở nên con cái Thiên Chúa, tức sinh lại
chúng ta bằng nước và Thánh Thần trong Chúa Kitô (x. Ga
3,5; 1 Cr 4,15).
· Thành: Giáo Hội đă làm đúng chức năng
như thánh Phaolô: «V́ anh em mà tôi phải chịu đau
đớn như người mẹ chuyển bụng sinh
con, cho đến khi Đức Kitô được thành h́nh
trong tâm hồn anh em» (Cl 4,19).
· Dưỡng: Giáo Hội đă nuôi dưỡng ta
bằng cách «mời gọi ta chấp nhận đức
tin, làm ta vững mạnh trong đức tin sống
động» (CĐ Vatican II, GH 12), và bằng «nhưng bí tích
được lập ra để nuôi dưỡng
đời sống Kitô hữu» (PV 59).
· Dục: Giáo Hội
tiếp nối công tŕnh của Chúa Kitô trong việc giáo hóa,
dạy dỗ con cái Chúa, dẫn đưa họ tới
ơn cứu độ.
Với
những chức năng đó, Giáo Hội đúng là bậc
Cha Mẹ đă sinh thành ra chúng ta. Chúng ta phải biểu
lộ ḷng hiếu thảo của ḿnh đối với
Giáo Hội bằng ḷng yêu mến, kính trọng, vâng
phục, cảm thông, trung thành, sự phục vụ và xây
dựng Giáo Hội. Giáo Hội tuy là mẹ, tuy thánh
thiện v́ là nhiệm thể của Chúa Kitô, nhưng Giáo
Hội vẫn là con người, bao gồm cả
người thánh thiện lẫn tội lỗi, cả
người sáng suốt lẫn ngu muội. Chính v́ thế,
có những lúc những người chính thức đại
diện cho Giáo Hội (9) có những hành
động không tốt hay quyết định sai lầm,
th́ chúng ta vẫn nên tỏ ra một thái độ thông
cảm, t́m cách tế nhị để sửa sai với tất
cả ḷng yêu thương và kính trọng của ḿnh.
Tuyệt đối không nói xấu, chỉ trích… Một
người mẹ dù đôi khi có sai trái, lầm lỗi hay
tỏ ra hà khắc, th́ cũng vẫn là người đă
sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục và luôn luôn yêu
thương con cái. Người con hiếu thảo không thể
v́ thế mà bất măn, hay tỏ ra bớt kính trọng và
yêu thương đối với mẹ ḿnh, nhất là
không bao giờ nói xấu hay từ bỏ mẹ ḿnh.
Gương của Teilhard de Chardin, matteo Ricci, Roberto de Nobili,
Karl Rahner, Yves Congar… lúc nào cũng đáng cho hậu thế
bắt chước: cho dù bị Mẹ Giáo Hội chưa
hiểu hay hiểu lầm ḿnh, và thậm chí ngược
đăi ḿnh, các ông vẫn một mực yêu mến và trung
thành với Mẹ Giáo Hội, kiên nhẫn chờ một
ngày nào đó, Mẹ sẽ hiểu ḿnh hơn. Đó chính là
những người con thật sự hiếu thảo của
Giáo Hội.
Song song với ḷng
hiếu thảo và biết ơn đối với Giáo
Hội, chúng ta cũng phải nhớ tới t́nh
thương và công ơn của Tổ Quốc, Đất
Nước, cũng là Mẹ thiêng liêng của chúng ta.
Tổ Quốc là người mẹ đă sinh ra chúng ta thành
người Việt Nam, đă nuôi dưỡng và bảo
vệ chúng ta, đă tạo cho chúng ta những điều
kiện dễ dàng để sống ấm no, yên vui,
hạnh phúc một cách tổng thể (như chống
ngoại xâm, bảo vệ an ninh đời sống, phát
triển kinh tế, giáo dục, làm đường xá…)
vượt khỏi khả năng hạn hẹp của
cha mẹ ruột thịt chúng ta. Ḷng hiếu thảo chúng
ta phải có đối với Mẹ Việt Nam là phải
trở nên những công dân tốt, tài năng, có phẩm cách
đạo đức, yêu quê hương, yêu đồng
bào, tôn trọng luật pháp, và sẵn sàng hy sinh xương
máu để bảo vệ và xây dựng đất
nước…
V
TAM
PHỤ là ba h́nh thức khác nhau của cùng một «phụ tính» hay «mẫu tính» duy nhất của
Thiên Chúa: Thiên Chúa chính là «nguồn
mọi t́nh phụ tử trên trời dưới
đất». Phụ tính và mẫu tính của cha mẹ
chúng ta, của Giáo Hội hay Tổ Quốc ta, đều
xuất phát từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đă nhờ t́nh
phụ tử, mẫu tử của Giáo Hội, của
Tổ Quốc, của cha mẹ chúng ta để sinh, thành,
dưỡng, dục chúng ta, để chúng ta tồn
tại một cách tốt đẹp và hạnh phúc cho
đến ngày giờ Ngài qui tụ tất cả chúng ta
trong Nước Trời. Những t́nh phụ tử hay
mẫu tử đó là h́nh ảnh đơn sơ nhưng
đa dạng của t́nh phụ tử và mẫu tử
của Thiên Chúa.
V́
thế, khi chúng ta hiếu thảo với Giáo Hội,
Tổ Quốc, với cha mẹ chúng ta, là chúng ta hiếu
thảo với Thiên Chúa. Câu Kinh Thánh sau đây đúng
với Giáo Hội, Tổ Quốc và cha mẹ chúng ta hơn
với bất cứ một ai khác trên đời: «Mỗi lần các con làm
điều ǵ cho những người bé nhỏ nhất
đây, là các con làm cho chính Cha… và mỗi lần các con không
làm điều ǵ cho những người bé nhỏ nhất
đây, là các con không làm cho chính Cha» (Mt 25,40.45).
Phần chú thích
(1)
Trong ca dao Việt Nam có câu:
«Trai
thời TRUNG HIẾU làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu sửa
ḿnh»
(2)
Trên bàn thờ của họ luôn luôn có chữ «Cửu
Huyền Thất Tổ».
(3)
Người Việt có câu: «Tôi trung không thờ hai chúa».
(4)
Xem Mc 12,28-34; Mt 22,34-40; Lc 10,25-28.
(5)
«Phụ tính»: tính chất của cha mẹ.
(6)
Ga 13,35: «Người ta cứ dấu này mà nhận
biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu
thương nhau».
(7)
Rm 2,28-29: «Người Do Thái chính hiệu không phải là
căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, phép
cắt b́ chính hiệu không phải là căn cứ vào cái
thấy được bên ngoài nơi thân xác. Nhưng người
Do Thái chính hiệu là người Do Thái tận đáy ḷng,
phép cắt b́ chính hiệu là phép cắt b́ trong tâm hồn,
theo tinh thần của lề luật chứ không phải
theo chữ viết của Lề Luật».
(8)
1 Ga 4,20: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại
ghét anh em ḿnh, người ấy là kẻ nói dối; v́ ai
không yêu thương người anh em mà họ trông
thấy, th́ không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không
trông thấy».
(9)
Chẳng hạn như Giáo Hoàng, Giám mục, linh mục hay
tu sĩ, cụ thể là những người có trách
nhiệm trực tiếp coi sóc phần tâm linh của ḿnh.