VIỆC
ĐỘ VONG
TRONG KITÔ GIÁO VÀ PHẬT GIÁO
NGUYỄN CHÍNH
KẾT
Người
Công giáo coi tháng 11 dương lịch hàng năm là tháng
cầu nguyện cho những người quá cố, c̣n
gọi là tháng các linh hồn
mà cao điểm là ngày 2-11, là ngày lễ cầu hồn. Nhưng người
Phật tử và người theo «đạo tổ tiên»
lại coi tháng 7 âm lịch hàng năm mới là tháng
để tưởng nhớ, cúng kiến và chú nguyện
cho những người đă khuất, mà cao điểm là
lễ Vu Lan ngày rằm tháng
7, hay ngày Xá tội vong nhân.
Phật
tử cũng như Kitô hữu đều tin rằng sau
khi chết c̣n có một đời sống khác, và những
người c̣n sống ở trần gian có thể giúp
đỡ người đă chết - hiện đang sống trong một
đời sống khác - thoát
khỏi cảnh khổ của họ, hay giảm bớt
đau khổ cho họ. Tuy nhiên, quan niệm về số
phận của các vong nhân và về việc độ vong (1)
của hai tôn giáo này có nhiều điểm khác biệt.
Trong chiều hướng hội nhập văn hóa và t́m
hiểu các tôn giáo, chúng ta thử so sánh hai quan niệm
ấy đồng thời rút ra những điểm
đồng dị.
Quan niệm của Kitô giáo
Số phận đời sau
Người
Kitô hữu tin rằng con người chỉ có hai
đời sống: đời này và đời sau.
Đời này ngắn ngủi, hữu hạn, c̣n
đời sau vĩnh cửu, vô hạn. Nhưng số phận
của đời sau -
hạnh phúc hay đau khổ -
lại hoàn toàn tùy thuộc vào cách sống của con
người trong cuộc đời ngắn ngủi này,
nhất là vào t́nh trạng tâm hồn trong giây phút cuối
cùng của cuộc đời. Người nào khi chết
vẫn có ân nghĩa với Thiên Chúa sẽ được
hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Ngài. Người
nào chết trong trong t́nh trạng thù nghịch với Ngài,
tức mắc tội trọng, th́ bị phạt
đời đời xa cách Ngài là nguồn hạnh phúc
của ḿnh.
Sự thanh luyện
Tuy
nhiên, để xứng đáng thấy Thiên Chúa, xứng
đáng kết hiệp với Ngài, Đấng tuyệt
đối hoàn hảo, và để hưởng hạnh
phúc đời đời, con người cũng phải
trở nên hoàn hảo, trong trắng như Chúa Giêsu đă
nói: «Các con hăy nên hoàn hảo
như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo» (Mt
5, 48), «Nếu sự công chính
của các con không vượt hơn những người
Pharisiêu, các con không được vào Nước Trời»
(Mt 5, 20), «Phúc cho những tâm
hồn trong sạch, v́ họ sẽ thấy Thiên Chúa» (Mt
5, 8). Hạnh phúc vĩnh cửu đ̣i hỏi gắt gao
như thế th́ dù những người thánh thiện
nhất cũng không đạt được v́ «nhân vô thập toàn». Do đó,
để xứng đáng vào Nước Trời,
để đạt được t́nh trạng hoàn
hảo trên, con người cần phải được
thanh luyện một thời gian trước khi vào.
Sự
thanh luyện đó đă được Giáo Hội
định tín trong Công Đồng chung thứ 14, năm
1274 tại Lyon: «Linh hồn
kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ
được thanh luyện sau khi chết với những
h́nh phạt được gọi là «Thanh Luyện» (purgatoriis
seu catharteriis)» (2). Tín điều đó
đă được lặp lại trong nhiều Công
Đồng sau đó (3).
Mục
đích của việc thanh luyện là làm cho linh hồn
trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy t́nh
thương, không c̣n một chút tâm địa ích kỷ,
độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đ̣i hỏi
một sự hoàn hảo như thế thật là hợp
lư, v́ đó là một «nơi» (4)
hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh thiện, là «nơi» chúng ta sẽ trở về để
hưởng hạnh phúc muôn đời. Không cần
phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng
đ̣i hỏi điều đó.
Thật
vậy, thử hỏi: khi trở về nơi lư
tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có
thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với
thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như
họ đang có bây giờ không? Nếu họ c̣n ích kỷ,
c̣n ác ư, c̣n lănh đạm, c̣n hẹp ḥi, c̣n hay nghĩ
xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, th́
họ có thể hoàn toàn hạnh phúc và làm cho ta và những
người chung quanh họ cũng hoàn toàn hạnh phúc cho
đến đời đời, không hề gây ra một
chút đau khổ nào không? Bản thân ta cũng vậy, ta
sẽ c̣n đau khổ và c̣n làm người khác đau
khổ nếu ta c̣n một chút xấu xa, ích kỷ,
độc ác… Chưa hoàn hảo mà đă sống ở Thiên
Đàng th́ ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh
tuyền - không vương
chút đau khổ -
của Thiên Đàng rồi, và biến Thiên Đàng trở
thành một cái ǵ không c̣n là Thiên Đàng nữa. Do đó,
Thiên Đàng đ̣i hỏi những người bước
vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu c̣n chút
ǵ xấu xa th́ phải thanh luyện cho hết.
Sự
thanh luyện đó được gọi là «luyện ngục». Chữ ngục khiến người
ta liên tưởng tới một nơi chốn, một
cảnh tù đày. Thực ra không nên hiểu cụ thể
như thế. Nên hiểu đó là một t́nh trạng
của tâm hồn được thanh luyện,
được thánh hóa bằng những đau khổ
nội tại cũng như ngoại tại:
· Đau khổ nội tại là
đau khổ v́ khát khao được ở gần Thiên
Chúa, kết hợp với Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc
của ḿnh mà không được. Sau khi chết, linh
hồn hết sức sáng suốt để nhận ra Thiên
Chúa là nhu cầu khẩn thiết nhất, là nguồn hạnh
phúc đích thực của ḿnh, nên ḷng khao khát Thiên Chúa lúc
đó hết sức lớn lao. Tương tự như
người rất đói, rất thèm ăn, và có ngay
trước mặt một mâm cơm thịnh soạn,
đầy hấp dẫn với đủ thứ cao
lương mỹ vị, mà lại bị trói chân trói tay
không ăn được. Hay như hai t́nh nhân yêu nhau tha
thiết mà phải sống xa nhau.
· C̣n đau khổ ngoại tại cũng
được thần học bàn tới, nhưng không
được định tín. Giáo Hội Hy Lạp phủ
nhận loại đau khổ này. Khổ h́nh này
được thần học truyền thống gọi là
«lửa». Một vài giáo hoàng
diễn tả luyện ngục có lửa (5).
Sắc lệnh của Công Đồng chung Firenze (1438–1445)
không c̣n dùng từ ngữ «lửa» để diễn tả h́nh
phạt nữa, v́ các nghị phụ Hy Lạp không chấp
nhận. Các nhà thần học hiện nay cũng không thích
lư thuyết nói về lửa đó nữa.
Trong
t́nh trạng thanh luyện, người ta thường
chỉ nghĩ tới đau khổ của các linh hồn
đang trông chờ ngày gặp mặt Chúa mà không lưu tâm
tới t́nh trạng tích cực của họ. Chắc
chắn các linh hồn ấy có một
hạnh phúc rất lớn, rất căn bản là biết chắc chắn ḿnh
được cứu rỗi, được Thiên Chúa
yêu thương (6), đồng thời họ
mến Chúa hết sức v́ không c̣n ǵ trở ngại ḷng
yêu mến ấy nữa, và họ cũng ư thức
được sự cần thiết của việc thanh
luyện này, nên họ sẵn sàng và ước ao chịu
mọi khổ h́nh để sớm gặp Chúa. Lúc đó,
khổ h́nh đối với họ không c̣n là «khổ» nữa. Cũng như một thí sinh sẵn sàng
chấp nhận mọi cực nhọc, mệt mỏi
của việc học để chuẩn bị một
kỳ thi với hy vọng sẽ có một tương lai
huy hoàng. Việc thanh luyện v́ thế trở thành tự
nguyện. Họ sung sướng v́ được thanh
luyện, được khổ v́ Chúa, v́ t́nh yêu.
Việc độ vong
Thời
gian thanh luyện lâu hay mau chắc chắn tùy thuộc vào
t́nh trạng hay mức độ hoàn hảo của mỗi
linh hồn, và vào t́nh thương can thiệp của Chúa.
Các tín hữu c̣n sống có thể giúp các linh hồn
được thanh luyện theo những điều
kiện nhất định, đó là một tín điều.
Công
Đồng Trentê định tín lễ Misa có thể
được dâng lên để cầu nguyện cho
người sống và kẻ chết, cho họ
được tha tội, tha h́nh phạt, cho việc
đền tội và cho những nhu cầu khác (7),
đặc biệt cho những người chết trong
Đức Kitô đang được tinh luyện (8).
Ngoài lễ Misa, các tín hữu c̣n có những h́nh thức
độ vong khác (9) như cầu nguyện,
bố thí và làm các việc đạo đức (10).
Người c̣n sống có thể đền tội thay cho họ bằng những
hy sinh hăm ḿnh, chấp nhận những đau khổ Thiên
Chúa gửi đến một cách vui vẻ, v́ một chi
thể có thể đền tội thay cho một chi
thể khác trong cùng một thân thể, vả lại,
tội không chỉ có tính cách cá nhân mà c̣n có tính xă hội:
sự liên đới chịu trách nhiệm. Đương
nhiên, tín hữu c̣n sống càng trong sạch thánh thiện bao
nhiêu th́ khả năng độ vong càng hữu hiệu bấy nhiêu: một chi thể «chết» không thể giúp cho một chi thể khác «sống» được.
Mọi
việc độ vong đều phải qua tay Thiên Chúa,
chứ không trực tiếp ảnh hưởng tới các
linh hồn. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn luôn luôn tự do. Sự
độ vong của chúng ta không phải là một pháp
thuật có sức ép buộc Thiên Chúa phải tha cho các linh
hồn theo ư ta, hay ảnh hưởng tới Thiên Chúa
một cách máy móc, tự động theo những
định luật.
Việc
độ vong trong Giáo Hội bắt nguồn từ
việc làm của Giuđa Macabêô theo như đoạn Kinh
Thánh 2 Mcb 12, 40-60. Thời đó, sau một trận
đánh, có một số binh sĩ Do Thái tử trận. Khi
lục soát các tử thi, người ta t́m ra dưới áo
họ ẩn dấu các đồ vật để cúng
tế các thần ngoại lai mà luật cấm. Người
Do Thái tin rằng tuy họ chết đi khi mang tội
đó, nhưng họ vẫn được cứu
rỗi. Họ cầu nguyện để xin Chúa tha tội
cho những người ấy. Rồi họ quyên góp 2. 000
quan tiền nhờ Giuđa gửi lên Giêrusalem để
tế lễ chuộc tội. Bản văn khen ông: «Đó là việc làm rất
tốt lành và có giá trị cao quí do tin vào việc sống
lại, v́ nếu không tin vào sự sống lại th́
cầu nguyện cho người chết là uổng công vô
ích. Nếu ông nghĩ tới phần thưởng dành cho
họ th́ quả là tư tưởng lành thánh và đạo
đức. V́ thế, ông đă dâng lễ xá tội
để người quá cố được tha thứ
tội lỗi».
Quan niệm của Phật giáo
Luật luân hồi và nhân quả
Trước
hết, người Phật tử quan niệm cuộc
đời hiện tại không phải là kiếp sống
duy nhất của ḿnh, mà chỉ là một trong hàng trăm
ngàn kiếp sống kế tục nhau như những
mắt xích trong cả một chuỗi xích dài vô tận.
Kiếp hiện tại là quả của kiếp quá khứ
mà cũng là nhân cho kiếp tương lai. Nghĩa là
nếu kiếp này ḿnh làm lành th́ kiếp sau gặp hiền,
làm ác th́ kiếp sau gặp dữ. Bất cứ một
động tĩnh nào trong tư tưởng, lời nói,
hay việc làm xảy ra nơi con người, đều
có nguyên nhân trong quá khứ và đều gây ra hậu quả
trong tương lai. Đó là luật
nhân quả. Chuỗi nhân quả không bao giờ chấm
dứt. V́ thế, con người chết đi để
bắt đầu một cuộc sống mới, một
kiếp khác. Và cuộc sống mới này mang h́nh thức
nào tùy thuộc cái nghiệp đă gây ra trong những
kiếp trước. Đó là luật luân hồi.
Lục đạo
Luân
hồi có sáu nẻo, gọi là lục đạo, tức
sáu cảnh giới, sau khi chết, con người sẽ
phải đầu thai vào một cảnh giới trong
đó. Lục đạo gồm có: Thiên, Nhân, Atula, Ngạ
quỉ, Súc sinh, Địa ngục (xếp theo mức
độ từ sướng tới khổ).
– Thiên: cảnh
giới của loài «thiên
thần» tốt lành, vô h́nh
đối với con người, v́ mang thân xác vi tế
hơn con người, sống trong những điều
kiện dễ dàng hạnh phúc hơn, đời sống
cũng lâu dài hơn con người rất nhiều.
– Nhân: cảnh
giới của con người, điều kiện
sống khó khăn hơn, nhưng lại là cảnh
giới thuận tiện nhất để tu giải thoát,
nhờ có sự quân b́nh tương đối giữa
sướng và khổ.
– Atula: cảnh
giới của một loài «thiên
thần» xấu, là
những sinh linh nhiều tham vọng, ham quyền lực,
kiêu căng, ghen ghét, ganh tị, v.v… nên thường xuyên có
chiến tranh, và những đau khổ thiên về tinh
thần. Họ cũng vô h́nh dưới mắt con
người tương tự như những sinh linh trong
cảnh Thiên, nhưng họ
phải chịu nhiều đau khổ.
– Ngạ quỉ: (11)
cảnh giới của những sinh linh tham lam vật
chất, của cải, tiền bạc, lạc thú vật
chất như ăn uống, nhục dục… Lúc nào họ
cũng khao khát những thứ đó mà không bao giờ
được thỏa măn, khiến họ luôn luôn khổ
đau. Họ cũng là những sinh linh vô h́nh dưới
mắt con người.
– Súc sinh: cảnh
giới của loài vật mà chúng ta vẫn thấy: thú
vật, chim chóc, cá… ít hiểu biết, kém ư thức.
Đời sống thấp kém, hầu như không có
đời sống tinh thần. Thường xuyên sống
trong sợ hăi, có thể bị thú khác hoặc bị
người giết ăn thịt, hoặc có thể
bị thúc đẩy đi giết các thú khác. Tất
cả đều sợ đói.
– Địa ngục: Cảnh giới của những sinh linh
độc ác, hận thù, ích kỷ, ghen ghét, hay giận
dữ, hay gây đau khổ cho người khác. Họ
cũng vô h́nh dưới mắt con người. Họ
phải chịu những cực h́nh rất đau
đớn, khắc nghiệt. Đời sống trong các
địa ngục dài hay ngắn tùy theo từng địa
ngục khác nhau, tùy theo sự trầm trọng của
điều xấu họ đă làm cho người khác.
Tất
cả các cảnh giới trên đều bị chi phối
bởi luật vô thường, nên không có ai cứ
được hay phải ở măi trong một cảnh
giới nào, v́ không có một điều phúc đức nào
vô cùng để đáng thưởng đời
đời, mà cũng không có một tội ác nào vô cùng
để đáng bị phạt đời đời
cả. Do đó, sinh linh cứ tái sinh, cứ bị trôi
lăn trong lục đạo đó măi. Chỉ có những
con người biết tu tập trí tuệ để giác
ngộ được con đường giải thoát
mới ra khỏi cái ṿng lẩn quẩn đó.
Trong
lục đạo, chỉ có hai cảnh giới
được coi là sướng, là cảnh giới thiên và nhân, nhưng cảnh giới nhân là quí hơn cả. Xét về hạnh phúc th́
cảnh giới thiên có
nhiều điều kiện thuận lợi hơn,
nhưng chính v́ thế, mà họ bị ru ngủ không
muốn đi t́m sự giải thoát thật sự,
để rồi khi họ hưởng hết phúc lành, th́
họ lại rơi vào một cảnh giới khổ
hơn. Các atula th́ tâm trí
bị thu hút vào việc tranh căi và hơn thua. Các ngạ quỉ th́ quan tâm
đến những thèm khát không được thỏa măn.
Súc sinh th́ u mê chỉ nghĩ
đến thức ăn và thỏa măn tính dục. C̣n sinh
linh ở địa ngục th́
bị hành khổ đủ cách nên không có đầu óc
đâu mà nghĩ đến đạo giải thoát. Chỉ
có con người sướng khổ tương
đối quân b́nh, nên có nhiều điều kiện
thuận lợi để phát tâm đi t́m con
đường giải thoát. Chỉ có con người là có
nhiều tự do quyết định hơn cả, có
đầu óc sáng suốt hơn cả để có thể
đạt tới trí tuệ giải thoát. Nên trong lục
đạo, chỉ có con người là có nhiều cơ
may, nhiều khả năng để thành Phật nhất.
Do đó, theo Đức Phật, được làm
người là cả một cơ hội quí báu, không nên
uổng phí (12).
Việc độ vong
Trong
Phật giáo, không có chỗ đứng cho một Thiên Chúa
sáng tạo, một Thiên Chúa điều khiển và chi
phối mọi sự. Tất cả đều xảy ra
theo qui luật của vũ trụ. Một người
bị rơi vào địa ngục hay đầu thai vào
cảnh giới nào hoàn toàn không do một Đấng
Tối Cao nào phán xét và định đoạt cả.
Cũng y như một người sử dụng dao không
khéo bị đứt tay, hay một người ích kỷ
bị mọi người ghét, một người vui
vẻ được nhiều người thương.
Đó là luật nhân quả tác động một cách khách
quan như bao định luật khác. Việc độ
vong cũng chỉ dựa vào định luật mà cứu,
chứ không cầu khần ai được cả.
Cũng như muốn cứu một người bị
điện giật, bị bệnh ung thư… điều
quan trọng là có biết cách cứu hay không, có biết
những định luật về điện hay về bệnh
tật hay không. Định luật có nhiều thứ,
vật lư, tâm lư, siêu vật lư, siêu tâm lư…
Quan
niệm của người Phật tử về việc
độ vong căn cứ trên câu chuyện trong kinh Vu Lan:
Mục Kiền Liên được Đức Phật
chỉ dạy cách cứu mẹ ḿnh - là bà
Thanh Đề - thoát
khỏi kiếp ngạ quỷ. Phật dạy ông mời
những vị cao tăng vừa «an cư kiết hạ»
(13)
suốt ba tháng xong, tới chú nguyện để vong linh
mẹ ông chuyển tâm địa độc ác thành tâm
địa lành, nhờ đó mà thoát khỏi kiếp ngạ
quỉ, sinh vào cảnh giới hạnh phúc hơn.
Trong
việc cứu bà Thanh Đề, mẹ của Mục
Kiền Liên, Phật đă áp dụng tới sức
mạnh của sự chú nguyện (14) của
rất nhiều người có năng lực tinh thần
rất mạnh (các cao tăng sau thời gian tinh tấn tu
hành - ba tháng «linh thao») để tác động vào bản thân
của Bà Thanh Đề khiến bà thay đổi tâm
địa (từ tâm ích kỷ bỏn xẻn độc
ác, thành tâm vị tha quảng đại từ bi). Tâm thay
đổi th́ sướng khổ cũng thay đổi
theo như câu: «Tội tùy tâm
sinh, tội tùng tâm diệt», hay «Khổ tùy tâm sinh, khổ tùng tâm diệt». Nhờ
vậy bà thoát khỏi cảnh giới ngạ quỷ sinh
vào cảnh giới lành, không có sự can thiệp của
thần linh nào vào đây cả.
Lễ
Vu Lan cũng như tháng 7 âm lịch là dịp để cho
người Phật tử đặc biệt làm công
việc cứu độ ấy bằng sự chú
nguyện, không những cho cha mẹ ông bà tổ tiên ḿnh, mà
c̣n cho nhiều người khác nữa.
Sự đồng dị giữa hai quan
niệm
Những điểm tương
đồng
· Điểm căn bản nhất là cả hai tôn
giáo đều cho rằng các tín đồ c̣n sống
đều có thể cứu độ những vong linh quá
cố.
· Những đau khổ sau khi chết đều là
kết quả của những việc làm sai trái, không hoàn
hảo của đương sự khi c̣n sống. V́
điều thiện sinh quả lành là hạnh phúc,
điều dữ sinh quả dữ là đau khổ.
· Mỗi năm, cả hai tôn giáo đều có
một ngày lễ đặc biệt để
tưởng nhớ và cứu độ người quá
cố, thậm chí dành ra cả tháng để làm công
việc này.
· Việc cầu nguyện của Kitô hữu, hay
việc chú nguyện của Phật tử để
độ vong có hữu hiệu hay không th́ tùy thuộc vào
ḷng thành tâm, sự trong sạch, thánh thiện hay mức
độ tu luyện tâm linh của tín hữu c̣n sống.
Và nhiều người cùng họp nhau cầu nguyện hay
chú nguyện th́ việc độ vong có kết quả
hơn.
· Việc độ vong trong cả hai tôn giáo
đều được coi là bổn phận của
những người c̣n sống, để tỏ ḷng
thảo hiếu đối với ông bà cha mẹ cũng
như cửu huyền thất tổ, để tỏ ḷng
biết ơn đối với các ân nhân, và ḷng từ bi
bác ái đối với những vong linh khác, nhất là
những vong linh mồ côi.
Những điểm dị biệt
· Theo Phật giáo, mọi việc lành dữ của
con người đều gây ra những hậu quả
tốt xấu theo định luật tự nhiên trong
vũ trụ, không có ai xét xử hay luận phạt cả.
–– C̣n theo Kitô giáo, Thiên Chúa là
Đấng xét xử mọi việc làm và thưởng
phạt công bằng. Như thế, một đằng
chỉ có định luật tự nhiên tác động
một cách máy móc, một đằng là có Đấng
cầm cân nảy mực.
· Kitô giáo quan niệm chỉ có hai «đời»: đời này và đời
đời (vĩnh cửu). Đối với những
người tốt lành nhưng chưa hoàn hảo th́ c̣n
một giai đoạn trung gian để chịu những
đau khổ thanh luyện. Việc độ vong chỉ
nhắm đối tượng là những người này,
chứ không độ vong cho những người đă
hưởng mặt Chúa hay vĩnh viễn phải xa ĺa
Chúa. –– C̣n Phật giáo quan
niệm có vô số kiếp liên tục tiếp theo nhau, không
có giai đoạn trung gian (15). Trừ
những người tu giải thoát hay thành Phật,
tất cả mọi người đều phải
đầu thai lại vào một trong sáu nẻo của
lục đạo. Việc độ vong chỉ nhắm
tới những người đang đau khổ từ
kiếp người trở xuống. Không có một sinh linh
nào đáng thất vọng v́ bị hư mất
đời đời đến nỗi không độ vong
được.
· Việc
độ vong của Phật giáo là dùng sức mạnh tinh
thần của việc chú nguyện để ảnh
hưởng trực tiếp tới tâm địa của
những người đang bị đau khổ trong
kiếp sau của họ, hầu trợ thêm sức lực
tâm linh cho họ để họ thay đổi tâm
địa từ xấu thành tốt. Nhờ vậy họ
thay đổi được số phận. Như
vậy cũng là áp dụng những định luật tâm
linh vốn tác động một cách máy móc để
đạt mục đích. Người sống cũng có
thể nhờ những người khác có nhiều năng
lực tinh thần hơn - càng
đông càng tốt -
để chú nguyện thay cho ḿnh. Những người khác
đó có thể là những người đang cùng sống
với ḿnh, mà cũng có thể là những vị Phật
hay Bồ Tát hoặc đang ở một cơi nào đó
hoặc đang hiện thân làm người đồng
thời với ḿnh. Việc cầu siêu chính là nhờ
những vị «thánh» ấy chú nguyện dùm. –– C̣n người Kitô hữu
dùng lời cầu nguyện, những việc đạo
đức, những việc thiện, sự hy sinh hăm ḿnh,
và nhất là dâng thánh lễ hay xin lễ để cầu
xin Thiên Chúa, hoặc gián tiếp nhờ các thánh cầu
bầu cùng Chúa. Thiên Chúa sẽ tác động tới các linh
hồn đang thanh luyện cách nào đó để họ
vẫn trở nên hoàn hảo xứng đáng hưởng
hạnh phúc bên Thiên Chúa, nhưng được giảm
phần đau khổ do thanh luyện. Mọi sự
đều hoàn toàn tùy thuộc vào t́nh thương của
Thiên Chúa chứ không theo định luật tự nhiên nào
tác động cách máy móc cả. Người sống không
thể tác động trực tiếp tới các linh
hồn được.
Để kết luận
Việc
độ vong trong Kitô giáo và Phật giáo có những nét
tương đồng và dị biệt: tương
đồng ở những nét rất căn bản, c̣n khác
biệt ở những nét phụ thuộc. Cả hai bên
đều tin tưởng rằng chết không phải là
hết, mà là bước vào một cuộc sống khác.
Cả hai đều nói lên sự liên hệ giữa
người sống và người chết. Người
c̣n sống và người đă chết tuy sống trong hai
cảnh giới khác biệt, nhưng vẫn có thể lo
lắng cho nhau, biểu lộ t́nh yêu thương, sự
quan tâm lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, làm
lợi cho nhau.
Chính
nhờ niềm tin ấy, mà trong tâm tư người c̣n
sống, th́ người đă chết dường như
vẫn sống, vẫn hiện diện một cách nào
đó bên người sống. V́ thế, người c̣n
sống nhiều khi vẫn nói chuyện với
người đă khuất, và tin tưởng rằng
người đă khuất kia vẫn nghe được
lời của họ. Nhiều người chết đă
lâu, cả hàng mấy chục năm, nhưng người
sống vẫn luôn luôn nhớ tới trong kinh nguyện,
trong lời nguyện cầu. Nhờ vậy mà người
chết vẫn cứ sống măi trong ḷng người c̣n
ở lại trần thế. Chính t́nh yêu giữa
người sống và người chết đă làm
được như thế.
Chỉ
có sự quên lăng, do thiếu t́nh yêu, hay do t́nh yêu quá phai
lạt của người c̣n sống đối với
người đă chết, mới làm cho người
chết chết thật sự. Nghĩa là làm cho
người chết không c̣n hiện diện trong tư
tưởng của người sống nữa. V́ thế,
sự hờ hững, quên lăng của người c̣n
sống đối với người đă khuất
khiến cho người chết chết thêm một lần
nữa.
Phần chú thích
(1) Độ
vong: cứu những linh hồn đă quá cố đang
đau khổ v́ h́nh phạt.
(2) DS
856/464.
(3) Xem
DS 1580 / 840; 1620 / 983; 1867 / 998, v.v...
(4) Tạm
gọi như thế. Thật ra, Thiên đàng, luyện
ngục hay hỏa ngục không phải là những nơi
hiểu theo nghĩa không gian vật lư cho bằng là
những t́nh trạng tâm linh hoặc tâm lư. Chẳng hạn Thiên
Đàng là t́nh trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc, không c̣n
một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn
hảo, thánh thiện, c̣n Hỏa Ngục là t́nh
trạng tâm linh hết sức đau khổ của
những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ...
(5) Đức
Innôcentiô IV (1243-1254)và Đức Clêmentê VI (1342-1352). Lửa
ở đây là lửa mầu nhiệm, vừa là vật
chất vừa là tinh thần, v́ có thể vừa
đốt được thân xác mà vừa đốt
được cả linh hồn.
(6) Xem
DS 1488 / 778.
(7) Xem
DS 1753 / 950.
(8) Xem
DS 1743 / 940.
(9) Xem
DS 1820 / 693.
(10) Xem
DS 856 / 464.
(11) Nguyên
nghĩa là quỉ đói.
(12) Kinh
Duy Ma Cật, Phẩm Phật Đạo (phẩm 8) nói rơ
điều đó.
(13) An
cư kiết hạ: là thời gian Phật qui
định cho chư tăng ở mỗi địa
phương phải hội về một nơi thuận
tiện để chuyên tu mỗi năm, từ 16-4
đến 15-7 âm lịch. Tương tự như tĩnh
tâm, cấm pḥng, hay linh thao bên Kitô giáo.
(14) Chú
nguyện: (chú: chú ư, tâp trung tư tưởng hay
năng lực tinh thần vào việc ǵ; nguyện:
cầu mong, ước muốn) Khác với cầu
nguyện ở bên Kitô giáo, chú nguyện là tập
trung hết năng lực tinh thần của ḿnh
để ước muốn điều ǵ, năng lực
được tập trung lại đó nếu đủ
có thể làm biến chuyển, thay đổi t́nh thế.
Đây là vấn đề sức mạnh của tư
tưởng mà các nhà tâm lư học hiện đại
đều công nhận.
(15) Tuy
nhiên, cũng có những giáo phái Phật giáo tin có giai
đoạn trung gian giữa lúc chết và lúc đi
đầu thai. Giai đoạn này lâu hay mau tùy theo từng
trường hợp.