PHẢI HIỂU VÀ HÀNH XỬ
THẾ NÀO
KHI TUYÊN XƯNG «ĐỨC GIÊSU KITÔ
LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT»?
NGUYỄN
CHÍNH KẾT
Theo
niềm tin của người Kitô hữu, Đức Giêsu
chính là Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đă
từng loan báo hàng mấy trăm năm trước khi Ngài
sinh ra. V́ thế, người Kitô hữu, những kẻ
tin và sống theo giáo lư của Ngài, tin rằng Ngài chính là
Ngôi Hai Thiên Chúa như chính Ngài đă tự xưng,
đồng thời là người
duy nhất đem lại
ơn cứu độ phổ
quát cho tất cả
mọi người thuộc mọi nơi mọi
thời trong nhân loại. Niềm tin này đă
được định tín trong một tín điều,
và được nhắc đi nhắc lại trong các
văn kiện của các Công Đồng Chung, của các
vị giáo hoàng, và gần đây nhất là tông huấn Ecclesia
in Asia của Đức Gioan Phaolô II (ngày 6-11-1999) và
tuyên ngôn Dominus Jesus của Hồng y Joseph Ratzinger (ngày
6-8-2000). Hai văn kiện sau cùng này nhấn mạnh chủ
trương phải công bố
Đức Giêsu là vị Cứu Tinh duy nhất và phổ
quát của nhân loại.
Chúng ta
thử t́m hiểu, đào sâu lập trường
đức tin của Giáo Hội, để có một cái
nh́n đúng đắn, rơ ràng, đồng thời
đề ra một phương cách hành động vừa
phù hợp với lập trường của Giáo Hội,
vừa thích nghi với t́nh trạng đa nguyên tôn giáo và
đa văn hóa tại Á Châu.
Lư do của tuyên ngôn Dominus Jesus
Có những khuynh hướng rộng răi, bao
dung tôn giáo trong giới thần học Kitô giáo
Khi
sống chung và tiếp xúc với các tôn giáo khác tại Á
Châu, nhiều thần học gia Á Châu nhận ra rằng:
– Các tôn giáo
khác cũng có một nền giáo lư thâm sâu, vi diệu,
với những bộ kinh điển rất tuyệt
vời, càng khám phá càng cảm thấy sự sâu xa ẩn bí
của chúng mà đầu óc con người khó có thể
nghĩ ra được. Các tín đồ các tôn giáo này
cũng tin rằng những kinh điển ấy là do chính
Thượng Đế mạc khải cho họ qua các tác
giả viết kinh (chẳng hạn trong Ấn giáo, Hồi
giáo, Cao Đài giáo…)
– Tôn giáo nào
cũng chủ trương phải giác ngộ một
Thực Tại Tối Hậu có những thuộc tính
căn bản như Thiên Chúa của Kitô giáo: tự hữu,
không sinh không diệt, tuyệt đối, duy nhất, vô
biên, siêu việt, không thay đổi, làm nền tảng
hiện hữu cho tất cả muôn loài vạn vật, v.v…
(1) Thực Tại Tối Hậu ấy
chỉ khác với Thiên Chúa của Kitô giáo ở một vài
thuộc tính phụ thuộc (2) như: có ngôi
vị chứ không phải vô ngă vị, tạo dựng
chứ không phải thể hiện thành vạn vật,
đầy yêu thương chứ không phải vô t́nh
đối với vạn vật, toàn thiện chứ không
phải siêu việt thiện ác… (3)
– Những
giáo lư hay kinh điển ấy cũng có khả năng giáo
hóa dân chúng rất cao và hữu hiệu, không phải chỉ
về mặt luân lư mà c̣n về mặt tâm linh. Chính nhờ
có các tôn giáo như Ấn, Phật, Khổng, Lăo, mà một
thế giới «phi Kitô giáo» (4) như Á Châu,
mới có được một đời sống tâm linh
cao, và một nền luân lư tốt đẹp như
hiện nay, không đến nỗi quá kém so với thế
giới «Kitô giáo» của Âu
châu.
– Trong
thực tế, các tôn giáo ấy đă đào tạo nên
biết bao con người rất tuyệt vời, khá hoàn
hảo, sáng suốt, vị tha, dũng cảm, nhiều
khả năng hy sinh… Rất nhiều người đă t́m
được ư nghĩa của đời sống,
cảm thấy được giải thoát khỏi
những ràng buộc trần thế, và sống một
cuộc đời rất siêu thoát nhờ giáo lư vi diệu
của những tôn giáo ấy.
V́
thế, nhiều thần học gia Á Châu đă có những
khuynh hướng mềm dẻo, bao dung, chấp nhận và
đề cao các tôn giáo ấy như những cách nh́n khác
với Kitô giáo về Thiên Chúa – vốn có thể
được nh́n dưới nhiều khía cạnh khác nhau
theo quan niệm thực tại đa diện – và cũng có
khả năng cứu độ con người. Và cứ
theo lẽ ấy, đương nhiên các vị giáo chủ
của các tôn giáo ấy cũng là những đấng
cứu độ thế giới.
Tuyên
ngôn Dominus Jesus mô tả những khuynh hướng rộng
răi đó như sau: «Trong suy tư thần học
đương thời, thường xuất hiện
một sự nhích gần lại với Chúa Giêsu thành
Nadarét, xem Người như là một gương mặt
lịch sử, giới
hạn, cá biệt.
Người mạc khải thần linh không phải một cách độc chiếm,
nhưng một cách bổ sung
với các khuôn mặt khác có
tính thiên khải và cứu độ. Mầu nhiệm vô
tận, tuyệt đối và tối hậu của Thiên
Chúa như vậy được tỏa ra cho nhân loại bằng nhiều cách thức và
qua nhiều gương
mặt lịch sử: Đức Giêsu thành Nadarét là một trong những khuôn
mặt đó. Cụ thể hơn, đối với
một số người, Đức Giêsu là một trong các gương mặt Ngôi Lời
đă nhận lấy trong ḍng thời gian để giao
tiếp với nhân loại trong một
phương cách cứu rỗi» (Tuyên ngôn Dominus Jesus, no
9, §1). Tuyên ngôn nói thêm: «Để biện minh tính phổ quát
của mạc khải Kitô giáo cũng như thực
tại đa nguyên tôn giáo, người ta nêu lên một
nhiệm cục của Ngôi Lời vĩnh cửu, cũng
có giá trị bên ngoài Giáo Hội, và không liên hệ ǵ với
Giáo Hội, bổ sung cho
nhiệm cục Ngôi Lời nhập thể. Nhiệm
cục thứ nhất có giá trị phổ biến hơn
nhiệm cục thứ hai, v́ nhiệm cụ thứ hai
chỉ dành cho người Kitô hữu, mặc dù sự
hiện diện của Thiên Chúa tràn đầy hơn trong
nhiệm cục thứ hai» (Dominus Jesus, no 9, §2)
Chính v́
có những khuynh hướng thần học đại
loại như thế trong giới thần học của
Giáo Hội Công giáo, nên để chỉnh đốn, Giáo
Hội đă phải xác định lại rơ ràng lập
trường của ḿnh qua tông huấn Ecclesia in Asia, và nhất là mới đây qua tuyên
ngôn Dominus Jesus.
Lập trường của Giáo Hội qua Dominus Jesus
Quan
niệm thần học vừa nói trên có khuynh hướng
coi Đức Giêsu chỉ là một trong nhiều khuôn
mặt vĩ đại đem lại nguồn mạc
khải và cứu độ của Thiên Chúa. Điều này
chắc chắn làm giảm thiểu hoặc xóa bỏ tính
duy nhất trong vai tṛ cứu độ của Đức
Giêsu. Để chỉnh lại quan niệm quá rộng răi
này, tuyên ngôn Dominus Jesus xác
định rơ lập trường trước sau như
một của Kitô giáo:
– «Cần
phải tin vững vàng giáo lư đức tin về tính
độc nhất của nhiệm cục cứu rỗi
theo ư muốn của Thiên Chúa Ba Ngôi» (Dominus Jesus, no
11, §1).
– V́ Thánh Kinh
nói rơ: «Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một
Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người,
đó là một con người, Đấng tự hiến
và làm giá chuộc mọi người (1 Tm 2,4-6)» (Dominus Jesus,
no 13, §3). «Ngoài Người ra, không ai đem lại
ơn cứu độ, v́ dưới gầm trời này,
không có một Danh nào khác đă được ban cho nhân
loại để chúng ta nhờ vào đó mà được
cứu độ (Cv 4,12)» (Dominus Jesus, no 13, §2).
– V́ thế:
«Phải tin vững vàng như một chân lư đức tin
Công giáo, là ư muốn cứu độ phổ quát của
một Thiên Chúa Ba Ngôi được ban tặng và hoàn thành
dứt khoát một lần trong mầu nhiệm nhập
thể, tử nạn và phục sinh của Con Thiên Chúa»
(Dominus Jesus, no 14, §1).
Suy tư thần học
Trong
khuôn khổ bài báo này, chúng ta không tranh biện vấn
đề, mà chỉ đơn thuần chấp nhận
giáo huấn của Giáo Hội. Có điều là phải t́m
cách hiểu giáo huấn của Giáo Hội sao cho phù hợp
với sự đ̣i hỏi của lư trí ḿnh.
Vấn
đề nan giải và gây nhiều lẫn cẫn nhất
vẫn là làm sao dung ḥa được:
– giữa tính duy
nhất của vai tṛ cứu độ do Đức
Giêsu Kitô và tính phổ quát của
sự cứu độ. Hay nói cách khác, giữa vai tṛ
cứu độ duy nhất của Đức Giêsu Kitô và vai
tṛ cứu độ của các tôn giáo khác.
– giữa việc coi các tôn giáo khác cũng là
môi trường cứu độ của Thiên Chúa (do đó
mọi người trong các tôn giáo khác cũng
được cứu độ nếu họ trung thành
sống đúng với truyền thống của tôn giáo
họ)(5), và sự cần thiết phải
truyền giáo, phải phổ biến sứ điệp
Kitô giáo.
Nhận
vế trước th́ dường
như đồng nghĩa với phủ nhận vế
sau, và ngược lại. Vậy, phải dung ḥa cách nào
giữa hai vế ấy?
Về sự cứu độ phổ quát
nhưng duy nhất của Chúa Kitô
a) Thiên Chúa
toàn năng, là Đấng đă tạo dựng vũ
trụ vạn vật với muôn h́nh muôn vẻ khác biệt
nhau. V́ thế, để cứu độ mọi
người và mặc khải sự thật cứu độ
của Ngài cho toàn thể nhân loại, chắc chắn Ngài
không thể chỉ dùng một phương tiện nghèo nàn
duy nhất, mà sẽ dùng đủ mọi phương
tiện khác nhau. T́nh yêu vô biên của Ngài hẳn nhiên thúc
đẩy Ngài sáng kiến ra nhiều phương cách
hết sức có thể để cứu độ, không
chỉ nhân loại mà c̣n cả vũ trụ nữa.
Tương
tự như chính quyền một nước muốn
cứu toàn dân khỏi những tai họa khủng khiếp
nào đó. Nếu thực sự muốn cứu toàn thể
dân chúng, chắc chắn chính quyền ấy sẽ không
chủ trương chỉ thông báo về tai nạn đó
duy nhất trên một tờ báo mà chỉ có 1/3 dân số
đọc mà thôi, hay chỉ dành cho một cơ quan xă
hội nào đó độc quyền ban phát những
phương tiện hết sức cần thiết đó.
Nếu chính quyền hành động kiểu ấy, ắt
nhiên ai cũng hiểu họ muốn hạn chế ở
một mức nào đó số người được
cứu. Do đó, sự khôn ngoan hợp lư đ̣i hỏi
chính quyền đó phải dùng bất cứ phương
tiện nào ḿnh có được, để mọi công dân
trong nước – không trừ ai – đều biết
được những thông tin quan trọng cần
thiết và đều có được các phương
tiện cần thiết để được cứu.
Như
thế, chắc chắn các tôn giáo khác cũng đóng
một vai tṛ quan trọng trong công tŕnh cứu độ
của Thiên Chúa. V́ đa số hay 2/3 nhân loại nằm
trong các tôn giáo ấy, trong khi Kitô giáo chỉ chiếm
thiểu số hay 1/3, nên muốn cứu rỗi nhân
loại, th́ chắc hẳn Thiên Chúa đă muốn dùng
tới các tôn giáo ấy. Nếu không muốn như thế,
th́ ắt nhiên với tư cách là chủ tể của
lịch sử, Người sẽ không để cho các tôn
giáo khác ra đời trước Kitô giáo cả 5, 6 trăm
năm, và để Kitô giáo vắng bóng tại Á Châu măi cho
đến thế kỷ thứ 15, 16. Hiện nay Giáo
Hội cũng đă xác nhận các tôn giáo là những môi
trường cứu độ của Thiên Chúa, trong đó
có Thánh Thần của Ngài hoạt động. V́ thế,
những người trong các tôn giáo khác nếu sống
đúng theo tinh thần truyền thống tôn giáo của
họ, th́ họ vẫn được cứu rỗi
nhờ sống như thế. Đương nhiên, theo
niềm tin của người Kitô hữu, họ
được cứu rỗi là do máu của chính
Đức Kitô đă đổ ra. Có như thế th́ sự
cứu độ của Đức Kitô mới mang tính
phổ quát được. Nếu không, sự cứu
độ chỉ hạn hẹp trong Kitô giáo chứ không
phải trải ra cho toàn nhân loại.
b) Ơn
cứu độ phổ quát theo quan niệm Kitô giáo trước tiên phát xuất
từ một ḿnh Thiên Chúa, kế đến qua một ḿnh Đức Giêsu
Kitô là trung gian cứu độ duy nhất giữa con
người với Thiên Chúa. Nhưng sau đó, giữa Đức Kitô và nhân loại
(nghĩa là ở mức độ thấp hơn) có
thể c̣n có nhiều trung gian khác (chẳng hạn: các giáo
chủ các tôn giáo, các nhà truyền giáo, các thừa tác viên
trong Giáo Hội, v.v...). Điều này không làm tổn
thương tới tính duy nhất trong vai tṛ trung gian
của Đức Giêsu Kitô giữa Thiên Chúa và loài
người (x. 1 Tm 2,5).
V́
thế, các vị giáo chủ các tôn giáo có thể là những
vị cứu thế, nhưng ở những mức
độ khác với mức độ của Đức
Giêsu Kitô. Chỉ có một nguồn ơn cứu độ duy nhất, là Thiên Chúa qua
Đức Giêsu Kitô, nhưng sau đó nguồn ấy có
thể đến với mọi người qua vô số ngả khác nhau. Không
nên nghĩ rằng nguồn cứu độ duy nhất
đó lại chỉ đến với con người qua
một ngả duy nhất nữa. Thế th́ ơn cứu
độ làm sao phổ quát được?
Về sự cần thiết của
việc truyền giáo
Khi nh́n
nhận các tôn giáo khác là những môi trường cứu
độ của Thiên Chúa, có Thánh Thần của Ngài
hoạt động trong các tôn giáo, và các tín đồ tôn
giáo khác có thể được cứu độ trong
truyền thống tôn giáo của họ, th́ sẽ phát sinh
một vấn đề mới là: như thế th́ đâu
cần thiết phải truyền giáo nữa?
Thật
ra, việc truyền giáo của Kitô giáo không thể v́
thế mà mất ư nghĩa hay trở nên không cần
thiết (6). V́:
· Bản chất của việc truyền giáo là Phúc
âm hóa (7) các dân tộc, tức làm cho họ
sống theo tinh thần Tin Mừng, hơn là Kitô hóa, tức
làm cho họ trở nên Kitô hữu. Có nhiều Kitô hữu
cần phải được tái Phúc âm hóa đang khi có
những người ngoại giáo lại sống đúng
tinh thần Phúc Âm hơn nhiều người Kitô giáo.
Nếu Đức Kitô đă ra lệnh cho chúng ta truyền
giáo hay Phúc âm hóa các dân tộc, rửa tội cho họ, th́
chúng ta cứ việc thi hành điều đó. Vậy, chúng
ta thi hành điều đó không phải v́ nếu
người ta không vào Kitô giáo th́ sẽ không được
cứu rỗi, mà v́ thế giới cần phải
được Phúc âm hóa để trở thành Nước
Trời, và v́ đó là lệnh truyền của Đức
Kitô.
Hiện
nay thế giới đang càng ngày càng xa rời tinh thần
Phúc Âm, thậm chí trong Kitô giáo. Chính các tôn giáo khác một cách nào đó cũng
đang Phúc âm hóa thế giới, theo cách thức riêng
của họ. Chúng ta cần trân trọng cách thức
của họ. Trong bối cảnh nh́n nhận các tôn giáo
khác cũng là những môi trường cứu độ
của Thiên Chúa, th́ vấn đề cần phải
đặt ra là xác định lại: truyền giáo là ǵ?
Phúc Âm hóa là ǵ? vai tṛ của Giáo Hội đối với
thế giới là ǵ?
· Chúng ta cứ việc làm chứng cho Chúa Kitô
trước thế giới trong cung cách khiêm cung của Chúa
Kitô. Cách thức làm chứng cho Ngài có thể c̣n quan
trọng hơn chính việc làm chứng của
chúng ta. Làm chứng một cách đầy kiêu hănh,
đề cao tôn giáo của ḿnh một cách không thích đáng
th́ c̣n tệ hại hơn cả việc không làm chứng.
Chứng từ của ta nhiều khi hệ tại cách làm
chứng hơn là nội dung làm chứng. Cách
ta làm chứng có thể nói lên bản chất Kitô hữu
của ta nhiều hơn là nội dung lời chứng
của ta, và do đó, có sức lôi cuốn hơn.
· Nếu thực tại có nhiều mặt và các
mặt đó khác nhau, th́ chân lư ắt cũng có nhiều
mặt và có nhiều cách diễn tả khác nhau. Điều
quan trọng là người Kitô hữu phải nhận ra
được Lời hay Chân Lư của Chúa Kitô trong cách
diễn tả của các tôn giáo khác. Chúng ta thử nghĩ
xem nếu Đức Kitô nhập thể làm người
trong một nền văn hóa khác với văn hóa Do Thái
(chẳng hạn văn hóa Trung Hoa hay Ấn Độ), th́
Ngài sẽ nói ǵ và nói thế nào để
diễn tả Chân lư của Ngài cho phù hợp với văn
hóa và hoàn cảnh dân tộc ấy. Và thử nghĩ xem
nếu khởi đầu thần học truyền
thống được suy tư và khai triển trong
một nền văn hóa khác với văn hóa của Tây
Phương (chẳng hạn văn hóa Đông
Phương), th́ thần học đó sẽ thế nào? (8)
Lúc đó, chắc hẳn diễn tả Chân lư của
Đức Giêsu sẽ khác với cách Ngài đă diễn
tả trong nền văn hóa Do Thái, cũng như cách
hiểu và diễn tả Thiên Chúa của thần học
truyền thống sẽ không cùng một cách như chúng ta
đang có hiện nay trong Giáo Hội, vốn mang nặng
sắc thái văn hóa và năo trạng nhị nguyên của Tây
phương. Thực tại và chân lư chỉ có một,
nhưng có vô số cách nh́n và cách diễn tả khác nhau
ứng với vô số mặt khác nhau của thực
tại: khác nhau nhưng đều đúng và bổ túc
lẫn nhau (định luật đa diện và đa
dạng trong vũ trụ).
Cách
diễn tả Thiên Chúa hay chân lư của các tôn giáo có thể
rất khác với cách diễn tả của chúng ta, và
những phương diện của chân lư mà họ
chứng nghiệm được cũng có thể khác
với phương diện mà chúng ta cảm nghiệm
được. Chúng ta nên t́m hiểu những phương
diện và những cách diễn tả đó để có
thể hiểu sâu, rộng và toàn diện hơn mầu
nhiệm Thiên Chúa và chân lư của Chúa Kitô. Vấn đề
là: khả năng diễn tả của ngôn ngữ và
khả năng hiểu về mầu nhiệm Thiên Chúa
của con người th́ rất giới hạn. Những
ǵ có thể nói về Thiên Chúa siêu việt th́ luôn luôn
vượt khỏi ngôn ngữ, vượt khỏi
những định thức diễn tả. Thánh Kinh hay
Lời Chúa là những định thức diễn tả
mầu nhiệm Thiên Chúa bằng ngôn ngữ loài
người, cho dù do Chúa Giêsu Kitô nói ra, cũng phải
được hiểu là rất giới hạn so với
mầu nhiệm bao la và đa diện ấy (9).
V́ thế, những cách diễn tả của các tôn giáo khác
vẫn có thể bổ túc hay làm phong phú hóa cách hiểu
của người Kitô hữu về mầu nhiệm Thiên
Chúa.
Cho
rằng Lời của Đức Giêsu Kitô được
hiểu theo cách thức của Giáo Hội là hoàn toàn
đầy đủ về Thiên Chúa, th́ như thế
quả là coi mầu nhiệm Thiên Chúa quá giới hạn và
tầm thường đến nỗi ngôn ngữ con
người có thể nói hết, và trí óc con người có
thể hiểu hết. Đang khi đó, những
điều nói về thế giới hữu hạn này th́ cho
tới nay con người hết thế hệ này sang
thế hệ kia nói hoài vẫn chưa hết. Nỗ
lực t́m hiểu thế giới và vũ trụ này
của nhân loại nhiều gấp bội nỗ lực
t́m hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa, thế mà khoa học
càng tiến th́ lại càng thấy quá nhiều điều
ḿnh chưa biết về thế giới và vũ trụ
vốn hữu hạn này. Lẽ nào những điều nói
về Thiên Chúa vô hạn trong Kinh Thánh, trong các kinh
điển Kitô giáo đă đầy đủ cả, không
có ǵ cần phải thêm vào nữa? Thiên Chúa ấy c̣n
hữu hạn và dễ hiểu hơn cả thế
giới nhỏ bé này chăng? Thiên Chúa ấy có phải là
vị «Thiên Chúa đă dựng
nên con người theo h́nh ảnh của Ngài», hay là
vị «Thiên Chúa đă
được con người tạo dựng nên theo h́nh
ảnh của họ» (10)? V́ con
người hữu hạn, nên «Thiên
Chúa» mà ḿnh tạo nên cũng hữu hạn giống
như ḿnh. «Thiên Chúa» hữu
hạn do con người nặn ra như thế có phải
là Thiên Chúa hay là một ngẫu tượng? Một «Thiên Chúa» như thế với
con ḅ vàng – mà dân Do Thái xưa đă đúc nên để
thờ khi Mô-sê lên núi gặp Gia-vê (xem Xh 32,1-6) – có những
điểm nào khác nhau?
Đúng
hơn nên hiểu rằng: tất cả mọi cách
diễn tả về Thiên Chúa của con người, cho dù
là của Đức Kitô, của các vị Giáo chủ khác,
cũng như của Giáo Hội và của các tôn giáo khác
cộng lại, cũng không thể diễn tả hết
được mầu nhiệm vô cùng phong phú và đa
diện của Thiên Chúa. Hiểu như thế, ta sẽ
thấy được chỗ đứng hay vai tṛ của
các tôn giáo khác. Những ǵ có thể diễn tả về
Thiên Chúa mà chưa diễn tả ra, chắc chắn
nhiều hơn gấp bội những ǵ đă từng
được diễn tả. Tương tự như
những ǵ con người chưa biết, chưa nói
chưa viết, hoặc có thể nói và viết về
vũ trụ hay thế giới hữu hạn này th́
nhiều hơn gấp bội so với những ǵ con
người đă biết, đă viết hay đă nói ra
được. V́ thế, hết thế hệ này sang
thế hệ khác, con người vẫn có cái mà khám phá
về thế giới này. Thế giới hữu hạn này
mà c̣n thế, huống ǵ Thiên Chúa!
Vả
lại, mặc khải về Thiên Chúa qua Đức Giêsu
Kitô không phải là duy nhất: Thiên Chúa c̣n tự mặc
khải về Ngài qua thiên nhiên, qua lương tâm con
người, và đặc biệt qua các ngôn sứ. Các ngôn
sứ không chỉ có trong Do Thái giáo, mà chắc chắn c̣n có
trong các tôn giáo khác, các nền văn hóa khác nữa. Những
nguồn mặc khải đó có thể bổ túc hoặc
soi sáng lẫn nhau, hay cho sự hiểu biết hạn
hẹp của ta về mầu nhiệm Thiên Chúa.
· Nếu chấp nhận có Thiên Chúa hoạt
động qua Thánh Thần của Ngài trong các tôn giáo khác,
th́ người Kitô hữu chúng ta phải tập nh́n ra cách
hiện diện của Thiên Chúa và sự hoạt
động của Thánh Thần Ngài trong các tôn giáo ấy.
Để phù hợp với từng nền văn hóa,
từng dân tộc, th́ cách hiện diện và hoạt
động ấy có thể rất khác với cách hiện
diện và hoạt động của Ngài trong tôn giáo
của chúng ta. Và nếu có Thiên Chúa hoạt động qua
Thánh Thần của Ngài trong các tôn giáo khác, th́ chắc chắn
tín đồ các tôn giáo ấy có thể tham dự vào
mầu nhiệm Thiên Chúa, và gặp gỡ Chúa Kitô một cách
nào đó khác với cách thức của chúng ta. Có thể
cách của chúng ta không phải là duy nhất. Điều này
đă được Công Đồng Vatican II xác nhận
(xem Vui mừng và hy vọng,
no 22, §5).
· Vấn đề truyền giáo không phải là làm
sao để người khác tôn giáo với chúng ta gặp
gỡ Thiên Chúa hay Chúa Kitô theo
cách thức mà chúng ta đă từng kinh nghiệm, mà theo
cách thức riêng biệt Chúa dành cho họ. Điều quan
trọng là họ có thật sự gặp được
Đức Kitô và Thánh Thần của Ngài, đồng
thời có thật sự hưởng được
những ân sủng thánh hóa và biến đổi đời
sống họ hay không. Kinh nghiệm của những
người sinh hoạt trong nhiều tôn giáo để giúp
các tín đồ sống đúng tinh thần tôn giáo họ
là: khi giúp một người Kitô hữu biết nội tâm
hóa Đức Kitô, để có thể cảm nghiệm
được t́nh trạng «tôi
sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô
sống trong tôi», và khi giúp một người Phật
tử biết nội tâm hóa Đức Phật, để
họ cảm nghiệm được rằng «tâm ḿnh chính là Phật», th́
người ta thấy đời sống tâm linh của hai
người thay đổi và phát triển tương
tự như nhau. Đức Kitô và Đức Phật là hai
nhân vật lịch sử khác nhau, nhưng khi
được nội tâm hóa trong mỗi người, th́
hai vị ấy dường như chỉ
là hai danh từ khác nhau của cùng một thực tại
sống động duy nhất – mà tôi nghĩ đó là Thánh
Thần – v́ có tác động rất giống nhau trên tâm
hồn của con người.
· Về những câu Thánh Kinh nói về tính phổ
quát và duy nhất của Chúa Kitô, chúng ta cần xác
định lại một cách có nền tảng
(foundational), nhưng không nên hiểu hay chú giải những
câu ấy một cách quá cố chấp theo nghĩa đen
(fundamentalist).
Suy tư mục vụ
Khó khăn trong việc loan báo Đức
Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất của
nhân loại
Số
19 và 20 của tông huấn Giáo Hội tại Á châu nhấn
mạnh tới đối tượng chính của việc
loan báo Tin Mừng là xác định: Chúa Giêsu Kitô là Đấng
Cứu Thế duy nhất của nhân loại.
Tại
Á châu đă có nhiều tôn giáo lớn, mà trong đó Kitô giáo
chỉ là thiểu số. Về mặt lư thuyết, do
ảnh hưởng của triết lư động và đa
diện, các tôn giáo Á châu có tính dung nạp cao, nghĩa là có
thể chấp nhận rằng các tôn giáo khác ḿnh cũng
đúng. Nói khác đi, hầu như mỗi tôn giáo Á châu
đều có thể nh́n nhận giáo chủ của các tôn
giáo khác cũng là những vị có thiên cảm, do từ
trên sai xuống, hay là Đấng cứu thế. V́ thế,
các tín đồ tôn giáo khác có thể chấp nhận
Đức Giêsu là một Đấng Thiên Sai, một vị
cứu tinh của nhân loại, một vị có nguồn
gốc thần linh, v.v… mà không có ǵ trở ngại với
lư thuyết của họ.
V́
thế, nếu Kitô giáo loan báo Đức Giêsu Kitô là một
Đấng cứu tinh của nhân loại, th́ điều
đó không có ǵ trở ngại và được rất
nhiều người công nhận, cho dù trong các tôn giáo khác.
Nhưng nếu người Kitô hữu muốn đi xa
hơn, là rao giảng Đức Giêsu Kitô là Đấng
cứu độ duy nhất, th́ quả thực
điều này thực khó chấp nhận đối
với những người đang theo một tôn giáo Á châu
khác. Những tín đồ các tôn giáo ấy nếu chưa
được đào tạo, hay chưa có một căn
bản sâu xa về giáo thuyết tôn giáo th́ c̣n có thể
dễ dàng chấp nhận điều ấy. Nhưng
đối với những tín đồ đă chịu
ảnh hưởng sâu xa giáo lư của các tôn giáo ấy,
điều ấy quả rất khó chấp nhận.
Nh́n
nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Tinh duy
nhất, đồng nghĩa với phủ nhận tính
cứu tinh của vị giáo chủ họ đang theo. V́ «duy nhất» có nghĩa là
chỉ người ấy, vật ấy chứ không c̣n ai
hay cái ǵ khác. Thật vậy, nói «Đức
Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất» cũng
đồng nghĩa với nói: «Đức
Phật không phải là Đấng cứu độ đâu
nhé ! Các giáo chủ khác cũng vậy». Câu nói ấy có
thể làm tổn thương tín đồ các tôn giáo khác,
và làm sứt mẻ t́nh đoàn kết giữa Kitô giáo và các
tôn giáo khác. Trong xă hội, ta có quyền tin rằng ḿnh là
người giỏi hay đạo đức nhất
thế giới, và không ai có quyền trách cứ ta. Nhưng
tuyên bố điều đó ra trước công chúng sẽ
gây xúc phạm đến nhiều người khác, v́ nói
như thế đồng nghĩa với nói «tất cả mọi
người đều kém tôi !».
Cũng
nên nghĩ rằng không chỉ trong Kitô giáo, mà trong bất
kỳ tôn giáo nào, các tín đồ đều tin rằng
vị giáo chủ của tôn giáo ḿnh là Đấng cứu
tinh «Số Một», lớn
nhất, vĩ đại nhất – chứ không nhất
thiết là duy nhất – của nhân loại. Nếu tin khác
th́ họ đâu c̣n ở trong tôn giáo ấy làm chi nữa. V́
thế, Đức Giêsu đối với họ, nếu có
là vị cứu tinh, th́ chắc chắn phải là một
vị cứu tinh nhỏ hơn giáo chủ của họ.
Việc rao giảng hay xác định Đức Giêsu Kitô là
Đấng cứu độ lớn nhất th́ họ c̣n
có thể chấp nhận được, v́ họ cũng
xác định tương tự như vậy về giáo
chủ của họ. Nhưng xác định giữa
thế giới rằng Ngài là Đấng cứu độ
duy nhất, th́ đối với họ, có thể là
một điều xúc phạm, chạm tự ái tập
thể, hay ít nhất là chói tai, khó có thể chấp
nhận được. Chắc chắn rằng chạm
tự ái tập thể th́ khiến người ta dễ
nổi giận, dễ gây mất thiện cảm hơn là
chạm tự ái cá nhân.
Thiết
tưởng chúng ta cần nhậy bén hơn trong vấn
đề tâm lư này. Cứ đặt ḿnh vào địa
vị của họ th́ sẽ dễ hiểu hơn.
Giả như có tôn giáo nào xác định một cách công khai
trên những phương tiện truyền thông xă hội
rằng chỉ có vị giáo chủ của họ là vị
cứu tinh duy nhất của nhân loại, ta sẽ suy
nghĩ thế nào. Chắc chắn chúng ta sẽ nghĩ
rằng xác định ấy quả là hợm hĩnh,
thậm chí trâng tráo, và chúng ta khó có thiện cảm với
một tôn giáo như thế. V́ chưa ǵ hết, tôn giáo
ấy đă xúc phạm đến vị giáo chủ mà ḿnh
sùng thượng trên hết mọi người rồi.
Như thế, họ đă làm chúng ta mất thiện
cảm ngay từ đầu, và những ǵ họ rao
giảng về vị giáo chủ của họ đều
trở nên tiên thiên không thể chấp nhận
được. Tục ngữ có câu: «Yêu nhau th́ trái ấu cũng tṛn, ghét nhau th́ trái bồ
ḥn cũng méo».
Một
điều rất đáng lưu ư là cần phải xác
định lại ư nghĩa của từ «cứu độ» trong Kitô giáo và trong các tôn giáo.
Chúng ta không thể phủ nhận tính cứu độ hay
giải thoát cũng như khả năng, giá trị
cứu độ và giải thoát trong các tôn giáo khác. Khi
một người Kitô hữu tuyên xưng Đức Kitô
là Đấng Cứu độ duy nhất, th́ chắc
chắn từ «cứu
độ» ấy hoàn toàn không có nghĩa chung chung như
trong tự điển hay như mọi người
thường hiểu. Nhưng nó có một ư nghĩa đặc
thù mà chỉ người Kitô hữu mới thường
hiểu đúng theo quan niệm cánh chung luận riêng
biệt của họ. Nếu từ «cứu độ» ấy chỉ mang một ư
nghĩa cá biệt, và theo ư nghĩa ấy th́ chỉ có
một ḿnh Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu thế
mà thôi (Nếu thế th́ từ «cứu
độ» ấy cần phải để trong
ngoặc kép v́ nó không theo nghĩa thông thường mà theo
một nghĩa rất đặc biệt), th́ lời tuyên
xưng mang tính loại trừ ấy – nếu không
được giải thích rơ ràng và đúng đắn
một cách công cộng để ai cũng hiểu – không
nên đem phổ biến ở những chỗ công
cộng, nơi tất cả mọi người
đều có thể nghe hay nh́n thấy. Nếu từ «cứu độ» ấy mà
hiểu theo nghĩa chung trong tự điển như
mọi người vẫn thường hiểu, th́ từ
«duy nhất» trong câu ấy
là hoàn toàn sai. Biết bao nhiêu người đă từng
cứu độ cả thế giới nhờ những
phát minh khoa học, những sáng kiến chính trị,
hoặc những giáo lư tôn giáo, v.v…
Phương cách loan báo Đức Giêsu Kitô
là Đấng cứu độ duy nhất
Tuy
nhiên, người Kitô hữu vẫn có bổn phận
phải tin, đồng thời tuyên xưng và rao truyền
chân lư ấy cho mọi người. Đó là một thách
đố hết sức gay go cho người Kitô hữu.
Về Công Đồng này, tông huấn Giáo Hội tại Á
Châu chủ trương rằng phải «nói sự thật trong t́nh bác ái». V́ thế, dù có
kính nể các tôn giáo khác đến đâu th́ chúng ta cũng
phải mạnh dạn rao giảng điều ḿnh tin hay
xác tín. Để «nói sự
thật trong t́nh bác ái» một cách tốt đẹp và có
hiệu quả trong hoàn cảnh hết sức phức
tạp tại Á châu này, tông huấn Giáo Hội tại Á Châu
đă đề nghị: «Muốn
giới thiệu Đức Giêsu Kitô là Vị Cứu Tinh duy
nhất, chúng ta cần phải theo một phương pháp
sư phạm, đưa người ta dần dần
tới chỗ thủ đắc trọn vẹn mầu
nhiệm ấy» (Ecclesia
in Asia, no 20, §5). Và tông huấn đă đề ra
một tiến tŕnh mang tính tiệm tiến gồm hai
bước: bước đầu là «phúc âm hóa sơ khởi cho những người ngoài
Kitô Giáo» (nt), nghĩa là những người chưa tin,
và bước sau là «tiếp
tục loan báo Đức Giêsu cho những người
đă tin» (nt). Đó là «hai
công việc phải
được tiến hành khác nhau» (nt). Do đó,
việc tuyên xưng chân lư này phải được
tiến hành lần lượt theo hai giai đoạn hay hai
bước:
· Nói
với người chưa tin, nghĩa là với
những người c̣n ở trong các tôn giáo khác, ta chỉ
nên xác định Đức Giêsu Kitô là vị cứu tinh,
ít ra cũng là một vị cứu tinh như các vị giáo
chủ khác. Tông huấn chủ trương «phải giới thiệu
Đức Giêsu Kitô như Đấng thỏa măn những
khát vọng sâu xa của con người, được
diễn tả qua các thần thoại và văn chương
dân gian của các dân tộc Châu Á» (Ecclesia in Asia, no
20, §5). Nói như thế, người chưa tin có thể
chấp nhận được. Từ chấp nhận
đến tin theo là một bước tương đối
có thể thực hiện được. Sau khi chấp
nhận Đức Giêsu cũng là một vị cứu tinh
của nhân loại, họ có thể t́m hiểu về đời
sống, các lời nói, việc làm và giáo huấn của
Ngài, nhờ đó, họ bắt đầu tiếp xúc
với Ngài bằng cầu nguyện. Điều quan
trọng trong thời gian này là làm sao để họ có
được sự tiếp xúc cá nhân với Đức
Kitô. Và một khi họ đă cảm nghiệm
được sự hiện diện và tác động có
thực của Ngài trong đời sống họ, và
nhận ra Ngài đem lại b́nh an và hạnh phúc cho tâm
hồn họ, th́ họ sẽ gắn bó với Ngài
nhiều hơn.
· Nói với người đă tin: Từ việc tin
Ngài là một Đấng Cứu Thế của nhân
loại, và nhất là từ việc cảm nghiệm
được Ngài đến việc tin Ngài là Đấng
cứu tinh duy nhất của nhân loại cũng là một
bước có thể xảy ra. Và bước thứ hai này
cũng phải là một bước phối hợp
chặt chẽ giữa tác động thần linh và siêu
nhiên của Đức Kitô và Thánh Thần của Ngài,
với sự thúc đẩy khích lệ bằng lư
thuyết, gương sáng và t́nh cảm mang tính nhân loại
của ta.
Một
tiến tŕnh tiệm tiến gồm hai bước như
thế giúp ta thực hiện được tốt
đẹp và hữu hiệu chủ trương của
tông huấn Giáo Hội tại Á Châu là phải «nói sự thật trong t́nh bác ái»
về Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ
duy nhất.
Nếu
đối với những người chưa tin mà ta
đă vội vă đốt giai đoạn, áp dụng ngay
bước thứ hai, là xác định Đức Giêsu Kitô
là Cứu Chúa duy nhất, th́ chẳng những vô bổ mà
c̣n có hại nữa. Nó làm cho người chưa tin c̣n
ở trong các tôn giáo khác mất thiện cảm với ta,
đồng thời có thành kiến xấu và dị ứng
với lời xác định đó. Hành động như
thế chỉ cho thấy là chúng ta rao giảng một cách
không có kế hoạch và thiếu khôn ngoan. Thật là
chướng mắt đối với các tín đồ tôn
giáo khác khi thấy ở cuối các nhà thờ Công giáo có
biểu ngữ «Đức
Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất của
nhân loại». Một khi họ đă thấy
chướng mắt và bực bội v́ bị xúc phạm,
th́ lời tuyên xưng ấy c̣n tác dụng ǵ tích cực
đối với họ nữa, nếu không muốn nói là
hoàn toàn phản tác dụng?
Sự
thật không phải lúc nào, nơi nào cũng nên nói và có
thể nói một cách trắng trợn. Nói lúc nào, nói ở
đâu mới thuận lợi, hay nói trong hoàn cảnh nào và
nói thế
nào mới thích hợp, đó là những điều
quan trọng không kém việc phải nói cái ǵ, nhất là khi
phải rao giảng một sự thật chói tai. Hăy rút ra
bài học từ kinh nghiệm chua chát của thánh Phaolô
tại Athêna trước hội đồng Arêôpagô. Các trí thức
Hy Lạp đang thích thú và say mê nghe thánh Phaolô giảng
về Thiên Chúa và về Đức Kitô. Xem ra họ có
thiện cảm với bài giảng của ngài. Nhưng khi
ngài vừa đề cập tới sự sống lại,
th́ lập tức họ bỏ đi liền, không thèm nghe
nữa, v́ theo quan niệm của họ, việc sống
lại tiên thiên là phi lư (xem Cv 17, 22-34). Đấy là thánh
Phaolô mới nói một điều đi ngược
lại với quan niệm của họ, chứ chưa
đụng chạm ǵ tới tự ái tập thể
của họ. Nếu đụng chạm tới tự ái
tập thể, phản ứng chắc chắn sẽ
mạnh hơn nhiều. Có lẽ thánh Phaolô đă hơi nóng
vội và đốt giai đoạn. Người Hy Lạp
đâu phải là không thể tin việc sống lại,
bằng chứng là hiện nay, đa số người Hy
Lạp tin theo Kitô giáo, nghĩa là họ đă tin việc
Đức Kitô sống lại. Lúc nghe Thánh Phaolô nói, họ chưa
thể – chứ không phải là không thể – tin
được một điều đưa ra quá
đột ngột ngược hẳn lại quan niệm
họ đang có. Một sự thật khó chấp nhận,
th́ cần phải có thời gian và sự chuẩn bị
mới có thể chấp nhận được. Đó là
một luật về tâm lư.
Theo linh
mục Phan đ́nh Cho, là giáo sư và là nhà thần học
quốc tịch Mỹ gốc Việt nổi tiếng,
«vấn đề Đức Giêsu là Đấng Cứu
Độ duy nhất là vấn đề lư thú có lẽ trong
thần học, nhưng là
một kiểu nói vô bổ trong giảng dậy và giáo lư.
Nguyên do là v́ mục tiêu trực tiếp của việc Loan
Báo Tin Mừng là làm cho
người ta đón nhận Đức Giêsu là
«Đấng Cứu Độ của họ» (personal
Savior) – nếu muốn dùng cách nói mà các Ki-tô hữu thuộc
Phong trào Thánh Linh rất thích dùng – chứ không phải là «Đấng Cứu Độ
duy nhất». Điều được nhắm tới
là sự dấn thân có tính cá nhân và trọn vẹn của
người tân ṭng đối với Đức Giêsu,
chứ không phải là sự khước từ việc có
thể có những cách thức khác mà Thiên Chúa có thể dùng
để đến với người khác.
«Câu hỏi
mang tính sống c̣n vượt trên tất cả không
phải là các dân tộc khác có thể được
cứu độ hay không và được cứu
độ bằng cách nào, nhưng là câu hỏi «bằng cách
nào tôi có thể đi vào mối quan hệ cá vị (personal)
với Thiên Chúa một cách sung măn». Khi một người
nào đó đă khám phá ra rằng Đức Giêsu là con
đường giúp người ấy đạt tới
Thiên Chúa th́ lúc đó với kinh
nghiệm cá nhân của ḿnh, người ấy có thể
làm chứng về sự kiện ấy với
người khác. Sức
mạnh và ḷng nhiệt thành của chứng nhân không phát sinh từ sự xác tín
có tính thần học rằng Đức Giêsu là
Đấng Cứu Độ duy nhất nhưng xuất phát từ kinh nghiệm sâu xa rằng
Người là Đấng
Cứu Độ của tôi (personal Savior for me).
«Trong
giảng dậy khi tôi bị hỏi về các tôn giáo khác và
về các khuôn mặt cứu độ khác th́ tôi sẽ
phải công nhận, một cách vui vẻ và biết
ơn rằng các tôn giáo và các khuôn mặt cứu
độ khác có nhiều yếu tố tốt và có sự
hiện diện cứu độ của Thánh Thần Thiên
Chúa nơi họ; nhưng tôi sẽ làm chứng rằng
Đức Giêsu là con đường cho tôi đến
với Thiên Chúa và tôi sẽ mời họ thử đi vào
con đường này xem. Nếu họ chấp nhận
Đức Giêsu là con đường của họ
để tới Thiên Chúa th́ khi
ấy tôi mới cho họ thấy rằng Đức
Giêsu là Đấng Cứu Độ phổ quát và duy
nhất, nghĩa là Đấng Cứu Độ của tôi
cũng như của những người khác» (11).
Kết luận
Chân lư
lúc nào cũng là chân lư. Nhưng nói chân lư th́ không phải lúc
nào, nơi nào, cách nào, gặp đối tượng nào
cũng có thể nói hay nên nói. Một lời nói rất hay
mà nói không đúng lúc, đúng nơi, đúng người,
đúng cách, th́ dù hay cách mấy cũng trở thành dở,
nghĩa là không có tác dụng, không ảnh hưởng
được trên ai, mà thậm chí c̣n gây hiểu lầm,
chê bai. (xem Mt 7,6).
V́
thế, về việc tuyên xưng tính duy nhất của
Đức Kitô, th́ trong nội bộ Giáo Hội, cần
thiết phải rao giảng và nhấn mạnh rằng
Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất
của nhân loại. Một người không tin điều
này th́ không phải là một Kitô hữu đích thực.
Nhưng cần thận trọng và khôn khéo khi diễn
tả niềm tin ấy nơi công cộng, trước các
tín đồ tôn giáo khác. Chẳng hạn không nên tuyên
xưng như thế trên những biểu ngữ
trước các nhà thờ của Giáo Hội, trên những
đài phát thanh công cộng vượt khỏi khuôn khổ
nội bộ Kitô giáo, hay trong những cuốn sách không dành
cho người Kitô hữu. Hăy nhớ lại phản
ứng của một số Phật tử trước
tư tưởng của Đức Gioan-Phaolô II về
Phật giáo viết trong cuốn «Bước vào Hy vọng», được phổ
biến vượt khỏi khuôn khổ nội bộ Giáo
Hội. V́ chữ «duy nhất»
ở đây đồng nghĩa với việc phủ
nhận những vị cứu độ khác, đang khi các
tín đồ tôn giáo khác luôn luôn coi giáo chủ của họ
mới là Đấng cứu độ vĩ đại
nhất.
Tốt
nhất, đối với các tôn giáo khác, người Kitô
hữu nên giữ thái độ khiêm nhường, tự
hạ và bao dung như cách cư xử của Chúa Kitô (12).
Nhưng nếu cần, cũng phải dám nói lên sự
thật của ḿnh, đương nhiên một cách khôn khéo
tế nhị. Điều quan trọng là phải «khiêm mà dũng». Làm như
thế, các tín đồ tôn giáo khác dễ có thiện
cảm và lưu tâm tới sứ điệp mà chúng ta rao
giảng hơn. Sự tự hào của ḿnh sẽ làm cho
người ta ngoảnh mặt đi nhiều hơn là
hấp dẫn họ đến với ḿnh.
Phần chú thích
(1) Thực Tại Tối
Hậu trong các tôn giáo như: Chân Như Phật tính của
Phật giáo, Brahman hay Ishvara của Ấn
độ giáo, Đức Allah của Hồi giáo, Thiên
trong Khổng giáo, Đạo trong Lăo giáo, Thượng
Đế hay Cao Đài Tiên Ông của Cao Đài giáo,
v.v… đều có những đặc tính kể trên.
(2) Những thuộc tính
phụ thuộc này thường được quan
trọng hóa v́ nó làm nổi bật tính khác biệt và
độc đáo của mỗi tôn giáo.
(3) Trong số những tôn giáo
đă kể trên, một vài tôn giáo cũng quan niệm
Thực Tại Tối Hậu có những đặc tính
phụ thuộc giống như Kitô giáo. Chẳng hạn
Hồi giáo, một số giáo phái của Ấn Độ
giáo… quan niệm Đức Allah, Đấng Ishvara… cũng
có ngă vị, cũng toàn thiện, v.v…
(4) Từ của nhà thần
học Aloysius Pieris (Sri Lanca) áp dụng cho Á Châu.
(5) Đây là lập
trường của Giáo Hội Công giáo sau Công Đồng
Vatican II.
(6) Đương nhiên
phải chấp nhận rằng việc truyền giáo không
c̣n được quan niệm là tối cần thiết như
quan niệm trước đây nhiều thế kỷ.
(7) Phúc Âm hóa: làm cho
người ta sống tinh thần của Tin Mừng,
tức tinh thần yêu thương, tự hủy của
Chúa Kitô. Nhiều người không phải là Kitô hữu,
nhưng sống tinh thần Phúc Âm một cách khá hoàn
hảo, như Mahatma Gandhi chẳng hạn. Đó là
điển h́nh cho những trường hợp mà thánh
Phaolô nói: «người không chịu phép cắt b́ mà
giữ những điều Luật dạy, th́ tuy họ
không được cắt b́, Thiên Chúa chẳng coi họ
như đă được cắt b́ rồi sao?» (Rm
2,26).
(8) Văn hóa Tây phương
dựa trên một tri thức luận tĩnh, đơn
diện và nhị nguyên, c̣n văn hóa Đông phương
dựa trên một tri thức luận động, đa
diện và nhất nguyên. Để hiểu rơ hơn
sự khác biệt căn bản giữa hai nền văn
hóa này, nên xem thêm: NGUYỄN CHÍNH KẾT, Hai khuynh hướng
suy tư khác nhau trước những thắc mắc
căn bản nhất của con người, TP. Hồ
chí Minh, tháng 6-2000.
(9) Giới hạn do khả
năng hạn hẹp của ngôn ngữ, chứ không
phải do khả năng của người nói.
Người nói dù có hiểu vấn đề thật thấu
triệt và hết sức rơ ràng, nhưng nếu ngôn ngữ
người ấy dùng có khả năng quá hạn hẹp,
th́ cũng không thể diễn tả đúng như ư ḿnh
được.
(10) Đây là tư
tưởng của Maeterlink (1862-1949), một văn sĩ
người Bỉ, ông nói: «Tôi tin vào vị Thiên Chúa đă
tạo dựng nên con người theo h́nh ảnh của
ḿnh, nhưng tôi không thể tin vào vị Thiên Chúa do con
người tạo dựng nên theo h́nh ảnh của
họ».
(11) Peter PHAN, “Ecclesia in Asia”:
Challenges for Asian Christianity, trong báo East Asian Pastoral Review
(Tạp chí Mục Vụ Đông Á) tại Manila, Philippines,
được Nguyễn văn Nội dịch sang
tiếng Việt với tựa đề “Giáo Hội
tại Á Châu”: Thách thức đối với Ki-tô giáo Á Châu,
đăng trong Nguyệt San Công giáo và Dân
tộc, số 66, tháng 6-2000.
(12) «Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không
nghĩ phải nhất quyết duy tŕ địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đă hoàn toàn trút bỏ
vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm
nhân, sống như người trần thế» (Pl
2,6-7). Thái độ tự khiêm không làm chúng ta mất giá
trị ḿnh, mà trái lại, v́ «ai
hạ ḿnh xuống sẽ được nâng lên» (Mt
23,12).
NGUYỄN
CHÍNH KẾT