SỨ điỆp cỦa ĐỨc thánh cha Bênêđictô XVI

GỬI CÁC BẠN trẺ thẾ giỚi

nhân ngày QuỐc tẾ GiỚi trẺ lẦn thỨ XXIII, 2008

 

“Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần

khi Ngài ngự xuống trên các con ;

và các con sẽ trở thành chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8).

Các bạn trẻ thân mến,

1. Ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ 23

Cha rất vui mừng nhớ đến những kỷ niệm mà chúng ta đã cùng trãi qua tại Cologne, vào tháng 8 năm 2005. Vào cuối kỳ đại hội của niềm tin và sự hăng say khó quên, một biến cố vẫn còn khắc sâu trong tâm trí cha, cha đã hẹn với các con vào lần gặp gỡ tới, được tổ chức tại Sydney vào năm 2008. Đây sẽ là kỳ đại hội quốc tế giới trẻ lần thứ 23, với chủ đề : “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần, khi Ngài ngự xuống trên các con ; và các con sẽ trở thành chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Chủ đề chính yếu của việc chuẩn bị tâm hồn cho kỳ gặp gỡ của chúng ta tại Sydney là Chúa Thánh Thần và việc truyền giáo. Vào năm 2006, chúng ta đã tập trung sự chú ý vào Chúa Thánh Thần là Thần chân lý. Và bây giờ trong năm 2007, chúng ta đang tìm hiểu một cách sâu xa hơn về Thần tình yêu. Chúng ta sẽ tiếp tục cuộc hành trình tiến đến Ngày Quốc Tế Giới Trẻ 2008 bằng việc suy tư về Thần sức mạnh và chứng nhân nhằm giúp chúng ta can đảm sống và mạnh dạn rao giảng Tin Mừng. Vì thế, thật quan trọng khi mỗi người trẻ các con, trong các cộng đoàn của mình, cùng với những người có trách nhiệm giáo dục các con, nên suy tư về Tác Nhân Chính Yếu của lịch sử cứu độ là Chúa Thánh Thần hay Thần Khí của Chúa Giêsu. Bằng cách này, các con có thể gặt hái được những thành quả tốt đẹp : nhận ra được căn tính đích thật của Thần Khí, trước hết bằng việc lắng nghe Lời Chúa trong Mạc Khải của Thánh Kinh ; nhận thức cách rõ ràng sự hiện diện liên lĩ và sống động của Ngài trong đời sống Giáo Hội, đặc biệt khi các con tái khám phá Chúa Thánh Thần chính là “linh hồn”, hơi thở sống động của chính đời sống Kitô hữu, qua các bí tích khai tâm Kitô giáo như : Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể ; nhờ đó hiểu biết về Chúa Giêsu sẽ ngày càng triển nở cách sâu sắc và hân hoan hơn, và đồng thời đem Tin Mừng ra thực hành trong bình minh của thiên niên kỷ thứ ba này. Trong sứ điệp này, cha vui mừng gởi đến các con những nét đại cương để suy niệm mà các con có thể múc lấy trong suốt năm chuẩn bị này. Bằng cách này, các con có thể kiểm chứng lại phẩm chất đức tin của các con vào Chúa Thánh Thần, hãy tái khám phá điều đó nếu nó đã mất, hãy gia tăng sức mạnh nếu nó đã yếu kém, hãy nếm hưởng nó trong tình thân hữu với Thiên Chúa Cha và với Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, nhờ vào họat động không thể thiếu được của Chúa Thánh Thần. Các con đừng bao giờ quên rằng Giáo Hội, trong thực tế là chính nhân loại, là tất cả mọi người xung quanh các con lúc này và tất cả những ai đang chờ đợi các con ở tương lai, đòi hỏi rất nhiều nơi những người trẻ các con, bởi vì các con có nơi mình món quà cao quý nhất của Chúa Cha, là Thần Khí của Chúa Giêsu.

2. Lời hứa của Chúa Thánh Thần trong Kinh Thánh

Việc lắng nghe một cách chăm chú Lời Chúa liên quan mầu nhiệm và họat động của Chúa Thánh Thần mở ra cho chúng ta những hiểu biết lớn lao và sâu sắc mà cha sẽ tóm lượt trong những điểm sau đây.

Ít lâu trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ : “Phần Thầy, Thầy sẽ ban cho anh em điều Cha Thầy đã hứa” (Lc 24,49). Điều này đã diễn ra trong ngày Lễ Hiện xuống, khi họ tụ họp với nhau cầu nguyện trong Căn Phòng Trên Gác cùng với Đức Trinh Nữ Maria. Việc đổ tràn Thánh Thần trên Giáo Hội sơ khai chính là việc ứng nghiệm những gì đã được Thiên Chúa hứa thuở ban đầu, đã được loan báo và được chuẩn bị trong Cựu Ước.

Thật vậy, ngay từ những trang đầu, Thánh Kinh trình bày thần khí của Thiên Chúa như làn gió “bay lượn trên mặt nước” (x. St 1,2). Thánh Kinh nói rằng Thiên Chúa đã thổi hơi thở sự sống vào mũi của con người (x. St 2,7), và qua đó sự sống tràn ngập nơi con người. Sau tội nguyên tổ, thần khí của Thiên Chúa mang lại sự sống thỉnh thoảng cũng được nhận ra trong lịch sử của nhân loại, bằng cách thôi thúc các tiên tri kêu gọi Dân được tuyển chọn trở về với Thiên Chúa và trung thành tuân theo các huấn lệnh của Ngài. Trong thị kiến nổi tiếng của tiên tri Ezekiel, Thiên Chúa cùng với thần khí của Ngài phục hồi lại sự sống của dân Do Thái, được biểu trưng bằng “những bộ xương khô” (x. Ed 37,1-14). Tiên tri Gioel đã tiên báo về “việc đổ tràn thần khí” trên muôn dân nước, không loại trừ một ai. Tác giả Sách Thánh đã viết rằng : “Và sau đó sẽ đến lúc Ta sẽ đổ tràn đầy thần khí của Ta trên tất cả người phàm… Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ tràn thần khí Ta trên tôi nam và tớ nữ” (Ge 3,1-2).

“Trong thời viên mãn” (Gl 4,4), thiên thần Chúa đã loan báo cho Trinh Nữ thành Nazareth rằng Chúa Thánh Thần, “quyền năng của Đấng Tối Cao”, sẽ ngự đến và bao phủ lấy bà. Con trẻ được sinh ra sẽ là đấng thánh và được gọi là Con Thiên Chúa (x. Lc 1,35). Theo những lời của tiên tri Isaia, Đấng Mêsia sẽ là người được thần khí của Thiên Chúa ngự đến (x. 11,1-2 ; 42,1). Đây cũng là lời tiên tri mà Chúa Giêsu áp dụng lại vào lúc khởi đầu của sứ vụ công khai của Người tại hội đường Nazareth. Trước sự kinh ngạc của những người hiện diện, Người nói : “Thần khí của Thiên Chúa ngự xuống trên tôi, bởi vì Ngài đã xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó. Ngài đã sai tôi đi công bố ơn giải thoát cho cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19 ; x. Is 61,1-2). Ngỏ lời với với những người hiện diện, Người áp dụng những lời tiên tri này vào chính bản thân mình khi nói rằng : “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Hơn nữa, trước khi chịu chết trên Thập Giá, Người cũng đã nhiều lần nói với các môn đệ về việc xuất hiện của Chúa Thánh Thần, “Đấng An Ủi” mà sứ mạng của Ngài là làm chứng cho Người và trợ giúp các tín hữu bằng việc dạy dỗ và dẫn đưa họ đến sự toàn vẹn của Chân Lý (x. Ga 14,16-17.25-26 ; 15,26 ; 16,13).

3. Lễ Hiện Xuống, điểm xuất phát cho sứ mạng của Giáo Hội

Vào chiều ngày Phục Sinh, Đức Giêsu hiện đến với các môn đệ, “Người thổi hơi trên các ông và bảo các ông : “Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Với sức mạnh lớn lao hơn, Chúa Thánh Thần đã xuống trên các Tông Đồ trong ngày lễ Hiện Xuống. Chúng ta đọc được trong sách Công vụ các Tông Đồ : “Và bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một” (Cv 2,2-3).

Chúa Thánh Thần đã đổi mới các Tông Đồ từ bên trong, ban tràn đầy sức mạnh cho họ để họ can đảm ra đi và mạnh dạn công bố rằng : “Đức Kitô đã chết và đã sống lại !”. Thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi, họ bắt đầu công khai loan báo với niềm xác tín (x. Cv 2,29 ; 4,13 ; 4,29.31). Những người đánh cá nhát đảm này đã trở thành những sứ giả gan dạ của Tin Mừng. Ngay cả những kẻ thù của họ cũng không thể nào hiểu nỗi làm thế nào mà những người “không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân” (x. Cv 4,13) lại có thể trở nên can đảm và chịu đựng được những khó khăn, đau khổ và bách hại với niềm hân hoan. Không có gì có thể ngăn cản họ. Đối với những ai cố gắng bắt họ im tiếng, họ đáp lại rằng : “chúng tôi không thể không công bố những gì chúng tôi đã chứng kiến và được nghe” (Cv 4,20). Đây là cách thức mà Giáo Hội đã được khai sinh, và từ ngày lễ Hiện Xuống, Giáo Hội không ngừng loan báo Tin Mừng “đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

4. Chúa Thánh Thần, linh hồn của Giáo Hội và nguyên lý của sự hiệp thông

Nếu chúng ta muốn hiểu sứ mạng của Giáo Hội, chúng ta phải quay trở về Căn Phòng Trên Gác, nơi mà các Tông Đồ đã quy tụ với nhau (x. Lc 24,49), và cùng cầu nguyện với Đức Maria, là “người Mẹ”, mong đợi Chúa Thánh Thần, là Đấng được hứa ban xuống cho các ngài. Hình ảnh của Giáo Hội thời sơ khai nên là nguồn cảm hứng thường hằng cho mỗi cộng đoàn Kitô hữu. Thành quả của các Tông Đồ và của các nhà truyền giáo trên căn bản không dựa vào những chương trình hay các phương pháp mục vụ được vận dụng cách khéo léo và hiệu quả, nhưng chính là kết quả của việc cầu nguyện thường xuyên của cộng đoàn (x. Đức Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi, 75). Hơn nữa, để việc truyền giáo đạt hiệu quả, các cộng đoàn phải được hợp nhất, điều đó có nghĩa là, họ phải “một lòng và một ý” (Cv 4,32), và họ phải sẵn sàng làm chứng cho tình yêu và niềm hân hoan mà Chúa Thánh Thần đã nhuần thấm trong tâm hồn của các tín hữu (Cv 2,42). Đức Gioan-Phaolô II, Tôi tớ Thiên Chúa, đã viết rằng, quan trọng hơn cả hoạt động, sứ mạng của Giáo Hội trước tiên là làm chứng và sống theo cách thức có thể tỏ lộ cho người khác thấy (x. Thông điệp Redemptoris Missio, 26). Tertullianô cho chúng ta biết về những gì đã xảy ra vào những ngày đầu của Kitô giáo, những người ngoại giáo đã trở lại đạo khi họ nhìn thấy sự ngự trị của tình yêu giữa các Kitô hữu : “Hãy nhìn xem họ yêu thương nhau dường nào” (Hộ giáo, 39 § 7).

Để kết luận cho đoạn phân tích ngắn gọn về Lời Chúa trong Thánh Kinh, cha mời gọi các con hãy nhận ra Chúa Thánh Thần chính là hồng ân cao quý nhất của Thiên Chúa dành cho con người và từ đó nhận ra bằng chứng cao cả của tình yêu của Ngài dành cho chúng ta, một tình yêu được diễn tả cách đặc biệt bằng “lời xin vâng với sự sống” mà Thiên Chúa muốn dành cho mọi loài thụ tạo. Tiếng đáp “xin vâng với sự sống” này đạt đến sự viên mãn nơi Chúa Giêsu thành Nazareth và trong chiến thắng của Người trên sự dữ bằng việc cứu chuộc. Về khía cạnh này, chúng ta đừng quên rằng Tin Mừng của Chúa Giêsu, cách chính xác được linh hứng bởi Chúa Thánh Thần, không thể bị giảm thiểu như cách trình bày sự kiện, bởi vì Tin Mừng đựơc viết ra với mục đích là “tin vui cho người nghèo, sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, ánh sáng cho kẻ mù loà…”. Những gì nhận thấy trong ngày lễ Ngũ Tuần có sức sống mãnh liệt làm sao, vì nó trở thành ân sủng và trách nhiệm của Giáo Hội đối với thế giới, là sứ mạng ưu tiên của Giáo Hội !

Chúng ta chính là hoa trái của sứ mạng này của Giáo Hội dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta mang theo nơi mình Chúa Thánh Thần là dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa Cha nơi Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta đừng bao giờ quên điều này, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa luôn nhắc nhớ mỗi cá nhân, và mong muốn khơi dậy làn gió và ngọn lửa của một lễ Hiện Xuống mới trong thế giới, đặc biệt qua các bạn là những người trẻ.

5. Chúa Thánh Thần là “Thầy Dạy đời sống nội tâm”

Các bạn trẻ thân mến, ngày nay Chúa Thánh Thần bằng sức mạnh của Ngài vẫn còn tiếp tục họat động trong Giáo Hội, và hoa trái của Thần Khí càng gia tăng cách dồi dào trong chúng ta khi chúng ta biết mở lòng mình ra đón lấy sức mạnh này để đổi mới mọi sự. Với lý do này, điều quan trọng là mỗi người trong chúng ta phải nhận biết Thần Khí ấy và sống tương quan với Ngài và để Ngài hướng dẫn chúng ta. Tuy nhiên, về điều này, một vấn đề nẩy sinh một cách tự nhiên : Chúa Thánh Thần đối với tôi là Đấng nào ? Thực tế, đối với nhiều Kitô hữu, Ngài vẫn là “Đấng Vô Danh vĩ đại” (grand inconnu). Đó là lý do tại sao, khi chúng ta chuẩn bị cho ngày quốc Tế Giới Trẻ sắp tới, cha muốn mời gọi các con tìm hiểu về Chúa Thánh Thần cách sâu sắc hơn trên bình diện cá nhân. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng rằng : “Tôi tin kính Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống, Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra” (Kinh Tin Kính Nicea-Constantinopoli). Vâng, Chúa Thánh Thần là Thần Khí tình yêu của Cha và Con, là cội nguồn của sự sống làm cho chúng ta nên thánh, “vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Tuy nhiên, điều đó chưa đủ cho chúng ta biết về Chúa Thánh Thần, chúng ta phải đón nhận Ngài như là người hướng dẫn tâm hồn chúng ta, như là “Thầy Dạy đời sống nội tâm” giới thiệu cho chúng ta về Mầu Nhiệm Ba Ngôi, bởi vì chỉ có Ngài mới khai mở đức tin cho chúng ta và cho phép chúng ta sống đức tin ấy mỗi ngày một hoàn hảo. Thần Khí thúc đẩy chúng ta hướng đến những người khác, nhóm lên trong chúng ta ngọn lửa tình yêu, làm cho chúng ta trở nên những nhà truyền giảng về lòng thương xót của Thiên Chúa.

Cha luôn biết những người trẻ các con, nơi tâm hồn mình, hiểu biết rất rõ về Đức Giêsu và yêu mến Người, và các con rất mong ước được gặp Người và trò chuyện cùng Người. Tuy vậy, các con nên nhớ cách xác quyết rằng Chúa Thánh Thần hiện diện bên trong mỗi người chúng ta sẽ củng cố, thiết lập và xây dựng nhân vị chúng ta trên Ngôi vị của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh. Do đó, chúng ta phải kết thân với Chúa Thánh Thần, để Ngài kết thân chúng ta với Chúa Giêsu.

6. Bí tích Thêm Sức và Thánh Thể

Có lẽ các con sẽ hỏi rằng chúng ta phải làm thế nào để cho Chúa Thánh Thần canh tân bản thân và gia tăng đời sống thiêng liêng nơi chúng ta ? Như các con biết, chúng ta có thể trả lời rằng : chúng ta có thể thực hiện điều đó qua các Bí tích, vì đức tin được khai sinh và được lớn lên trong chúng ta nhờ các Bí tích, đặc biệt là các Bí tích khai tâm Kitô giáo : phép Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể là những bí tích căn bản và không thể tách rời (x. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1285). Chân lý liên quan đến ba bí tích khai sinh chúng ta trong đời sống Kitô hữu có lẽ bị sao lãng trong đời sống đức tin của nhiều Kitô hữu. Họ xem các bí tích này như những sự kiện đã đi vào quá khứ và không hề có một giá trị thật sự nào trong cuộc sống hiện tại, điều đó giống như những rễ cây đánh mất đi dưỡng chất mang lại sự sống. Điều này cũng xảy ra với nhiều người trẻ xa rời đời sống đức tin sau khi lãnh nhận bí tích Thêm Sức. Cũng có những người trẻ chưa hề lãnh nhận bí tích này. Tuy nhiên, qua bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức và tiếp đến là bí tích Thánh Thể, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa Cha, thành anh chị em của Chúa Giêsu, là thành viên của Giáo Hội, có khả năng trở thành chứng nhân đích thực của Tin Mừng, và có thể nếm hưởng được sự hoan lạc trong đức tin.

Do đó cha mời gọi các con hãy suy nghĩ về những gì cha viết cho các con. Ngày nay, đặc biệt rất cần thiết để tái khám phá bí tích Thêm Sức và vai trò quan trọng của nó trong việc phát triển đời sống tâm linh của chúng ta. Những ai đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức nên nhớ rằng họ đã trở nên “những đền thờ của Chúa Thánh Thần” : Thiên Chúa cư ngụ trong họ. Các con hãy luôn nhận thức điều này và cố gắng để gia tài quý giá này mang đến cho các con những hoa trái thánh thiện. Đối với những ai đã rửa tội nhưng chưa lãnh nhận bí tích Thêm Sức, hãy chuẩn bị để lãnh nhận và nên biết rằng bằng cách này các con sẽ trở nên những Kitô hữu “hoàn hảo”, bởi vì bí tích Thêm Sức làm hoàn thiện hồng ân đã lãnh nhận trong phép Rửa (x. GLHTCG, số 1302-1304).

Bí tích Thêm Sức ban cho chúng ta một sức mạnh đặc biệt để làm chứng và tôn vinh Thiên Chúa trong suốt cuộc đời chúng ta (x. Rm 12,1). Trước hết, bí tích này giúp chúng ta nhận ra chúng ta thuộc về Giáo Hội, “Nhiệm Thể Chúa Kitô”, mà tất cả chúng ta là những chi thể sống động, trong sự liên đới với nhau (x. 1Cr 12,12-25). Khi để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, mỗi người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội có thể góp phần vào việc xây dựng Giáo Hội bằng những đặc sủng được Chúa Thánh Thần ban tặng, “vì Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (x. 1Cr 12,7). Khi Thánh Thần họat động, Ngài ban cho linh hồn những hoa quả của Ngài, như “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (x. Gl 5,22). Đối với những ai trong các con chưa lãnh nhận bí tích Thêm Sức, cha chân thành mời gọi hãy chuẩn bị lãnh nhận bí tích này, và tìm sự trợ giúp nơi các linh mục của các con. Đó chính là cơ hội đặc biệt của ân sủng mà Thiên Chúa tặng ban cho các con. Đừng bỏ lỡ cơ hội này !

Cha cũng muốn nói về bí tích Thánh Thể. Để lớn lên trong đời sống Kitô hữu, chúng ta cần được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu của Đức Kitô. Thực vậy, chúng ta được rửa tội và được thêm sức nhằm hướng đến Bí tích Thánh Thể (x. GLHTCG, 1322 ; Tông huấn Sacramentum Caritatis, 17). “Nguồn mạch và chóp đỉnh” của đời sống Giáo Hội, Bí tích Thánh Thể là “lễ Hiện Xuống không ngừng”, bởi vì mỗi giây phút chúng ta cử hành Thánh lễ là chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Đấng liên kết chúng ta mật thiết với Đức Kitô và biến đổi chúng ta nên giống Người. Các bạn trẻ thân mến, nếu các con thường xuyên tham dự cử hành Thánh Thể, nếu các con dành thời gian để tôn sùng Bí Tích Cực Thánh này, thì từ nguồn mạch tình yêu là bí tích Thánh Thể, các con sẽ hân hoan cống hiến cuộc sống của các con cho những đòi hỏi của Tin Mừng. Đồng thời, các con cũng có thể cảm nghiệm được rằng khi sức lực của chúng ta không đủ, thì Chúa Thánh Thần, Đấng biến đổi chúng ta, sẽ lấp đầy chúng ta bằng sức mạnh của Ngài và làm cho chúng ta trở nên những nhân chứng tràn đầy nhiệt tình truyền giáo của Đức Kitô Phục Sinh.

7. Nhu cầu và tính cấp bách của việc truyền giáo

Nhiều người trẻ nhìn cuộc sống của họ với sự e ngại và đặt ra nhiều câu hỏi cho tương lai. Họ khắc khoải chất vấn : Làm sao chúng ta có thể hòa nhập vào trong một thế giới đang được ghi dấu bởi quá nhiều những bất công tàn bạo và quá nhiều những đau khổ ? Chúng ta nên làm thế nào để đối phó với tính ích kỷ và nạn bạo lực đôi khi chiếm ưu thế ? Chúng ta làm thế nào để cho cuộc sống của mình đầy ý nghĩa ? Làm cách nào để những hoa trái của Thần Khí được nói đến ở trên, “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (số 6) có thể phủ lấp thế giới đầy đau khổ và dễ vỡ, là thế giới của hầu hết mọi người trẻ ? Trong hoàn cảnh nào thì Thần Khí mang lại sự sống của cuộc tạo dựng đầu tiên và đặc biệt của công cuộc tạo dựng thứ hai, hay còn gọi là công cuộc cứu độ, có thể trở thành một linh hồn mới của nhân loại ? Chúng ta đừng quên rằng hồng ân cao quý của Thiên Chúa càng lớn lao – và hồng ân của Thần Khí của Đức Giêsu là cao quý nhất trong tất cả các ân huệ – thì nhu cầu của thế giới đón nhận ân huệ này càng lớn, cho nên sứ mạng của Giáo Hội trở nên nhân chứng đáng tin cậy cho thế giới càng lớn lao và sinh động hơn. Các con là những người trẻ, qua Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, các con được mời gọi tham dự vào sứ mạng này. Về khía cạnh này, các bạn trẻ thân mến của cha, cha muốn nhắc các con vài chân lý chính yếu để các con suy niệm. Một lần nữa cha xin lặp lại là chỉ có Đức Kitô mới có thể lấp đầy mọi khát vọng thầm kín nhất trong tâm tư của mọi con người. Chỉ có Đức Kitô mới có thể nhân hoá bản tính con người và đưa nó đến sự “thần hóa”. Nhờ sức mạnh Thần Khí của Người, Người đổ tràn đức ái thần linh của Người trong chúng ta, làm cho chúng ta có khả năng yêu thương người thân cận và sẳn sàng phục vụ họ. Chúa Thánh Thần soi sáng chúng ta, mạc khải cho chúng ta về Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, và chỉ cho chúng ta cách thức để trở nên giống Người hơn, để chúng ta có thể “trở nên hình ảnh và dụng cụ của tình yêu tuôn chảy từ Chúa Kitô” (Thông điệp Deus caritas est, 33). Những ai để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hiểu rằng việc phục vụ Tin Mừng không phải là một điều phụ thuộc chẳng có tính bắt buộc, bởi vì họ hiểu được tính khẩn cấp của việc loan báo Tin Mừng cho người khác. Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ lại rằng chúng ta chỉ nên nhân chứng của Đức Kitô khi chúng ta để mình được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, Đấng là “tác nhân chính yếu của việc loan báo Tin Mừng” (x. Evangelii Nuntiandi, 75) và “tác nhân chính yếu của việc truyền giáo” (x. Redemptoris Missio, 21).

Các bạn trẻ thân mến, như các vị Tiền nhiệm đáng kính của cha là Đức Phaolô VI và Đức Gioan Phaolô II đã phát biểu trong vài dịp, ngày nay đối với các tín hữu, việc loan báo và làm chứng cho Tin Mừng càng cần thiết hơn bao giờ hết (x. Redemptoris Missio, 1). Có nhiều người nghĩ rằng việc trình bày kho tàng đức tin quý giá cho những người không cùng chia sẻ niềm tin với chúng ta có nghĩa là gây khó chịu cho họ, nhưng vấn đề không nằm ở chỗ đó, bởi vì việc trình bày Chúa Kitô không có nghĩa là áp đặt Người (x. Evangelii Nuntiandi, 80). Hơn nữa, cách đây hai ngàn năm, mười hai Tông Đồ đã hiến dâng cuộc sống mình để mọi người được biết và yêu mến Đức Kitô. Suốt nhiều thế kỷ sau đó, Tin Mừng được tiếp tục loan báo nhờ những con người được tác động bởi niềm hăng say truyền giáo. Ngày nay cũng cần các môn đệ của Chúa Kitô hăng hái cống hiến thời gian và sức lực để phục vụ cho Tin Mừng. Cũng cần những người trẻ biết để cho tình yêu của Thiên Chúa đốt nóng tâm hồn họ và họ sẽ quảng đại đáp lại lời mời gọi khẩn thiết của Người, cũng như nhiều vị chân phước và vị thánh trẻ đã làm trong quá khứ và cũng như trong thời gian gần đây. Đặc biệt, cha cam đoan với các con rằng Thần Khí của Chúa Giêsu hôm nay cũng mời gọi những người trẻ các con hãy trở thành những người mang Tin Mừng của Chúa Giêsu cho những người đồng thời với các con. Khó khăn không thể chối cãi của những người lớn khi muốn tiếp cận một cách đầy cảm thông và thuyết phục thế giới của những người trẻ có thể là dấu chỉ qua đó Chúa Thánh Thần muốn thúc đẩy chính những người trẻ các con phải đảm nhận nhiệm vụ này. Các con biết nhiều tư tưởng, ngôn ngữ, và cũng như những vết thương, những nỗi khắc khoải, và đồng thời các con cũng mong muốn cống hiến những gì tốt đẹp cho những người đương thời. Điều này mở ra một thế giới rộng lớn của những cảm xúc, công việc, sự giáo dục, những nỗi khắc khoải, và đau khổ của người trẻ... Mỗi người trong các con phải can đảm tuyên hứa cùng Chúa Thánh Thần rằng các con sẽ mang đến cho Chúa Giêsu một người trẻ theo cách tốt nhất của các con, các con phải biết cách “trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của các con, nhưng phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng” (1Pr 3,15).

Để có thể đạt được mục tiêu này, các bạn trẻ thân mến, các con phải nên thánh và phải là những nhà truyền giáo, bởi vì chúng ta không thể nào tách rời sự thánh thiện ra khỏi việc truyền giáo (x. Redemptoris Missio, 90). Các con đừng bao giờ sợ trở thành những vị thánh truyền giáo giống như thánh Phanxicô Xaviê đã du hành đến miền Viễn Đông để loan báo Tin Mừng cho đến hơi thở cuối cùng, hay như thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu là nhà truyền giáo mặc dù ngài chưa bao giờ rời khỏi tu viện Cát Minh. Cả hai ngài là “Những Thánh Bổn Mạng của Các Xứ Truyền Giáo”. Các con hãy sẵn sàng đánh đổi cuộc đời của các con để soi sáng thế giới bằng chân lý của Chúa Kitô, đáp lại lòng căm thù và việc xem thường mạng sống bằng tình yêu, để loan báo niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh ở mọi nơi trên trái đất này.

8. Việc khẩn cầu “một lễ Hiện Xuống mới” trên thế giới

Các bạn trẻ thân mến, cha hy vọng gặp lại tất cả các con tại Sydney vào tháng 7 năm 2008. Đó sẽ là cơ hội mà Thiên Chúa quan phòng để chúng ta cảm nghiệm được sự hoàn hảo của sức mạnh Chúa Thánh Thần. Các con hãy đến đấy thật nhiều để trở nên dấu hiệu của niềm hy vọng và đem đến một khích lệ lớn lao cho cộng đoàn Giáo Hội tại Úc đang chuẩn bị đón tiếp các con. Đối với các người trẻ ở quốc gia đón tiếp các con, đó sẽ là cơ hội hiếm có để loan báo vẻ đẹp và niềm vui của Tin Mừng cho xã hội bị tục hóa về nhiều phương diện. Nước Úc cũng giống như tất cả các quốc gia của Châu Đại Dương, cần phải tái khám phá căn tính Kitô giáo của mình. Trong Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục Giáo Hội tại Châu Đại Dương, Đức Gioan-Phaolô II đã viết : “Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại Châu Đại Dương chuẩn bị cho một công cuộc tân-phúc-âm-hóa cho các dân tộc ngày nay đang khao khát Đức Kitô... Công cuộc tân-phúc-âm-hóa là ưu tiên hàng đầu cho Giáo Hội tại Châu Đại Dương” (số 18).

Cha mời gọi các con hãy dành thời gian để cầu nguyện và đào luyện tâm linh trong suốt giai đọan cuối của hành trình hướng đến Ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ 23, để tại Sydney các con có thể canh tân lại lời hứa mà các con đã tuyên hứa khi lãnh nhận phép Thánh Tẩy và Thêm Sức. Tất cả chúng ta cùng khẩn cầu Chúa Thánh Thần, tin tưởng nài xin Thiên Chúa ban ân sủng của một lễ Hiện Xuống mới cho Giáo Hội và nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba này.

Nguyện xin Mẹ Maria, đấng đã cùng với các Tông Đồ cầu nguyện tại Căn Phòng Trên Gác, đồng hành với các con trong suốt những tháng ngày này và lãnh nhận cho các Kitô hữu trẻ một hơi thở mới của Chúa Thánh Thần để nung nấu con tim họ. Các con hãy nhớ rằng : Giáo Hội đặt niềm tin nơi các con ! Chúng tôi là các Chủ Chăn, cách đặc biệt nguyện chúc các con thêm lòng yêu mến và biết hướng dẫn người khác yêu mến Chúa Giêsu, và chúc các con luôn dõi bước theo Người cách trung tín. Với tất cả tấm lòng, cha chúc lành cho tất cả các con.

Từ Lorenzago, ngày 20 tháng 7 năm 2007

BENEDICTUS PP. XVI

Đức Thánh Cha đọc thông điệp kêu mời giới trẻ chuẩn bị ĐHGTTG 2008

 

(Phó tế Gioakim Lại Thụy Minh Tâm, GP. Mỹ Tho chuyển ngữ)

Các ý nghĩa của Biểu Tượng ĐHGTTG 2008

Biểu tượng này là sự chắt lọc những tinh hoa từ chủ đề Đại Hội :   "Các con sẽ lãnh nhận sức mạnh quyền uy của Chúa Thánh Thần khi Ngài ngự đến trên các con ; và các con sẽ làm chứng nhân cho Thầy" (Cv 1,8).

Biểu tượng nhấn mạnh lời Chúa Giêsu đã hứa rằng Ngài sẽ nhóm lửa trên trái đất qua quyền năng của Chúa Thánh Thần, khiến cho khách hành hương khi đến Úc, sẽ xác nhận niềm tin và làm chứng cho Ngài.

Trung tâm của Biểu Tượng là Thánh Giá vươn cao trong chiến thắng, tượng trưng cho Chúa Giêsu và đời sống chứng nhân mà Chúa Thánh Thần đã ban. Đó là lòng thương yêu nồng nàn từ Trái Tim Chúa đổ ra cho toàn thế giới, xuất phát từ Thánh Giá Đức Kitô, cây Thánh Giá đã chinh phục lớp trẻ ở Sydney, Úc Châu và toàn thể thế giới.

Màu trắng của Thánh Giá nói lên ý nghĩa Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. 

Các ngọn lửa trên Biểu Tượng mang ý nghĩa việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trong ngày Lễ Ngũ Tuần qua hình lưỡi lửa. Điều này gợi cho chúng ta nhớ đến Bí Tích Thêm Sức và 7 ơn Chúa Thánh Thần.

Các màu đỏ, cam và vàng trên Biểu Tượng là tượng trưng của Chúa Ba Ngôi Hiệp Nhất. Ba màu này cũng liên tưởng đến các sắc màu đặc trưng của dân bản xứ nước Úc.

Màu xanh dương tương ứng với màu đại dương bao bọc quanh lục địa Úc Châu, với nguồn nước Thanh Tẩy, với cả nhân loại, và với Đức Maria Đấng Tràn Đầy Ơn Phúc. 

Nhà hát Con Sò là Biểu Tượng của thành phố Sydney, nơi tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008.

 

Lời Nguyện Đại hội Giới Trẻ Thế Giới 2008

Chuyển Ngữ : Lê Hiển - Kiểm duyệt : Linh Mục Paul Chu Văn Chi

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, chúng con xin dâng hiến Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 2008 ở Sydney cho Cha. Xin Cha hướng dẫn và gìn giữ Đức Giáo Hoàng Bênêđictô và các vị lãnh đạo Giáo Hội. Xin Cha linh ứng và dẫn dắt tất cả những người đang điều khiển và hoạch định Ngày Giới Trẻ Thế Giới. Xin Cha bảo vệ và nối kết họ lại với lòng săn sóc nhân từ của Cha. Amen

Lạy Chúa Giêsu Kitô, trước khi Chúa về trời với Chúa Cha, Chúa hứa sẽ sai Chúa Thánh Thần đến giúp chúng con trở nên chứng nhân đến tận cùng trái đất. Xin Chúa chúc lành và làm tăng thêm nhiều những cố gắng của ban tổ chức và các thiện nguyện viên. Xin Chúa giúp chúng con vác lấy Thánh Giá và theo Chúa dưới dấu hiệu ngôi sao trên trời. Amen

Lạy Chúa Thánh Thần, xin Chúa đổ tràn ơn thánh trên Vùng Đất Miền Nam Bao La nầy và ban cho chúng con một Lễ Hiện Xuống Mới. Xin làm cho vùng đất này trở nên nơi đích thực đón mừng những người trẻ trên toàn thế giới. Xin ban cho những người trẻ đến đây được quay về cuộc sống chân thực, được có một đức tin sâu xa hơn và thương yêu tất cả mọi người. Xin củng cố họ xây dựng một nền văn minh mới về con người, tình yêu và sự thật. Xin làm cho họ trở nên nhân chứng đích thực cho quyền năng và ân sủng của Ngài. Amen

Đức Bà là Ngôi Sao Sáng – Cầu cho chúng con.

Đức Bà Phù Hộ các Giáo Hữu – Cầu cho chúng con.

Lạy Chân Phước Mary MacKillop – Cầu cho chúng con.


THƯ GỬI CHO GIÁO PHẬN RÔMA

VỀ BỔN PHẬN KHẨN CẤP

PHẢI GIÁO DỤC CÁC THẾ HỆ TRẺ

Các tín hữu thành Rôma thân mến,

Cha đã có ý định gởi đến chúng con lá thư này để nói về một vấn đề mà chính chúng con cũng nhận thấy, và nhiều thành phần khác nhau trong Giáo hội đã tích cực dấn thân vào: đó là vấn đề giáo dục. Tất cả chúng ta đều mang trong tim mình sự thiện hảo của những người mà chúng ta yêu mến, đặc biệt là các thiếu nhi, các thiếu niên và các bạn trẻ của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng tương lai của thành phố chúng ta sẽ tuỳ thuộc vào họ. Vì thế, chúng ta không thể không lưu tâm đến việc đào tạo những thế hệ trẻ, đến khả năng định hướng trong đời sống của họ, đến khả năng phân biệt điều thiện với điều ác, đến sức khoẻ thể lý cũng như tinh thần.

Tuy nhiên, giáo dục chẳng bao giờ là công việc dễ dàng, và nó càng trở nên khó khăn hơn trong thời đại hôm nay. Các bậc phụ huynh, các nhà giáo, các linh mục và tất cả những ai trực tiếp mang trọng trách giáo dục biết rõ điều đó. Vì thế, người ta nói đến tầm quan trọng khẩn cấp của việc giáo dục. Tầm quan trọng khẩn cấp này được xác nhận bởi những thất bại thường xuyên gặp phải trong khi chúng ta nỗ lực đào luyện những con người vững vàng, có khả năng hợp tác với người khác và tìm thấy ý nghĩa cho đời sống của họ. Tự nhiên, chúng ta dễ đổ lỗi cho các thế thệ trẻ, như thể những con em sinh ra trong thời đại hôm nay khác hẳn với những con em sinh ra ở những thời đại trước. Hơn nữa, người ta còn nói về một “sự rạn nứt giữa các thế hệ”. Sự rạn nứt này là có thực và cũng thật quan trọng, nhưng đúng hơn nó không phải là nguyên nhân, mà là hậu quả của việc thiếu truyền thụ những nền tảng chắc chắn và các giá trị.

Vậy phải chăng chúng ta lại đổ lỗi cho những người lớn hôm nay không có khả năng giáo dục ? Cám dỗ thoái thác trách nhiệm chắc chắn rất mạnh nơi các phụ huynh cũng như nơi các giáo viên, cách chung nơi những nhà giáo dục, và còn hơn thế nữa là nguy cơ không còn biết đâu là vai trò của mình hay đúng hơn là sứ mạng được trao phó cho mình. Thực tế, vấn đề đặt ra không chỉ là trách nhiệm cá nhân của người lớn hay của các của bạn trẻ, dù trách nhiệm này là có thực và không nên bị che đậy, nhưng còn là một bầu khí lan rộng, một hình thái văn hoá dẫn đến nghi nan về giá trị của nhân vị, về ý nghĩa của sự thật và sự thiện, và cuối cùng về sự tốt lành của đời sống. Vì vậy thật khó khăn để truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác điều gì có giá trị và chắc chắn, những qui tắc cư xử, những mục đích đáng tin cậy nhằm xây dựng đời sống.

Vì thế, hỡi cư dân thành Rôma thân mến, cha muốn nói với các con một lời rất đơn sơ : Đừng sợ ! Thật vậy, mọi khó khăn nêu trên không phải là không vượt qua được. Nếu có thể nói, chúng như mặt trái của ân huệ lớn lao và quý giá là tự do của chúng ta, cùng với trách nhiệm kèm theo cách thích đáng. Khác với những điều xảy ra trong lãnh vực kỹ thuật hoặc kinh tế, nơi mà những tiến bộ ngày nay có thể cộng thêm vào cho những tiến bộ của quá khứ, một khả năng tích lũy như thế không thể có trong lãnh vực giáo dục và tăng trưởng luân lý của con người, bởi vì tự do của con người thì luôn mới mẻ, và vì thế, mỗi người và mỗi thế hệ lại phải tự mình đưa ra những quyết định. Cho dù là những giá trị cao quý nhất của quá khứ cũng không thể được truyền thụ như một gia tài để lại ; thực tế, chúng phải được biến thành của chính chúng ta và được đổi mới qua một chọn lựa cá nhân thường rất nhọc nhằn.

Tuy nhiên, khi những nền tảng bị lung lay hay khi những xác quyết cốt yếu bị thiếu hụt, thì nhu cầu về những giá trị này lại bắt đầu trổi lên cách khẩn thiết. Cụ thể, đòi hỏi về một nền giáo dục đích thực đang gia tăng trong thế giới hôm nay. Vì những bận tâm và thường là những lo lắng cho tương lai của con cái mình, các bậc cha mẹ đều mong muốn có một nền giáo dục đích thực ; vì phải sống kinh nghiệm đau buồn về sự suy thoái trong các trường học, nhiều giáo viên mong muốn có một nền giáo dục đích thực ; vì nghiệm thấy những nghi nan về các nền tảng của đời sống chung, toàn thể xã hội mong muốn có một nền giáo dục đích thực ; vì không muốn phải đơn độc đối diện với những thách thức của cuộc sống, tự trong thẳm sâu lòng mình, những người trẻ mong muốn có một nền giáo dục đích thực. Mặt khác, những người tin vào Đức Giêsu Kitô còn có một lý do mạnh hơn nữa để không phải sợ hãi. Thật vậy, họ biết rằng Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta, rằng tình yêu của Ngài chạm tới chúng ta bất cứ nơi nào chúng ta sống và bất cứ tình trạng nào chúng ta gặp phải, với những nghèo hèn và yếu đuối của chúng ta, để trao ban cho chúng ta khả năng hướng thiện.

Các con thân mến, để cụ thể hơn những suy nghĩ của cha, việc phân định một vài đòi hỏi chung cho một nền giáo dục chân chính là thật hữu ích. Trước hết nền giáo dục này cần đến sự thân thiện và lòng tin tưởng phát xuất từ tình yêu ; cha nghĩ đến kinh nghiệm đầu tiên và căn bản của tình yêu mà con trẻ thể hiện, hay ít ra cần phải thể hiện, đối với cha mẹ chúng. Nhưng mọi nhà giáo dục đích thực đều biết rằng, để giáo dục tốt, chính mình phải trao ban điều gì đó, và chỉ có như thế họ mới có thể giúp học sinh của mình lướt thắng được tính ích kỷ, để đến lượt chúng trở nên những người có khả năng yêu thương đích thực.

Ngay khi còn bé, trẻ em đã có một ước muốn hiểu biết lớn lao, biểu hiện qua việc không ngừng đặt các câu hỏi và yêu cầu giải thích. Một nền giáo dục chỉ giới hạn vào việc cung cấp những khái niệm và những thông tin, nhưng lại bỏ qua một bên vấn nạn quan trọng liên quan đến sự thật, nhất là sự thật có thể làm kim chỉ nam cho đời sống chúng ta, sẽ là một nền giáo dục nghèo nàn.

Đau khổ cũng là thành phần của sự thật về đời sống chúng ta. Bởi đó, khi cố tìm cách tách các người trẻ khỏi mọi khó khăn và kinh nghiệm về đau khổ, chúng ta có nguy cơ đào tạo nên những con người yếu ớt và thiếu quảng đại. Thực tế, khả năng yêu thương đồng nghĩa với khả năng chịu đựng đau khổ và cùng sẻ chia khổ đau.

Hỡi các bạn thành Rôma thân mến, chẳng nghi ngờ gì nữa, chúng ta đi đến điểm tế nhị nhất của việc giáo dục, đó là tìm thấy một sự quân bình đúng đắn giữa tự do và kỷ luật. Không có qui tắc cư xử và qui luật sống, được làm sáng tỏ ngày qua ngày ngay trong những điều nhỏ nhất, người ta sẽ không rèn luyện được nghị lực và không được trang bị để đối diện với những thử thách đầy dẫy ở tương lai. Tuy nhiên, tương quan giáo dục trước hết là cuộc gặp gỡ giữa hai tự do, và nền giáo dục thành công là nền giáo dục đào luyện việc sử dụng đúng tự do. Càng lớn lên với tuổi tác, trẻ em trở nên một thiếu niên, rồi một thanh niên; vì thế chúng ta phải chấp nhận nguy cơ của tự do, bằng cách luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng sửa lại những ý tưởng và những chọn lựa sai lầm. Trái lại, điều chúng ta chẳng bao giờ nên làm là trợ thủ cho những sai lầm của chúng, giả vờ không thấy, hoặc tồi tệ hơn là đồng loã với những sai lầm, như thể chúng là những ranh giới của tiến bộ con người.

Vì thế, trong việc giáo dục không thể bỏ qua yếu tố thẩm quyền luân lý, một thẩm quyền làm cho việc thực hành những tương quan quyền bính trở nên đáng tin. Thẩm quyền này là kết quả của kinh nghiệm và năng lực, nhưng nhất là thủ đắc nhờ mối nhất quán của chính đời sống mình và nhờ mối liên hệ cá vị, biểu hiện của tình yêu đích thực. Vì thế, nhà giáo dục là chứng tá của sự thật và sự thiện. Chắc chắn chính bản thân họ cũng mỏng giòn và có thể sai lầm, nhưng họ phải luôn tìm cách sống hoà hợp với sứ mạng của mình.

Các tín hữu thành Rôma rất thân mến, những suy nghĩ đơn sơ này cho chúng ta thấy ý nghĩa của trách nhiệm có vai trò quyết định như thế nào trong việc giáo dục : trước hết là trách nhiệm của nhà giáo dục, nhưng trong mức độ tăng trưởng với tuổi tác, còn có trách nhiệm của con cái, của học sinh, của người trẻ đang bước vào trong thế giới việc làm. Ai biết trả lẽ với chính mình và với người khác là người có trách nhiệm. Hơn nữa, ai tin thì trước hết sẽ tìm biết trả lẽ cho Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương họ trước.

Trách nhiệm trước hết là trách nhiệm cá nhân, nhưng cũng có trách nhiệm mà chúng ta cùng chia sẻ, như những công dân của cùng một thành phố và một quốc gia, như những thành viên của gia đình nhân loại, và như những người con của Thiên Chúa duy nhất và những thành viên của Giáo hội nếu chúng ta là những tín hữu. Thực tế, những ý tưởng, những lối sống, những luật lệ, những khuynh hướng toàn cầu của xã hội chúng ta đang sống, và hình ảnh mà xã hội tự phô diễn qua các phương tiện truyền thông, có một ảnh hưởng to lớn trên việc đào tạo các thế hệ trẻ hướng về điều thiện, nhưng thường hơn là nghiêng chiều về điều ác. Tuy nhiên xã hội không phải là điều gì viển vông ; cuối cùng thì chính chúng ta phải cùng nhau gầy dựng cho chính mình, với những khuynh hướng, những quy tắc và những con người mẫu mực, dù rằng vai trò và trách nhiệm của mỗi người có khác biệt. Thế nên sự góp phần của mỗi người trong chúng ta, mỗi cá nhân, mỗi gia đình hay mỗi nhóm xã hội, là điều cần thiết, vì xã hội, bắt đầu từ thành phố Rôma của chúng ta, trở nên môi trường thuận lợi nhất cho việc giáo dục.

Sau cùng, cha muốn trình bày cho chúng con một tư tưởng mà cha đã khai triển trong thông điệp mới đây Spe Salvi về niềm hy vọng kitô giáo : chỉ có niềm hy vọng đáng tin mới có thể là linh hồn của việc giáo dục, cũng như của toàn bộ đời sống. Ngày nay, niềm hy vọng của chúng ta bị vây hãm tứ phía, và cũng như những dân ngoại xưa kia, chúng ta cũng có nguy cơ trở nên những người “không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này”, như thánh Tông Đồ Phaolô đã viết cho tín hữu Êphêsô (Ep 2,12). Chính ở đây nẩy sinh khó khăn có thể là lớn nhất đối với việc giáo dục đích thực: thật vậy, ở tận nguồn gốc của cuộc khủng hoảng giáo dục có cuộc khủng hoảng niềm tin vào cuộc sống.

Vì thế cha không thể kết thúc lá thư này mà không đưa ra lời mời gọi tha thiết là hãy đặt niềm hy vọng của chúng ta nơi Thiên Chúa. Chỉ có Ngài là niềm hy vọng lướt thắng mọi nỗi thất vọng ; chỉ có tình yêu của Ngài là không thể bị tiêu diệt bởi sự chết ; chỉ có công lý và lòng thương xót của Ngài mới có thể bù đắp cho những bất công và xoa dịu những khổ đau phải chịu. Niềm hy vọng đặt nơi Thiên Chúa chẳng bao giờ là niềm hy vọng chỉ cho riêng mình, nhưng luôn luôn là niềm hy vọng cho những người khác : nó không cô lập chúng ta, nhưng làm cho chúng ta liên đới trong sự thiện, thúc đẩy chúng ta biết giáo dục lẫn nhau hướng đến sự thật và tình yêu.

Với lời chào trìu mến gửi đến các con và đảm bảo nhớ đến các con đặc biệt trong lời cầu nguyện, cha ban phép lành cho tất cả các con.

Từ Vatican, ngày 21 tháng 1 năm 2008

ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊĐICTÔ XVI

Lm. Phaolô Nguyễn Thành Sang chuyển ngữ


Sứ điệp

Ngày Thế Giới cầu cho ơn gọi lần thứ 45 :

''Ơn gọi phục vụ Giáo Hội – truyền giáo”

Chúa nhật IV Phục Sinh, 13/4/2008

Anh chị em thân mến !

1. Tôi đã chọn đề tài “Ơn gọi phục vụ Giáo-Hội–truyền-giáo” cho Ngày Thế Giới cầu cho các ơn gọi sẽ được cử hành ngày 13/4/2008. Chúa Giêsu phục sinh đã ủy thác cho các Tông Đồ mệnh lệnh : “Vậy các con hãy đi giảng dạy tất các các dân nước, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19), và Ngài hứa với họ : “Này đây Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Giáo Hội là thừa sai trong toàn bộ và trong mỗi phần tử của mình. Nếu, do bí tích Rửa tội và Thêm sức, mỗi tín hữu Kitô được kêu gọi làm chứng tá và rao giảng Tin Mừng, thì chiều kích truyền giáo càng được gắn liền với ơn gọi Linh Mục một cách đặc biệt và thâm sâu hơn. Trong giao ước với Israel, Thiên Chúa đã ủy thác sứ mạng làm ngôn sứ và tư tế cho những người được Ngài tuyển chọn, kêu gọi và gửi tới toàn dân nhân danh Ngài. Ví dụ Chúa đã làm như thế với Môisê : Yahvê nói với ông : “Giờ đây ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến gặp Pharaô. Ngươi hãy đưa dân Ta ra khỏi Ai Cập… sau khi ngươi đã đưa dân ra khỏi Ai Cập, các ngươi sẽ phụng sự Thiên Chúa trên núi này” (Xh 3,10.12). Chúa cũng làm như vậy với các ngôn sứ.

2. Những lời hứa với các Tổ Phụ chúng ta đã được thể hiện viên mãn trong Chúa Giêsu Kitô. Về vấn đề này, Công đồng chung Vatican 2 đã quả quyết : “Vì thế, Chúa Con đã đến. Ngày được Chúa Cha sai đi, nơi Người, trước khi tạo thành vũ trụ, Chúa Cha đã chọn và tiền định cho chúng ta trở nên dưỡng tử… Vì thế, để chu toàn ý Chúa Cha, Đức Kitô đã khai mạc Nước Trời trên mặt đất này và đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Nước ấy, và đã cứu chuộc bằng sự vâng phục của Người” (Lumen gentium, 3). Và trong đời sống công khai, khi rao giảng tại Galilea, Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ như những cộng tác viên thân tín của Ngài trong sứ vụ thiên sai. Ví dụ, trong dịp hóa bánh ra nhiều, khi Ngài nói với các Tông Đồ : “Chính các con hãy cho họ ăn đi” (Mt 14,16), qua đó Ngài khích lệ các ông hãy đảm trách nhu cầu của đám đông mà Ngài muốn cho họ lương thực để ăn no nê, nhưng đồng thời Ngài cũng mạc khải “lương thực trường tồn cho đời sống vĩnh cửu” (Ga 6,27). Chúa động lòng thương đối với dân chúng, vì trong khi rảo quanh các thành thị và làng mạc, Ngài gặp thấy những đám đông mệt mỏi và kiệt lực, “như những chiên không có người chăn” (x. Mt 9,36). Từ cái nhìn yêu thương ấy nảy sinh lời Chúa mời gọi các môn đệ : “Vậy các con hãy xin chủ mùa gặt để Người sai thợ đến trong mùa gặt của Người” (Mt 9,38), và Ngài sai Nhóm 12 trước tiên đến 'với các chiên lạc Nhà Israel', với những lời dặn dò kỹ lưỡng. Nếu chúng ta dừng lại để suy niệm về trang này của Tin Mừng theo thánh Mathêu, thường được gọi là ”diễn văn truyền giáo”, chúng ta nhận thấy tất cả các khía cạnh nói lên đặc tính hoạt động truyền giáo của một cộng đồng Kitô, muốn trung thành với mẫu gương và giáo huấn của Chúa Giêsu. Việc đáp lại tiếng gọi của Chúa bao hàm sự đương đầu, một cách thận trọng và đơn sơ, với mọi nguy hiểm và cả những cuộc bách hại nữa, vì “một môn đệ không cao trọng hơn Thầy, một đầy tớ không trọng hơn chủ” (Mt 10,24). Được nên một với Thầy, các môn đệ không còn đơn độc trong khi rao giảng Nước Trời, vì chính Chúa Giêsu hành động trong họ : “Ai đón nhận các con là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy” (Mt 10,40). Và ngoài ra, trong tư cách là những chứng nhân đích thực, có quyền năng từ trên cao” (Lc 24,49), họ rao giảng cho mọi dân ”sự hoán cải và sự tha thứ tội lỗi” (Lc 24,47).

3. Chính vì được Chúa sai đi, Nhóm Mười Hai mang danh hiệu là ”Tông Đồ”, được sai đi, rảo bước trên các nẻo đường thế giới, loan báo Tin Mừng như những chứng nhân về cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô. Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Corinto : “Chúng tôi – nghĩa là các Tông Đồ – rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đanh” (1Cr 1,23). Trong tiến trình truyền giảng Tin Mừng này, sách Công Vụ các Tông Đồ cũng dành một vai trò rất quan trọng cho các môn đệ khác, những người có ơn gọi thừa sai nảy sinh từ những hoàn cảnh do Chúa Quan Phòng thiết định, nhiều khi đau thương, như sự trục xuất khỏi lãnh thổ của họ vì là môn đệ Chúa Giêsu (x. 8,1-4). Chúa Thánh Linh cho phép biến thử thách ấy thành cơ hội hồng phúc, và rút ra từ đó một điều lợi ích để danh Chúa được rao giảng cho dân ngoại và cộng động Kitô được mở rộng. Như thánh Luca đã viết trong sách Công Vụ, đó là những người nam nữ “hiến dâng cuộc sống cho chính nghĩa Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (15,26). Người đầu tiên trong mọi người khác, được chính Chúa kêu gọi để trở thành Tông Đồ thực sự, chắc chắn là thánh Phaolô thành Tarso. Tiểu sử thánh Phaolô, nhà truyền giáo lớn nhất trong mọi thời đại, làm nổi bật, dưới mọi khía cạnh, mối liên hệ giữa ơn gọi và sứ mạng truyền giáo. Bị những đối phương tố cáo là không được phép thi hành việc tông đồ, thánh nhân thường nại tới ơn gọi đã nhận lãnh trực tiếp từ Chúa (x. Rm 1,1 ; Gl 1,11-12.15-17).

4. Ngay từ đầu, cũng như sau đó, yếu tố “thúc đẩy” các Tông Đồ (x. 2Cr 5,14) vẫn luôn là “Tình yêu Chúa Kitô”. Trong tư cách là những đầy tớ trung thành của Giáo Hội, ngoan ngoãn đối với hoạt động của Chúa Thánh Linh, vô số các thừa sai, qua các thế kỷ, đã theo vết của các môn đệ đầu tiên. Công đồng chung Vatican 2 đã nhận xét : “Tuy nghĩa vụ truyền bá đức tin thuộc về bất kỳ môn đệ nào của Chúa Kitô theo khả năng của họ, nhưng Chúa Kitô không ngừng kêu gọi từ đám đông các môn đệ của Ngài những người mà Ngài muốn, để họ ở với Ngài và để sai họ đi rao giảng cho muôn dân (x. Mc 3,13-15)” (Ad Gentes, 23). Thực vậy, tình yêu Chúa Kitô phải được thông truyền cho anh chị em bằng gương lành và lời nói, bằng trọn cuộc sống. Như vị Tiền Nhiệm Đáng kính của tôi Gioan Phaolô 2 đã viết : “Ơn gọi đặc biệt của các thừa sai ad vitam trọn đời vẫn duy trì trọn vẹn giá trị : ơn gọi này là mẫu mực sự dấn thân truyền giáo của Giáo Hội, Giáo Hội luôn cần sự hiến thân quyết liệt và trọn vẹn, cần những động lực mới mẻ và táo bạo” (Thông điệp Redemptoris missio, 66).

5. Trong số những người hoàn toàn dấn thân phục vụ Tin Mừng đặc biệt có những linh mục được kêu gọi ban phát Lời Chúa, cử hành các bí tích, đặc biệt là Thánh Thể và Hòa giải, hiến thân phục vụ những người bé mọn nhất, các bệnh nhân, người đau khổ, người nghèo và những người đang trải qua những giờ phút khó khăn tại những vùng trên trái đất, nơi mà đôi khi có nhiều người ngày nay vẫn chưa được thực sự gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Các thừa sai rao giảng lần đầu tiên cho họ về tình yêu cứu độ. Các thống kê cho thấy rằng con số những người được rửa tội hằng năm vẫn gia tăng nhờ hoạt động mục vụ của các linh mục ấy, những người hoàn toàn hiến thân cho phần rỗi của anh chị em. Trong bối cảnh đó, cần đặc biệt ghi ơn các “linh mục fidei donum (hồng ân đức tin), đang quảng đại và tận tụy khéo léo xây dựng cộng đoàn và rao giảng Lời Chúa cho họ, bẻ Bánh Sự Sống, mà không dè xẻn năng lực trong việc phục vụ công cuộc truyền giáo của Giáo Hội. Cần cảm tạ Chúa vì bao nhiêu linh mục đã chịu đau khổ đến độ hy sinh mạng sống để phụng sự Chúa Kitô.. Đó là những chứng tá cảm động có thể gợi hứng cho bao nhiêu người trẻ bước theo Chúa Kitô và hiến thân cho tha nhân, và nhờ đó tìm được sự sống đích thực” (Tông huấn Sacramentum caritaris, 26). Vì vậy, qua các linh mục của Ngài, Chúa Giêsu hiện diện giữa con người ngày nay, cho đến những góc trời xa xăm hẻo lánh nhất.

6. Trong Giáo Hội vẫn luôn có nhiều người nam nữ, được Chúa Thánh Linh thúc đẩy, quyết định sống Tin Mừng một cách quyết liệt, tuyên xưng các lời khấn khiết tịnh, thanh bần và vâng phục. Hàng ngũ các tu sĩ nam nữ ấy, thuộc về vô số các dòng tu chiêm niệm và hoạt động, vẫn còn “giữ một phần rất quan trọng trong việc truyền giảng Tin Mừng cho thế giới” (Ad Gentes, 40). Nhờ kinh nguyện liên lỉ và chung, các tu sĩ sống đời chiêm niệm không ngừng chuyển cầu cho toàn thể nhân loại ; các tu sĩ sống đời hoạt động, với những hoạt động bác ái đa diện, đang mang lại cho mọi người chứng tá sinh động về tình yêu và lòng từ bi của Thiên Chúa. Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô VI đã nói về các vị tông đồ ấy của thời đại chúng ta rằng : “Do sự thánh hiến tu trì của họ, họ là những người thiện nguyện tuyệt hảo và tự do từ bỏ mọi sự, để ra đi rao giảng Tin Mừng cho đến tận bờ cõi trái đất. Họ có tinh thần biến báo và hoạt động tông đồ của họ thường có sắc thái đặc sắc, một thiên tài khiến người khác phải ngưỡng mộ. Họ quảng đại : họ thường ở tiền tuyến trong sứ mạng truyền giáo và chấp nhận những rủi ro nguy hiểm nhất cho sức khỏe và cho cả mạng sống của họ nữa. Đúng vậy, Giáo Hội mang ơn họ rất nhiều” (Tông huấn Evangelii nuntiandi, 69).

7. Ngoài ra, để Giáo Hội có thể tiếp tục thi hành sứ mạng Chúa Kitô đã giao phó và không thiếu các nhà truyền giảng Tin Mừng mà thế giới đang cần, điều cần thiết là, trong các cộng đồng Kitô, cần phải liên tục giáo dục đức tin cho các trẻ em và người lớn, cần duy trì ý thức sinh động về trách nhiệm truyền giáo nơi các tín hữu và về sự liên đới với các dân tộc trên thế giới. Hồng ân đức tin mời gọi tất cả các tín hữu Kitô cộng tác vào công cuộc truyền giảng Tin Mừng. Cần nuôi dưỡng ý thức ấy bằng việc giảng thuyết và huấn giáo, phụng vụ và huấn luyện liên tục về cầu nguyện ; ý thức ấy cũng tăng trưởng nhờ thực thi việc đón tiếp, bác ái và tháp tùng thiêng liêng, cũng như bằng một dự án mục vụ, trong đó có phần quan tâm đến các ơn gọi.

8. Ơn gọi linh mục thừa tác và đời sống thánh hiến chỉ triển nở trong một thửa đất được vun trồng kỹ lưỡng về mặt thiêng liêng. Thực vậy, những cộng đồng Kitô nào sống khẩn trương chiều kích truyền giáo trong mầu nhiệm Giáo Hội, sẽ không bao giờ co cụm vào mình. Sứ vụ truyền giáo, như chứng tá về tình yêu của Chúa, đặc biệt trở nên hữu hiệu khi được chia sẻ trong cộng đồng, “để cho thế gian tin” (x. Ga 17,21). Ơn gọi là hồng ân mà Giáo Hội hằng ngày phải cầu xin Chúa Thánh Linh. Giống như thuở ban đầu, quây quần quanh Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương các Tông Đồ, Cộng đồng Giáo Hội đang học hỏi nơi Mẹ cách thức cầu xin Chúa cho có thêm nhiều tông đồ mới, biết sống nơi mình niềm tin và tình yêu cần thiết cho sứ vụ truyền giáo.

9. Trong lúc tôi gửi những suy tư này đến tất cả các cộng đồng Giáo Hội, để họ đón nhận làm của mình và nhất là gợi hứng từ đó để cầu nguyện, tôi khích lệ sự dấn thân của tất cả những người đang hoạt động trong tin tưởng và quảng đại để phục vụ ơn gọi và tôi thành tâm gửi Phép lành đặc biệt của tôi đến các nhà đào tạo, các giáo lý viên và tất cả mọi người, đặc biệt là các bạn trẻ đang tiến bước trong hành trình ơn gọi.

Vatican ngày 3 tháng 12 năm 2007

BÊNÊĐICTÔ XVI, Giáo Hoàng

(LM Trần Đức Anh OP chuyển ý (Radio Vatican 22/02/2008)


Trở về Trang Mục Lục Giáo Hội