Sứ Điệp của ĐTC Phan-xi-cô nhân Ngày Quốc Tế Hòa Bình 01.01.2016
„Vượt thắng sự thờ ơ lãnh đạm và cố gắng đạt tới hòa bình“
1.Thiên Chúa không thờ ơ lãnh đạm! Đối với
Thiên Chúa, nhân loại rất quan trọng, Thiên Chúa không bỏ rơi nhân loại!
Tôi muốn liên kết những lời chúc mừng của mình nhân dịp đầu năm mới, với niềm
xác tín sâu thẳm đó của tôi: Trong dấu chỉ của niềm hy vọng, tôi cầu mong phúc
lành và bình an tràn trề cho tương lai của mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi dân
tộc và mỗi quốc gia trên mặt đất này, cũng như cho tương lai của các vị nguyên
thủ quốc gia, cho các chính quyền và những nhà mang trách nhiệm của các tôn
giáo. Thực ra, chúng ta không đánh mất niềm hy vọng rằng, trong năm 2016, tất cả
sẽ tham gia một cách cương quyết và tin tưởng hầu hiện thực hóa nền công lý
trên nhiều bình diện khác nhau cũng như làm việc cho hòa bình. Vâng, hòa bình
này chính là ân sủng của Thiên Chúa và cũng là công việc của con người - là ân
sủng của Thiên Chúa, nhưng ân sủng này được trao phó cho mọi người nam và mọi
người nữ: Họ được kêu gọi để hiện thực hóa nó.
Bảo vệ những lý do dẫn tới niềm hy vọng
2.Những
cuộc chiến tranh và những hành vi khủng bố với những hậu quả thê lương của
chúng, với những cuộc bắt cóc, với những cuộc bách hại có động cơ sắc tộc và
tôn giáo, và với sự lạm dụng quyền hành, đã nêu ra đặc tính của suốt năm vừa
qua, từ đầu năm tới cuối năm, cũng như đã tăng lên rất nhiều tại rất nhiều khu
vực trên khắp thế giới, đến độ chúng đã tiếp nhận những đặc tính của cái mà người
ta có thể gọi là „cuộc thế chiến thứ ba tại
nhiều khu vực“. Nhưng một số sự kiện của những năm trước đây và của chính năm
vừa qua đã khích lệ tôi, nhân dịp đầu năm mới, tái kêu gọi mọi người đừng đánh
mất niềm hy vọng vào khả năng của con người trong việc thắng vượt sự ác nhờ vào
ân sủng của Thiên Chúa, và đừng hiến bản thân mình cho sự thất vọng cũng như
cho thái độ thờ ơ lãnh đạm. Những biến cố mà tôi sẽ đề cập tới, đang chỉ cho thấy
khả năng của nhân loại trong việc thực thi tình liên đới, trong việc vượt qua
những mối quan tâm cá nhân cũng như vượt qua sự dửng dưng và thái độ thờ ơ lãnh
đạm đối với những trạng huống khó khăn.
Trong số những biến cố đó, tôi muốn nhắc tới những nỗ lực mà
chúng đã được thực hiện hầu giản lược hóa cuộc hội nghị của những nhà lãnh đạo
trên khắp thế giới trong khuôn khổ của COP21, với mục tiêu tìm ra những con đường
mới, hầu chiến thắng sự biến đổi khí hậu và bảo đảm cho sự phồn thịnh của trái
đất, tức ngôi nhà chung của chúng ta. Và điều đó chỉ dẫn tới hai biến cố vừa diễn
ra trên bình diện toàn cầu: Cuộc hội nghị thượng đỉnh tại Addis Abeba để tập
trung các phương tiện cho việc phát triển bền vững của trái đất, và việc chấp
thuận chương trình nghị sự tới năm 2030 cho sự phát triển bền vững thông qua tổ
chức Liên Hiệp Quốc, mà tổ chức này đang theo đuổi mục tiêu từ nay cho tới đó,
bảo đảm cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho các cư dân nghèo khổ trên mặt đất,
một cuộc sống xứng nhân phẩm.
Đối với Giáo hội, năm 2015 là một năm đặc biệt, bởi vì năm này
được đánh dấu với ngày kỷ niệm lần thứ 50 việc công bố hai văn kiện của Công Đồng
Vatican II, mà hai văn kiện này đang thể hiện một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt của
Giáo hội trong tình liên đới với thế giới. Khi công bố Công Đồng, Đức Gio-an
XXIII đã muốn mở toang những cánh cửa của Giáo hội, hầu cho mối tương quan giữa
Giáo hội và thế giới được mở rộng hơn. Cả hai văn kiện - Nostra aetate và Gaudium et spes – đều là một sự diễn tả có tính
kiểu mẫu về mối tương quan mới của sự đối thoại, của tình liên đới và của sự
đồng hành mà Giáo hội muốn đưa vào trong gia đình nhân loại. Trong tuyên ngôn Nostra aetate, Giáo hội được thúc đẩy và được mời
gọi hãy mở ra cho cuộc đối thoại với các tôn giáo không thuộc Ki-tô giáo. Trong
Hiến Chế mục vụ Gaudium et spes, Giáo hội muốn thực hiện một cuộc đối thoại với
gia đình nhân loại về những vấn đề của thế giới, vì „niềm vui và hy vọng, đau buồn và sợ hãi của con người trong thời đại
hôm nay, đặc biệt là của những người nghèo và của những người bị áp bức với đủ
loại cách thức, […]cũng là niềm vui và hy vọng, đau buồn và sợ hãi của các môn
đệ Chúa Ki-tô“ [1], như là một dấu chỉ của tình liên đới và của
mối thiện cảm đầy lòng kính trọng [2].
Từ viễn tượng đó, với Năm Thánh về Lòng Thương Xót, tôi muốn mời
gọi Giáo hội hãy cầu nguyện và làm việc để cho tất cả các Ki-tô hữu đều cho
phép phát triển trong mình một con tim khiêm nhượng và đồng cảm, mà nó có khả
năng công bố và làm chứng cho Lòng Thương Xót; có khả năng „tha thứ và trao hiến bản thân“; có khả
năng mở ra „cho tất cả những ai đang sống
trong những vùng ngoại vi khác nhau của kiếp nhân sinh, mà thế giới hiện đại sản
sinh chúng ra trong những cách thế thường rất bi ai“, và không sa vào „sự thờ ơ lãnh đạm mà nó hạ thấp nhân phẩm;
không rơi vào thói quen đánh mất xúc cảm và ngăn cản việc khám phá ra một cái
gì đó mới; không rơi vào thói cay độc đầy tính hủy hoại“ [3].
Có rất nhiều những lý do để tin vào khả năng của con người trong
việc cùng hành động, trong tình liên đới và trong sự nhìn nhận mối liên kết và
sự lệ thuộc lẫn nhau, và luôn có sự lưu tâm cách đặc biệt tới những thành viên
yếu đuối nhất cũng như luôn lưu tâm tới việc bảo vệ và duy trì niềm hạnh phúc
chung. Hành vi của một sự đồng trách nhiệm có tính liên đới này chính là nền tảng
cho ơn gọi căn bản, tức ơn gọi trở nên huynh muội và chung sống. Phẩm giá và những
mối tương quan giữa con người với nhau chính là điều căn bản đối với con người
mà Thiên Chúa đã muốn sáng tạo nên theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài. Với
tư cách là những thụ tạo được phú bẩm cho một phẩm giá bất khả nhượng, chúng ta
hiện hữu trong mối tương quan với những người anh chị em, mà đối với họ, chúng
ta đang mang một trách nhiệm và thể hiện tình liên đới. Nếu không có mối tương
quan này, con người sẽ bớt đi phần nhân tính của mình. Chính vì thế mà thái độ
thờ ơ lãnh đạm được coi như là một mối đe dọa đối với gia đình nhân loại. Trong
khi chúng ta bắt đầu con đường trong một năm mới, tôi muốn mời gọi tất cả hãy
nhận ra tình hình đó, hầu vượt thắng thái độ thờ ơ lãnh đạm cũng như cố gắng dựng
xây hòa bình.
Một số hình thức thờ ơ lãnh đạm
3.Thái
độ lãnh đạm của một số người nào đó mà họ khép kín con tim mình hầu không lưu
tâm tới những người khác; họ nhắm chặt đôi mắt mình lại để khỏi nhìn thấy những
gì chung quanh, hay tránh né để những vấn đề của người khác khỏi đụng chạm tới
mình, nói lên đặc điệm của một mẫu người đang tương đối phổ biến và có thể được
bắt gặp trong bất cứ thời đại lịch sử nào. Nhưng trong thời đại của chúng ta,
không còn phải nghi ngờ gì nữa, thái độ đó đã vượt qua lãnh vực cá nhân để tiếp
nhận một chiều kích có tính toàn cầu, và phát sinh ra hiện tượng „toàn cầu hóa sự thờ ơ lãnh đạm“.
Hình thức đầu tiên của sự thờ ơ lãnh đạm trong xã hội loài người
chính là sự thờ ơ đối với Thiên Chúa, thờ ơ đối với tha nhân, và sự thờ ơ đối với
thế giới thiên nhiên cũng bắt nguồn từ sự thờ ơ đó. Đây là một trong những hậu
quả khó khăn nhất của một chủ nghĩa nhân bản sai lạc cũng như của chủ nghĩa duy
vật thực tiễn trong sự liên tưởng tới một lối tư duy theo chủ nghĩa tương đối
và hư vô. Con người nghĩ rằng, họ cần phải trở thành sáng lập viên của chính họ,
của cuộc đời họ và của xã hội. Họ cảm thấy mình không bị lệ thuộc và không chỉ
khao khát chiếm được chỗ của Thiên Chúa, nhưng còn khao khát bùng lên một cách
hoàn toàn mà không có Thiên Chúa. Sau đó họ lại nghĩ, họ chẳng có tội tình gì với
bất cứ ai ngoại trừ chính mình, và chỉ cần được sở hữu quyền bính [4].
Chống lại sự nhận thức về bản thân một cách lệch lạc này, Đức Bê-nê-đíc-tô XVI
đã nhắc nhớ rằng, chẳng phải con người, cũng chẳng phải sự phát triển của họ đang
ở trong tình trạng trao cho bản thân họ ý nghĩa cuối cùng[5]. Và trước
đó, Đức Phao-lô VI cũng đã khẳng định: „Chỉ
có chủ nghĩa nhân bản nào mà nó mở ra với tuyệt đối, trong niềm biết ơn đối với
một ơn gọi mà nó trao tặng một quan điểm chính xác về cuộc sống con người, mới
là chủ nghĩa nhân bản đích thực.“[6]
Sự thờ ơ đối với tha nhân thủ đắc những khuôn mặt khác nhau. Có
những con người được thông tin một cách rất tốt, nghe radio, đọc báo chí, theo
dõi những chương trình truyền hình, nhưng thực hiện điều đó với sự do dự trong
lòng, đồng thời trong một tình trạng của việc tập cho quen. Những người ấy có một
trí tưởng tượng mông lung của những bi kịch mà chúng hành hạ nhân loại, nhưng
không cảm thấy mình bị dính lứu, không cảm thấy sự đồng cảm. Đó là thái độ của
những người mà họ biết rõ, nhưng lại chỉ hướng cái nhìn, hướng sự suy nghĩ và
hành động về chính bản thân mình. Thật tiếc là chúng ta phải xác nhận rằng, việc
gia tăng những thông tin về bản thân mình ngay trong thời đại chúng ta, không đồng
nghĩa với sự gia tăng mối quan tâm đối với những vấn đề, khi sự gia tăng ấy
không xuất hiện cùng với một sự mở ra của ý thức trong ý nghĩa của tình liên đới.[7]
Vâng, sự thờ ơ ấy có thể kéo theo một sự bão hòa nào đó theo mình, mà sự
bão hòa đó làm tê liệt và tương đối hóa tính nghiêm trọng của những vấn đề
thành bình thường. „Một số người chỉ tìm
thấy niềm vui một cách thuần túy trong việc đổ lỗi cho những người nghèo và những
quốc gia nghèo, với những điều khát quát hóa một cách quá mức những điều tồi tệ,
và ngỡ rằng đã tìm thấy giải pháp trong một ´sự giáo dục`, mà nó trấn an họ và
biến họ thành những sinh vật được thuần hóa và vô hại. Điều đó sẽ còn đáng
trách hơn nếu như những người bị loại trừ nhìn thấy cục bướu của cộng đồng đang
phát triển, mà cục bướu ấy chính là sự tham nhũng đã bén rễ sâu trong nhiều quốc
gia – trong nhiều chính phủ, trong giới kinh doanh và trong các cơ quan, độc lập
với những lý tưởng chính trị của những nhà cầm quyền.“[8]
Trong những trường hợp khác, sự thờ ơ lãnh đạm lại biểu lộ trong
hình thức của một sự thiếu quan tâm đối với thực tế chung quanh, đặc biệt là đối
với những thực tế đang còn ở xa. Một số người ưa thích trước việc không tìm
tòi, không hỏi han tin tức, và sống sự sung túc cũng như sự tiện nghi của mình
trong sự điếc lác đối với tiếng kêu đầy đau khổ của nhân loại khổ đau. Hầu như chúng
ta không nhận ra được rằng, chúng ta đã trở nên bất khả trong việc cảm thấy
mình có sự đồng cảm đối với người khác, đối với sự bất hạnh của họ. Chúng ta
không còn quan tâm tới việc chăm sóc cho họ, đến nỗi không còn muốn biết xem điều
gì đang xảy ra với họ, chúng ta coi việc chăm sóc họ như là một trách nhiệm
đang nằm xa chúng ta, chẳng liên quan gì tới chúng ta.[9] Từ đó dẫn
tới chuyện chúng ta „quên những người
khác (điều mà Thiên Chúa Cha không bao giờ làm), nếu như điều đó tốt với chúng
ta và chúng ta cảm thấy mình hạnh phúc; cũng như sẽ dẫn tới chuyện chúng ta
không bận tâm tới những vấn đề của họ, tới nỗi khổ đau của họ và tới những điều
bất công mà họ đang phải chịu đựng… Và rồi con tim của chúng ta sẽ sa vào sự thờ
ơ lãnh đạm: trong khi nó tương đối tốt với tôi và tôi cảm thấy hạnh phúc, tôi lại
quên đi những người mà nhiều điều không ổn đang xảy ra cho họ.“[10]
Vì chúng ta đang sống trong một ngôi nhà chung, nên chúng ta
không được phép bỏ qua việc tự hỏi, tình hình sức khỏe của ngôi nhà này đang
như thế nào – trong Thông Điệp Laudato si’, tôi đã cố gắng để thực hiện việc đó. Việc làm ô nhiễm nước và
không khí, việc khai thác những cánh rừng một cách bừa bãi và việc hủy hoại môi
trường thường là hoa trái phát sinh từ sự thờ ơ lãnh đạm của con người đối với
những người khác, vì tất cả đều đứng trong mối tương quan với nhau. Giống như
thái độ của con người đối với thú vật cũng đang gây ảnh hưởng trên những mối
tương quan của mình đối với những người khác[11] – sự hoàn toàn
thinh lặng của những người mà họ tự cho phép mình thực hiện ở bất cứ đâu điều
mà họ không bao giờ dám thực hiện trong ngôi nhà riêng của mình[12].
Trong những trường hợp này hay trường hợp khác, sự thờ ơ lãnh đạm
chính là nguyên cớ đặc biệt của sự khép kín và sự bàng quan, và rốt cuộc dẫn tới
sự thiếu bình an với Thiên Chúa, với tha nhân và với thế giới thụ tạo.
Sự đe dọa nền hòa bình xuyên qua việc toàn cầu hóa tính thờ ơ
4.Sự
thờ ơ đối với Thiên Chúa đang vượt quá lãnh vực riêng tư và tinh thần của cá
nhân, và lan rộng sang lãnh vực công cộng và xã hội. Vì thế, Đức Bê-nê-đíc-tô
XVI đã lên tiếng: có „một mối liên kết khắng
khít giữa sự tôn vinh Thiên Chúa và nền
hòa bình của nhân loại trên trái đất“.[13] Vì „nếu không có sự mở ra với siêu việt tính thì
trong thực tế, con người sẽ dễ dàng trở thành chiến lợi phẩm cho chủ nghĩa
tương đối, và sau đó sẽ thật là khó đối với con người trong việc thực thi đức
công chính và trong việc dấn thân cho hòa bình“.[14] Sự lãng
quên và việc khước từ Thiên Chúa, mà chúng ta dụ dỗ con người đừng nhìn nhận những
tiêu chuẩn về chính mình nữa, nhưng lại lấy chính bản thân mình làm tiêu chuẩn,
đã sản sinh ra sự độc ác và bạo lực vô độ.[15]
Trên bình diện cá nhân và cộng đồng, sự thờ ơ đối với tha nhân –
tức người con gái của sự thờ ơ đối với Thiên Chúa - sẽ tiếp nhận những đặc tính
của sự trì trệ và sự dửng dưng. Những đặc tính này sẽ hình thành nên một môi
trường nuôi cấy mà trên đó những tình trạng bất công và tình trạng bất bình đẳng
xã hội một cách nặng nề sẽ tiếp tục tồn tại, rồi sau đó, về phía mình, những
tình trạng này sẽ có thể dẫn tới những cuộc xung đột, hay trong một trường hợp
nào đó, sẽ phát sinh ra bầu khí bất mãn, dẫn tới nguy cơ, không sớm thì muộn sẽ
làm leo thang bạo lực và bất an.
Trong ý nghĩa này, sự thờ ơ và sự dửng dưng phát sinh từ đó, sẽ
thể hiện một sự sai phạm nặng nề trong mối liên hệ đến bổn phận của từng người,
tương ứng với những khả năng của họ và vai trò mà họ đang có trong xã hội nhằm
góp phần đưa đến niềm hạnh phúc chung, đặc biệt là đưa đến hòa bình, mà nó là một
trong những kho tàng giá trị nhất của nhân loại.[16]
Nếu sự thờ ơ lại liên quan đến bình diện tổ chức và thể chế - thờ
ơ đối với người khác, đối với phẩm giá, đối với những quyền căn bản và đối với
sự tự do của họ - và được kết cặp với một nền văn hóa bị đóng ấn bởi đầu óc lợi
nhuận và sự thèm khát khoái lạc, thì nó sẽ hỗ trợ và đôi khi còn biện hộ cho những
hành vi và những cương lĩnh chính trị, mà rốt cục chúng chỉ đe dọa hòa bình. Một
thái độ thờ ơ như thế cũng sẽ có thể đi rất xa, để bênh vực cho một số hình thức
chính sách kinh tế đáng khiển trách, mà những hình thức ấy sẽ dẫn tới những bất
công, chia rẽ và bạo lực, chỉ vì đuổi theo sự sung túc của riêng mình hay của
quốc gia mình. Thực ra, không hiếm những kế hoạch kinh tế và chính trị của con
người lại nhắm vào sự đạt được hay duy trì quyền lực và sự giầu sang, thậm chí
bằng mọi giá, kể cả việc chà đạp những quyền lợi và những nhu cầu căn bản của
người khác dưới chân mình. Nếu những người dân thấy rằng, những quyền lợi căn bản
cũng như lương thực, nước uống, sự chăm sóc y tế và công ăn việc làm đang bị
khước từ đối với họ, họ sẽ cố gắng giành cho được những điều ấy bằng bạo lực.[17]
Từ đó, sự thờ ơ đối với môi trường thiên nhiên thông qua việc
tào điều kiện cho sự phá rừng, cho việc làm ô nhiễm không khí cũng như làm phát
sinh các thảm họa thiên nhiên mà chúng làm bật gốc toàn thể các xã hội khỏi môi
trường sống của mình, và làm cho những xã hội ấy bị bất ổn và bất an, sẽ tạo ra
những hình thức mới của sự nghèo túng, và tạo ra những tình trạng mới của sự bất
công với những hậu quả tai hại không ngừng đối với sự an toàn và hòa bình của xã
hội. Có bao nhiêu cuộc chiến tranh đã bị gây ra và sẽ còn có bao nhiêu cuộc chiến
tranh khác sẽ bị gây ra vì thiếu tài nguyên hay để thích ứng với nhu cầu về tài
nguyên thiên nhiên không bao giờ có thể làm thỏa mãn?[18]
Từ sự thờ ơ tới Lòng Thương Xót: Sự hoán cải con tim
5.Năm
ngoái, trong Sứ Điệp nhân Ngày Hòa Bình Quốc Tế „Không còn phải là những người nô
lệ nữa, nhưng là những người anh em“, tôi đã nhắc tới hình ảnh đầu tiên
của Kinh Thánh về mối tương quan huynh muội giữa con người với nhau – đó là
hình ảnh về Cain và Abel (xc. St 4,1-16) – hình ảnh đó nên điều khiển sự quan
tâm tới việc nhìn xem mối tương quan huynh muội đầu tiên đã bị phản bội như thế
nào. Cain và Abel là anh em của nhau. Cả hai đều được sinh ra từ cùng một cung
lòng, cả hai đều sở hữu những phẩm giá ngang nhau và đều được tác thành theo họa
ảnh của Thiên Chúa và giống như Ngài; nhưng tình huynh đệ thuộc về công trình
sáng tạo của họ đã bị đổ vỡ. „Cain đã
không chỉ không chịu đựng được người em của mình là Abel, nhưng ông còn giết em
mình vì sự ghen tương.“[19] Và như thế, tội giết em ruột đã trở
thành hình thức phản bội, và việc Cain khước từ tình huynh đệ của Abel chính là
sự đổ vỡ đầu tiên trong các mối tương quanh huynh muội gia đình, cũng như trong
tình liên đới và trong sự kính trọng lẫn nhau.
Nhưng rồi Thiên Chúa đã can thiệp để kéo con người đi tới chỗ có
trách nhiệm đối với những người đồng loại của mình, và Ngài đã thực hiện điều
đó giống hệt như Ngài đã từng làm khi A-đam và E-và, cặp cha mẹ đầu tiên, đã
phá vỡ mối hiệp thông với Đấng Tạo Hóa. „Đức
Chúa phán với Cain: "Abel em ngươi đâu rồi? " Cain thưa: "Con
không biết. Con là người giữ em con hay sao?" Đức Chúa phán: "Ngươi
đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta!“ (St
4,9-10).
Cain đã giả vờ như ông không biết điều gì đã xảy ra với em trai
của ông, và ông nói rằng, ông không phải là người bảo vệ của em trai mình. Ông
cảm thấy mình không có trách nhiệm gì với sự sống của em trai ông, với diện mạo
của em trai ông. Ông cảm thấy mình không bị liên lụy. Ông đã thờ ơ lãnh đạm đối
với em trai của mình, mặc dù ông và em trai ông được liên kết với nhau từ một
xuất xứ chung. Thật đáng buồn biết chừng nào! Quả là một thảm kịch về tình
huynh muội, về gia đình và nhân loại! Điều này chính là sự xuất hiện đầu tiên của
sự thờ ơ lãnh đạm giữa những người anh chị em với nhau. Trái lại, Thiên Chúa
không hề thờ ơ: Trong cặp mắt của Ngài, máu của Abel vô cùng giá trị, Ngài đòi
Cain phải báo cáo về chuyện đó. Vì thế, ngay từ những ngày đầu của nhân loại,
Thiên Chúa đã mạc khải mình như là Đấng quan tâm tới diện mạo của con người.
Sau này, khi con cái Israel rơi vào tình trạng nô lệ tại Ai-cập, Thiên Chúa đã
lại tái can thiệp. Ngài nói với Mô-sê: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng
chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta
xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền
đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật“ (Xh 3,7-8). Lưu tâm tới
những lời mà chúng mô tả về sự can thiệp của Thiên Chúa là điều rất quan trọng:
Ngài nhìn, nghe, biết, ngự xuống và cứu thoát, hay giải phóng. Thiên Chúa không
hề thờ ơ lãnh đạm. Ngài lưu tâm và hành động.
Bằng một cách thức giống hệt như thế, trong Chúa Giê-su – Con Một
của Ngài – Thiên Chúa đã xuống giữa nhân loại, đã đón nhận thân xác, và trong tất
cả, ngoại trừ tội lỗi, đã bày tỏ tình liên đới với nhân loại. Chúa Giê-su đã đồng
hóa mình với nhân loại với tư cách là „Trưởng
Tử giữa một đàn em đông đúc“ (Rm 8,29). Ngài không tự thỏa mãn với việc giảng
dậy giữa đám đông quần chúng, nhưng Ngài còn lo lắng chăm sóc cho họ, đặc biệt
nhất là khi Ngài thấy rằng, họ đang đói khát (xc. Mc 6,34-44) hay không có công
ăn việc làm (Mt 20,3). Cái nhìn của Ngài không chỉ hướng đến những con người,
nhưng cũng còn hướng cả đến những con cá dưới biển, những con chim trên trời,
những cỏ cây to nhỏ; Ngài bao bọc toàn thể thế giới thụ tạo. Dĩ nhiên là Chúa
Giê-su thấy, nhưng Ngài không tự giới hạn vào chuyện đó, mà Ngài còn đụng chạm
tới con người, nói với họ, thực hiện những điều có lợi cho họ, cũng như thực hiện
điều tốt đẹp cho những người đang cần tới. Và không phải chỉ có thế, nhưng Ngài
còn để cho mình bị gây xúc động và đã khóc (xc. Ga 11,33-44). Và ngài đã hành động để dập tắt sự đau khổ, nỗi
buồn rầu, nỗi khốn cùng và cả sự chết nữa. Chúa Giê-su đã dậy chúng ta trở nên
nhân hậu như Thiên Chúa Cha – Đấng ngự trên trời (xc. Lc 6,36). Trong dụ ngôn
người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu (xc. Lc 10,29-37), Ngài đã lên án việc không thực
hiện sự giúp đỡ khi tận mắt chứng kiến cảnh khốn cùng của người đồng loại: „Ông ta nhìn thấy nạn nhân và vẫn tiếp tục đi“
(Lc 10,31.32). Đồng thời, thông qua dụ ngôn này, Ngài mời gọi các thính giả của
Ngài – đặc biệt là các môn đệ của Ngài – hãy học theo để dừng lại trước những
người đau khổ của thế giới này, để xoa dịu những nỗi khổ đau của họ; dừng lại
trước những vết thương của người khác, để chăm sóc cho họ với những phương dược
mà mình đang có sẵn, dành cho họ thời gian riêng của mình, bất chấp rất nhiều
những bận rộn. Thực ra, sự thờ ơ luôn tìm cách thoái thác: phải tuân thủ các
quy định lễ nghi, phải làm cho xong một đống công việc, vì những khác biệt quan
điểm, điều vẫn làm cho chúng ta giữ khoảng cách với nhau, vì những thiên kiến
thuộc đủ hình thức mà chúng ngăn cản chúng ta trở thành người thân cận của người
khác.
Lòng Thương Xót chính là „con tim“ của Thiên Chúa. Vì thế, nó
cũng phải là con tim của tất cả những ai nhận mình như là thành viên của một
gia đình to lớn của những người con cái Ngài; đó là một con tim mà nó đập liên
hồi ở bất cứ nơi đâu mà phẩm giá con người – một sự phản ánh dung nhan Thiên
Chúa trong các thụ tạo của Ngài – đang bị đưa ra làm trò đùa. Chúa Giê-su đã cảnh
báo chúng ta rằng: Tình Yêu đối với người khác – đối với người lạ, đối với các
bệnh nhân, đối với các tù nhân, đối với những người vô gia cư, và thậm chí là đối
với những kẻ thù – chính là tiêu chuẩn để Thiên Chúa kết án những hành vi của
chúng ta. Số phận đời đời của chúng ta tùy thuộc vào đó. Vì thế, không hề ngạc
nhiên trước việc Thánh Phao-lô Tông Đồ
đã đòi hỏi các tín hữu Rô-ma phải vui với người vui và phải khóc với người
khóc (xc. Rm 12,15), hay trước việc Ngài đặt những người Cô-rin-tô vào trong
con tim của Ngài để tổ chức các cuộc quyên góp như là dấu chỉ của tình liên đới
đối với những thành viên đang đau khổ của Giáo hội (xc. 1Cr 16,2-3). Còn Thánh
Gio-an thì viết: „Nếu ai có của cải thế
gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì
làm sao Tình Yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?“ (1Gan 3,17; xc. Gc
2,15-16).
Vì thế, „điều quan trọng
nhất đối với Giáo hội và đối với sự đáng tin cậy trong công cuộc loan báo Tin Mừng
của Giáo hội chính là việc Giáo hội sống và làm chứng cho Lòng Thương Xót ở vị
trí đầu tiên! Ngôn ngữ và những cử chỉ của Giáo hội phải thúc đẩy Lòng Thương
Xót, và như thế phải thẩm thấu vào trong những con tim của nhân loại cũng như
phải thúc đẩy họ chọn đi theo con đường trở về với Thiên Chúa Cha. Chân lý đầu
tiên của Giáo hội chính là Tình Yêu Chúa Ki-tô. Giáo hội biến mình thành nữ môn
đệ và thành nữ trung gian của Tình Yêu, mà Tình Yêu ấy dẫn tới việc tha thứ và
sự tự hiến chính mình. Vì thế, bất cứ nơi đâu có sự hiện diện của Giáo hội, thì
ở đó, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha cũng phải trở nên rõ ràng và hiển
nhiên. Trong các Giáo xứ, các Cộng Đoàn, các hiệp hội và các phong trào của
chúng ta, nghĩa là bất cứ nơi đâu có sự hiện diện của các Ki-tô hữu, thì ở đó
cũng phải có thể nhận ra được một đại dương Lòng Thương Xót.“[20]
Và như thế chúng ta cũng được kêu gọi thực hiện một chương trình
sống thực sự từ Tình Yêu, từ mối cảm thông, từ Lòng Thương Xót và từ tình liên
đới, thực hiện một lối cư xử trong các mối tương quan của chúng ta với nhau.[21]
Điều đó đòi hỏi sự hoán cải tâm hồn: Ân sủng của Thiên Chúa sẽ biến con tim bằng
đá của chúng ta thành một con tim bằng thịt (xc. Ed 36,26), mà nó có khả năng mở
ra với những người khác với tình liên đới đích thực. Thực ra, điều này mang nhiều
ý nghĩa hơn là „một cảm giác mơ hồ hay sự
cảm động hời hợt vì sự đau khổ của rất nhiều người ở gần hay ở xa“.[22]
Tình liên đới chính là „sự dứt khoát
chắc chắn và bền bỉ trong việc dấn thân cho niềm hạnh phúc chung, nó có nghĩa
là góp phần mang đến niềm hạnh phúc cho tất cả mọi người và cho từng người, vì
tất cả chúng ta đều có trách nhiệm đối với tất cả mọi người“[23],
vì mối cảm thông phát sinh từ tình huynh đệ.
Do đó, tình huynh đệ được hiểu như là thái độ luân lý và xã hội
mà nó tương ứng một cách tốt nhất với sự ý thức về những điều gây phiền toái của
thời đại chúng ta và về sự phụ thuộc lẫn nhau một cách rõ ràng – một sự phụ thuộc
lẫn nhau đang ngày một tăng, đặc biệt là trong một thế giới toàn cầu hóa, giữa
đời sống cá nhân và xã hội của mình tại một nơi xác định, và cuộc sống của những
người khác trong phần còn lại của thế giới.[24]
Thúc đẩy một nền văn hóa liên đới và Thương Xót hầu thắng vượt sừ
thờ ơ lãnh đạm
6.Tình
liên đới với tư cách là một nhân đức luân lý và là một thái độ xã hội, một hoa
trái của sự hoán cải cá nhân, sẽ thúc đẩy sự dấn thân của nhiều cá nhân mà họ
mang trách nhiệm trong ngành giáo dục và đào tạo.
Trước tiên, tôi nghĩ tới các gia đình mà họ đang được kêu gọi để
thực hiện một sứ mạng giáo dục có tính ưu tiên và nhất thiết. Họ hình thành nên
địa điểm đầu tiên mà tại đó, những giá trị thuộc về Tình Yêu, tình huynh muội,
sự chung sống, sự chia sẻ lẫn cho nhau, sự lưu tâm và sự chăm sóc cho người
khác sẽ được sống và được thúc đẩy. Các gia đình ấy cũng chính là lĩnh vực được
ưu tiên để tiếp tục chuyển giao Đức Tin, được bắt đầu từ những cử chỉ đơn giản
đầu tiên của lòng đạo đức mà những người mẹ dậy dỗ và giải thích cho con cái của
họ.[25]
Các nhà giáo dục và các giáo viên mà họ có sứ mạng mang tính đòi
hỏi cao trong việc giáo dục những người trẻ, tại các nhà trường hay trong các
trung tâm thiếu nhi và trung tâm thanh niên khác nhau, họ được kêu gọi làm cho
mình trở nên ý thức rằng, trách nhiệm của họ liên quan tới chiều kích luân lý,
tinh thần và xã hội của con người. Những giá trị như sự tự do, sự tôn trọng lẫn
nhau và tình liên đới sẽ có thể được giới thiệu bởi những lứa tuổi cao hơn.
Trong một lời dành cho những người có trách nhiệm trong các cơ quan có sứ mạng
giáo dục, Đức Bê-nê-đíc-tô XVI đã nói rằng: „Ước gì bất cứ lãnh vực nào thuộc công việc đào tạo cũng đều trở thành một
địa điểm của sự mở ra đối với sự siêu việt và đối với những người khác; sẽ trở
thành nơi để đối thoại, để gắn bó và để lắng nghe, trong đó những người trẻ sẽ
cảm thấy rằng, những khả năng thuộc về cá nhân của họ cũng như những giá trị nội
tại sẽ được tôn trọng, và họ sẽ học để biết kính trọng những người khác. Ước
chi họ sẽ tập cho quen để đón nhận niềm vui mà nó bắt nguồn từ việc người ta thực
hành Đức Bác Ái và mối cảm thông với tha nhân hết ngày nọ sang ngày kia, và
tham gia một cách tích cực vào việc kiến tạo nên một xã hội nhân bản và huynh đệ“.[26]
Những người cung cấp các dịch vụ văn hóa và những nhà hoạt động
trong lãnh vực truyền thông xã hội cũng mang một trách nhiệm đối với lãnh vực
giáo dục và đào tạo, đặc biệt là trong những xã hội hiện đại, trong đó việc nắm
chặt những phương tiện truyền thông càng ngày càng được phổ biến một cách mạnh
mẽ. Sứ mạng trước tiên của họ chính là việc đặt mình vào trong sự phục vụ chân
lý chứ không phải là phục vụ những mối quan tâm cá nhân. Vì các phương tiện
truyền thông „không chỉ thông tin tinh thần
của những người nhận tin, nhưng chúng cũng còn tạo hình cho nó và do đó có thể
góp phần to lớn vào việc giáo dục giới trẻ. Thật là quan trọng khi lưu ý để mối
liên kết giữa sự giáo dục và truyền thông được khắng khít nhất: Sự giáo dục diễn
ra thông qua sự truyền thông mà nó ảnh hưởng một cách tích cực hay tiêu cực
trên sự hình thành con người“.[27] Những nhà giới thiệu văn hóa
và những nhà hoạt động trong lãnh vực truyền thông cũng phải lưu ý rằng, cách
thức mà những thông tin được tiếp nhận và phổ biến như thế nào, luôn luôn phải
là phương thức chính trực và có thể chấp nhận được xét về khía cạnh luân lý.
Hòa bình – hoa trái của một nên văn hóa liên đới, xót thương và
đồng cảm
7.Trong
niềm ý thức về mối đe dọa thông qua một sự toàn cầu hóa sự thờ ơ lãnh đạm,
chúng ta không được phép bỏ qua việc nhìn nhận rằng, ngay cả vô vàn những sáng
kiến và những hành động cũng đang thích ứng với tất cả những trạng huống vừa được
nêu ra ở trên, mà những sáng kiến và những hành động đó chứng thực cho sự đồng
cảm, cho Lòng Thương Xót và cho tình liên đới mà đối với chúng, con người có khả
năng thực hiện.
Tôi muốn nhắc tới một số những mẫu gương về sự dấn thân đáng ca
ngợi, mà những mẫu gương đó chỉ cho thấy, mỗi người đều có thể thắng vượt thói
thờ ơ như thế nào, khi người ta quyết định không tránh né cái nhìn của mình
trên tha nhân – những ví dụ điển hình về những hình thức hành động cụ thể trên
con đường dẫn tới một xã hội nhân bản.
Có rất nhiều những tổ chức phi chính phủ và những nhóm Caritas cả
trong lẫn ngoài Giáo hội, mà những thành viên của những tổ chức và của những
nhóm ấy, trong trường hợp có dịch bệnh, thiên tai, hay những cuộc xung đột vũ
trang, nhận lấy những vất vả và những nguy hiểm về cho bản thân để chăm sóc những
người bị tổn thương cũng như chăm sóc các bệnh nhân, và an táng những người qua
đời. Bên cạnh những con người ấy, tôi cũng muốn kể đến những cá nhân và những
hiệp hội mà họ mang đến sự giúp đỡ cho những người di cư, tức những người đang
băng qua những sa mạc hay đang vượt đại dương để kiếm tìm những điều kiện tốt
hơn cho cuộc sống. Những hành vi đó chính là những công việc của đức xót thương
đối với thân xác và tâm hồn, mà chúng ta sẽ bị kết án theo những hành vi đó vào
lúc kết thúc cuộc sống chúng ta.
Tôi cũng nhớ tới các ký giả và những phóng viên chụp hình mà họ
thông tin một cách công khai và chính thức về những trạng huống khó khăn mà
chúng kêu gọi lương tâm cũng như kêu gọi những người mà họ dấn thân cho việc bảo
vệ nhân quyền, đặc biệt là đối với những quyền của những nhóm thiểu số về sắc tộc
và tôn giáo, của các dân tộc bản địa, của phụ nữ và trẻ em, và của tất cả những
người đang sống trong những trạng huống dễ bị thương tổn nhất. Trong số họ cũng
có nhiều Linh mục và các nhà truyền giáo, mà họ, bất chấp những mối hiểm nguy
và những thiếu thốn – đặc biệt là trong những cuộc xung đột vũ trang - luôn
luôn đứng về phía các tín hữu của mình với tư cách là những mục tử tốt lành, và
hỗ trợ họ.
Ngoài ra: có biết bao nhiêu là những gia đình đang nỗ lực trong
giữa vô vàn những khó khăn cả về mặt xã hội cũng như về khía cạnh công ăn việc
làm một cách cụ thể, và phải trả giá bằng rất nhiều hy sinh để „đi ngược dòng“ trong việc giáo dục con
cái họ về những giá trị của tình liên đới, của mối cảm thông và của tình huynh
muội. Biết bao nhiêu là gia đình đang mở con tim và những căn nhà của họ ra cho
những người đau khổ cũng như cho những người tị nạn và di cư! Tôi muốn cám ơn một
cách đặc biệt tất cả những cá nhân, những gia đình, những Giáo xứ, các cộng
đoàn Dòng Tu, các Đan viện và các thánh địa, mà họ đã phản ứng lại lời kêu gọi
của tôi một cách nhanh chóng để đón nhận những gia đình tị nạn.[28]
Sau cùng, tôi muốn nhắc đến những người trẻ mà họ đã cộng tác để
hiện thực hóa những dự án của tình liên đới, cũng như tất cả những người đã và đang
mở đôi tay mình ra để giúp đỡ những tha nhân đang lâm cảnh cùng khốn trong các
thành phố, trong đất nước của mình hay trong những vùng miền khác nhau trên khắp
thế giới. Tôi muốn cám ơn tất cả những người đã tham gia trong những hành động
thuộc loại này, ngay cả khi chúng không được biết đến một cách công khai, và
tôi khích lệ họ: Sự đói khát đức công chính của họ sẽ được no thỏa, Lòng Thương
Xót của họ sẽ làm cho chính họ thấy được Lòng Xót Thương, và cho tới bao lâu họ
còn là những người xây dựng hòa bình thì họ sẽ vẫn còn được gọi là con cái
Thiên Chúa (xc. Mt 5,6-9).
Hòa bình trong chỉ dấu của Năm Thánh về Lòng Thương Xót
8.Trong
tinh thần của Năm Thánh về Lòng Thương Xót, bất cứ ai cũng đều được mời gọi hãy
nhận ra sự thờ ơ lãnh đạm đang biểu lộ trong cuộc sống của mình như thế nào, và
được mời gọi thực hiện một sự dấn thân cụ thể hầu góp phần cải thiện thực tế mà
mình đang sống trong đó, khởi đi từ chính gia đình mình, từ giới hàng xóm láng
giềng hay từ lãnh vực công ăn việc làm.
Ngay cả các chính phủ cũng được mời gọi thực thi những hành vi cụ
thể, những cử chỉ can đảm đối với những người yếu đuối nhất trong cộng đồng
mình, cũng như đối với các tù nhân, những người di cư, những người thất nghiệp
và các bệnh nhân. Điều liên quan đến các tù nhân, có lẽ đang cấp thiết trong
nhiều trường hợp, chính là việc quyết định những biện pháp cụ thể hầu cải thiện
những điều kiện sống của họ trong các nhà tù. Ở đây, người ta nên dành một mối
quan tâm đặc biệt cho những người mà họ đang bị tước đoạt mất sự tự do của mình
và vẫn đang còn chờ một bản án dành cho mình[29], nên nhắm
tới mục tiêu điều trị và phục hồi trong việc đưa ra những hình phạt, và nên cân
nhắc những khả năng hầu đặt vào trong những bản dự thảo luật những hình phạt thay
thế cho việc bỏ tù. Trong mối liên hệ này, tôi muốn canh tân lời kêu gọi của
tôi dành cho các chính quyền của các quốc gia, hãy bãi bỏ án tử hình tại những
nơi mà án này vẫn đang còn hiệu lực, và hãy lưu tâm tới khả năng thực hiện một
sự ân xá.
Liên quan đến những di dân, tôi muốn mời gọi hãy cân nhắc tới những
bản dự thảo luật về sự di cư, để những dự thảo luật đó – trong sự tôn trọng những
bổn phận và những trách nhiệm hỗ tương – được ghi đậm dấu ấn bởi thái độ sẵn
sàng đón nhận, và có thể đơn giản hóa sự hội nhập của những di dân. Từ quan điểm
này, phải thực hiện một sự quan tâm đặc biệt tới những điều kiện cư trú dành
cho các di dân, khi người ta cân nhắc tới điều rằng, cuộc sống đang tiềm tàng mối
nguy đẩy họ vào trong sự phân biệt đối xử.
Ngoài ra, trong Năm Thánh này, tôi cũng muốn hướng một lời kêu gọi
khẩn thiết tới những nhà có trách nhiệm của các quốc gia, xin họ hãy thực hiện
những hành động cụ thể vì lợi ích của những người anh chị em của chúng ta mà họ
đang phải đau khổ vì việc thiếu công ăn việc làm, thiếu đất canh tác và nhà cửa.
Tôi nghĩ tới việc tạo ra những chỗ làm với lao động xứng nhân phẩm, hầu đấu
tranh chống lại nạn thất nghiệp trong xã hội, mà nó đang liên lụy tới một số lớn
những gia đình và người trẻ, cũng như đang có những hậu quả hết sức nghiêm trọng
đối với mối tương quan của toàn xã hội. Không có công ăn việc làm thì cảm nhận
đối với phẩm giá riêng sẽ bị suy yếu trong mức độ rất cao, làm cho niềm hy vọng
bị giảm bớt, và chỉ có thể được cân bằng theo từng phần nhờ vào sự cứu trợ -
ngay cả khi rất cần thiết -, mà sự cứu trợ đó được xác định đối với những người
thất nghiệp và gia đình của họ. Một mối quan tâm đặc biệt phải được dành cho những
người phụ nữ - mà tiếc rằng họ vẫn đang còn bị phân biệt kỳ thị trong lãnh vực
lao động – cũng như phải được dành cho một số phạm trù của những công nhân viên
mà những điều kiện lao động của họ không được an toàn hay có nhiều nguy hiểm,
và tiền lương của họ không cân xứng với ý nghĩa và tầm quan trọng của nghĩa vụ
xã hội mà họ phải chu toàn.
Để kết thúc, tôi muốn kêu gọi mọi người hãy thực hiện những bước
đi hữu hiệu nhằm cải thiện những điều kiện sống của các bệnh nhân, bằng cách là
tất cả những khả năng tiếp cận với sự điều trị y khoa và khả năng tiếp cận với
những loại thuốc men cần thiết cho sự sống, kể cả khả năng được chăm sóc tại
nhà, đều được bảo đảm.
Những nhà mang trách nhiệm của các quốc gia cũng được mời gọi
canh tân mối tương quan của họ đối với các dân tộc khác với một cái nhìn về những
giới hạn riêng của mình, và hãy tạo điều kiện cho tất cả mọi người đều có được
một sự bao bọc thực sự và sự góp phần vào cuộc sống của cộng đồng quốc tế, hầu
cho tình huynh đệ được hiện thực hóa ngay cả trong gia đình các quốc gia.
Từ quan điểm này, tôi muốn hướng một lời kêu gọi đến tất cả mọi
người: hãy khước từ việc làm cho các dân tộc khác bị vướng vào vòng xung đột
hay chiến tranh, mà những cuộc xung đột hay chiến tranh đó không chỉ hủy hoại
những gia tài vật chất hay văn hóa của họ, cũng không chỉ hủy hoại những thành
tựu của họ, nhưng còn – và trong thời gian dài – hủy hoại sự bất khả xâm phạm về
luân lý và tinh thần của họ nữa; hãy xóa bỏ các món nợ quốc tế của các quốc gia
nghèo nhất, hay quản lý những món nợ đó ở mức có thể chấp nhận được; vận dụng
những hình thức của một chính sách cộng tác mà chúng không bị khống chế bởi sự
chuyên chế của một số ý thức hệ, nhưng thay vào đó, tôn trọng những giá trị của
các cư dân địa phương, và tuyệt đối không gây tổn thương cho quyền căn vản và bất
khả nhượng của những em bé chưa được sinh ra.
Tôi trao phó những suy tư này – cùng với những niềm ước mong tốt
nhất của tôi nhân dịp năm mới – cho lời bầu cử của Đức Maria, cho người Mẹ luôn
luôn lưu tâm tới những nỗi thống khổ của nhân loại, để Mẹ cầu nguyện cho chúng
ta, hầu cho lời cầu xin của chúng ta được tăng thêm sức mạnh bởi Chúa Giê-su,
Con của Mẹ, Hoàng Tử Hòa Bình, và xin Người chúc lành cho sự dấn thân hằng ngày
của chúng ta vì lợi ích của một thế giới huynh đệ và liên đới.
Vatican ngày mồng 08 tháng 12
năm 2015
Đại Lễ Mừng Kính Đức Trinh Nữ
Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội
Khai mạc Năm Thánh ngoại Thường
về Lòng Thương Xót
ĐTC Phan-xi-cô
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist – chuyển ngữ
Ghi chú:
[1] Công Đồng Vatican
II, Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et spes, 1.
[2] Như trên, số 3.
[3] Tông Sắc Công Bố
năm Thánh Ngoại thường về Lòng Thương Xót Misericordiae Vultus, 14-15.
[4] Xc. Benedikt XVI.,
Thông Điệp Caritas in veritate, 43.
[5] Như trên, số 16.
[6] Thông Điệp
Populorum progressio, 42.
[7] „Xã hội ngày càng được toàn cầu hóa làm cho
chúng ta trở thành hàng xóm của nhau, nhưng không làm cho chúng ta trở thành
những người anh chị em. Lý trí, đối với một mình nó, có khả năng nhận thức được
sự bình đẳng giữa những con người và hình thành nên cuộc sống chung giữa những
công dân, nhưng không đạt tới được việc tạo nên tình huynh đệ“ (Benedikt
XVI., Thông Điệp Caritas in veritate, 19).
[8] Thông Điệp
Evangelii gaudium, 60.
[9] Vgl. ebd., 54.
[10] Sứ Điệp nhân dịp
Mùa Chay 2015.
[11] Xc. THông Điệp
Laudato si’, 92.
[12] Như trên, số 51.
[13] Diễn văn nhân dịp
đầu Năm Mới trước các thành viên của Ngoại Giao Đoàn bên cạnh Tòa Thánh
(7.01.2013).
[14] Như trên.
[15] Xc. Benedikt
XVI., Diễn văn trong ngày hồi tâm của cuộc đối thoại và cầu nguyện cho công lý
và hòa bình trên thế giới (Assisi, 27.10.2011).
[16] Xc. Thông Điệp
Evangelii gaudium, 217-237.
[17] „Cho tới bao lâu sự khai trừ và sự bất bình
đẳng xã hội trong xã hội và giữa các dân tộc với nhau vẫn chưa được khắc phục,
thì cho tới lúc đó người ta vẫn chưa thể khử trừ được bạo lực. Người nghèo và
những dân tộc nghèo túng nhất sẽ vẫn còn bị ép buộc phải sử dụng bạo lực, nhưng
nếu không có sự đồng đều trong các cơ hội, những hình thức khác nhau của thái
độ thù địch và chiến tranh sẽ tìm được mảnh đấy màu mỡ, mà không trước thì sau,
mảnh đất ấy sẽ dẫn tới sự phát triển nhanh chóng. Nếu cộng đồng địa phương,
quốc gia hay quốc tế chừa lại một phần của chính nó trong những vùng ngoại vi
cho số phận của chính phần bị bỏ lại đó thì sẽ không có bất cứ chương trình
chính trị, cũng chẳng có bất cứ lực lượng trật tự hay nền văn minh nào có thể
bảo đảm được sự bình yên một cách không hạn chế được. Điều đó sẽ diễn ra không
phải chỉ vì sự bất bình đẳng xã hội khơi lên những phản ứng có tính bạo lực của
những người bị loại ra khỏi hệ thống, nhưng còn vì hệ thống xã hội và kinh tế đang
có sự bất công ngay từ gốc rễ. Nếu như sự thiện có khả năng trải rộng thế nào,
thì sự ác mà người ta tán thành, cũng có khả năng như thế, nghĩa là nới rộng sự
bất công cũng như khuếch trương sức mạnh hủy hoại của nó, và trong âm thầm,
thay đổi tận gốc những nền tảng căn bản của hệ thống chính trị và xã hội ấy, mà
có vẻ như nó muốn bám rễ thật chắc“ (Thông Điệp Evangelii gaudium, 59).
[18] Xc. Thông Điệp
Laudato si’, 31; 48.
[19] Sứ Điệp nhân ngày
Hòa Bình Quốc Tế 2015, 2.
[20] Tông Sắc Công Bố
Năm Thánh ngoại thường về Lòng Thương Xót Misericordiae Vultus, 12.
[21] Như trên, số 13.
[22] Đức Gio-an
Phao-lô II., Thông Điệp Sollecitudo rei socialis, 38.
[23] Như trên.
[24] Như trên.
[25] Xc. Bài Giáo Lý
trong buổi Tiếp Kiến Chung Ngày mồng 07.01.2015.
[26] Sứ Điệp nhân ngày
Hòa Bình Quốc tế 2012, 2.
[27] Như trên.
[28] Xc. Bài Huấn Dụ
trong buổi Đọc Kinh Truyền Tin Chung ngày mồng 06.09.2015.
[29] Xc. Diễn Văn
trước phái đoàn của tổ chức luật hình sự quốc tế (23.10.2014).