SỨ ĐIỆP NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO
2008 CỦA ĐTC BÊNÊĐICTÔ XVI
Sáng ngày 12-7-2008, ĐTC Beneđictô XVI đã cho công bố sứ điệp Ngày Thế
giới Truyền giáo, ngày 19-10, với đề tài là ”Được mời gọi làm đầy tớ và tông đồ
của Đức Giêsu Kitô vào đầu thiên niên kỷ mới”, trong đó ĐTC tái xác định rằng
truyền giáo là bổn phận cấp bách của mọi thành phần Dân Chúa. Dưới đây là bản
dịch từ nguyên văn Ý ngữ trong website của Toà Thánh.
“Các đầy tớ và tông đồ của Đức Giêsu
Kitô”
Anh chị em thân mến,
Nhân dịp Chúa Nhật Thế giới Truyền giáo, tôi mời anh chị em
suy nghĩ về sự cấp bách của việc rao giảng Tin Mừng ở thời đại chúng ta. Mệnh
lệnh truyền giáo vẫn tiếp tục là một ưu tiên tuyệt đối cho tất cả những ai đã
được rửa tội, được mời gọi để trở thành “những đầy tớ và tông đồ của Đức Giêsu
Kitô” ở đầu thiên niên kỷ này. Vị tiền nhiệm khả kính của tôi, đấng tôi tớ
Thiên Chúa Phaolô VI đã nói trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi rằng “truyền giáo
là một ân sủng, ơn gọi riêng, và căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (số 14).
Như một mẫu gương của quyết tâm trong việc tông đồ này, tôi muốn đặc biệt nói
đến Thánh Phaolô Tông đồ Dân ngoại, bởi vì năm nay chúng ta dành một năm đặc
biệt để mừng kỷ niệm [sinh nhật] ngài. Đó là Năm Thánh Phaolô, ngõ hầu chúng ta
có dịp làm quen với vị Tông Đồ xuất sắc này, là đấng được ơn gọi rao giảng Tin
Mừng cho Dân ngoại, như Chúa đã công bố: “Hãy đi, vì Thầy sẽ sai con đi thật
xa, đến với các Dân Ngoại” (Cv 22,21). Làm sao mà chúng ta không nắm lấy cơ hội
năm thánh đặc biết này dành cho các Giáo Hội địa phương, các cộng đồng Kitô hữu
và từng cá nhân mỗi tín hữu, để làm lan tràn đến tận cùng trái đất việc rao
giảng Tin Mừng, rao truyền quyền năng của Thiên Chúa để cứu độ tất cả những ai
tin (x. Rm 1,6)?
1. Nhân loại cần được giải phóng
Nhân loại cần được giải phóng và cứu độ. Thánh Phaolô nói
rằng chính các tạo vật đang đau khổ và hy vọng được tham gia vào sự tự do của
con cái Thiên Chúa (x. Rm 8,19-22). Những lời này vẫn còn đúng cho cả thế giới
hôm nay. Các tạo vật đang đau khổ. Nhân loại đang quằn quại và mong chờ sự tự
do thật, mong đợi một thế giới khác, một thế giới tốt đẹp hơn; mong chờ “ơn cứu
độ”. Và người ta biết một cách căn bản rằng thế giới mới được mong đợi chắc
chắn một người mới, chắc chắn “con cái Thiên Chúa”. Hãy nhìn kỹ hơn tình trạng
thế giới hôm nay. Trên bình diện quốc tế, nếu một đàng có những triển vọng phát
triển về kinh tế và xã hội, thì đàng khác lại có những lo lắng nặng nề về chính
tương lai. Trong nhiều trường hợp, bạo lực đánh dấu những liên hệ giữa các cá
nhân và giữa các dân tộc; sự nghèo đói đang đè nặng trên hàng triệu người; sự
kỳ thị và đôi khi cả ngược đãi vì lý do màu da, văn hoá và tôn giáo đang làm
cho nhiều người phải bỏ quê hương để đi chỗ khác tìm nơi trú ẩn và che chở;
những tiến bộ về kỹ thuật, khi không nhắm vào phẩm giá và sự tốt lành của con
người, hoặc nhắm vào sự phát triển dựa trên tình đoàn kết, thì nó sẽ mất đi khả
năng như là một yếu tố hy vọng, và ngược lại có thể làm cho những sự thiếu quân
bình và bất công đang sẵn có thêm trầm trọng. Hơn nữa, còn có những đe doạ liên
tục trong mối quan hệ giữa con người và môi sinh do việc sử dụng tài nguyên
cách bừa bãi, với hậu quả không tốt đối với sự lành mạnh về thể chất cũng như
tinh thần của con người. Như thê, tương lai của nhân loại cũng bị lâm nguy bởi
những âm mưu xâm phạm đến sự sống của mình, dưới nhiều hình thái và phương thức
khác nhau.
Trước cảnh “cảm thấy bị dằn vặt bởi nỗi ưu tư, bị giằng co
giữa hy vọng và lo âu” (Gaudium et Spes, 4), chúng ta tự hỏi:
Nhân loại và vạn vật sẽ ra sao? Có một hy vọng nào cho tương lai, hay đúng hơn,
có một tương lai nào cho nhân loại không? Và tương lai ấy sẽ như thế nào? Câu
trả lời cho những thắc mắc này của chúng ta - là những tín hữu - phải đến từ
Tin Mừng. Đức Kitô chính là tương lai của chúng ta, như tôi đã viết trong Thông
điệp Spe Salvi, Tin Mừng của Người là một
sự truyền thông có thể “thay đổi cuộc đời”, đem lại hy vọng, mở cửa thời gian
tăm tối và soi sáng tương lai của nhân loại và vũ trụ (x. số 2).
Thánh Phaolô đã hiểu rõ rằng nhân loại chỉ có thể tìm thấy
ơn cứu độ và hy vọng trong Đức Kitô. Vì thế mà ngài đã cảm thấy việc truyền
giáo là việc cấp bách và khẩn thiết để công bố “lời hứa sự sống trong Đức Kitô
Giêsu” (2 Tm 1,1), là “niềm hy vọng của chúng ta “ (1 Tm 1,1), ngõ hầu mọi
người có thể đồng thừa tự và đồng tham gia vào lời hứa nhờ Tin Mừng (x. Ep
3,6). Ngài ý thức rằng không có Đức Kitô thì nhân loại “không còn hy vọng và
không có Thiên Chúa trên thế gian” (Ep 2,12) - “không còn hy vọng vì không có
Thiên Chúa” (Spe Salvi, 3). Thực ra, “người nào
không biết Thiên Chúa, dù họ có thể đặt hy vọng vào đủ thứ, nhưng rốt cục họ
không có hy vọng, không có niềm hy vọng lớn lao có thể nâng đỡ toàn thể đời
sống (Ep 2,21)” (Spe Salvi, 27).
2. Sứ vụ truyền giáo là một vấn
đề bác ái
Cho nên việc rao giảng Đức Kitô và sứ điệp cứu độ của Người
là nhiệm vụ khẩn cấp của tất cả mọi người. Thánh Phaolô đã nói: “Khốn cho tôi
nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9,16). Trên đường đi Đamascô, ngài đã
cảm nghiệm và đã hiểu rằng ơn cứu độ và truyền giáo là việc làm của Thiên Chúa
và tình yêu của Ngài. Lòng yêu mến Đức Kitô đã đưa ngài đi khắp các nẻo đường
của Đế đuốc Rôma như người tiền hô, vị tông đồ, người rao giảng và vị thầy dạy
Tin Mừng, là người nhận mình là “sứ giả mang xiềng xích” (1 Cr 6,20). Tình yêu
Thiên Chúa biến ngài thành “mọi sự cho mọi người, để có thể cứu được một số
người bằng mọi cách” (1 Cr 9,22). Khi nhìn đến kinh nghiệm của Thánh Phaolô,
chúng ta hiểu rằng hoạt động truyền giáo là một sự đáp lời Thiên Chúa, Đấng yêu
thương chúng ta. Tình yêu của Ngài cứu độ chúng ta và đưa chúng ta đến missio
ad gentes (rao giảng cho muôn dân), là một năng lực tinh thần có khả năng làm
lan rộng trong gia đình nhân loại sự hoà
hợp, công lý và hiệp thông giữa con người, màu da và dân tộc, là điều mọi người
đều mong muốn (x. Deus Caritas Est, 12). Cho nên, chính
Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, đã dẫn đưa Giáo Hội đến những biên cương của nhân
loại và mời gọi các nhà truyền giáo đến uống “ở nguồn mạch nguyên thuỷ, là Đức
Giêsu Kitô, mà từ Trái Tim bị đâm thâu của Người chảy ra tình yêu Thiên Chúa (Deus Caritas Est, 7). Chỉ từ nguồn
mạch này mà các sứ giả của Tin Mừng có thể múc được sự chăm sóc, dịu dàng, trắc
ẩn, chấp nhận, sẵn sàng và quan tâm đến những vấn đề của con người, và những
nhân đức khác cần thiết để bỏ mọi sự và hoàn toàn hiến thân cách vô điều kiện
hầu rải khắp thế giới hương thơm đức ái của Đức Kitô.
3. Luôn luôn truyền giáo
Trong khi việc truyền giáo lần đầu vẫn tiếp tục cần thiết và
khẩn trương ở nhiều nơi trên thế giới, chúng ta ngày nay lại phải đương đầu với
việc thiếu giáo sĩ và ơn gọi trong giáo phận và các dòng tu. Cần phải nhắc lại
rằng, mặc dù có những khó khăn chồng chất, mệnh lệnh truyền giáo cho muôn dân
của Đức Kitô vẫn là một ưu tiên. Không có lý do nào có thể biện minh cho sự
chểnh mảng hay đình trệ, bởi vì “mệnh lệnh truyền giáo cho muôn dân tạo thành
đời sống và sứ vụ căn bàn của Giáo Hội” (ĐTC Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 14). Đó là một
việc truyền giáo vẫn còn ở giai đoạn bắt đầu và chúng ta phải đem hết tâm lực
để phục vụ nó” (Gioan Phaolô II, Redemptoris
Missio, 1). Làm sao ở đây chúng ta không nghĩ đến người
Macêđônia, là người đã hiện ra trong giấc mơ của Thánh Phaolô và nói lớn tiếng:
“Xin hãy qua Macêđônia mà giúp đỡ chúng tôi?” Ngày nay, cũng có không biết bao
người đang chờ chúng ta loan báo Tin Mừng, đó là những người đang khát khao
niềm hy vọng và tình thương. Có bao nhiêu người tự vấn tận thâm tâm về yêu cầu
giúp đỡ này, là nhu cầu phát sinh từ nhân loại, và từ bỏ tất cả vì Đức Kitô để
truyền lại cho người ta đức tin và tình yêu đối với Người! (x. Spe Salvi, 8).
4. Khốn cho tôi nếu tôi không
truyền giáo (1 Cr 9,16)
Anh chị em thân mến, “duc in altum!” – Hãy
ra khơi của biển rộng thế gian và theo lời mời gọi của Đức Kitô,
hãy thả lưới mà không sợ hãi, vững tin vào sự trợ giúp luôn luôn của Người.
Thánh Phaolô nhắc nhở cho chúng ta rằng việc rao giảng Tin Mừng không phải là
lý do để tự hào (x. 1 Cr 9,16), nhưng là một nhiệm vụ và một niềm vui. Các hiền
huynh giám mục thân mến, theo gương Thánh Phaolô, mọi người đều cảm thấy giống
như “một tù nhân của Đức Kitô cho Dân ngoại” (Ep 3,1), biết rằng quý huynh có
thể cậy trông vào sức mạnh đến với chúng ta từ Người trong những lúc khó khăn
và thử thách. Một giám mục được thánh hiến không phải chỉ cho giáo phận của
mình, nhưng cho phần rỗi của cả thế giới (x. Redemptoris
Missio, 63). Như Thánh Tông đồ Phaolô, một giám mục được
mời gọi để vươn đến những người ở thật xa và chưa biết Đức Kitô hoặc chưa cảm
nghiệm được tình yêu giải phóng của Người. Quyết tâm của một giám mục là làm
cho toàn thể cộng đồng giáo phận thành truyền giáo bằng cách tình nguyện đóng
góp, tuỳ theo khả năng, gửi các linh muc và giáo dân đến những Giáo Hội [địa
phương] khác để phục vụ việc truyền giáo. Bằng cách này, việc rao giảng cho
muôn dân (missio ad gentes) trở thành nguyên tắc hợp nhất và hội tụ của toàn
thể hoạt động mục vụ và bác ái.
Phần các con, các linh mục thân yêu, là những cộng tác viên
hàng đầu của các giám mục, các con hãy trở nên những mục tử quảng đại và các
nhà truyền giáo nhiệt thành! Nhiều người trong các con trong những thập niên
qua đã đến những nơi truyền giáo theo Thông điệp Fidei Donum mà gần đây chúng ta vừa mừng kỷ niệm 50 năm, và với Thông điệp này, vị
tiền nhiệm đáng kính của cha là đấng tôi tớ Thiên Chúa Piô XII đã tạo ra một
thúc đẩy trong việc cộng tác giữa các Giáo Hội địa phương. Cha tin chắc rằng sẽ
không thiếu sự thôi thúc về truyền giáo này trong Giáo Hội địa phương, dù nhiều
nơi đang thiếu các giáo sĩ.
Cả chúng con nữa, các tu sĩ nam
nữ thân yêu, ơn gọi của chúng con được đánh dấu bằng một ý nghĩa truyền giáo
mạnh mẽ, đem việc rao giảng Tin Mừng đến cho mọi người, nhất là những người ở
thật xa, qua việc liên tục làm chứng cho Đức Kitô và sống theo Tin Mừng của
Người cách triệt để. Các tín hữu giáo dân thân thương, các con là những người
hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau của xã hội, được mời gọi để tham gia
một cách mỗi ngày một thêm quan trọng trong việc truyền bá Tin Mừng. Như thế,
một đồi areopagô (x. Cv 17,19-34) phức tạp và đa dạng được mở ra để các con
truyền giáo: đó là thế giới. Hãy làm chứng bằng đời sống rằng các Kitô hữu “thuộc
về một xã hội mới, một xã hội là cùng đích của cuộc hành hương chung của họ và
được biết trước trên con đường hành hương ấy” (Spe Salvi, 4).
5. Kết luận
Anh chị em thân mến, chớ gì việc mừng Ngày Thế giới Truyền
giáo khuyến khích mọi người có một ý thức mới về nhu cầu cấp bách của việc rao
giảng Tin Mừng. Tôi không quên chân thành ghi ơn sự đóng góp của Hiệp hội Giáo
hoàng Truyền giáo vào hoạt động truyền giáo của Giáo Hội. Tôi xin cám ơn họ vì
sự giúp đỡ mà họ dành cho tất cả các cộng đồng, nhất là những cộng đồng trẻ. Họ
là những công cụ vững chắc để đem lại sinh khí và đào luyện Dân Thiên Chúa theo
nhãn quan truyền giáo. Họ nuôi dưỡng sự hiệp thông về nhân sự và tài lực giữa
những chi thể khác nhau của Nhiệm Thể Đức Kitô. Nguyện xin cho những quyên góp
trong tất cả các giáo xứ trong Ngày Thế giới Truyền giáo trở thành một dấu chỉ
hiệp thông và lo lắng cho nhau giữa các Giáo Hội. Sau cùng, xin cho những lời
cầu nguyện, là phương tiện tinh thần thiết yếu cho việc truyền bá giữa tất cả
mọi người ánh sáng của Đức Kitô, “ánh sáng tuyệt vời” chiếu soi “tăm tối của
lịch sử” (Spe Salvi, 49), được thêm sốt sắng
hơn bao giờ hết trong cộng đồng Kitô giáo. Trong khi phó thác cho Chúa việc
tông đồ của các nhà truyền giáo, các Giáo Hội [địa phương] khắp nơi trên thế
giới và các tín hữu tham gia và những hoạt động truyền giáo khác nhau cùng cầu
xin Thánh Phaolô và Đức Thánh Maria - “Hòm Bia Giao Ước sống động”, Ngôi Sao
của truyền giáo và hy vọng - cầu bầu, tôi ban Phép lành Toà Thánh cho mọi
người.
Làm tại Vatican ngày 11-5-2008.
ĐTC Beneđictô XVI
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ.