IV. THÔNG ĐIỆP CỦA MỖI TẠO VẬT

TRONG SỰ HOÀ HỢP CỦA CÔNG TRÌNH TẠO DỰNG

84. Sự khẳng định của chúng ta mỗi một hữu thể con người là một hình ảnh của Thiên Chúa phải không được làm cho chúng ta coi nhẹ sự thật là mỗi một tạo vật đều có một mục đích của riêng nó. Không có gì là dư thừa. Toàn bộ vũ trụ vật chất nói về tình yêu của Thiên Chúa, lòng trìu mến vô biên của Ngài dành cho chúng ta. Đất đai, nước, các ngọn núi: mọi thứ đều, như nó là, một sự âu yếm của Thiên Chúa. Lịch sử về tình bằng hữu của chúng ta với Thiên Chúa luôn luôn gắn liên với những nơi đặc biệt là những nơi mang lấy ý nghĩa cá nhân một cách đặc biệt; tất cả chúng ta đều nhớ những nơi chốn, và tái thăm lại những ký ức này là điều thật tốt đối với chúng ta. Bất cứ ai đã lớn lên ở những ngọn đồi hoặc thường ngồi bên dòng nước, hoặc vui chơi ngoài trời ở quảng trường lân cận; việc trở lại những nơi này là một cơ hội để khôi phục mội điều gì đó thuộc về cái ngã thực của họ.

85. Thiên Chúa đã viết nên một cuốn sách quý, “mà những dòng chữ của cuốn sách ấy là vô số những vật được tạo thành hiện diện trong vũ trụ”.[1] Hội đồng giám mục Canada đã chỉ ra cách đúng đắn rằng không có một tạo vật nào bị loại trừ ra khỏi sự thể hiện này của Thiên Chúa: “Từ những khung cảnh toàn cảnh đến dạng thức sống bé nhỏ nhất, thiên nhiên là một nguồn liên tục của điều kỳ diệu và thán phục. Đó cũng là một sự mạc khải liên tục của sự thánh thiêng”.[2] Hội đồng giám mục Nhật Bản, về phần mình, đã đưa ra một sự quan sát gợi nên suy nghĩ: “Cảm nhận được mỗi tạo vật đang hát những nhịp điệu của sự hiện hữu của nó là đang sống cách vui tươi trong tình yêu và niềm hy vọng của Thiên Chúa”.[3] Sự chiêm ngắm công trình tạo dựng này giúp chúng ta khám phá ở nơi mỗi sự vật một giáo huấn mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta, bởi vì “đối với người tin, chiêm ngắm công trình tạo dựng là nghe thấy một thông điệp, nghe thấ một tiếng nói trái ngược và thầm lặng”.[4] Chúng ta có thẻ nói rằng “cùng với việc mạc khải được gọi cách đúng đắn, được chứa đựng trong Thánh Kinh, thì có một sự thần hiện trong ánh sáng chói lọi của mặt trời và sự buông xuống của màn đêm”.[5] Chú ý đến sự thể hiện này, chúng ta học cách nhìn thấy chính bản thân mình trong mối liên hệ với tất cả mọi loài thọ tạo khác: “Tôi thể hiện chính bản thân mình trong việc ngỏ lời với thế giới; trong nỗ lực của tôi để giải mã sự thánh thiêng của thế giới, tôi khám phá thế giới của riêng mình”.[6]

86. Toàn thế vũ trụ, trong tất cả các mối quan hệ đa dạng của nó, cho thấy sự giàu có không bao giờ cạn vơi của Thiên Chúa. Thánh Tôma Aquinô đã nhấn mạnh cách khôn ngoan rằng sự đa dạng và khác nhau “xuất phát từ ý định của tác nhân đầu tiên” Đấng muốn rằng “điều muốn cho người này trong sự đại diện cho sự tốt lành thánh có thể được cung cấp bởi một người khác”,[7] theo cách đó mà sự tốt lành của Thiên Chúa “có không thể được đại diện một cách phù hợp bởi bất kỳ một tạo vật nào khác”.[8] Từ đó chúng ta cần phải nắm bắt sự khác nhau của mọi sự trong các mối quan hệ đa dạng của chúng.[9] Chúng ta sẽ hiểu đúng đắn hơn tầm quan trọng và ý nghĩa của mỗi tạo vật nếu chúng ta chiêm ngắm nó bên trong toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa. Như Sách Giáo Lý dạy: “Thiên Chúa muốn sự phụ thuộc lẫn nhau của các tạo vật. Mặt trời và mặt trăng, cây bách hương và bông hoa nhỏ, chim đại bàng và chim sẻ: cảnh tượng tráng lệ của sự đa dạng và sự bất bình đẳng vô số của chúng mà không một tạo vật nào là tự thấy mình đủ. Các tạo vật tồn tại trong sự lệ thuộc vào nhau, để hoàn thiện lẫn nhau, trong sự phục vụ nhau”.[10]

87. Khi chúng ta có thể thấy Thiên Chúa phản chiếu trong tất cả mọi sự đang hiện hữu, thì tâm hồn chúng ta được thôi thúc để chúc tụng Thiên Chúa vì tất cả mọi tạo vật của Ngài và thờ phượng Ngài trong sự hiệp nhất với các tạo vật. Tâm tình này tìm thấy được sự diễn tả tuyệt vời trong bài ca của Thánh Phanxicô Assisi:

“Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,

với muôn loài tạo vật,

đặc biệt Ông Anh Mặt Trời,

anh là ánh sáng ban ngày, nhờ Anh, Ngài soi chiếu chúng tôi.

Anh đẹp và tỏa ánh rạng ngời,

anh tượng trưng Ngài, ôi Đấng tối cao.

Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,

vì Chị Trăng và muôn tinh tú,

Chúa tạo dựng trên nền trời lung linh, cao quí và diễm lệ.

Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi, vì Anh Gió, 

và không khí và mây trời, cảnh thanh quang

và bát tiết tứ thời

nhờ Anh, Chúa bảo tồn muôn vật.

Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi, vì Chị Nước,

thật ích lợi và khiêm nhu và quí hóa và trinh trong.

Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi, vì Anh Lửa,

nhờ Anh, Chúa sáng soi màn đêm,

Anh đẹp và vui tươi và hùng tráng và mạnh mẽ”.[11] 

88. Hội đồng giám mục Brazil đã chỉ ra rằng thiên nhiên như một tổng hte63 không những làm tỏ hiện Thiên Chúa mà còn là một ngai toà cho sự hiện diện của Ngài. Thần Khí sự sống sẽ ngự trong một sinh vật sống và mời gọi chúng ta đi vào mối quan hệ với Ngài.[12] Khám phá sự hiện diện này dẫn chúng ta đến chỗ trau dồi “những nhân đức sinh thái”.[13] Điều này không được quên rằng có một khoảng cách vô biên giữa Thiên Chúa và mọi thứ thuộc về thế giới này, là những thứ không sở hữu được sự viên mãn của Ngài. Bằng không, chúng ta sẽ không làm cho chính các tạo vật bất kì điều gì tốt lành, bởi vì chúng ta sẽ không nhận biết vị trí đúng đắn và thích hợp của nó. Chúng ta sẽ kết thúc trong việc đòi hỏi một cách vô lối nơi chúng một điều gì đó mà chúng, trong sự nhỏ bé của nó, không thể mang lại cho chúng ta.

V. MỘT SỰ HIỆP THÔNG HOÀN VŨ

89. Mọi vật được tạo dựng thuộc về thế giới này thì không thoát khỏi sự làm chủ: “Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, vì mọi loài đều là của Chúa” (Kn 11,26). Đây là nền tảng của sự xác tín của chúng ta, như là một phần của vũ trụ, được mời gọi đi vào trong hiện hữu bởi một Chúa Cha, tất cả chúng ta được kết nối bởi những mối dây liên kết vô hình và cùng nhau tạo nên một kiểu gia đình hoàn vũ, một sự hiệp thông cao cả vốn lấp đầy chúng ta bằng một sự tôn trọng thánh thiêng, yêu thương và khiêm tốn. Ở đây tôi muốn nhắc lại rằng “Thiên Chúa đã tháp nhập chúng ta một cách quá gần gũi với thế giới xung quanh chúng ta để chúng ta có thể cảm nhậng được sự sa mạc hoá nguồn đất hầu như là một căn bệnh thể lý, và việc diệt chủng các loại như một sự làm mất hình thể đau đớn”.[14]

90. Điều này không có nghĩa là đặt tất cả mọi hữu thể sống trên cùng một cấp độ hoặc tước khỏi con người nhân loại sự xứng đáng độc nhất và trách nhiệm lớn lao đi kèm. Điều này cũng không hàm chứa một sự thánh thiêng hoá trái đất là điều ngăn cản chúng ta khỏi việc tác động lên đó và bảo vệ nó trong sự mỏng giòn của nó. Những khái niệm như thế cuối cùng sẽ tạo nên những sự bất quân bình mới vốn sẽ làm chệch hướng chúng ta khỏi thực tại đang thác đố chúng ta.[15] Đôi khi chúng ta thấy một sự ám ảnh với việc khước từ bất kì một sự ưu việt nào đối với con người nhân loại; sự nhiệt thành được thể hiện trong việc bảo vệ các chủng loại khác hơn là trong việc bảo vệ phẩm giá mà tất cả con người nhân loại cùng chia sẻ trong một cách thế bình đẳng. Dĩ nhiên, chúng ta cần phải bận tâm là đừng để các sinh vật sống khác bị đối xử một cách vô trách nhiệm. Nhưng chúng ta phải đặc biệt nổi giận trước những sự bất bình đẳng lớn lao khác ngay giữa chúng ta, mà từ đó chúng ta tiếp tục khoan dung với một số người tự coi họ xứng đáng hơn những người khác. Chúng ta không nhận thấy rằng một số đang sa lầy vào sự thuyệt vọng và sự nghèo nàn hèn hạ, mà không có một lối thoát, trong khi những người khác thì lại không có một ý tưởng mờ nhạt về điều mà họ phải thực hiện với tài sản của họ, khoe mẽ một cách kiêu căng sự trổi vượt giả định của họ và bỏ lại phía sau họ quá nhiều sự lãng phí mà, nếu đó là một trường hợp ở đâu đó, thì có thể sẽ phá huỷ hành tinh. Trên thực tế, chúng ta tiếp tục khoan dung một số đang tự coi họ nhân bản hơn những người khác, như thể là họ được sinh ra với những quyền hành lớn hơn.

91. Một cảm thức về sự hiệp thông sâu xa với toàn thể thiên nhiên không thể là thực nếu tâm hồn chúng ta thiếu sự dịu dàng, lòng thương cảm và sự bận tâm dành cho những anh em đồng loại của chúng ta. Thật rõ ràng là bất nhất để chiến đấu chống lại nạn buôn bán ở các chủng loại đang gặp nguy cơ trong khi lại vẫn hoàn toàn thờ ơ với nạn buôn người, không quan tâm gì đến người nghèo, hoặc thực hiện việc huỷ diệt anh em đồng loại khác đang bị coi là không cần nữa. Điều này làm nguy hại đến ý nghĩa rất quan trọng của cuộc đấu tranh của chúng ta vì môi trường. Đó không phải là một sự trùng hợp mà, trong bài ca mà trong đó Thánh Phanxicô chúc tụng Thiên Chúa vì các tạo vật của Ngài, Ngài tiếp tục nói: “Chúc tục Thiên Chúa của con, vì những người tha thứ vì tình yêu của Ngài”. Mọi sự đều kết nối. Do đó quan tâm đến môi trường cần phải được gia nhập vào bằng một tình yêu chân thành dành cho anh em đồng loại của chúng ta và một sự dấn thân vững vàng cho việc giải quyết các vấn đề của xã hội.

92. Hơn nữa, khi tâm hồn chúng ta mở ra cách đúng đắn cho sự hiệp thông hoàn vũ, thì cảm thức về tình huynh đệ này sẽ không loại trừ điều gì và loại trừ một ai cả. Điều đó kéo theo là sự thờ ơ của chúng ta hay sự tàn bạo của chúng ta hướng đến các tạo vật anh em của thế giới này sớm muộn gì cũng sẽ ảnh hưởng đến việc đối xử mà chúng ta thi hành với những anh em đồng loại khác. Chúng ta chỉ có một trái tim, và cùng một nỗi khốn hổ là điều dẫn chúng ta đến việc đối xử tệ bạc với một động vật sẽ không lâu dài trong việc thể hiện chính tâm hồn ấy trong mối quan hệ của chúng ta với người khác. Mọi hành vi tàn bạo hướng đến bất kì một tạo vật nào đều “trái với phẩm giá con người”.[16] Chúng thật khó để nhìn nhận chính bản thân chúng ta đang yêu thương một cách trọn vẹn nếu chúng ta coi thường bất kì một khía cạnh nào của thực tại: “Hoà bình, công lý và sự bảo tồn tạo vật là ba chủ đề tuyệt đối liên hệ với nhau, không thể tách lìa và suy xét cách cá biệt mà không một lần nữa rơi vào chủ nghĩa giản lược”.[17] Mọi sự đều có liên hệ với nhau, và chúng ta là những con người hiệp nhất với nhau như là anh chị em trên một cuộc lữ hành kỳ diệu, được đan dệt với nhau bởi tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi một loại thọ tạo của Ngài và tình yêu ấy cũng hiệp nhất chúng ta trong tình cảm trìu mến với anh mặt trời, chị mặt trăng, anh sông và mẹ đất.

VI. ĐÍCH ĐIỂM CHUNG CỦA CỦA CẢI

93. Bất luận là người có niềm tin hay không, ngày nay chúng ta đều đồng ý với nhau rằng trái đất chính yếu là một sự thừa hưởng chung, mà hoa trái của nó có ý để mang lại lợi ích cho mọi người. Đối với người tin, điều này trở thành một vấn đề của lòng trung thành với Đấng Tạo Dựng, bởi vì Thiên Chúa tạo nên thế giới cho mọi người. Do đó mọi cách tiếp cận sinh thái cần phải phối hợp với các tiếp cận xã hội là điều suy xét các quyền nền tảng của người nghèo và người xấu số. Nguyên tắc về sự phụ thuộc của tình trạng nghèo riêng biệt đối với đích điểm hoàn vũ của của cải, và do đó quyền của mọi người đối với việc sử dụng những của cải ấy, là quy tắc vàng của đạo đức xã hội và “nguyên tắc đầu tiên của toàn bộ trật tự đạo đức và xã hội”.[18] Truyền thống Kitô Giáo chưa bao giờ nhìn nhận quyền đối với tình trạng nghèo riêng tư là tuyệt đối hay bất khả xâm phạm, và đã nhấn mạnh mục đích xã hội của tất cả mọi hình thức của sự nghèo riêng biệt. Thánh Gioan Phaolô II đã mạnh mẽ tái khẳng định lại giáo huấ này, chỉ ra rằng “Thiên Chúa ban trái đất cho toàn thể nhân loại vì sự tồn tại của tất cả các thành viên của trái đất, không loại trư hay ưu tiên cho bất kì ai”.[19] Đây là những lời mạnh mẽ. Ngài nhấn mạnh rằng “một kiểu phát triển mà không tôn trọng và cổ võ quyền con người – cá nhân và xã hội, kinh tế và chính trị, bao gồm cả quyền quốc gia và quyền của các dân tộc – sẽ thực sự không xứng đáng đối với con người”.[20] Ngài giải thích rõ ràng rằng “Giáo Hội thực ra bảo vệ quyền hợp pháp đối với tài sản riêng, nhưng Giáo Hội cũng dạy không kém rõ ràng là luôn luôn có một sự thế chấp xã hội trên tất cả mọi tài sản riêng, để mọi của cải có thể phục vụ mục đích phổ quát mà Thiên Chúa ban cho chúng”.[21] Do đó, Ngài tiếp tục, “Thật không phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa là quà tặng này có thể sử dụng theo một cách như vậy là những lợi ích của nó chỉ ưu ái cho một số người”.[22] Điều này mời gọi đi vào một vấn đề nghiêm trọng các thói quen không công bằng của một bộ phận nhân loại”.[23]

94. Người giàu và người nghèo có phẩm giá ngang bằng nhau, vì “cả hai đều được Đức Chúa tạo dựng” (Cn 22,2). “Sang hay hèn đều do Người tạo tác” (Kn 6,7), và “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,45). Điều này có những kết quả thực tế, đó là những điều đã được hội đồng giám mục Paraguay chỉ ra: “Mọi người nông dân làm ruộng đều có quyền tự nhiên để sở hữu một lượng đất đai được phân phối hợp lý nơi đó người nông dân có thể tạo lập nhà cửa, làm việc vì sự sinh tồn của gai đình mình và có một cuộc sống an toàn. Quyền này phải được đảm bảo để việc thi hành quyền này không phải là ảo tưởng mà là thực tế. Điều đó có nghĩa là ngoài việc làm chủ tài sản, thì người dân nông thôn phải được tận hưởng các phương tiện giáo dục kĩ thuật, tín dụng, bảo hiểm, và thị trường”.[24]

95. Môi trường thiên nhiên là một tài sản chung, gia sản của toàn thể nhân loại và trách nhiệm của mọi người. Nếu chúng ta biến điều gì đó thành của riêng chúng ta, thì việc đó chỉ để quản lý vì thiện ích chung của tất cả. Nếu chúng ta không thực hiện, thì chúng ta làm gánh nặng lương tâm của chúng ta bằng sức nặng của việc khước từ sự hiệ hữu của người khác. Đó là lý do vì sao mà hội đồng giám mục Tân Tây Lan đã hỏi giới răn “Ngươi không được giết” có ý nghĩa gì khi “hai mươi phần trăm dân số thế giới tiêu thụ các nguồn tài nguyên ở một mức độ cướp đi của các quốc gia nghèo và các thế hệ tương lai điều mà họ cần thiết để tồn tại”.[25]

VII. CÁI NHÌN CỦA CHÚA GIÊSU

96. Chúa Giêsu mang lấy niềm tin thánh kinh vào Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành, nhấn mạnh một chân lý nền tảng: Thiên Chúa là Cha (x. Mt 11,25). Trong khi trò chuyện với các môn đệ của Ngài, Chúa Giêsu mời gọi họ hãy nhận biết mối quan hệ phụ tử mà Thiên Chúa có đối với hết mọi loại thọ tạo của Ngài. Bằng sự dịu dàng cảm động Ngài nhắc nhớ họ rằng mỗi người trong số họ đều quan trọng trong đôi mắt của Thiên Chúa: “Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12,6). Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng” (Mt 6,26).

97. Chúa có thể mời gọi người khác chú ý đến vẻ đẹp vốn có ở trong thế giới bởi vì chính Ngài luôn liên hệ không ngừng với thiên nhiên, dành cho nó một sự chú ý với đầy niềm vui và sự kì diệu. Khi Ngài đi ngang qua một vùng đất, thì Ngài thường dừng lại để chiêm ngắm vẻ đẹp được gieo trồng bởi Cha Ngài, và mời gọi các môn đệ của Ngài biết tiếp nhận một thông điệp thánh trong mọi sự: “Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” (Ga 4,35). “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất” (Mt 13,31-32).

98. Chúa Giêsu sống trong sự hoà hợp toàn vẹn với công trình tạo dựng, và những người khác kinh ngạc: “Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mt 8,27). Dáng vẻ của Ngài không phải là dáng vẻ của một người khắc khổ sống tách lìa khỏi thế giới, cũng không phải của một kẻ thù vui hưởng những thứ trên đời. Ngài nói về chính Ngài: “Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi’” (Mt 11,19). Ngài tách lìa xa khỏi những triết lý khinh thường thân xác, vấn đề và những sự thuộc về thế gian. Tuy nhiên, những chủ thuyết nhị nguyên không lành mạnh như thế để lại một dấu ấn trên một số nhà tư tưởng Kitô Giáo nhất định trong dòng lịch sử và làm méo mó Tin Mừng. Chúa Giêsu làm việc bằng đôi bàn tay của Ngài, trong sự tiếp xúc hằng ngày với vấn đề được Thiên Chúa tạo dựng, mà từ đó Ngài tạo nên hình hài bởi sự khéo léo của Ngài. Thật đáng kinh ngạc là đa phần cuộc sống của Ngài được dành cho nhiệm vụ này trong một cuộc sống giản dị là một cuộc sống không đánh thức một sự ngưỡng mộ nào cả: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria?” (Mc 6,3). Bằng cách này Ngài thánh hoá công việc lao động của con người và ban cho nó cùng với một ý nghĩa cho sự phát triển của chúng ta. Như Thánh Gioan Phaolô II dạy, “bằng việc chịu đựng những cực nhọc của công việc trong sự hiệp nhất với Đức Kitô chịu đóng đinh vì chúng ta, con người theo cách này hợp tác với Con Thiên Chúa vì ơn cứu chuộc cho nhân loại”.[26]

99. Trong sự hiểu biết Kitô Giáo về thế giới, định mệnh của tất cả mọi thoại thọ tạo được gói gọn cùng với mầu nhiệm Đức Kitô, hiện diện ngay từ thuở ban đâu: “vì trong Người, muôn vật được tạo thành” (Cl 1,16).[27] Phần giới thiệu của Tin Mừng Gioan (1,1-18) mạc khải công việc sáng tạo của Đức Kitô như là Ngôi Lời (Logos). Nhưng sau đó, bất thình lình, phần giới thiệu ấy lại tiếp tục nói cùng Ngôi Lời này “đã trở thành xác phàm” (Ga 1,14). Một Ngôi trong Ba Ngôi đi vào trong vũ trụ được tạo dựng, nhưng đặc biệt là ngang qua việc nhập thể, mầu nhiệm Đức Kitô đang hoạt động theo một cách kín ẩn trong toàn thể thế giới tự nhiên, mà không qua đó tác động đến tính tự chủ của nó.

100. Kinh Thánh Tân Ước không chỉ nói cho chúng ta về Chúa Giêsu trần thế và mối quan hệ hữu hình và yêu thương của Ngài với thế giới. Kinh Thánh còn cho thấy Ngài đã sống lại và vinh hiển, hiện diện trong toàn bộ công trình tạo dựng bằng Quyền Làm Chủ trũ trụ của Ngài: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá” (Cl 1,19-20). Điều này dẫn chúng ta đến chỗ hướng tầm nhìn của chúng ta đến tận cùng của thời gian, khi mà Chúa Con sẽ trao hết mọi sự cho Chúa Cha, để “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1Cr 15,28). Do đó, các loài thọ tạo của thế giới này không còn xuất hiệ trước mắt chúng ta dưới dáng vẻ thuần tuý tự nhiên nữa bởi vì Đấng phục sinh sẽ nắm giữ chúng cách nhiệm mầu cho chính Ngài và hướng chúng đến sự viên mãn là phần tận cùng của chúng. Những bông hoa đẹp ngoài đồng và những con chim mà đôi mắt của Ngài đã chiêm ngắm và thán phục giờ đây được mặc lấy sự hiện diện đầy vẻ uy linh của Ngài.


CHƯƠNG BA

NGUỒN GỐC NHÂN LOẠI

CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG SINH THÁI

101. Thật khó hữu ích để mô tả các triệu chứng mà không nhận biết nguồn gốc nhân loại của cuộc khủng hoảng sinh thái. Một cách chắc chắn để hiểu đời sống và hoạt động của con người đi theo đường xiên, đi đến sự hư tổn nghiêm trọng của thế giới xung quanh chúng ta. Chúng ta có nên dừng lại và suy xét điều này không? Ở giai đoạn này, tôi cho rằng chúng ta tập trung vào mô thức kĩ trị đang chiếm ưu thế và vị trí của con người nhân loại và của hành động của con người trong thế giới.

I. CÔNG NGHỆ: SỰ SÁNG TẠO VÀ SỨC MẠNH

102. Nhân loại đã bước vào một kỷ nguyên mới mà trong đó trình độ chuyên môn kĩ thuật đã đưa chúng ta đến một giao lộ. Chúng ta là những người thừa hưởng của hai thế ký với những làn sóng lớn lao của sự thay đổi: động cơ hơi nước, đường sắt, điện tín, điện lực, xe ô tô, máy bay, ngành công nghiệp hoá chất, y học hiện đại, công nghệ thông tin và gần đây hơn, cuộc cách mạng số, người máy, công nghệ sinh học và công nghệ na-nô. Thật đúng đắn để vui hưởng những tiến bộ này và được phấn khích bởi muôn vàn khả năng mà chúng có thể tiếp tục mở ra trước mắt chúng ta, vì “khoa học và công nghệ là những sản phẩm kì diệu của sự sáng tạo mà Thiên Chúa ban tặng cho con người”.[28] Sự sửa đổi thiên nhiên vì những mục đích hữu dụng đã phân biệt gia đình nhân loại so với thuở ban đầu; chính bản thân công nghệ “đang thể hiện sự căng thẳng nội tại vốn thôi thúc con người dần dần vượt thắng được những giới hạn vật chất”.[29] Công nghẹ đã khắc phục vô số những sự dữ vốn thường gây hại và giới hạn con người. Làm thế nào chúng ta không thể cảm thấy biết ơn và trân trọng dành cho sự tiến bộ này, đặc biệt là trong các lãnh vực y khoa, kĩ thuật và truyền thông? Làm thế nào mà chúng ta lại không nhận biết công việc của nhiều nhà khoa học và kĩ sư là những người đã mang lại những khả năng để tạo nên sự phát triển mang tính duy trì?

103. Khoa học công nghệ, khi đi đúng hướng, có thể tạo ra những phương tiện quan trọng cải thiện chất lượng cuộc sống con người, từ những đồ dùng gia dụng hữu ích đến những hệ thống giao thông, cầu đường, toà nhà và những không gian công cộng. Nó cũng có thể tạo ra nghệ thuật và giúp cho người nam nữ đắm chìm vào thế giới vật chất để “nhảy vọt” vào thế giới của vẻ đẹp. Ai có thể từ chối vẻ đẹp của một chiếc máy bay hay một toà nhà chọc trời? Những tác phẩm nghệ thuật và âm nhạc giá trị giờ đây đang tận dụng những công nghệ mới. Vì thế, trong vẻ đẹp được phát minh ra bởi người sử dụng những phương thế kĩ thuật và trong khi chiêm ngắm vẻ đẹp như thế, một bước nhảy vọt lớn lao xảy ra, tạo kết quả trong một sự tròn đầy mà duy nhất chỉ có con người.

104. Tuy nhiên cũng phải nhận thấy rằng năng lượng nguyên tử, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, tri thức về DNA của chúng ta, và nhiều khả năng khác là những điều mà chúng ta đã đạt được, đã mang lại cho chúng ta sức mạnh lớn lao. Cụ thể hơn, chúng đã mang lại cho những lãnh vực này với sự hiểu biết, đặc biệt là các nguồn lực kinh tế để sử dụng chúng, một sự thống trị ấn tượng trên toàn thể nhân loại và toàn thế giới. Chưa bao giờ con người lại có sức mạnh như thế trên chính mình, nhưng chẳng có gì đảm bảo rằng sức mạnh này sẽ được sử dụng cách khôn ngoan, đặc biệt khi chúng ta suy xét cách thế mà hiện nay nó đang được sử dụng. Nhưng chúng ta cần phải nghĩ về các loại bom nguyên tữ đã ném xuống vào giữa thế kỷ 20, hoặc hàng loạt công nghệ mà Chủ Nghĩa Phát Xít, Chủ Nghĩa Cộng Sản và các chế độ độc tài khác đã sử dụng để tiêu diệt hàng triệu người, đấy là chưa nói gì đến sự gia tăng các kho vũ khí sẵn sàng cho cuộc chiến hiện đại. Tất cả sức mạnh này nằm trong đôi tay của những con người này, hoặc liệu nó sẽ kết thúc? Thật là cực kỳ mạo hiểm đối với một thành phần nhỏ của nhân loại sở hữu sức mạnh này.

105. Có một khuynh hướng tin rằng mọi sự gia tăng về quyền lực có nghĩa là “một sự gia tăng về ‘chính sự tiến bộ’”, một bước tiến trong “an ninh, sự hữu dụng, an sinh và sức mạnh; ... một sự đồng hoá của những giá trị mới vào trong dòng chảy văn hoá”,[30] như thể là thực tại, sự tốt lành và sự thật tự động chảy tràn từ sức mạnh kinh tế và công nghệ vậy. Sự thật là “con người đương thời đã không được đào tạo để sử dụng tốt quyền lực”,[31] bởi vì sự tiến bộ lớn lao về công nghệ đã không đi cùng với một sự phát triển về trách nhiệm, các giá trị và lương tâm con người. Mỗi thời đại lại có xu hướng chỉ có một sự nhận thức hời hợt về những giới hạn của riêng nó. Việc chúng ta không nắm bắt được trọng lực của những thách đố hiện đang bày ra trước mắt chúng ta là điều khả thể. “Nguy cơ đang gia tăng từng ngày là con người sẽ không sử dụng quyền lực của mình như con người nên sử dụng”; trong thực tế, “quyền lực chưa bao giờ được suy xét theo nghĩa là chọn lựa trách nhiệm là điều rõ ràng trong sự tự do” bởi vì “chuẩn mực” duy nhất của nó được rút ra từ cần thiết bị cáo buộc, hoặc từ sự tiện ích hoặc từ sự an toàn”.[32] Nhưng con người nhân loại thì không hoàn toàn tự chủ. Sự tự do của chúng ta phai tàn khi nó bị giao nộp cho những thế lực mù quáng của sự vô thức, của những nhu cầu tức thời, của sự vụ lợi, và của bạo lực. Theo nghĩa này, chúng ta ở trong tình trạng trần trụi và phơi bày ra khi đối diện với quyền lực ngay càng gia tăng của chúng ta, thiếu một bánh lái để kiểm soát nó. Chúng ta có những cơ chế hời hợt nhất định, nhưng chúng ta không thể tuyên bố là có những giá trị đạo đức, một nền văn hoá và nền linh đạo có ý nghĩa một cách đúng đắn có thể đặt ra những giới hạn và dạy dỗ một sự tự giới hạn bản thân rõ ràng về tư tưởng.

II. SỰ TOÀN CẦU HOÁ

CỦA MÔ THỨC KĨ TRỊ (TECHNOCRATIQUE)

106. Vấn đề căn bản thậm chí con đi sâu hơn nữa: nó là cách thế mà nhân loại đã theo đuổi công nghệ và sự phát triển của nó theo một mô thức không tạo sự khác biệt và đơn chiều. Mô thức này tôn vinh khái niệm về một chủ thể là người, sử dụng những quy trình có tính logic và theo lý lẽ, những cách tiếp cận tiến bộ và đạt được sự kiểm soát trên một khách thể bên ngoài. Chủ thể này sẽ thực hiện mọi nỗ lực đẻ thiết lập nên phương pháp khoa học và thực nghiệm, là phương pháp mà ở tự thân nó đã là một kĩ thuật của sự chiếm hữu, làm chủ và biến đổi. Điều đó như thế là chủ thể đã tìm được chính nó trong sự hiện diện của một điều gì đó không có hình hài, hoàn toàn mở ra cho sự kiểm soát. Con người nam nữ liên tục can thiệp vào thiên nhiên, nhưng trong một khoảng thời gian dài thì điều này có nghĩa là đang phù hợp và đang tôn trọng những khả năng do chính mọi thứ mang lại. Đó là một vấn đề của việc tiếp nhận điều mà chính thiên nhiên cho phép, như thể là từ chính bàn tay của thiên nhiên. Giờ đây, trái lại, chúng ta là những người đặt bàn tay mình trên mọi sự, nỗ lực để rút lấy mọi thứ có thể từ chúng trong khi thường xuyên phớt lờ hoặc lãng quên thực tại đang bày ra trước mắt chúng ta. Con người nhân loại và các vật thể vật chất không còn đưa bàn tay thân thiện ra cho nhau nữa; mối tuan hệ đã trở nên đối đầu. Điều này làm cho thật dễ dàng chấp nhận ý tưởng về sự tăng trưởng vô biên hoặc không giới hạn, là điều cho thấy quá hấp dẫn đối với các nhà kinh tế, tài chính và các chuyên gia công nghệ. Điều đó đặt trên nền tảng sự gian dối là có một nguồn cung cấp vô biên các tài sản của trái đất, và điều này dẫn đến việc hành tinh đang bị vắt cạn vượt quá khỏi mọi giới hạn. Thật là một khái niệm lầm lạc là “một khối lượng vô biên năng lượng và nguồn tài nguyên đang sẵn sàng, rằng có thể làm mới lại chúng một cách nhanh chóng, và rằng những tác động tiêu cực của việc khai thác trật tự thiên nhiên có thể dễ dàng hấp thụ được”.[33]

107. Có thể nói rằng nhiều vấn đề của thế giới ngày nay khởi đi từ một khuynh hướng, đôi khi là vô thức, làm cho phương pháp và những mục đích của khoa học và công nghệ thành một khuôn mẫu mang tính nhận thức luận là điều tạo nên đời sống của nhiều cá nhân và công việc của xã hội. Những tác động của việc áp đặt khuôn mẫu này lên toàn bộ thực tại, con người và xã hội, được thấy trong việc làm hư hỏng môi trường, nhưng đây chỉ là một dấu chỉ của chủ thuyết giản lược là thuyết ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời sống con người và xã hội. Chúng ta phải chấp nhận rằng những sản phẩm công nghệ là không trung dung, bởi vì chúng tạo nên một bộ khung là điều cuối cùng sẽ điều kiện lối sống và tạo nên những khả năng xã hội đi theo dòng chảy được quyết định bởi những lợi ích của những nhóm thế lực nhất định. Các quyết định có vẻ như hoàn toàn mang tính công cụ thì trong thực tế là những quyết định về loại xã hội mà chúng ta muốn tạo nên.

108. Ý tưởng về việc cổ võ một khuôn mẫu văn hoá khác biệt và việc áp dụng công nghệ như một công cụ thuần tuý thì ngày nay không thể tưởng tượng được. Mô thức công nghệ đã trở nên quá thống trị đến nỗi thật khó để thực hiện nếu không có các nguồn lực của nó và thậm chí còn khó khăn hơn để sử dụng chúng mà không bị thống trị bởi luận lý nội tại của chúng. Điều đó đã trở nên phản văn hoá khi chọn lựa một lối sống mà mục tiêu của lối sống ấy là thậm chí có phần độc lập khỏi công nghệ, khỏi cái giá và sức mạnh của nó để toàn cầu hoá và làm cho tất cả chúng ta nên giống nhau. Công nghệ có khuynh hướng hấp thụ mọi thứ vào trong luận lý thép của nó, và những người đang bị bao vây bởi công nghệ “biết thật rõ rằng nó nó tiến triển trong bản phân tích cuối cùng cũng không phải vì lợi nhuận cũng không phải vì sự thịnh vượng của nhân loại”, là điều mà “theo nghĩa sát nhất về mặt thuật ngữ thì quyền lực chính là động cơ của mô thức này – một kiểu làm chúa tể hết mọi sự”.[34] Kết quả là, “con người nắm giữ lấy những yếu tố trần trụi của cả thiên nhiên và bản chất con người”.[35] Khả năng ra quyết định của chúng ta, một sự tự do đúng đắn hơn và một không gian cho sự sáng tạo khả thể của mỗi người đã bị giảm thiểu.

109. Mô thức kĩ trị cũng có khuynh hướng thống trị đời sống kinh tế và chính trị. Kinh tế chấp nhận mọi sự tiến bộ trong công nghệ bằng một quan điểm lợi nhuận, mà không quan tâm đến ảnh hưởng tiêu cực tiềm tàng của nó trên con người nhân loại. Tài chính đánh bại nền kinh tế thật. Các bài học về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã không bị đồng hoá, và chúng ta đang học cách quá chậm rãi tất cả các bài học về sự suy thoái môi trường. Một số nhóm người vẫn đinh ninh rằng nền kinh tế và công nghệ hiện tại sẽ giải quyết hết tất cả mọi vấn đề về môi trường, và tranh luận, theo cách bao quát và không chuyên về kĩ thuật, rằng các vấn đề về nạn đói và nghèo toàn cầu sẽ được giải quyết chỉ bằng sự tăng trưởng thị trường. Nhóm người này ít quan tâm đến các lý thuyết kinh tế nhất định là những điều mà ngày nay hiếm có bất cứ ai dám bảo vệ, hơn là bằng hoạt động thực sự của họ trong việc điều hành nền kinh tế. Họ có thể không khẳng định những lý thuyết như thế bằng ngôn từ, mà thay vào đó cổ võ những lý thuyết này bằng những việc làm của họ bằng cách không thể hiện sự hứng thú của họ ở nơi các cấp độ quân bình hơn của việc sản xuất, một sự phân phối đúng đắn hơn sự giàu có, sự quan tâm dành cho môi trường và các quyền lợi của các thế hệ tương lai. Cách hành xử của họ cho thấy rằng đối với họ việc tối đa hoá lợi nhuận là đủ. Tuy nhiên, tự bản thân thị trường không thể đảm bảo sự phát triển con người và sự bao gồm xã hội mang tính hỗ tương.[36] Đồng thời, chúng ta có “một kiểu ‘siêu phát triển’ của một kiểu lãng phí và tiêu thụ vốn hình thành nên một sự trái ngược không thể chấp nhận được với những hoàn cảnh của sự tước đoạt hết nhân tính”,[37] trong khi chúng ta lại quá chậm chạp trong việc phát triển những tổ chức kinh tế và những sáng kiến xã hội vốn có thể mang lại cho người nghèo quyền được hưởng những nguồn tài nguyên căn bản. Chúng ta thất bại trong việc thấy những cội rễ sâu xa nhất của những thất bại hiện tại của chúng ta, là những điều cần phải giải quyết bằng sự định hướng, các mục tiêu, ý nghĩa và những áp dụng mang tính xã hội về sự tăng trưởng công nghệ và kinh tế.

110. Việc chuyên môn hoá vốn thuộc về công nghệ làm cho người ta khó có thể thấy được bức tranh lớn hơn. Sự phân mảnh kiến thức cho thấy hữu ích đối với những áp dụng cụ thể, và rồi nó thường dẫn đến một sự đánh mất sự tôn trọng dành cho toàn thể, dành cho các mối quan hệ giữa mọi thứ, và cho một chân trời rộng mở hơn, là điều sau đó trở nên không phù hợp. Sự thật rất quan trọng này làm cho người ta thấy khó để tìm ra các giải pháp đủ để giải quyết những vấn đề phực tạp hơn của thế giới ngày nay, đặc biệt là những vấn đề có liên hệ đến môi trường và người nghèo; những vấn đề này không thể được giải quyết bằng từ một cách tiếp cận đơn lẻ hoặc từ một mớ những lợi ích riêng lẻ. Một ngành khoa học muốn đưa ra giải pháp cho những vấn đề lớn lao này nhất thiết phải đưa vào những dữ liệu được tạo ra bởi các lãnh vực tri thức khác, bao gồm triết học và đạo đức xã hội; nhưng đây là một thói quen khó đạt tới ngày nay. Cũng chẳng có những chân trời đạo đức đúng đắn mà người ta được mời gọi hướng đến. Cuộc sống dần dần trở nên một sự đầu hàng trước những hoàn cảnh đã bị điều kiện hoá bởi công nghệ, mà tự thân nó được coi là chìa khoá chính cho ý nghĩa của sự hiện hữu. Trong hoàn cảnh cụ thể mà chúng ta đang đối diện, có rất nhiều triệu chứng đang chỉ ra điều gì là sai lầm, chẳng hạn như sự suy thoái môi trường, sự lo âu, sự đánh mất mục đích sống và mục đích của việc sống cộng đồng. Một lần nữa chúng ta thấy rằng “các thực tại thì quan trọng hơn là những ý tưởng”.[38]

111. Nên văn hoá sinh thái không thể bị giảm thiểu xuống thành một loạt những đáp trả khẩn thiết và nửa vời trước những vấn đề cấp bách về ô nhiễm, sự băng hoại môi trường và sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cần phải có một cách thế xác quyết để nhìn vào mọi sự, một cách nghĩ, các chính sách, một chương trình giáo dục, một lối sống và một nền linh đạo mà cùng nhau tạo nên một sự kháng cự trước sự tấn công của mô thức kĩ trị. Bằng không, thì ngay cả những sáng kiến sinh thái tốt nhất cũng thấy chính chúng bị mắc kẹt trong cùng một luận lý toàn cầu hoá. Việc chỉ tìm kiếm phương dược mang tính kĩ nghệ trước mỗi vấn đề môi trường là điều đang xuất hiện là để chia tách điều đang ở trong thực tại có liên hệ với nhau và che đậy những vấn đề thật và sâu xa của hệ thống toàn cầu.

112. Tuy nhiên chúng ta một lần nữa có thể mở rộng tầm nhìn của chúng ta. Chúg ta có tự do cần thiết để giới hạn và định hướng công nghệ; chúng ta có thể đặt nó vào việc phục vụ một kiểu tiến bộ khác, một kiểu tiến bộ lành mạnh hơn, nhân bản hơn, xã hội hơn, tương tác hơn. Sự thoát khỏi mô thức kĩ trị có tính thống trị thực ra có xảy ra đôi khi, chẳng hạn, khi các hợp tác xã của các nhà sản xuất nhỏ áp dụng những phương tiện sản xuất ít gây ô nhiễm hơn, và chọn lựa một mô thức sống không tiêu thụ, tái tạo và cộng đồng. Hoặc khi công nghệ được định hướng chủ yếu cho việc giải quyết các vấn đề cụ thể của người dân, thì sẽ thực sự giúp người dân sống với nhiều phẩm giá hơn và ít khổ cực hơn. Hoặc thực sự khi lòng muốn tạo ra và chiêm ngắm vẻ đẹp sắp đặt để vượt thắng chủ thuyết giản lược ngang qua một kiểu cứu rỗi là điều xảy ra trong vẻ đẹp và ở nơi những người đang nhìn thấy được vẻ đẹp ấy. Một nhân loại chuẩn mực, đang mời gọi một sự tổng hợp mới, dường như đang đắm chìm vào giữa nền văn hoá công nghệ của chúng ta, hầu như không chú ý, giống như một giọt sương đang rịn ra cách nhẹ nhàng bên dưới một cánh cửa đóng lại. Liệu lời hứa hẹn sẽ tồn tại, bất chấp mọi sự, bằng tất cả mọi điều là đúng đắn đang lớn lên ở nơi sự kháng cự kiên cường không?

113. Cũng có một sự thật là con người dường như không còn tin vào một tương lai hạnh phúc nữa; họ không còn có một niềm tin mù quáng vào một ngày mai tươi sáng dựa trên tình trạng hiện tại của thế giới và những khả năng kĩ thuật của chúng ta nữa. Có một sự nhận thức đang gia tăng rằng sự tiến bộ khoa học và công nghệ không thể được đánh đồng với sự tiến bộ của nhân loại và lịch sử, một cảm thức gia tăng rằng cách thế để đi đến một tương lai tốt đẹp hơn hệ tại ở một nơi khác. Điều này không có nghĩa là khước từ những khả năng mà công nghệ tiếp tục mang lại cho chúng ta. Nhưng nhân loại đã thay đổi cách sâu sắc, và sự tích luỹ liên tục những điều mới mẻ đang tôn vinh một sự nông cạn là điều đẩy chúng ta đi vào một hướng. Thật khó để dừng lại và khôi phục lại chiều sâu của cuộc sống. Nếu kiến trúc phản ánh tinh thần của một thời đại, thì các kiến trúc đồng loạt và các dãy căn hộ xám xịt thể hiện tinh thần của ngành công nghệ toàn cầu hoá, nơi mà một dòng lũ liên tục của những sản phẩm mới đang tồn tại chung với một sự đơn điệu tẻ nhạt. Chúng ta hãy khước từ việc giao nộp bản thân chúng ta cho điều này, và hãy tiếp tục hỏi về mục đích và ý nghĩa của mọi sự. Bằng không thì chúng ta sẽ đơn giản hợp thức hoá hoàn cảnh hiện tại và cần những hình thức trốn thoát khác để giúp chúng ta chịu đựng được sự trống rỗng.

114. Tất cả điều này cho thấy một sự khẩn thiết đối với chúng ta để tiến bước trong một cuộc cách mạng văn hoá mạnh mẽ. Khoa học và công nghệ không hề trung dung; ngay từ khởi đầu đến tận cùng của một tiến trình, nhiều ý định và những khả năng đang được áp dụng và có thể mang lấy những hình dạng khác nhau. Không ai đưa ra một lời đề nghị trở về với Thời Kỳ Đồ Đá cả, nhưng chúng ta thực sự cần phải chậm lại và nhìn vào thực tại theo một cách thế khác, để trân trọng sự tiến bộ tích cực và duy trì được là điều đã được thực hiện, nhưng cũng để khôi phục lại các giá trị và các mục tiêu lớn lao đã bị càn quét đi bởi những ảo tưởng vô giới hạn của chúng ta về sự vĩ đại.

III. CUỘC KHỦNG KHOẢNG VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG

CHỦ THUYẾT CON NGƯỜI LÀ TRUNG TÂM HIỆN ĐẠI

115. Chủ thuyết hiện đại con người là trung tâm hiện đại thật nghịch lý đã mang lấy kết cục đánh giá cực cao tư tưởng kĩ thuật trên thực tại, bởi vì “tư tưởng công nghệ nhìn thiên nhiên như là một trật tự vô cảm, như là một thân thể lạnh lùng của những dữ kiện, như là ‘sự cho đi’ thuần tuý, như là một đối tượng của tiện ích, như là nguyên liệu thô cần được gò thành một hình thù hựu dụng; chủ thuyết này nhìn vũ trụ tương tự như là một ‘không gian’ thuần tuý mà các vật thể có thể được quẳng vào đó bằng một thái độ thờ ơ hoàn toàn”.[39] Phẩm giá cố hữu của thế giới, do đó, bị thoả hiệp. Khi con người nhân loại không tìm thấy vị trí thật sự của họ trong thế giới này, thì họ sẽ hiểu lầm chính họ và mang lấy kết cục là hành động chống lại chính bản thân họ: “Thiên Chúa không chỉ ban cho con người trái đất mà con người phải sử dụng nó bằng sự tôn trọng đối với mục đích tốt lành nguyên thuỷ mà nó được ban tặng, mà, còn là quà tặng của Thiên Chúa dành cho con người. Do đó, con người phải tôn trọng thiên nhiên và cấu trúc đạo đức mà con người được phú bẩm cho”.[40]

116. Thời hiện đại được đánh dấu bởi một chủ thuyết đặt con người làm trung tâm thái quá mà ngày nay, dưới một dáng vẻ khác, đang tiếp tục đứng ngáng trở con đường của sự hiểu biết chung và của bất cứ một nỗ lực nào nhằm củng cố những mối dây liên kết xã hội. Thời gian đã điểm để đặt sự chú ý đã được đổi mới đến thực tại và những giới hạn mà chủ thuyết này áp đặt; điều này tiếp tục là một điều kiện cho một sự phát triển ý nghĩa và sinh hoa trái hơn của các cá nhân và xã hội. Một sự trình bày chưa đầy đủ về nhân chủng học Kitô Giáo tạo dịp cho một sự hiểu sai về mối quan hệ giữa con người nhân loại và thế giới. Thông thường, điều đã được giao nộp là một tầm nhìn mang tính Prometheus về việc làm chủ thế giới, là điều mang lại ấn tượng là việc bảo vệ thiên nhiên là một điều gì đó chỉ là sự chăm sóc mang tính nhát đảm. Thay vào đó, “sự thống trị” của chúng ta trên vũ trụ cần phải được hiểu cách đúng đắn hơn theo nghĩa là một người quản gia có trách nhiệm”.[41]

117. Việc phớt lờ để giám sát sự nguy hại đã được thực hiện đối với thiên nhiên và sự tác động mang tính môi trường của những quyết định của chúng ta là một dấu chỉ đáng chú ý duy nhất về sự coi thường thông điệp chứa đựng trong các cấu trúc của chính bản thân thiên nhiên. Khi chúng ta thất bại trong việc nhận biết sự xứng đáng của người nghèo, một phôi thai con người, một người với những khuyết tật như là một phần của thực tại – chỉ đơn cử một vài điển hình – thì việc nghe được tiếng nói của chính thiên nhiên trở nên thật khó; mọi sự có liên hệ qua lại. Một khi con người nhân loại tuyên bố sự độc lập khỏi thực tại và đối xử bằng sự thống trị tuyệt đối, thì các nền tảng rất quan trọng của cuộc sống bắt đầu suy sụp, bởi vì “thay vì thực thi vai trò của mình như là một người cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng, thì con người lại tự đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa và do đó mang lấy kết cục là làm khơi dậy một cuộc nổi loạn trên bình diện thiên nhiên”.[42]

118. Hoàn cảnh này dẫn đến một căn bệnh tâm thần phân liệt kinh niên, mà từ đó một kiểu kĩ trị vốn không thấy một giá trị cố hữu nào ở nơi những hữu thể thấp hơn đồng tồn tại với một cực khác, là cực không thấy giá trị đặc biệt nào ở nơi con người nhân loại. Nhưng người ta không thể tách lìa khỏi nhân loại. Không thể có một sự canh tân về mối quan hệ của chúng ta với thiên nhiên mà không có một sự canh tân tự chính bản thân nhân loại. Sẽ không có sinh thái học mà không có một ngành nhân chủng học đầy đủ. Khi con người nhân loại bị coi chỉ đơn giản là một thực thể trong số những thực thể khác, là sản phẩm của sự tình cờ hay hay thuyết định mệnh thể lý, thì “toàn bộ cảm thức về trách nhiệm của chúng ta hết thời”.[43] Một chủ thuyết coi con người làm trung tâm lầm lạc không nhất thiết phải nhường chỗ cho “chủ thuyết lấy sự sống làm trung tâm”, vì điều đó sẽ kéo theo một tình trạng mất quân bình khác, thất bại trong việc giải quyết vấn đề hiện tại và thêm vào những vấn đề mới. Người ta không thể mong chờ con người nhân loại cảm thấy trách nhiệm với thế giới trừ khi, đồng thời, những khả năng hiểu biết, ý chí, tự do và trách nhiệm độc nhất của họ được nhận biết và đánh giá đúng.

119. Cũng không phải việc phê bình một chủ nghĩa coi con người là trung tâm lầm lạc sẽ coi thường tầm quan trọng của các mối quan hệ giữa các cá nhân. Nếu cuộc khủng hoảng sinh thái hiện tại là một dấu chỉ nhỏ về cuộc khủng hoảng về đạo đức, văn hoá, và tinh thần của thời hiện đại, thì chúng ta không thể giả định chữa lành mối quan hệ giữa thiên nhiên và môi trường mà không chữa lành tất cả các mối quan hệ nhân loại nền tảng. Tư tưởng Kitô Giáo coi con người nhân loại như đang sở hữu một phẩm giá đặc biệt trổi vượt trên hết các loài thọ tạo khác; do đó tư tưởng này ghi khắc vào sự yêu mến dành cho mỗi người và tôn trọng người khác. Sự mở lòng của chúng ta ra với những người khác, mà mỗi một người là một “người bạn” có khả năng biết, yêu thương, và đi vào cuộc đối thoại, vẫn là một nguồn của sự cao quý của chúng ta trong tư cách là con người nhân loại. Một mối quan hệ đúng đắn với thế giới tạo dựng đòi hỏi rằng chúng ta không làm suy yếu chiều kích xã hội này của việc mở lòng ra với những loài khác, có chiều kích ít trổi vượt hơn về sự mở ra của chúng ta đối với “Ngài” của Thiên Chúa. Mối quan hệ của chúng ta với môi trường có thể không bao giờ bị cô lập ra khỏi mối quan hệ của chúng ta với những loài khác và với Thiên Chúa. Bằng không, đó sẽ chẳng là gì hơn là một chủ nghĩa cá nhân lãng mạn khoác vào chiếc áo sinh thái, khoá chúng ta vào trong một nội tại ngột ngạt.

120. Bởi vì mọi thứ có liên hệ với nhau, nên sự quan tâm dành cho việc bảo về thiên nhiên cũng không tương thích với sự biện minh cho việc phá thai. Làm sao chúng ta có thể dạy cách đúng đắn về tầm quan trọng của sự quan tâm dành cho những hữu thể yếu thế khác, cho dù chúng có thể là khó khăn hay không thích hợp, nếu chúng ta lại thất bại trong việc bảo vệ một phôi thai con người, ngay cả khi sự hiện hữu của phôi thai này là không dễ chịu gì và tạo ra những khó khăn? “Nếu sự nhạy bén cá nhân và xã hội hướng đến việc chấp nhận sự sống mới mà mất đi, thì những hình thức chấp nhận khác vốn có giá trị với xã hội thì cũng héo khô”.[44]

121. Chúng ta cần phải phát triển một sự tổng hợp mới có khả năng vượt thắng được những tranh luận giả của hai thế kỷ vừa qua. Kitô Giáo, trong sự trung thành với căn tính của mình và sự đặt trước phong phú của sự thật mà Kitô Giáo lãnh nhận từ Đức Giêsu Kitô, tiếp tục suy tư về những vấn đề này trong cuộc đối thoại sinh hoa trái với các hoàn cảnh lịch sử đang biến đổi. Trong khi làm như thế, Kitô Giáo làm tỏ lộ sự mới mẻ vĩnh cửu của mình.[45]

Chủ thuyết tương đối thực dụng

122. Chủ thuyết coi con người là trung tâm lầm lạc dẫn đến một lối sống lầm lạc. Trong Tông huấn Evangelii Gaudium, tôi đã nhấn mạnh rằng chủ thuyết thực dụng chính thức của thời đại chúng ta thì “thậm chí còn nguy hiểm hơn chủ thuyết tương đối lý thuyết”.[46] Khi con người nhân loại đặt mình làm trung tâm, thì họ sẽ dành ưu tiên tuyệt đối cho sự tiện nghi tức thời và tất cả những thứ khác trở nên tương đối. Vì thế chúng ta không nên ngạc nhiên khi thấy, trong sự kết hợp với mô thứ kĩ hiện diện trị khắp mọi nơi và sự tôn thờ sức mạnh vô giới hạn của con người, thì xuất hiện chủ thuyết tương đối là thuyết nhìn mọi sự là không phù hợp trừ khi nó phục vụ những lợi ích tức thời của con người. Có một luận lý trong tất cả điều này mà từ đó các thái độ khác nhau có thể nuôi dưỡng lẫn nhau, dẫn đến sự suy thoái môi trường và sự băng hoại xã hội.

123. Nền văn hoá của chủ thuyết tương đối là cùng một sự mất trật tự vốn lôi kéo một con người lợi dụng một người khác, đối xử với những người khác như thể các đồ vật thuần tuý, áp đặt lao động ép buộc trên họ hoặc làm cho họ trở nên nô lệ để phải trả các món nợ của họ. Cùng một lối nghĩ này dẫn đến việc khai thác tình dục trẻ em và sự bỏ rơi người lớn tuổi là những người không còn phục vụ cho những lợi ích của chúng ta nữa. Đó cũng là tư tưởng của những người nói: Chúng ta hãy để cho những thế lực vô hình của thị trường kiểm soát nền kinh tế, và hãy coi những tác động của nó trên xã hội và thiên nhiên như là sự thiệt hại song phương. Trong sự vắng bóng của những sự thật khách quan hoặc những nguyên tắc đúng đắn ngoại trừ việc thoả mãn những ước muốn và những nhu cầu tức thời của chúng ta, thì những giới hạn nào có thể được đặt trên việc buôn bán người, tội phạm có tổ chức, buôn bán ma tuý, buôn bán các mỏ kim cương và lông thú của những loại đang gặp nguy cơ? Đó không phải là cùng một luận lý tương đối là luận lý đồng hoá với việc buôn bán cơ phận của người nghèo để bán lại hay sự dụng trong thí nghiệm, hoặc loại bỏ các trẻ em bởi vì chúng không phải là điều mà cha mẹ nó muốn sao? Cùng lối luận lý “sử dụng và quẳng đi” này tạo nên quá nhiều sự lãng phí, vì ước muốn vô trật tự để tiêu thụ nhiều hơn điều thực sự cần thiết. Chúng ta đừng nên nghĩ rằng những nỗ lực chính trị hoặc sức mạnh của luật pháp sẽ đủ để ngăn chặn những hành động đang ảnh hưởng đến môi trường bởi vì, khi tự thân nền văn hoá bị hư hỏng và sự thật khách quan và những nguyên tắc hợp lý phổ quát không còn được tôn trọng nữa, thì luật phát chỉ có thể được coi là những sự áp đặt tàn bạo hay những trở ngại cần phải tránh né.

Sự cần thiết để bảo vệ việc làm

124. Bất cứ một cách tiếp cận với một nền sinh thái học hỗ tương, là điều trong định nghĩa thì không loại trừ con người nhân loại, cần phải coi trọng giá trị của lao động, như Thánh Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh cách khôn ngoan trong Thông điệp Laborem Exercens của Ngài. Theo trình thuật kinh thánh về việc tạo dựng, Thiên Chúa đặt người nam và nữ vào trong khu vườn mà Ngài đã tạo nên (x. St 2,15) không chỉ là bảo tồn nó (“canh giữ”) nhưng còn làm cho nó sinh hoa trái (“canh tác”). Do đó những người lao động và những người thợ “giữ cho thế giới được trường tồn” (Hc 38,34). Phát triển một thế giới được tạo dựng theo một cách cẩn trọng là cách chăm sóc nó tốt nhất, vì điều này có nghĩa là chính bản thân chúng ta trở thành khí cụ được Thiên Chúa sử dụng để mang lại tiềm năng mà chính Ngài đã khắc ghi trong mọi sự: “Thiên Chúa làm cho đất trổ sinh dược liệu; những thứ đó, người khôn chẳng dám coi thường” (Hc 38,4).

125. Nếu chúng ta suy tư về mối quan hệ đúng đắn giữa con người nhân loại và thế giới xung quanh chúng ta, chúng ta sẽ thấy sự cần thiết một sự hiểu đúng về công việc; nếu chúng ta nói về mối quan hệ giữa con người nhân loại và mọi thứ, thì vấn đề đặt ra là về ý nghĩa và mục đích của tất cả mọi hoạt động của con người. Điều này có mối liên hệ với không chỉ lao động tay chân hay nông nghiệp mà còn với bất kỳ hoạt động nào có liên quan đến việc điều chỉnh thực tại đang hiện hữu, từ việc tạo ra một bản báo cáo xã hội đến việc thiết kế một sự phát triển mang tính công nghệ. Tàng ẩn bên dưới mọi hình thức việc làm là một khái niệm về mối quan hệ mà chúng ta có thế và phải có với điều không là gì ngoài bản thân chúng ta. Cùng với sự chiêm ngắm đầy tràn sự kính sợ về công trình tạo dựng là điều mà chúng ta thấy ở nơi Thánh Phanxicô Assisi, thì truyền thống linh đạo Kitô Giáo cũng phát triển một sự hiểu biết phong phú và quân bình về ý nghĩa của công việc, đơn cử như là, trong đời sống của Chân Phúc Charles de Foucauld và những đồng bạn của Ngài.  

126. Chúng ta cũng có thể nhìn vào truyền thống tuyệt vời của đời sống đan viện. Về mặt nguồn gốc, đó là một kiểu trốn thoát khỏi thế giới, một sự thoát khỏi tình trạng suy đồi của các thành phố. Các thầy tu tìm kiếm sa mạc, tin rằng đó là nơi tốt nhất cho việc gặp gỡ sự hiện diện của Thiên Chúa. Sau này, Thánh Benedict Norcia đã đề xuất rằng các thầy tu của Ngài sống trong cộng đoàn, kết hợp việc cầu nguyện và việc đọc sách thiêng liêng với công việc lao động tay chân (ora et labora). Coi việc lao động tay chân như là một cuộc cách mạng thiêng liêng có ý nghĩa đã được chứng thực. Sự phát triển và sự thánh hoá cá nhân trong mối tương giao giữa việc hồi tưởng và việc làm. Cách kinh nghiệm công việc này làm cho chúng ta bảo vệ và tôn trọng môi trường hơn; nó làm thấm mối quan hệ của chúng ta với thế giới bằng một sự điều độ lành mạnh.

127. Chúng ta tin rằng “con người là nguồn, sự tập trung và mục đích của tất cả đời sống kinh tế và xã hội”.[47] Tuy nhiên, một khi khả năng con người của chúng ta dành cho việc chiêm ngắm và tôn kính bị hư hại, thì việc hiểu lầm ý nghĩa của công việc trở nên dễ dàng.[48] Chúng ta cần nhớ rằng người nam và nữ có “khả năng để cải thiện phần đất của họ, để tiến xa hơn nữa sự phát triển mang tính đạo đức và phát triển những nguồn lực thiêng liêng của họ”.[49] Công việc phải là một bối cảnh để cho sự phát triển cá nhân phong phú này, nơi mà nhiều khía cạnh của cuộc sống của cuộc sống đi vào trong thực tế: sự sáng tạo, việc hoạch định cho tương lai, việc phát triển các tài năng của chúng ta, sống các giá trị của chúng ta, việc liên hệ đến những người khác, làm vinh danh Thiên Chúa. Điều đó kéo theo là việc, trong thực tế của xã hội toàn cầu ngày nay, thật chính đáng để “chúng ta tiếp tục ưu tiên cho mục tiêu về việc đi vào sự phát triển bền vững … cho hết mọi người”,[50] bất chấp những lợi ích hạn hữu của việc kinh doanh và lý luận kinh tế mơ hồ.

128. Chúng ta được tạo nên cùng với ơn gọi làm việc. Mục tiêu không phải sự tiến bộ công nghệ dần dần thay thế công việc con người, vì điều này sẽ có hại cho nhân loại. Công việc là một sự cần thiết, một phần tạo nên ý nghĩa của cuộc sống trên trái đất này, một con đường cho sự trưởng thành, sự phát triển nhân loại và sự thành toàn cá nhân. Giúp đỡ người nghèo về mặt tài chính cần phải luôn là một giải pháp mang tính quan phòng khi đối diện với những nhu cầu bức thiết. Mục tiêu rộng hơn cần phải luôn luôn có là giúp họ có một cuộc sống có phẩm giá ngang qua công việc. Tuy nhiên, định hướng của nền kinh tế lại yêu thích một kiểu tiến bộ công nghệ mà trong đó các khoản chi phí sản xuất được giảm xuống bằng việc cắt giảm lượng công nhân và thay thế họ bằng máy móc các loại. Nhưng đây lại là một cách mà trong đó chúng ta có thể cắt đứt công việc cho chính bản thân mình. Việc mất mát công việc cũng có một tác động tiêu cực trên nền kinh tế “ngang qua sự sói mòn tiệm tiến của tư bản xã hội: mạng lưới các mối quan hệ của sự tin tưởng, phụ thuộc, và tôn trọng luật lệ, tất cả những điều này là không thể tách rời đối với bất kì một hình thức chung sống dân sự nào”.[51] Nói cách khác, “các khoản chi phí con người luôn luôn bao gồm các khoản chi phí kinh tế, và những rối loạn chức năng kinh tế luôn luôn có liên hệ đến các khoản chi phí con người”.[52] Dừng lại việc đầu tư vào con người, để đạt được những khoản lợi ngắn hạn lớn lao hơn, là kiểu kinh doanh tồi tệ đối với xã hội.

129. Để tiếp tục mang lại công việc, thì việc cổ võ một nền kinh tế chuộng sự đa dạng sảng xuất và sự sáng tạo kinh doanh là một điều bắt buộc. Đơn cử một ví dụ, có một sự đa dạng lớn lao về các hệ thống sản xuất thực phẩm quy mô nhỏ là những hệ thống nuôi dưỡng phần lớn các dân tộc trên thế giới, sử dụng một khoản đất đai khiêm tốn và tạo ra ít chất thải, chớ gì được như thế trong việc đóng gói sản phẩm nông nghiệp, trong các vườn hoa và các vườn trái cây, việc săn bắn và việc gặt hái hoang sơ hay việc đánh bắt cá địa phương. Các nền kinh tế có quy mô, đặc biệt trong lãnh vực nông nghiệp sẽ dẫn đến việc buộc những người sở hữu nhỏ bán đất đai của họ hoặc bỏ mặc các mùa màng truyền thống của họ. Những nỗ lực của họ để tiến tới các phương thế sản xuất khác, đa dạng hơn, cho thấy không sinh hoa trái vì sự khó khăn gắn liền với các thị trường khu vực và toàn cầu, hoặc vì kiến trúc hạ tầng cho việc bán hàng và ngành vận tải thì lại tăng tốc để hướng tới những việc kinh doanh lớn hơn. Các nhà cầm quyền dân sự có quyền và nghĩa vụ áp dụng những phương thức rõ ràng và chắc chắn trong việc hỗ trợ các nhà sản xuất nhỏ và việc sản xuất tạo sự khác biệt. Để đảm bảo sự tự do kinh tế mà tất cả đều có thể có được lợi ích cách hiệu quả từ đó, thì những hạn chế đôi khi cần phải được áp đặt trên những người đang sở hữu nguồn lực lớn hơn và có sức mạnh tài chính mạnh hơn. Để tuyên bố sự tự do kinh tế trong khi những điều kiện thực tế thì lại đang ngăn chặn nhiều người khỏi việc tham dự vào nền kinh tế ấy, và trong khi các khả năng việc làm thì tiếp tục xiết lại, là đang thực hiện lối nói nước đôi vốn mang lại cho các hoạt động chính trị điều tiếng xấu. Kinh doanh là một ơn gọi cao quý, hướng đến việc tạo ra sự giàu có và cải thiện thế giới. Việc kinh doanh có thể là một nguồn thịnh vượng sinh hoa trái cho những lãnh vực mà nó hoạt động, đặc biệt nếu việc kinh doanh ấy coi việc tạo ra việc làm là một phần thiết yếu của sự phục vụ của nó cho thiện ích chung.

Các lãnh vực công nghệ sinh học mới

130. Trong tầm nhìn triết học và thần học về con người nhân loại và về công trình tạo dựng mà tôi đã trình bày, thì thật rõ ràng là con người nhân loại, được phú ban cho khả năng lý luận và sự hiểu biết, không phải là một nhân tố bên ngoài để bị loại trừ. Mặc dù sự can thiệp của con người trên thực vật và động vật là được phép khi việc ấy gắn liền với những cần thiết của đời sống con người, Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo dạy rằng việc thí nghiệm trên các loại động vật về mặt đạo đức là chấp nhận được chỉ “khi việc ấy vẫn ở trong những giới hạn hợp lý [và] góp phần vào việc chăm sóc và cứu mạng sống con người”.[53] Giáo Lý xác định rõ rằng sức mạnh của con người có những giới hạn và rằng “thật trái với phẩm giá con người khi làm cho các loại động vật phải chịu đau khổ và chết một cách không cần thiết”.[54] Tất cả những việc sử dụng và thí nghiệm như thế “đòi hỏi một sự tôn trọng mang tính tôn giáo dành cho tính toàn vẹn của công trình tạo dựng”.[55]

131. Ở đây tôi muốn nhắc lại vị thế quân bình của Thánh Gioan Phaolô II, Ngài đã nhấn mạnh những lợi ích của khoa học và tiến bộ công nghệ như là bằng chứng của “sự cao quý của ơn gọi làm người để dự phần một cách có trách nhiệm vào hành động sáng tạo của Thiên Chúa”, trong khi cũng nhấn mạnh rằng “chúng ta không thể can thiệp vào một lãnh vực của hệ thống sinh thái mà không chú ý cần thiết đến các hậu quả của sự can thiệp như thế trong các lãnh vực khác”.[56] Ngài làm rõ rằng Giáo Hội đánh giá cao những lợi ích vốn là kết quả “từ việc nghiên cứu và những ứng dụng của ngành sinh học phân tử, được bổ sung bởi những phân ngành khác như gen, và ứng dụng công nghệ của nó vào trong nông nghiệp và công nghiệp”.[57] Nhưng Ngài cũng chỉ ra rằng điều này phải không được dẫn đến “việc điều khiển gen không biện phân được” [58] vốn phớt lờ những ảnh hưởng tiêu cực trên những sự can thiệp như vậy. Sự sáng tạo của con người không để bị áp chế được. Nếu một nghệ sỹ không thể bị ngăn chặn khỏi việc sử dụng khả năng sáng tạo của mình, thì những người sở hữu những quà tặng đặc biệt cho sự tiến bộ của khoa học và công nghệ cũng không thể bị ngăn chặn khỏi việc sử dụng những tài năng Thiên Chúa ban của họ cho việc phục vụ những người khác. Chúng ta cần không ngừng suy nghĩ lại về các mục tiêu, các hiệu quả, bối cảnh tổng thể và các giới hạn đạo đức của hoạt động con người này, vốn là một hình thức của quyền lực có liên hệ đến những rủi ro có thể xem xét được.

132. Do đó, đây là bộ khung đúng cho bất kì một sự suy tư nào có liên quan đến sự can thiệp của con người trên các loại thực vật và động vật, là sự can thiệp hiện nay bao gồm cả việc điều khiển gen bằng công nghệ sinh học nhân danh sự khai thác tiềm năng hiện diện trong thực tại vật chất. Sự tôn trọng bị mang nợ bởi niềm tin đối với lý trí mời gọi một sự chú ý gần gũi đối với điều mà các ngành khoa học sinh học, thông qua nghiên cứu đã không bị ảnh hưởng bởi những lợi ích kinh tế, có thể dạy cho chúng ta về các cấu trúc sinh học, những khả năng của chúng và những đột biến của chúng. Bất cứ một sự can thiệp hợp pháp nào sẽ tác động lên thiên nhiên chỉ để “cổ võ sự phát triển của thiên nhiên trong trật tự của nó, trật tự của việc tạo dựng, như đã được Thiên Chúa muốn”.[59]

133. Thật khó để đưa là một phán quyết chung về sự điều chỉnh gen (GM), bất luận đó là thực vật hay động vật, y tế hay nông nghiệp, bởi vì những điều này khác nhau rất lớn và mời gọi những sự suy xét cụ thể. Những mối nguy có liên hệ không phải luôn luôn do bởi các kĩ thuật sử dụng, mà hơn thế là do việc áp dụng không đúng đắn hoặc thái quá của chúng. Những đột biến gen, thực ra, đã thường, và vẫn tiếp tục thế, được tạo ra bởi chính thiên nhiên. Những đột biến được tạo ra bởi sự can thiệp của con người cũng không phải là một hiện tượng hiện đại. Việc thuần hoá các loại động vật, việc lai giống giữa các chủng loại và những việc thực hành được chấp nhận xa xưa hơn và mang tính hoàn vũ có thể được đề cập như những điển hình. Tuy nhiên, chúng ta gần gợi nhắc rằng những phát triển khoa học trong điều chỉnh gen các hạt ngũ cốc đã khởi sự bằng việc quan sát vi trùng tự nhiên là loại đã điều chỉnh bộ gen một cách tự nhiên. Tuy nhiên, trong thiên nhiên, tiến trình này diễn ra chậm và không thể so sánh với tốc độ nhanh chóng được tạo ra bởi những tiến bộ công nghệ đương đại, ngay cả sau này được xây dựng trên sự tiến bộ khoa học của nhiều thế kỷ.

134. Mặc dù chưa có bằng chứng kết luận nào đang tồn tại cho rằng việc điều chỉnh gen các loại ngũ cốc có thể gây nguy hại cho con người, và ở một số vùng việc sử dụng này đã mang lại sự tăng trưởng kinh tế là điều đã giúp giải quyết các vấn đề, nhưng vẫn còn đó những khó khăn lớn lao cần phải không được coi thường. Ở nhiều nơi, theo sự hướng dẫn của những cây giống này, đất canh tác lại tập trung trong tay một vài chủ nhân do bởi “sự biến mất dần của những nhà sản xuất nhỏ, là những người, như một hậu quả của việc mất đất đai khai thác, đã bị buộc phải rút ra khỏi việc sản xuất trực tiếp”.[60] Những người tổn thương nhất trong số này lại trở thành những người lao động tạm thời, và nhiều công nhân vùng nông thôn mang lấy kết cục phải di chuyển đến những vùng đô thị cực nghèo. Sự mở rộng của những giống cây trồng này có hiệu quả phá huỷ mạng lưới phức tạp của các hệ thống sinh thái, loại bỏ sự đa dạng của việc sản xuất và ảnh hưởng đến các nền kinh tế vùng miền, bây giờ và trong tương lai. Ở nhiều quốc gia khác nhau, chúng ta thấy một sự mở rộng những kiểu cạnh tranh hẹp đối với việc sản xuất các loại ngũ cốc và những sản phẩm khác cần thiết cho việc canh tác của họ. Sự lệ thuộc này đang trở nền trầm trọng hơn là việc sản xuất những hạt giống không có khả năng sinh sản cần phải suy xét; hậu quả sẽ là buộc các nông dân phải mua chúng từ những nhà sản xuất lớn hơn.

135. Tất nhiên, những vấn đề này đòi hỏi sự chú ý không ngừng và một sự quan tâm đến các áp dụng đạo đức của chúng. Một cuộc tranh mang tính xã hội và khoa học có trách nhiệm ở diện rộng cần phải diễn ra, một cuộc tranh luận có khả năng suy xét hết tất cả mọi thông tin đang có và có khả năng gọi tên mọi thứ. Có đôi khi xảy ra là việc thông tin hoàn chỉnh lại không được đặt lên mặt bàn; một sự chọn lọc lại được thực hiện trên nền tảng của những lợi ích cụ thể, nó là nền kinh tế - chính trị hoặc kinh tế ý thức hệ. Điều này làm cho thật khó để đạt tới một sự phán quyết quân bình và cẩn trọng về những vấn đề khác nhau, một sự phán quyết suy xét hết tất cả các biến thích hợp. Những cuộc thảo luận là cần thiết mà trong đó tất cả những ai trực tiếp hay gián tiếp chịu ảnh hưởng (nông dân, người tiêu dùng, các nhà cầm quyền dân sự, các nhà khoa học, các nhà sản xuất hạt giống, và những người sống gần những cánh đồng chịu ảnh hưởng, và những người khác) có thể nói lên các vấn đề và mối bận tâm của họ, và được sử dụng nguồn thông tin đầy đủ và đáng tin cậy để đưa ra những quyết định vì thiện ích chung, hiện tại và tương lai. Đây là một vấn đề môi trường phức tạp; nó mời gọi một cách tiếp cận có thể hiểu được vốn đòi hỏi, ở mức độ tối thiểu, những nỗ lực lớn lao hơn để hoạch định tài chính cho những lãnh vực nghiên cứu độc lập, liên ngành có thể chiếu rọi ánh sáng mới trên vấn đề.

136. Mặt khác, thật là rắc rối là, khi một số phong trào sinh thái bảo vệ tính toàn vẹn của môi trường, đòi hỏi cách đúng đắn rằng một số giới hạn nhất định cần phải được áp đặt lên trên việc nghiên cứu khoa học, thì đôi khi họ lại thất bại để áp dụng cùng những nguyên tắc đó vào trong cuộc sống con người. Có một xu hướng biện minh cho việc làm trổi vượt tất cả mọi ranh giới khi một cuộc thí nghiệm được thực hiện trên phôi thai sống của con người. Chúng ta quên mất rằng sự xứng đáng bất khả xâm phạm của con người vượt ra mức độ phát triển của mình. Cùng một cách, khi công nghệ coi thường các nguyên tắc đạo đức cao cả, thì nó sẽ mang lấy kết cục là coi bất kì một việc thực hành của bất kì ai là hợp pháp. Như chúng ta đã thấy trong chương này, một nền công nghệ phục vụ tách lìa khỏi đạo đức thì sẽ không dễ gì có thể giới hạn sức mạnh của chính nó.

 


CHƯƠNG BỐN

NỀN SINH THÁI TOÀN DIỆN

137. Bởi vì mọi sự đều có liên hệ gần gũi với nhau, và các vấn đề của ngày nay mời gọi một tầm nhìn có khả năng suy xét mọi khía cạnh của cuộc khủng hoảng toàn cầu, nên tôi đề nghị rằng chúng ta giờ đây sẽ suy xét một số yếu tố của một nền sinh thái toàn diện, một nền sinh thái rõ ràng tôn trọng các chiều kích nhân loại và xã hội của nó.

I. NỀN SINH THÁI MÔI TRƯỜNG, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI

138. Ngành sinh thái nghiên cứu mối quan hệ giữa các thành phần hữu cơ sống động với môi trường mà trong đó các thành phần này phát triển. Điều này nhất thiết kèm theo sự suy tư và tranh luận về các điều kiện cần thiết cho sự sống và sự sinh tồn của xã hội, và sự trung thực cần thiết để đặt vấn đề về những mô thức phát triển, sản xuất và tiêu thụ nhất định. Chúng ta không thể nhấn mạnh đủ về việc mọi sự có liên hệ qua lại với nhau thế nào. Thời gian và không gian không phải độc lập với nhau, và thậm chí các hạt nguyên tử và các hạt hạ nguyên tử cũng không thể được suy xét cách đơn lập. Cũng như nhiều khía cạnh khác nhau của hành tinh – vật lý, hoá học, và sinh học – đều có liên hệ với nhau, vì thế mà các loài sinh vật sống cũng là một phần của một mạng lưới mà chúng ta sẽ không bao giờ khám phá và hiểu một cách đầy đủ được. Nhiều loại sinh vật sống khác cũng cùng chung phần tốt lành của mã gien của chúng ta. Điều kéo theo là sự phân mảnh về sự hiểu biết và sự tách biệt các mẩu thông tin thực sự có thể trở thành một hình thức của sự ngu muội, trừ khi chúng được kết hợp lại với nhau thành một tầm nhìn rộng lớn hơn về thực tại.

139. Khi chúng ta nói về “môi trường”, điều chúng ta thực sự muốn nói là một mối quan hệ tồn tại giữa thiên nhiên và xã hội vốn đang sống trong môi trường ấy. Thiên nhiên không thể bị coi là một điều gì đó tách ra khỏi bản thân chúng ta hoặc như là một bối cảnh thuần tuý mà chúng ta sống trong đó. Chúng ta là một phần của thiên nhiên, được bao gồm trong đó và do đó ở trong một mối tương tác liên lỉ với môi trường. Việc nhận biết được lý do vì sao một nơi được cho là đã bị ô nhiễm đòi hỏi một sự nghiên cứu về các công việc của xã hội, nền kinh tế của nó, và các khuôn mẫu hành xử của nó, và cách thế nó nắm bắt thực tại. Đứng trước quy mô của sự thay đổi, chúng ta không còn có thể tìm ra một câu trả lời cụ thể, gián đoạn cho từng phần của vấn đề nữa. Điều thiết yếu là tìm kiếm những giải pháp toàn diện là những giải pháp suy xét những tương tác với chính các hệ thống thiên nhiên và với các hệ thống xã hội. Chúng ta đang phải đối diện không phải với hai cuộc khủng hoảng riêng biệt, một cuộc khủng hoảng môi trường và cuộc khủng hoảng xã hội, mà hơn thế là với một cuộc khủng hoảng phức tạp cả về môi trường lẫn xã hội. Các chiến lược cho một giải pháp đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện để chống lại cái nghèo, khôi phục phẩm giá cho người bị loại trừ, và đồng thời bảo vệ thiên nhiên.

140. Do bởi có nhiều nhân tố và sự khác nhau của các nhân tố được đưa vào suy xét khi xác định sự tác động môi trường của một việc cụ thể đang thực hiện, thì việc giao cho các nhà nghiên cứu vai trò đúng đắn của họ, sắp xếp sự tương tác của họ, và đảm bảo sự tự do học thuật của họ là điều thiết yếu. Cuộc nghiên cứu đang diễn ra cũng cần mang lại cho chúng ta một sự hiểu biết tốt hơn về việc các tạo vật khác nhau liên hệ với nhau như thế nào trong việc tạo nên những đơn vị lớn hơn là điều mà ngày nay chúng ta gọi bằng thuật ngữ “các hệ sinh thái”. Chúng ta suy xét những hệ thống này không chỉ để quyết định cách tốt nhất để sử dụng chúng, mà còn bởi vì chúng có một giá trị cố hữu độc lập về tính hữu dụng của chúng. Mỗi sinh vật, trong tư cách là thọ tạo của Thiên Chúa, là tốt lành và đáng trân trọng nơi chính nó; điều tương tự cũng đúng với toàn thể hoà hợp của các sinh vật tồn tại trong một không gian xác định và đang đóng vai trò là một hệ thống. Mặc dù chúng ta thường không ý thức về điều đó, nhưng chúng ta đang lệ thuộc vào những hệ thống lớn hơn này cho sự tồn tại của chúng ta. Chúng ta chỉ cần gợi nhắc việc các hệ sinh thái tương tác với nhau như thế nào trong việc làm phân tán khí các-bon đi-ô-xít, làm sạch nước, kiểm soát bệnh tật và bệnh dịch, hình thành đất đai, phá vỡ chất thải, và bằng nhiều cách khác mà chúng ta phớt lờ hay không biết đến. Một khi các nhà nghiên cứu trở nên ý thức về điều này, thì nhiều người sẽ nhận ra rằng chúng ta đang sống và hành động dựa trên thực tại là điều trước đó đã được ban tặng cho chúng ta, điều có trước sự hiện hữu của chúng ta và khả năng của chúng ta. Vì thế, khi chúng ta nói về “việc sử dụng bền vững”, thì phải luôn luôn dành sự suy xét về khả năng tái tạo của mỗi hệ sinh thái trong các lãnh vực và khía cạnh của nó.

141. Sự tăng trưởng kinh tế, về phần nó, có xu hướng tạo ra những phản ứng có thể dự báo được và một sự tiêu chuẩn hoá nhất định với mục tiêu làm đơn giản các thủ tục và làm giảm các khoản chi phí. Điều này cho thấy sự cần thiết đối với một “nền sinh thái kinh tế” có khả năng mời gọi hướng tới một tầm nhìn rộng hơn về thực tại. Việc bảo vệ môi trường thực ra là “một phần thiết yếu của tiến trình phát triển và không thể được xem xét trong sự cô lập khỏi tiến trình”.[61] Chúng ta đang rất cần một nền nhân loại có khả năng quy tụ các lãnh vực tri thức lại với nhau, bao gồm cả kinh tế, trong việc phục vụ một tầm nhìn toàn diện và hỗ tương hơn. Ngày nay, việc phân tích các vấn đề môi trường không thể tách rời khỏi việc phân tích con người, gia đình, việc làm và các bối cảnh đô thị, cũng không thể tách rời khỏi cách mà các cá nhân liên hệ với chính bản thân họ, là điều sẽ dẫn đến cách họ liên hệ với người khác và với môi trường. Có một mối liên hệ qua lại giữa các hệ sinh thái và giữa các lãnh vực khác nhau của sự tương tác xã hội, cho thấy một lần nữa rằng “toàn thể thì lớn hơn một phần”.[62]

142. Nếu mọi thứ có liên hệ với nhau, thì sự lành mạnh của các tổ chức của xã hội cũng có những tác động lên môi trường và chất lượng cuộc sống con người. “Mọi sự phá vỡ sự liên đới và tình bằng hữu dân sự đều làm tổn hại môi trường”.[63] Theo nghĩa này, nền sinh thái xã hội nhất định có tính tổ chức, và dần dần mở rộng ra đến toàn thể xã hội, từ nhóm xã hội sơ cấp, là gia đình, đến địa phương rộng hơn, là các cộng đồng quốc gia và quốc tế. Bên trong mỗi giai tầng xã hội, và giữa chúng với nhau, các tổ chức phát triển để chi phối các mối quan hệ con người. Bất cứ điều gì làm suy yếu những tổ chức này đều có những tác động tiêu cực, chẳng hạn như bất công, bạo lực và sự mất tự do. Một số quốc gia có một cấp độ tương đối thấp về sự hiệu quả mang tính tổ chức, là điều tạo nên những vấn đề lớn hơn cho người dân của họ trong khi lại làm lợi cho những người đang trục lợi từ hoàn cảnh này. Dù là trong việc quản lý của nhà nước, của các cấp độ xã hội dân sự, hay các mối quan hệ giữa chính bản thân các cá nhân, thì sự thiếu tôn trọng pháp luật đang trở nên mỗi ngày một phổ biến hơn. Luật pháp có thể được thiết lập tốt nhưng vẫn là con chữ chết. Do đó, chúng ta có thể hy vọng rằng trong những trường hợp như thế, pháp lý và các quy định có liên hệ đến môi trường sẽ thực sự cho thấy tính hiệu quả? Chẳng hạn, chúng ta biết rằng các quốc gia vốn có pháp lý rõ ràng về việc bảo vệ các khu rừng vẫn tiếp tục im lặng khi họ thấy luật pháp liên tục bị phá vỡ. Hơn thế nữa, điều đang xảy ra ở bất kì một khu vực nào có thể có ảnh hưởng trực tiếp hay gian tiếp trên những khu vực khác. Do đó, chẳng hạn, việc sử dụng thuốc gây nghiện ở các xã hội giàu có tạo nên một sự đòi hỏi liên tục và tăng dần về các sản phẩm được xuất khẩu từ những vùng nghèo hơn, nơi mà hành vi ứng xử thì hư hỏng, cuộc sống bị phá huỷ, và môi trường tiếp tục suy thoái.

II. NỀN SINH THÁI VĂN HOÁ

143. Cùng với di sản về thiên nhiên, cũng có một nền di sản về lịch sử, nghệ thuật và văn hoá vốn đang cùng một trật đang bị đe doạ. Di sản này là một phần của căn tính chung của mỗi nơi và một nền tảng mà trên đó xây dựng một thành phố sinh sống. Vấn đề không phải là việc phá đổ hay xây dựng các thành phố mới, được cho là có tôn trọng môi trường hơn nhưng không phải luôn là nơi hấp dẫn hơn để sống. Hơn thế, có một sự cần thiết để kết hợp lịch sử, văn hoá và kiến trúc của mỗi nơi lại với nhau, do đó sẽ bảo tồn được căn tính nguyên gốc của nó. Cho nên, sinh thái cũng liên hệ đến việc bảo vệ các kho tàng văn hoá của nhân loại theo một nghĩa rộng nhất. Cụ thể hơn, nó mời gọi một sự chú ý lớn lao hơn đến các nền văn hoá địa phương khi nghiên cứu các vấn đề môi trường, ưu tiên đối thoại giữa ngôn ngữ khoa học kĩ thuật và ngôn ngữ của người dân. Văn hoá thì hơn cả điều mà chúng ta đã thừa hưởng từ quá khứ; nó cũng là, và trên hết tất cả, một thực tại sống động, năng động và hiện hữu có tính dự phần, là điều không thể bị loại trừ khi chúng ta nghĩ lại về mối quan hệ giữa con người nhân loại và môi trường.

144. Một tầm nhìn mang tính tiêu thụ về con người nhân loại, được khích lệ bởi các cơ chế của nền kinh tế toàn cầu ngày nay, có một tác động san bằng trên các nền văn hoá, hạ thấp sự đa dạng phong phú vốn là di sản của toàn thể nhân loại. Những nỗ lực để giải quyết tất cả mọi vấn đề ngang qua các quy định giống nhau hoặc những can thiệp kĩ thuật có thể dẫn đến việc coi thường những phức tạp của những vấn đề địa phương vốn đòi hỏi sự dự phần tích cực của tất cả các thành viên của cộng đồng. Những tiến trình mới đã thành hình không thể luôn luôn phù hợp với các bộ khung được tháp nhập vào từ bên ngoài; chúng cần được đặt trong chính nền văn hoá địa phương. Cũng như sự sống và thế giới là những thực tại năng động, thì sự quan tâm của chúng ta dành cho thế giới cũng phải linh hoạt và năng động. Những giải pháp thuần tuý kỹ thuật sẽ gặp rủi ro nói đến những triệu chứng chứ không nói đến những vấn đề tàng ẩn nghiêm trọng hơn. Có một sự cần thiết phải tôn trọng các quyền của các dân tộc và các nền văn hoá, và trân trọng sự phát triển của một nhóm xã hội đang đưa ra một tiến trình xã hội sẽ diễn ra trong một bối cảnh xã hội và đòi hỏi một sự liên hệ thường trực và năng động của người dân địa phương ngay từ bên trong nền văn hoá của họ. Khái niệm chất lượng cuộc sống cũng không thể được áp đặt từ bên ngoài, bởi vì chất lượng cuộc sống phải được hiểu bên trong thế giới của các biểu tượng và tập tục thích hợp cho mỗi nhóm người.

145. Nhiều hình thức tập trung của việc khai thác và làm suy thoái môi trường không chỉ làm cạn kiệt các nguồn lực vốn mamg lại cho các cộng đồng địa phương kế sinh nhai, nhưng còn xoá bỏ những cấu trúc xã hội là những điều, trong một thời gian dài, đã hình thành nên căn tính văn hoá và cảm thức của họ về ý nghĩa cuộc sống và cộng đồng. Sự biến mất của một nền văn hoá có thể chỉ nghiêm trọng bằng, hay thậm chí nghiêm trọng hơn sự biến mất của một số loại thực vật hay động vật. Sự áp đặt một lối sống thống trị có liên hệ đến một hình thức sản xuất nhất định có thể cũng nguy hại như là việc làm suy thoái các hệ sinh thái.

146. Theo nghĩa này, thật thiết yếu để thể hiện một sự quan tâm đặc biệt cho các cộng đồng bản địa và các truyền thống văn hoá của họ. Họ không chỉ là một thiểu số trong số các cộng đồng khác, nhưng phải là những đối tác đối thoại quan trọng, đặc biệt khi những dự án lớn ảnh hưởng đến đất đai của họ được đưa ra. Đối với họ, đất đai không phải là một món hàng nhưng hơn thế là một món quà từ Thiên Chúa và từ ông bà tổ tiên của họ là những người đã yên nghỉ ở đó, một không gian thánh thiêng mà họ cần phải tương tác với nếu họ muốn tiếp tục duy trì căn tính và các giá trị của họ. Khi họ vẫn ở trên đất của họ, thì chính bản thân họ chăm sóc nó tốt nhất. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới, áp lực đã đặt trên họ buộc họ phải rời bỏ quê hương của họ để nhường chỗ cho các dự án nông nghiệp hay quặng mỏ là những dự án được thực thi mà không đoái hoài gì đến sự suy thoái của thiên nhiên và văn hoá.

III. NỀN SINH THÁI CỦA ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY

147. Sự phát triển đúng đắn bao gồm những nỗ lực để mang lại một sự phát triển toàn diện trong chất lượng sống con người, và điều này kéo theo việc suy xét bối cảnh mà trong đó người dân sống cuộc sống của họ. Những bối cảnh này ảnh hưởng cách chúng ta nghĩ, cảm nhận và hành động. Trong phòng của chúng ta, nhà của chúng ta, nơi làm việc và láng giềng của chúng ta, chúng ta sử dụng môi trường của chúng ta như là một cách thế thể hiện căn tính của chúng ta. Chúng ta thực hiện mọi nỗ lực để phù hợp với môi trường của chúng ta, nhưng khi nó bị mất trật tự, hỗn loạn, hay bão hoà với tiếng ồn và vẻ xấu xí, sự kích thích quá mức như thế sẽ làm cho chúng ta khó thấy mình toàn vẹn và hạnh phúc.

148. Một sự sáng tạo và đại lượng đáng nể phục được thể hiện bởi những con người và những nhóm là những người đáp trả lại những giới hạn môi trường bằng việc làm giảm các tác dụng phụ của những bối cảnh xung quanh và biết cách định hướng cuộc đời của họ giữa những ngổn ngang và bấp bênh. Chẳng hạn, ở một số nơi, là những nơi mà mặt tiền của các toà nhà nhìn nghèo nàn, thì người dân thể hiện sự quan tâm đặc biệt cho phần nội thất của ngôi nhà của họ, hoặc tìm kiếm sự hài lòng trong sự tử tế và thân thiện của những người khác. Một đời sống xã hội lành mạnh có thể thắp sáng một môi trường mà dường như không thể mong ước được. Đôi khi một nền sinh thái con người đáng khen ngợi lại được thực hiện bởi người nghèo bất chấp muôn vàn gian khó. Cảm giác ngột ngạt mang lại do bởi những nơi dân cư phân bố đông đúc bị chặn lại nếu các mối quan hệ ấm áp và gần gũi được phát triển, nếu các cộng đồng được lập nên, nếu các giới hạn của môi trường được đền bù ở nơi đời sống nội tâm của mỗi người là người cảm thấy được gắn bó bên trong một mạng lưới của tình liên đới và thuộc về. Bằng cách này, bất cứ nơi nào cũng có thể biến đổi từ việc là một địa ngục trần gian thành một bối cảnh cho một đời sống có phẩm giá.

149. Tình trạng cực nghèo được kinh nghiệm ở những khu vực thiếu sự hoà hợp, thiếu những không gian mở hoặc tiềm năng cho một sự hội nhập, có thể dẫn đến những sự cố của sự tàn bạo hay đến việc khai thác bởi các tổ chức tội phạm. Ở những vùng phụ cận bất ổn của các thành phố lớn, kinh nghiệm hằng ngày về sự đông đúc và tình trạng vô danh xã hội có thể tạo nên một cảm giác bứng rễ là điều tạo nên hành vi chống đối xã hội và tình trạng bạo lực. Tuy nhiên, tôi muốn khẳng định rẳng tình yêu luôn luôn cho thấy mạnh mẽ hơn. Nhiều người ở trong những hoàn cảnh này có thể đan dệt lại những mối liên kết của sự thuộc về và cùng nhau là những điều biến đổi sự đông đúc thành một kinh nghiệm của một cộng đồng mà trong đó các bức tường của cái tôi bị phá đổ và các rào cản của sự ích kỷ được vượt thắng. Kinh nghiệm về sự cứu độ mang tính cộng đồng này thường tạo ra những ý tưởng sáng tạo cho sự tiến bộ của một toà nhà hay một khu phố.[64]

150. Tương quan giữa không gian sống và hành vi con người cho thấy, những người thiết kế các toà nhà, những khu phố, những không gian công cộng và thành phố, cần phải vẽ trên những sự hiểu biết khác nhau là điều sẽ giúp chúng ta hiểu được những tiến trình tư duy, ngôn ngữ biểu tượng và cách hành động của người dân. Chỉ tìm kiếm vẻ đẹp của bản thiết kế không thôi thì chưa đủ. Đáng quý hơn vẫn là việc phục vụ mà chúng ta mang lại trước một kiểu vẻ đẹp khác: chất lượng sống của người dân, sự thân thuộc của họ với môi trường, việc gặp gỡ và sự trợ giúp lẫn nhau. Cũng ở đây, chúng ta thấy thật quan trọng biết bao là việc quy hoạch đô thị luôn luôn suy xét những quan điểm của những người sẽ sống trong các khu vực này.

151. Cũng có một sự cần thiết phải bảo vệ những nơi chung này, những địa danh thấy được và những cảnh quan đô thị là những điều làm gia tăng cảm thức thuộc về, cội nguồn, “cảm thấy ở nhà” của chúng ta trong một thành phố gồm có chúng ta và quy tụ chúng ta lại với nhau. Thật quan trọng là các khu vực của một thành phố cần phải liên kết tốt với nhau và rằng những người đang sống ở đó có một cảm thức toàn thể, hơn là việc rời khỏi một khu phố và không thấy thành phố lớn hơn như là không gian mà họ chia sẻ với những người khác. Những can thiệp ảnh hưởng đến phong cảnh đô thị hay nông thôn cần suy xét cách các yếu tố khác nhau kết hợp lại để tạo thành một tổng thể vốn được tiếp nhận bởi các cư dân của nó như là một khung sườn nhất quán và ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Do đó, những người khác sẽ không bị coi là những người xa lạ, nhưng là một phần của cái “chúng ta” là điều mà tất cả chúng ta đang làm việc để tạo ra. Vì cùng một lý do này, ở cả những bối cảnh đô thị và nông thôn, thật hữu ích để đặt sang một bên một số nơi có thể được bảo tổn và bảo vệ khỏi những thay đổi thường trực do bởi sự can thiệp của con người mang lại.

152. Việc thiếu nhà ở là một vấn đề nghiêm trọng ở nhiều nơi trên thế giới, cả ở những vùng nông thôn lẫn ở những thành phố rộng lớn, bởi vì các khoản ngân sách nhà nước thường chỉ chi trả cho một khoản nhỏ của yêu cầu. Không chỉ người nghèo, mà còn nhiều thành phần xã hội khác nữa, thấy thật khó để sở hữu một ngôi nhà. Có một ngồi nhà có liên quan rất nhiều đến một cảm thức về phẩm giá cá nhân và sự phát triển của các gia đình. Đây là một vấn đề chính đối với nền sinh thái con người. Ở một số nơi, những khu phố ổ chuột tạm mọc lên, điều này có nghĩa là phát triển những khu phố ấy hơn là đập phá hay thay thế chúng. Khi người nghèo sống trong những khu ổ chuột mất vệ sinh hoặc trong những khu chung cư nguy hiểm, “trong những trường hợp là những nơi cần thiết phải tái định cư lại, để không phải chồng chất khổ đau, cần cung cấp đầy đủ thông tin, với những chọn lựa về nhà cửa hợp lệ được đưa ra, và người dân trực tiếp liên qusan cần phải là một phần của tiến trình”.[65] Đồng thời, sự sáng tạo cần phải được thể hiện trong sự kết hợp những khu phố suy yếu thành một thành phố chào đón: “Đẹp thay các thành phố vượt qua được sự ngờ vực không lành mạnh, và hội nhập những người khác biệt, cùng biến việc hội nhập này thành một yếu tố mới trong việc phát triển ! Đẹp thay các thành phố, mà thậm chí trong thiết kế kiến trúc của chúng, có đầy những không gian kết nối, liên kết, khuyến khích việc nhìn nhận những ngưởi khác !”.[66]

153. Chất lượng cuộc sống ở các thành phố có nhiều liên hệ với các hệ thống giao thông, vốn là một nguồn của nhiều khổ đau đối với những người sử dụng chúng. Nhiều xe hơi, được một hay nhiều người sử dụng, lưu thông trong các thành phố, tạo nên việc kẹt giao thông, làm gia tăng mức độ ô nhiễm, và tiêu thụ những khối lượng lớn năng lượng không tái tạo được. Điều này tạo nên sự cần thiết phải xây dựng nhiều đường sá và các khu vực đậu xe hơn là những việc làm hư hỏng cảnh quan đô thị. Nhiều chuyên gia đồng ý về sự cần thiết dành quyền ưu tiên cho phương tiện giao thông công cộng. Tuy nhiên, một vài phương thế cần thiết sẽ không dễ dàng cho thấy là chấp nhận được đối với xã hội trừ khi những cải tiến sau đó được thực hiện trong chính những hệ thống, là điều mà ở trong nhiều thành phố buộc người dân phải chịu đựng những điều kiện không đúng phẩm giá vì đông đúc, bất tiện, dịch vụ ngắt quãng và thiếu an toàn.

154. Tôn trọng phẩm giá của chúng ta như là những con người thường bị phiền toái bởi những thực tại hỗn loạn mà con người phải chịu đựng trong đời sống đô thị. Tuy nhiên, điều này phải đừng làm cho chúng ta coi thường sự bỏ rơi và phớt lờ cũng được những cư dân nông thôn kinh nghiệm là việc thiếu quyền được sử dụng những dịch vụ thiết yếu và nơi mà những công nhân bị hạ xuống những hoàn cảnh của hình phạt khổ sai, không có quyền và thậm chí niềm hy vọng về một cuộc sống có phẩm giá hơn.

155. Nền sinh thái con người cũng hám chứa một thực tại sâu sắc khác: mối quan hệ giữa đời sống con người và luật đạo đức, là điều đã được khắc ghi vào trong bản tính của chúng ta và cần thiết cho việc tạo nên một môi trường có phẩm giá hơn. Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã nói về một “nền sinh thái của con người”, dựa trên sự thật là “con người cũng có một bản chất mà con người phải tôn trọng và rằng con người không thể thao túng như mong muốn”.[67] Thật đủ để nhận ra rằng chính thân xác chúng ta sẽ thiết lập cho chúng ta một mối quan hệ với môi trường và với những sinh vật sống khác. Sự chấp nhận thân thể của chúng ta như là quà tặng của Thiên Chúa là thiết yếu cho việc đón tiếp và chấp nhận toàn thế giới như là một quà tặng từ Chúa Cha và ngôi nhà chung của chúng ta, trong khi nghĩ rằng việc chúng ta sẽ vui hưởng quyền tuyệt đối trên thân xác của chúng ta sẽ biến đổi, thường là tinh tế, thành việc nghĩ rằng chúng ta sẽ vui hưởng quyền tuyệt đối trên công trình tạo dựng. Biết chấp nhận thân xác của chúng ta, chăm sóc nó và tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn nhất của nó, là một nhân tố thiết yếu của bất cứ một nền sinh thái con người nào. Cũng thế, việc thấy giá trị của thân xác của một người trong phái tính nữ hay phái tính nam của nó là cần thiết để tôi có thể nhận biết chính bản thân tôi trong cuộc gặp gỡ với một ai đó khác. Theo đó, chúng ta có thể vui vẻ chấp nhận những quà tặng cụ thể của người nam hay nữ khác, công trình của Thiên Chúa Đấng Tạo Dựng, và thấy được sự phong phú của nhau. Thật không phải là một thái độ lành mạnh vốn tìm kiếm “để xoá bỏ sự khác biệt về phái vì người ta không còn biết cách đối diện với nó nữa”.[68]

IV. NGUYÊN TẮC VỀ THIỆN ÍCH CHUNG

156. Một nền sinh thái toàn diện thì không thể tách rời khỏi khái niệm về thiện ích chung, một nguyên tắc đạo đức xã hội trọng tâm và thống nhất. Thiện ích chung là “tổng thể những điều kiện của đời sống xã hội là điều cho phép các nhóm xã hội và các thành viên cá thể của các nhóm này một cách tương đối toàn diện và sẵn sàng đạt tới sự thành toàn của họ”.[69]

157. Tàng ẩn bên dưới nguyên tắc về thiện ích chung là sự tôn trọng con người nhân loại như vậy, được phú ban cho những quyền bất khả xâm phạm nhất định nhằm hướng tới sự phát triển toàn diện của con người. Điều này cũng có liên hệ với nền an sinh tổng thể của xã hội và sự phát triển của một sự đa dạng các nhóm trung gian, áp dụng nguyên tắc bổ trợ. Nổi bật lên trong các nhóm này là gia đình, như là tế bào nền tảng của xã hội. Sau cùng, thiện ích chung kêu gọi hoà bình xã hội, sự bình ổn và sự an ninh được mang lại bởi một trật tự nhất định là điều không thể đạt được mà không có sự quan tâm cụ thể dành cho nền công lý có tính chất phân phối; bất cứ khi nào điều này bị phá vỡ, thì bạo lực sẽ luôn luôn tiếp nối. Xã hội như một tổng thể, và đặc biệt là nhà nước, buộc phải bảo vệ và cổ võ thiện ích chung.

158. Trong hoàn cảnh hiện tại của xã hội toàn cầu, nơi mà những bất công tồn tại và số người gia tăng đang bị tước đoạt các quyền con người và bị coi là bỏ đi được, thì nguyên tắc thiện ích chung lập tức trở thành, cách hợp lý và không thể thiếu, một mệnh lệnh đối với sự liên đới và một chọn lựa ưu tiên ành cho người nghèo khổ nhất trong số anh chị em của chúng ta. Chọn lựa này đi kèm với việc nhận biết những tác động của đích điểm hoàn vũ của những của cải của thế giới, nhưng, như tôi đã đề cập trong Tông Huấn Evangelii Gaudium,[70] điều đòi hỏi trước tất cả mọi thứ khác là một sự trân trọng phẩm giá lớn lao của người nghèo dưới ánh sáng của những xác tín sâu thẳm nhất của chúng ta trong tư cách là những người tin. Chúng ta chỉ cần nhìn xung quanh chúng ta sẽ thấy rằng, ngay nay, chọn lựa này thực ra là một điều buộc về mặt đạo đức thiết yếu đối với việc đạt tới thiện ích chung cách hiệu quả.

V. CÔNG LÝ GIỮA CÁC THẾ HỆ

159. Khái niệm về thiện ích chung cũng mở rộng ra tới các thế hệ tương lai. Những cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu một cách đau đớn đã tạo ra những tác động gây nguy hại rõ ràng về việc coi thường số phận chung của chúng ta, là điều không thể loại trừ những người đến sau chúng ta. Chúng ta không còn có thể nói về sự phát triển bình ổn mà tách ra khỏi sự liên đới giữa các thế hệ. Một khi chúng ta bắt đầu nghĩ về loại thế giới mà chúng ta sẽ để lại cho các thế hệ tương lai, chúng ta sẽ nhìn mọi sự theo cách khác; chúng ta sẽ nhận biết rằng thế giới là một quà tặng mà chúng ta đã được lãnh nhận nhưng không thì cũng phải chia sẻ với những người khác. Bởi vì thế giới đã được trao ban cho chúng ta, thì chúng ta không còn có thể nhìn thực tại theo một cách thực dụng thuần tuý, mà trong đó tính hiệu quả và hiệu năng lại hoàn toàn hướng đến lợi ích cá nhân của chúng ta. Sự liên đới giữa các thế hệ không mang tính chọn lựa, mà hơn thế là một vấn đề căn bản của công lý, bởi vì thế giới mà chúng ta đã lãnh nhận cũng thuộc về những người sẽ đến sau chúng ta. Hội Đồng Giám Mục Bồ Đào Nha đã kêu gọi chúng ta nhận biết điều buộc về công lý này: “Môi trường là một phần của một luận lý của sự tiếp nhận. Nó được vay mượn từ mỗi thế hệ, là điều sau đó phải trao lại nó cho thế hệ kế tiếp”.[71] Một nền sinh thái toàn diện được đánh dấu bởi tầm nhìn rộng hơn này.

160. Loại thế giới nào mà chúng ta muốn để lại cho những người đến sau chúng ta, cho con em của chúng ta hiện đang lớn lên? Câu hỏi này không chỉ liên hệ đến môi trường một cách biệt lập; vấn đề không thể được tiếp cận theo từng mảnh được. Khi chúng ta tự hỏi bản thân chúng ta loại thế giới nào mà chúng ta muốn để lại, chúng ta trước hết nghĩ về định hướng tổng thể của nó, ý nghĩa của nó và các giá trị của nó. Nếu chúng ta không đấu tranh với những vấn đề sâu hơn này, tôi không tin rằng sự quan tâm của chúng ta dành cho môi trường sẽ tạo ra những kết qua ý nghĩa được. Nhưng nếu chúng ta đối diện với những vấn đề này cách can đảm, thì chúng ta sẽ được dẫn dắt một cách vững vàng đến việc hỏi những câu hỏi được đặt ra khác: Đâu là mục đích của cuộc sống của chúng ta trên thế giới này? Tại sao chúng ta ở đây? Đâu là mục tiêu của công việc của chúng ta và của tất cả những nỗ lực của chúng ta? Trái đất cần gì từ chúng ta? Do đó, sẽ không bao giờ là đủ để chỉ đơn giản nói đến điều mà chúng ta quan tâm cho các thế hệ tương lai. Chúng ta cần phải thấy rằng điều đang có nguy cơ chính là phẩm giá của chúng ta. Việc để lại một hành tinh không thể sống nổi cho các thế hệ tương lai, trước hết và trên hết, tuỳ thuộc vào chúng ta. Vấn đề là một điều đang ảnh hưởng cách đáng kể trên chúng ta, vì nó có liên hệ đến ý nghĩa tối hậu của nơi tạm trú trần gian của chúng ta.

161. Những lời tiên báo về tận thế không còn có thể được đáp trả bằng sự mỉa mai và khinh miệt được nữa. Chúng ta chắc chắn sẽ để lại cho thế hệ kế tiếp những mảnh vỡ, sự hoang vu và sự bẩn thỉu. Tốc độ tiêu thụ, chất thải và sự biến đổi môi trường đã kéo quá căng khả năng của hành tinh đến nỗi lối sống hiện tại của chúng ta, vốn không ổn định như nó là, chỉ có thể tạo ra những thảm hoạ, chẳng hạn như những thảm hoạ mà thậm chí ngay bây giờ đang xảy ra cách định kỳ ở nhiều khu vực trên thế giới. Những tác động của tình trạng bất quân bình hiện tại chỉ có thể được giảm thiểu bằng hành động dứt khoát của chúng ta, ở đây và bây giờ. Chúng ta cần phải suy tư về trách nhiệm của chúng ta trước khi những người khác sẽ phải chịu đựng những hậu quả khốc liệt.

162. Khó khăn của chúng ta khi mang lấy thách đố này cách nghiêm túc có rất nhiều liên hệ đế sự suy thoái đạo đức và văn hoá là điều đã đi cùng với sự suy thoái về môi trường. Những người nam và người nữ của thế giới hậu hiện đại của chúng ta sẽ gặp mối nguy về chủ nghĩa cá nhân rộng khắp, và nhiều vấn đề của xã hội có liên hệ với nền văn hoá quy ngã về sự thoả mãn tức thời của thời nay. Chúng ta thấy điều này ở trong cuộc khủng hoảng gia đình và các mối liên kết xã hội và những khó khăn của việc nhìn nhận người khác. Các bậc cha mẹ có thể bị cuốn hút về việc tiêu thụ mang tính thúc ép và lãng phí, là điều sau đó sẽ ảnh hưởng đến con cái của họ là những người sẽ thấy ngày càng khó để có được một căn nhà của chính chúng và xây dựng một gia đình. Hơn thế nữa, việc không có khả năng suy nghĩ nghiêm túc của chúng ta về các thế hệ tương lai có liên hệ đến sự mất khả năng mở rộng phạm vi của chúng ta về những mối quan tâm của chúng ta và mất khả năng dành sự chú ý của chúng ta đến những người vẫn bị loại trừ khỏi sự phát triển. Chúng ta hãy đừng chỉ giữ người nghèo của tương lai trong tư tưởng, mà còn cả người nghèo ngày nay nữa, là những người mà cuộc sống của họ trên trên trái đất này ngắn ngủi và những người không thể chịu đựng việc đợi chờ. Do đó, “ngoài một cảm thức công bằng hơn về tình liên đới các thế hệ thì còn có một sự khẩn thiết mang tính đạo đức dành cho một cảm thức được đổi mới về tình liên đới giữa các thế hệ nữa”.[72]

 


Văn Kiện Giáo Hội



[1] JEAN-PAUL II, Catéchèse (30 janvier 2002), n. 6 : Insegnamenti 25/1 (2002), 140.

[2] Conférence des évêques catholiques du Canada : Commission des affaires sociales, Lettre pastorale sur l’Imfiératif écologique chrétien (4 octobre 2003), 1.

[3] Conférence des évêques du Japon, Reverence for Life. A Message for the Twenty-First Century (janvier 2001), n. 89.

[4] Jean-Paul II, Catéchèse (26 janvier 2000), n. 5 : Insegnamenti 23/1 (2000), 123.

[5] Id., Catéchèse (2 août 2000), n. 3 : Insegnamenti 23/2 (2000), 112.

[6] Paul Ricœur, Philosophie de la volonté : Finitude et culpabilité, Paris 2009, p. 216.

[7] Somme Théologique I, q. 47, art. 1.

[8] Ibid.

[9] Cf. Ibid., art. 2, ad. 1 ; art 3.

[10] Catéchisme de l’Église Catholique, n. 340.

[11] Cantique des créatures, SC 285, p. 343.

[12] Cf. Conférence nationale des évêques du Brésil, A Igreja e a questáo ecológica, 1992, 53-54.

[13] Ibid., 61.

[14] Exhort. apost. Evangelii gaudium (24 novembre 2013), n. 215 : AAS 105 (2013), 1109.

[15] Cf. Benoît XVI, Lett. enc. Caritas in veritate (29 juin 2009), n. 14 : AAS 101 (2009), 650.

[16] Catéchisme de l’Église Catholique, n. 2418.

[17] Conférence de l’Épiscopat de la République Dominicaine, Carta pastoral sobre la relación del hombre con la naturaleza, (21 janvier 1987).

[18] Jean-Paul II, Lett. enc. Laborem exercens (14 septembre 1981), n. 19 : AAS 73 (1981), 626.

[19] Lett. enc. Centesimus annus (1er mai 1991), n. 31 : AAS 83 (1991), 831.

[20] Lett. enc. Sollicitudo rei socialis (30 décembre 1987), n. 33 : AAS 80 (1988), 557.

[21] Discours aux indigènes et paysans du Mexique, Cuilapán (29 janvier 1979), n. 6 : AAS 71 (1979), 209.

[22] Homélie de la messe pour les agriculteurs à Recife, Brésil (7 juillet 1980), n. 4 : AAS 72 (1980), 926.

[23] Cf. Message pour la Journée Mondiale de la Paix 1990, n. 8 : AAS 82 (1990), 152.

[24] Conférence épiscopale paraguayenne, Lettre pastorale El campesino paraguayo y la tierra (12 juin 1983), n. 2, 4, d.

[25] Conférence épiscopale de Nouvelle Zélande, Statement on Environmental Issues, Wellington (1er septembre 2006).

[26] Lett. enc. Laborem exercens (14 sep. 1981), n. 27 : AAS 73 (1981), 645.

[27] Pour cette raison saint Justin a pu parlé de “semences du Verbe” dans le monde : cf. II Apologia 8, 1-2 ; 13, 3-6 : PG6, 457-458 ; 467.

[28] Jean-Paul II, Discours aux représentants des hommes de la science, de la culture et des hautes études à l’Université des Nations-Unies, Hiroshima (25 février 1981), n. 3 : AAS 73 (1981), 422.

[29] Benoît XVI, Lett. enc. Caritas in veritate (29 juin 2009), n. 69 : AAS 101 (2009), 702.

[30] Romano Guardini, Das Ende der Neuzeit, Würzburg 91965, p. 87 (édition française : La fin des temps modernes, Paris 1952, p. 92, par la suite éd. fr.).

[31] Ibid., (éd. fr. : p. 92). 

[32] Ibid., p. 87-88 (éd. fr. : p. 93).

[33] Conseil Pontifical “Justice et Paix”, Compendium de la Doctrine sociale de l’Église, n. 462.

[34] Romano Guardini, Das Ende der Neuzeit, p. 63-64 (éd. fr. : IA fin des temps modernes, p. 68).

[35] Ibid., (éd. fr. : p. 68).

[36] Cf. Benoît XVI, Lett. enc. Caritas in veritate (29 juin 2009), n. 35 : AAS 101 (2009), 671.

[37] Ibid., n. 22 : p. 657.

[38] Exhort. apost. Evangelii gaudium (24 novembre 2013), n. 231 : AAS 105 (2013), 1114.

[39] Romano Guardini, Das Ende der Neuzeit, p. 63 (éd. fr. : La fin des temps modernes, p. 68).

[40] Jean-Paul II, Lett. enc. Centesimus annus (1er mai 1991), n. 38 : AAS 83 (1991), 841.

[41] Cf. Déclaration Love for creation. An Asian Response to the Ecological Crisis, Colloque organisé par la Fédération des Conférences Épiscopales d’Asie, Tagaytay (31 janvier – 5 février 1993), 3.3.2.

[42] Jean-Paul II, Lett. enc. Centesimus annus (1er mai 1991), n. 37 : AAS 83 (1991), 840.

[43] Benoît XVI, Message pour la Journée Mondiale de la Paix 2010, n. 2 : AAS 102 (2010), 41.

[44] Id., Lett. enc. Caritas in veritate (29 juin 2009), n. 28 : AAS 101 (2009), 663.

[45] Cf. Vincent de Lerins, Commonitorium primumm, chap. 23 : PL 50, 668 : “Ut annis scilicet consolidetur, dilatetur tempore, sublimetur aetate”.

[46] N. 80 : AAS 105 (2013), 1053.

[47] Conc. Œcuménique VAT. II, Const. past. Gaudium et spes, sur l’Église dans le monde de ce temps, n. 63.

[48] Cf. Jean-Paul II, Lett. enc. Centesimus annus (1er mai 1991), n. 37 : AAS 83 (1991), 840.

[49] Paul VI, Lett. enc. Populorum progressio (26 mars 1967), n. 34 : AAS 59 (1967), 274.

[50] Benoît XVI, Lett. enc. Caritas in veritate (29 juin 2009), n. 32 : AAS 101 (2009), 666.

[51] Ibid.

[52] Ibid.

[53] Catéchisme de l’Église Catholique, n. 2417. 

[54] Ibid., n. 2418.

[55] Ibid., n. 2415.

[56] Message pour la Journée Mondiale de la Paix 1990, n. 6 : AAS 82 (1990), 150.

[57] Discours à l’Académie Pontificale des Sciences (3 octobre 1981), n. 3 : Insegnamenti 4/2 (1981), 333.

[58] Message pour la Journée Mondiale de la Paix 1990, n. 7 : AAS 82 (1990), 151.

[59] Jean-Paul II, Discours à la 35ème Assemblée Générale de l’Association Médicale Mondiale (29 octobre 1983), n. 6 : AAS76 (1984), 394.

[60] Conférence épiscopale d’Argentine : Commission de Pastorale sociale, Una tierra para todos (juin 2005), 19.

[61] Déclaration de Rio sur l’environnement et le développement (14 juin 1992), Principe 4.

[62] Exhort. apost. Evangelii gaudium (24 novembre 2013), n. 237.

[63] Benoît XVI, Lett. enc. Caritas in veritate (29 juin 2009), n. 51 : AAS 101 (2009), 687.

[64] Certains auteurs ont montré les valeurs qui souvent se vivent, par exemple dans les “villas”, bidonvilles ou favelas de l’Amérique Latine : cf. JUAN CARLOS SCANNONE, La irrupción del pobre y la logica de la gratuidad, dans : JUAN CARLOS SCANNONE Y MARCELO PERiNE (edd.), Irrupción del pobre y quehacer filosófico. Hacia una nueva racionalidad, Buenos Aires 1993, p. 225-230.

[65] Conseil Pontifical “Justice et Paix”, Compendium de la Doctrine Sociale de l’Eglise, n. 482.

[66] Exhort. apost. Evangelii gaudium (24 novembre 2013), n. 210 : AAS 105 (2013), 1107.

[67] Discours au Deutscher Bundestag, Berlin (22 septembre 2011) : AAS 103 (2011), 668.

[68] Catéchèse (15 avril 2015) : ORf (16 avril 2015), n. 16, p. 2.

[69] Conc. Œcum. Vat. II, Const. past. Gaudium et Spes, sur l’Église dans le monde de ce temps, n. 26.

[70] Cf. n. 186-201 : AAS 105 (2013), 1098-1105.

[71] Conférence épiscopale portugaise, Lettre pastorale Responsabilidade solidária pelo bem comum (15 septembre 2003), 20.

[72] Benoît XVI, Message pour la Journée Mondiale de la Paix 2010, n. 8 : AAS 102 (2010), 45.