CHƯƠNG MỘT
SỨ ĐIỆP CỦA THÔNG ĐIỆP PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC
(POPULORUM PROGRESSIO)
10. Việc đọc lại thông điệp Populorum
progressio sau bốn mươi năm xuất hiện mời gọi chúng ta tiếp tục trung thành
với sứ điệp tình yêu và chân lí của Thông điệp và hãy đặt nó trong nội dung giáo
huấn của giáo chủ Phaolô VI cũng như đọc nó theo truyền thống giáo huấn xã hội
của Giáo hội. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải cân nhắc tới những điều kiện phát
triển xã hội hiện nay đã khác với ngày trước. Như vậy, nền tảng đúng đắn để
hiểu Thông điệp là đức tin truyền thừa của các Tông đồ[i][13]; đó là gia sản vừa cũ vừa mới, không có nó Populorum progressio sẽ là một bản văn thiếu gốc rễ và những vấn nạn
về phát triển được đề cập trong đó sẽ bị giản lược vào những dữ kiện thuần xã
hội mà thôi.
11. Populorum progressio được phổ
biến ngay sau khi kết thúc công đồng Vaticano II. Ngay trong những đoạn đầu của
thông điệp cho thấy có sự liên hệ chặt chẽ với Công đồng [14]. Trong thông điệp Sollicitudo rei
socialis viết nhân dịp kỉ niệm hai mươi năm Populorum progressio ra đời, giáo chủ Gioan Phaolô II đã ca ngợi mối
liên hệ phong phú đó, đặc biệt là mối liên hệ với Hiến chế mục vụ Gaudium et spes (Niềm vui và Hi vọng) [15]. Ở đây, tôi cũng muốn nhắc lại tầm quan trọng
của công đồng Vaticano II trên Thông điệp của giáo chủ Phaolô VI và trên toàn bộ
giáo huấn của các giáo chủ kế tiếp liên quan tới vấn đề xã hội. Công đồng đào
sâu điểm này: Vì Giáo hội có nhiệm vụ phục vụ Thiên Chúa, nên Giáo hội cũng phục
vụ thế giới về mặt tình yêu và chân lí, đó cũng là một khắng định xưa nay thuộc
chân lí đức tin của chúng ta. Xuất phát từ chính cái nhìn đó, giáo chủ Phaolô
VI đã công bố cho chúng ta hai chân lí lớn. Chân lí thứ nhất: Khi rao truyền, cử
hành bí tích thánh thể và hoạt động bác ái, toàn thể hiện hữu và hành động của
Giáo hội đều nhắm tới việc cổ xuý cho một phát triển con người toàn diện. Giáo
hội đóng một vai trò công cộng. Vai trò này không hạn hẹp trong việc cứu tế hay
giáo dục mà thôi, nhưng sức mạnh đặc thù của nó toả ra trong việc thăng hoa con
người và cổ xuý tình huynh đệ hoàn vũ, khi nó được phục vụ cho một thể chế tự
do. Trong không ít trường hợp sự tự do này bị cản trở bởi những cấm đoán hay
đàn áp bắt bớ, hoặc bị hạn chế, khi người ta chỉ cho phép Giáo hội thi hành công
tác bác ái mà thôi. Chân lí thứ hai: sự phát triển đích thực của con người có
liên hệ tới toàn diện nhân vị trong mọi chiều kích của nó [16]. Thiếu viễn ảnh về một cuộc sống đời đời, sự tiến bộ của con người trong
thế giới sẽ thiếu hơi thở. Nếu tiến bộ này chỉ đóng khung trong lịch sử, nó sẽ
có nguy cơ thúc đẩy con người chỉ nghĩ tới việc gia tăng của cải cho riêng
mình. Như vậy, nhân loại sẽ mất đi can đảm sẵn sàng đón nhận những giá trị cao
hơn, sẵn sàng đón nhận những sáng kiến vị tha lớn do tình bác ái phổ quát đòi
hỏi. Con người không tự phát triển bằng chính nội lực mình, và phát triển cũng
không đơn thuần do từ ngoài đến với họ. Suốt dọc dài lịch sử người ta thường
cho rằng, chỉ cần có những định chế là quyền phát triển của nhân loại được bảo
đảm. Tiếc rằng con người đã đặt quá nhiều niềm tin vào những định chế, làm như
thể những định chế đó sẽ đương nhiên mang lại thoả mãn cho mình. Thực tế cho
thấy, định chế không đủ, bởi lẽ cuộc phát triển toàn diện con người trước hết
là một ơn gọi và vì thế nó đòi hỏi mọi người phải nhận lấy trách nhiệm trong tự
do và liên đới. Ngoài ra, một phát triển như thế đòi hỏi phải có cái nhìn siêu
việt về nhân vị, nó cần Thiên Chúa: Thiếu Thiên Chúa, phát triển hoặc sẽ bị cản
trở hoặc sẽ bị hoàn toàn thả mặc vào trong tay con người. Cơ nguy ở đây là con
người có thể rơi vào tự tin quá đỗi và như vậy cuối cùng sẽ tạo biến dạng khuôn
mặt phát triển. Hơn nữa, chỉ qua gặp gỡ Thiên Chúa, ta mới không „nhìn kẻ khác thuần tuý mãi mãi là một kẻ
khác“ [17], nhưng nhận ra khuôn mặt thiên chúa nơi họ, và
nhờ đó mới thật sự khám phá ra kẻ khác và mới hun đúc cho mình có được một tình
yêu chuyên „quan tâm tới và cho kẻ khác“ [18].
12. Mối liên kết giữa Populorum
progressio với công đồng Vaticano II không có nghĩa là một gián đoạn giữa giáo
huấn xã hội của giáo chủ Phaolô VI với giáo huấn của các vị tiền nhiệm của ngài,
bởi lẽ Công đồng là một nỗ lực đào sâu giáo huấn này trong sự liên tục của cuộc
sống Giáo hội [19]. Hiểu như thế thì một số phân biệt trừu tượng
cấp thấp được diễn tả bằng những phạm trù mới lạ trong giáo huấn xã hội thời nay
chỉ là những đóng góp thêm, chứ không phải để làm sáng tỏ cho các giáo huấn trước
đây. Không có hai loại giáo huấn xã hội, tiền Công đồng và hậu Công đồng, khác
biệt nhau, mà tất cả đều là một cây chung nhưng lại luôn sản sinh ra những hoa
trái mới [20]. Ta có thể nhấn mạnh tới những đặc trưng của một
thông điệp hay nét cá biệt giáo huấn của một giáo chủ nào đó, nhưng không bao
giờ được phép bỏ qua mối liên kết trong toàn bộ giáo huấn của Giáo hội [21]. Liên kết ở đây không có nghĩa là đóng chặt trong
một hệ thống, nhưng đúng hơn luôn trung thành với nguồn sáng nhận lãnh. Giáo
huấn xã hội của Giáo hội luôn soi tỏ cho những vấn nạn mới mẻ, nhưng với một
nguồn sáng bất biến
[22]. Nguồn sáng vừa
bảo đảm cho tính luôn mãi thời sự lẫn tính lịch sử của „gia sản“ tín lí này [23]; gia sản này, với những điểm đặc trưng của
nó, là thành phần của một truyền thống luôn sống động của Giáo hội [24]. Giáo huấn xã hội của Giáo hội được xây dựng trên
nền những gì các tông đồ truyền lại cho các giáo phụ và rồi được tiếp tục thâu
nhận và đào sâu bởi các bậc thầy trong Giáo hội. Kết cuộc lại, giáo huấn này
được khơi nguồn từ Con Người Mới, từ „Ađam
Cuối Cùng“ đã trở thành „thần khí ban
sự sống“ (1 Cor 15,45) và là nguồn xuất phát của thứ tình yêu „không bao giờ tắt“ (1 Cor 13,8). Giáo
huấn được bảo chứng bởi các thánh và bởi tất cả những ai đã hi sinh mạng sống
cho Chúa cứu thế Kitô trên lĩnh vực công lí và hoà bình. Giáo huấn xã hội phản
ảnh nhiệm vụ tiên tri của các giáo chủ, các ngài hướng dẫn Giáo hội Chúa Kitô
tiếp tục theo đường lối của các tông đồ và nhận ra đâu là những đòi hỏi mới của
việc rao truyền trong mỗi thời đại. Từ những lí do đó, thông điệp Populorum progressio được viết ra trong
dòng chảy truyền thừa chung đó vẫn còn hữu ích cho chúng ta ngày nay.
13. Ngoài mối liên hệ quan trọng với toàn bộ học thuyết xã hội của Giáo hội,
thông điệp Populorum progressio còn liên
hệ chặt chẽ với với toàn bộ giáo huấn của giáo chủ Phaolô VI, đặc biệt với lời
dạy của ngài về các vấn đề xã hội. Những chỉ giáo của Thông điệp về đề tài xã
hội rất quan trọng: Thông điệp nhấn mạnh đến vai trò tất yếu của Tin Mừng trong
công cuộc xây dựng một xã hội dựa trên nền tảng tự do và công bình, và trong
viễn tượng một nền văn minh được soi dẫn bởi tình yêu. Giáo chủ Phaolô VI thấy
rằng, vấn đề xã hội đã trở thành một vấn đề của toàn cầu [25]. Và ngài cũng nhận ra có sự tương ứng nội tại giữa nỗi thao thúc hướng về
một tập hợp chung của nhân loại và lí tưởng kitô giáo về một đại gia đình các
dân tộc duy nhất gắn bó với nhau trong tình huynh đệ chung. Ngài gọi cùng đích
phát triển đó của con người và của Giáo hội là trái tim của học thuyết xã hội
công giáo, và đã trình bày tình yêu kitô giáo như là động lực chính vận hành sự
phát triển đó. Với mong ước làm cho con người hôm nay thấy được tình yêu của
đức Kitô, ngài thẳng thắn đề cập tới những vấn nạn đạo đức quan trọng, và đã
không lùi bước trước những bất cập của nền văn hoá đương thời.
14. Với thông điệp Octogesima
adveniens năm 1971, giáo chủ Phaolô VI đã bàn về í nghĩa của chính trị và về
nguy cơ tác hại phẩm tính con người và đạo đức trong cuộc sống chính trị do những
í hệ và viễn tượng không tưởng tạo ra. Ngài đã đề cập tới những lí chứng liên
quan mật thiết với việc phát triển. Nhưng tiếc thay, các í thức hệ tiêu cực vẫn
không ngừng triển nở. Giáo chủ Phaolô VI đã đặc biệt cảnh giác không nên đặt
hết niềm tin vào í hệ kĩ thuật đang lan tràn [26]. Theo ngài, nếu đặt toàn bộ tiến trình phát triển vào trong tay kĩ thuật mà
thôi, thì sẽ rất nguy hiểm, bởi lẽ phát triển đó sẽ thiếu phương hướng. Kĩ thuật,
tự nó, hàm chứa nhiều mặt lẫn lộn. Một mặt, con người hôm nay có khuynh hướng
trao phó tiến trình phát triển hoàn toàn cho kĩ thuật. Nhưng mặt khác, họ đồng
thời lại thấy xuất hiện những í thức hệ phủ nhận đại trà sự hữu ích của phát
triển, bởi vì các í hệ này xem sự phát triển đó hoàn toàn phản lại con người và
cho rằng, nó dẫn đến tình trạng suy đồi chung. Như vậy, rốt cuộc người ta sẽ
kết án không những cái đường hướng đôi khi sai và bất công mà người ta gán cho
tiến bộ, mà còn kết án ngay cả chính những khám phá khoa học; những khám phá
này, trái lại nếu biết sử dụng đúng, sẽ là một cơ hội phát triển cho tất cả mọi
người. Còn nếu coi thế giới này chẳng tiến triển gì cả, thì đây lại là dấu chỉ
thiếu tin tưởng vào con người và vào Thiên Chúa. Như vậy, ta sẽ rơi vào lầm lẫn
lớn, khi coi thường khả năng giữ cân bằng phát triển của con người, hoặc cả khi
cố tình không hiểu rằng, bản chất con người là luôn tìm cách vươn tới „cái
nhiều hơn“. Tuyệt đối hoá sự tiến bộ kĩ thuật và tôn nó lên thành một í hệ, hay
mơ tưởng trở về lại thủa ban đầu của loài người, đó là hai phương thức trái
nghịch tìm cách tách rời tiến bộ ra khỏi việc đánh giá đạo đức và như vậy là ra
khỏi trách nhiệm của chúng ta.
15. Hai tài liệu khác của giáo chủ Phaolô VI, tuy không trực tiếp liên quan
tới học thuyết xã hội, cũng rất quan trọng cho việc mô tả đường hướng phát
triển con người toàn diện do Giáo hội đề nghị. Đó là thông điệp Humanae vitae ngày 25.07.1968 và Evangelii nuntiandi ngày 08.12.1975. Vì
thế, cũng nên đối chiếu với chúng khi đọc Populorum
progressio.
Thông điệp Humanae vitae nhấn mạnh
tới í nghĩa kép của tính dục, đó là í nghĩa kết hợp và truyền sinh, và vì thế
nó đặt xã hội trên nền tảng một cặp vợ chồng nam nữ chấp nhận nhau trong khác
biệt và bổ túc lẫn nhau, nghĩa là một đôi vợ chồng sẵn sàng chấp nhận và lưu
truyền tiếp sự sống
[27]. Đây không chỉ
là một nền đạo đức cá nhân: Humanae vitae
chỉ ra những nút thắt chặt chẽ nối liền luân lí sự sống với đạo đức xã hội, và
vì thế nó mở ra một đề tài giáo huấn được hình thành từng bước qua nhiều tài
liệu khác nhau, mà tài liệu cuối cùng là thông điệp Evangelium vitae của giáo chủ Gioan Phaolô II [28]. Giáo hội cương quyết nhấn mạnh tới mối liên hệ giữa luân lí sự sống và
đạo đức xã hội, bởi vì Giáo hội hiểu rằng, không thể có một xã hội „với những nền tảng vững chắc - công nhận các
giá trị như nhân phẩm, công lí và hoà bình -, mà lại tự mâu thuẫn mình khi chấp
nhận hay dung túng đủ mọi hình thức coi thường và gây thương tổn tới sự sống,
nhất là sự sống của những người yếu đuối và bị đẩy ra lề xã hội“. [29]
Riêng tài liệu Evangelii nuntiandi
thì lại có liên hệ rất mật thiết với phát triển, vì như giáo chủ Phaolô VI viết,
„cuộc phúc âm hoá sẽ không toàn hảo, nếu
nó không quan tâm tới hoàn cảnh trong đó có sự yêu sách lẫn nhau suốt trong
giòng thời gian giữa Tin Mừng và cuộc sống cụ thể, cá nhân và cộng đoàn của mỗi
con người“. [30] „Thật ra,
giữa loan truyền phúc âm và hỗ trợ con người – phát triển và giải phóng – có
những nối kết chặt chẽ“.
[31] Bắt nguồn từ
nhận thức đó, giáo phủ Phaolô VI đã làm nổi bật lên mối liên hệ giữa việc rao
giảng đức Kitô với việc nâng cấp con người trong xã hội. Làm chứng cho tình yêu
Chúa Kitô qua các công trình kiến tạo công lí, hoà bình và phát triển cũng
thuộc vào việc rao giảng Tin Mừng, bởi vì đối với đức Kitô là Đấng yêu thương
chúng ta, con người toàn thể mới quan trọng. Từ nền các giáo huấn quan trọng
này đã hình thành nên khía cạnh truyền giáo [32] của học thuyết xã hội của Giáo hội và nó được xem như là thành phần cơ bản
của vịêc rao truyền phúc âm
[33]. Học thuyết xã
hội của Giáo hội là rao truyền lời Chúa và làm chứng đức tin. Nó là dụng cụ và
là chỗ không thể thiếu được để giáo dục đức tin.
16. Với Populorum progressio, giáo
chủ Phaolô VI đặc biệt muốn nói với chúng ta rằng, tiến bộ, theo bản chất và
cội nguồn của nó, là một ơn gọi: „Theo chương
trình của Thiên Chúa, mỗi người được mời gọi phát triển mình; bởi lẽ toàn bộ
cuộc sống là ơn gọi“.
[34] Chính sự kiện
này biện minh cho sự can thiệp của Giáo hội vào vấn đề phức tạp của phát triển.
Nếu như vấn đề chỉ liên quan tới các khía cạnh thuần kĩ thuật của cuộc sống con
người mà thôi, và nếu như con người chẳng quan tâm gì tới í nghĩa nhịp tiến của
họ song hành với đồng loại mình trong giòng lịch sử, cũng như chẳng để í gì tới
cùng đích cuộc hành trình của mình, thì Giáo hội chẳng có quyền nói gì về
chuyện này. Cũng như giáo chủ Lêô XIII trước đây với tông thư Rerum novarum [35], giáo chủ Phaolô VI đã í thức nhiệm vụ của ngài qua việc đem ánh sáng phúc
âm soi toả trên những vấn đề xã hội đương thời [36].
Phát triển là một ơn gọi. Điều này có nghĩa một mặt ta công nhận rằng, phát
triển xuất phát từ một tiếng gọi siêu việt, và mặt khác hiểu rằng, phát triển không
thể tự đặt ra cùng đích cho nó. Không phải không có lí do mà chữ „ơn gọi“ cũng
xuất hiện ở một nơi khác trong Tông thư: „Như
vậy, chỉ có loại nhân bản nào mở ra cho Tuyệt Đối thì đó mới là loại đúng đắn;
nó mở ra cho Tuyệt Đối trong tâm tình biết ơn vì một ơn gọi, nhờ ơn gọi này mà
cuộc sống con người có được một í nghĩa đích thực“ [37]. Quan điểm về phát triển này là trái tim của Populorum progressio và là động lực cho mọi suy tư của giáo chủ
Phaolô VI về tự do, chân lí và tình yêu trong phát triển. Đó cũng là lí do
chính cho thấy tại sao Thông điệp của ngài tới nay vẫn còn mang tính thời sự.
17. Ơn gọi là tiếng kêu mời đòi hỏi một đáp trả tự do và trách nhiệm. Việc phát
triển toàn diện con người chỉ có được khi con người hay các dân tộc có được tự
do trong trách nhiệm: Chẳng có một cơ cấu nào có thể bảo đảm cho sự phát triển
này, nếu như cơ cấu đó gạt bỏ hoặc không đếm xỉa gì đến trách nhiệm của con
người. Các „chủ nghĩa cứu rỗi“ giàu „hứa hẹn, nhưng chỉ là những tay phù thuật
của một thế giới mơ tưởng“ [38] luôn đưa ra những đường lối phát triển chối bỏ chiều kích siêu việt, bởi họ
vững tin rằng, họ đã nắm trong tay chiều kích đó. Sự xác tín vô cứ này đã biến
thành nhược điểm, bởi nó đưa tới hậu quả chà đạp con người, biến con người thành
phương tiện của phát triển, trong khi việc chấp nhận ơn gọi với lòng khiêm nhu
trái lại giúp con người trở nên tự chủ thật sự, vì nó làm cho họ được tự do.
Giáo chủ Phaolô VI thừa hiểu có những khó khăn và hoàn cảnh gây trở ngại cho
phát triển, nhưng ngài cũng xác tín rằng „mỗi
người, cho dù họ bị tác động bởi nhiều ảnh hưởng từ ngoài, vẫn là tác giả của
thành công hay thất bại của mình“ [39]. Sự tự do này có liên quan tới công cuộc phát triển đã và đang đạt được, nhưng
nó đồng thời cũng liên quan tới những hoàn cảnh kém phát triển vốn chẳng phải
là kết quả của ngẫu nhiên hay của một tất yếu lịch sử, song tuỳ thuộc vào trách
nhiệm con người. Do đó mà „các dân tộc
nghèo đói“ kêu cầu „sự giúp đỡ khẩn
cấp của các dân tộc sống trong dư đầy“ [40]. Đó cũng là ơn gọi, là lời mời của những con người tự do gởi tới những con
người tự do để cùng mang lấy trách nhiệm chung. Giáo chủ Phaolô VI có một cảm quan
sống động về tầm quan trọng của các cơ cấu kinh tế và các định chế, nhưng ngài
đồng thời cũng cảm nhận rằng, các cơ cấu và định chế đó, tự bản chất, chỉ là
dụng cụ của tự do con người. Một đường lối phát triển được xem là nhân bản, khi
nó hoàn toàn đặt nền trên tự do; chỉ trong tương quan với tự do trong tinh thần
trách nhiệm phát triển mới có thể nẩy nở đúng đắn.
18. Bên cạnh yêu sách Tự do, phát triển toàn diện con người – được hiểu như
một ơn gọi – cũng đòi hỏi phải tôn trọng chân lí. Ơn gọi phát triển thúc đẩy con
người phải „hành động thêm, nhận biết thêm,
sở hữu thêm, để trở nên nhiều hơn“ [41]. Nhưng vấn đề đặt ra: „Để trở nên nhiều hơn“ có nghĩa là gì? Giáo chủ Phaolô
VI đã trả lời câu hỏi này, khi ngài đề cập tới chỉ dấu cơ bản của một „phát
triển đích thực“: Nó phải „bao trùm mọi
mặt, phải quan tâm tới con người toàn diện và tới toàn thể nhân loại“ [42]. Giữa bao nhiêu quan niệm khác nhau về con người,
mà ngày nay còn nhiều hơn so với thời của giáo chủ Phaolô VI, quan điểm của
Giáo hội là luôn nhấn mạnh và biện minh cho vị trí đặc biệt của con người, cho
giá trị bất khả nhượng và cho í nghĩa phát triển của họ. Lối quan niệm kitô giáo
coi phát triển là một ơn gọi giúp ta theo dõi sự thăng tiến của mọi con người
và của mỗi con người toàn thể. Giáo chủ Phaolô VI viết: „Điều quan tâm của chúng tôi là con người, từ con người cá thể, tới nhóm
người cho đến toàn thể nhân loại“ [43]. Đức tin kitô giáo quan tâm tới phát triển, mà không đặt kì vọng vào đặc
ân hoặc vị trí quyền hành và nhất là công trạng của kitô hữu, cho dù những thứ
ấy trước kia đã có và cả ngày nay, ngoại trừ các giới hạn tự nhiên, cũng đang có [44]. Đúng hơn, đức tin đặt nền duy nhất nơi đức Kitô,
là nguồn xuất phát của mọi ơn gọi đúng đắn về phát triển con người toàn diện.
Tin Mừng là yếu tố nền tảng của phát triển, bởi lẽ trong đó đức Kitô „qua mặc khải về Chúa Cha và tình yêu của
Người, đã cho con người biết rõ về chính họ“ [45]. Với lời chỉ dạy của đức Kitô, Giáo hội tìm hiểu dấu chỉ thời đại, cắt nghĩa
chúng và đề nghị cho thế giới „cái đặc
trưng nhất của mình, đó là một cái nhìn toàn diện về con người và về nhân loại“ [46]. Chính vì Thiên Chúa đã nói lên tiếng „Vâng“ lớn
nhất với con người [47], nên con người không thể chối từ việc mở lòng
mình ra cho ơn gọi linh thiêng, để thực hiện sự phát triển của chính mình. Chân
lí của phát triển hệ tại nơi tính toàn diện: Sẽ không có một phát triển đúng nghĩa,
nếu nó không quan tâm gì tới con người toàn vẹn và không quan tâm tới từng con
người. Đó là thông điệp nòng cốt của Populorum
progressio, thông điệp này đúng cho hôm nay và luôn mãi. Phát triển toàn
vẹn con người trên bình diện tự nhiên là sự đáp trả lại lời mời gọi của Thiên
Chúa Sáng Tạo [48]. Để hoàn thành phát triển này, đòi hỏi phải có
một „nền nhân bản vượt lên trên đời này;
nhân bản này ban tặng cho con người một sự thành toàn bao trùm: đó là cùng đích
và là í nghĩa tối hậu của phát triển con người“ [49] Như vậy, ơn gọi kitô giáo về loại phát triển này có liên hệ tới cả bình diện
tự nhiên lẫn siêu nhiên; vì thế: „Nếu đẩy
Thiên Chúa ra lề, chúng ta sẽ dần mất đi khả năng nhận biết trật tự và cùng đích
của tự nhiên, sẽ chẳng còn khả năng nhận ra cái ‚tốt’“ [50].
19. Cuối cùng, quan niệm phát triển như là ơn gọi còn đòi hỏi phải coi tình
yêu là tâm điểm của phát triển. Trong Populorum
progressio, giáo chủ Phaolô VI nhận định, các nguyên nhân của kém phát triển
trước hết không thuộc loại vật chất. Ngài yêu cầu chúng ta phải tìm chúng nơi
các chiều kích khác của con người. Đặc biệt nơi chiều kích í muốn, í muốn này
thường lơ là bổn phận đoàn kết. Thứ nữa nơi tư duy, đầu óc con người nhiều khi
không biết phải định hướng í muốn mình cách đúng đắn. Vì vậy, phát triển cần
phải được hướng dẫn bởi „những người hiền
với khả năng suy tư sâu xa, họ luôn tìm kiếm một nền nhân bản mới hầu giúp con
người hôm nay tìm gặp được chính mình“ [51]. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Kém phát triển còn có một nguyên nhân quan trọng
hơn sự bất cập của tư duy: Đó là sự „vắng
bóng tình huynh đệ giữa con người và giữa các dân tộc“ [52]. Con người có bao giờ tự mình vươn tới tình huynh đệ đó được không? Xã hội
ngày càng toàn cầu hoá làm cho ta trở thành hàng xóm với nhau, nhưng không biến
chúng ta thành anh chị em. Lí trí tự nó có khả năng hiểu được sự bình đẳng giữa
người và người và nó có thể tạo ra một cuộc chung sống giữa các công dân, nhưng
nó không thể tạo ra tình huynh đệ. Tình huynh đệ bắt nguồn từ một ơn gọi siêu việt
do Chúa Cha, Đấng yêu thương chúng ta và, qua Chúa Con, Người dạy cho chúng ta
biết thế nào là tình yêu anh chị em. Trong việc trình bày những bình diện khác
nhau của tiến trình phát triển con người và sau khi đã đề cập tới đức tin, giáo
chủ Phaolô VI đã đưa „sự liên kết trong
tình yêu Chúa Kitô, Đấng đã mời gọi tất cả mọi người hãy như những người con
tham dự vào sự sống của Thiên Chúa hằng hữu là Cha của mọi người “ [53] vào đỉnh điểm suy tư của ngài.
20. viễn ảnh do Populorum progressio
mở ra vẫn luôn mang tầm quan trọng nền tảng. Nhờ chúng, sự dấn thân của chúng ta
trong công cuộc phát triển có được xung lực và định hướng. Ngoài ra, Thông điệp
lập đi lập lại nhu cầu cần phải có những cải tổ cấp bách[ii][54], và nó kêu gọi chúng ta phải can đảm gấp rút hành động để giải quyết những
bất công to lớn trước mắt trong công cuộc phát triển các dân tộc. Sự cấp bách
này cũng xuất phát từ tình yêu trong sự thật. Tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy ta
gấp rút hành động „caritas Christi urget
nos“ (2 Cor 5,14). Sự cấp bách không chỉ xuất phát từ tình hình thực tế. Nó
cũng không chỉ là hệ quả của các biến cố và vấn nạn đang dồn dập xẩy tới. Nhưng
nó còn là hành động giúp ta đạt được phần thưởng: hình thành nên một tình huynh
đệ đích thực. Í nghĩa của cùng đích này đủ lớn để chúng ta quyết tâm hành động,
dấn thân cụ thể vào công cuộc chuyển các tiến trình kinh tế và xã hội hiện nay
trở thành những kết quả của con người thật sự.
[13] Xem Biển-đức XVI., Diễn
văn khai mạc khoá 5 thượng hội đồng giám mục châu Mĩ la-tinh và vùng Karibik
(13.05.2007): Insegnamenti III, I (2007), 854-870.
[14] Xem số 3-5: sđd.,
258-260.
[15] Xem Gioan Phaolô II.,
Thông điệp Sollicitudo rei socialis (30.12.1987),
6-7: AAS 80 (1988), 517-519.
[16] Xem Phaolô VI., Thông
điệp Populorum progressio, 14: sđđ.,
264.
[17] Biển-đức XVI, Tông thư Deus caritas est (25. Dez. 2005), 18:
AAS 98 (2006), 232
[18] Như trên, 6: sđd, 222
[19] Xem Biển-đức XVI., Diễn
văn trước thành viên các thánh bộ tại Rôma trong buổi tiếp tân giáng sinh
(22.12.2005): Insegnamenti I (2005), 1023-1032.
[20] Xem Gioan Phaolô II.,
Thông điệp Sollicitudo rei socialis,
3: sđd, 515
[21] Như trên 1: sđd.,
513-514.
[22] Như trên 3: sđd., 515.
[23] Xem Gioan Phaolô II.,
Thông điệp Laborem exercens (14.
09.1981), 3: AAS 74 (1981), 583-584.
[24] Như trên, Thông điệp Centesimus annus, 3: sđd., 794-796
[25] Xem Thông điệp Populorum progressio, 3: sđd., 258
[26] Như trên, 34: sđd., 274.
[27] Xem số 8-9: AAS 60
(1968), 485-487; Biển-đức XVI., Diễn văn trong Đại hội quốc tế của Đại học giáo
chủ Lateran nhân kỉ niệm 40 năm tông thư Humanae
vitae (10.05.2008): Insegnamenti IV, I (2008), 753-756.
[28] Xem Thông điệp Evangelium vitae (25.03.1995), số 93:
AAS 87 (1995), 507-508.
[29] Như trên, 101: sđd.,
516-518.
[30] Số 29: AAS 68 (1976), 25
[31] Như trên, 31: sđd., 26.
[32] Xem Gioan Phaolô II.,
Thông điệp Sollicitudo rei socialis,
41: sđd., 570-572.
[33] Như trên, Thông điệp Centesimus annus, 5.54: sđd,
799.859-860.
[34] Số 15: sđd, 491.
[35] Như trên, 2: sđd., 258;
Lêô XIII., Tông thư Rerum novarum
(15.05.1891): Leonis XIII P.M. Acta, XI, Romae 1892, 97-144; Gioan Phaolô II.,
Thông điệp Sollicitudo rei socialis,
8: sđd., 519-520; cùng tác giả, Thông điệp Centesimus
annus, 5: sđd., 799.
[36] Xem Thông điệp Populorum progressio, 2.13: sđd., 258.
263-264.
[37] Như trên, 42: sđd., 278.
[38] Như trên, 11: sđd., 262;
Gioan Phaolô II., Thông điệp Centesimus
annus, 25: sđd., 822-824.
[39] Thông điệp Populorum progressio, 15: sđd., 265.
[40] Như trên, 3: sđd., 258.
[41] Như trên, 6: sđd., 260.
[42] Như trên, 14: sđd., 264.
[43] Như trên; xem Gioan
Phaolô II., Thông điệp Centesimus annus,
53-62: sđd., 859-867; cùng tác giả, Tông thư Redemptor hominis (04.03.1979), 13-14: AAS 71 (1979), 282-286.
[44] Xem Phaolô VI., Thông
điệp Populorum progressio, 12: sđd.,
262-263.
[45] Công đồng Vaticano II,
Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay Gaudium et spes, 22.
[46] Phaolô VI., Thông điệp Populorum progressio, 13: sđd, 263-264
[47] Xem Biển-đức XVI., Diễn
văn trong Đại hội quốc gia lần thứ IV của giáo hội Italia (19.10.2006):
Insegnamenti II, 2 (2006), 465-477.
[48] Xem Phaolô VI., Thông
điệp Populorum progressio, 16: sđd,
265.
[49] Như trên.
[50] Biển-đức XVI., Diễn văn
trước thanh thiếu niên ở Barangaroo East Darling Harbour (Sydney, 17.07.2008):
L’ Osservatore Romano (tiếng Đức), năm thứ 38, số 30/31, tr. 10.
[51] Phaolô VI., Thông điệp Populorum progressio, 20: sđd., 267.
[52] Như trên 66: sđd.,
289-290.
[53] Như trên, 21: sđd.,
267-268