CHƯƠNG BỐN
PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC, QUYỀN VÀ BỔN PHẬN, MÔI
TRƯỜNG
43. „Tình liên đới nhân loại không những
đem lại lợi ích cho chúng ta, mà nó còn là một bổn phận“ [105]. Nhiều người ngày nay tự cho rằng, họ chẳng mắc
nợ ai ngoài chính họ. Họ bảo, chỉ cần quyền hành, do đó trong họ thường thiếu
mất í thức trách nhiệm về sự phát triển toàn diện của chính mình và của những
người khác. Vì vậy, điều quan trọng là cần làm sao để họ hiểu được rằng, quyền
giả thiết bổn phận, nếu thiếu bổn phận, quyền sẽ trở thành chuyên quyền [106]. Ngày nay, chúng ta đang chứng kiến một nghịch
lí khó chịu. Trong khi người ta một mặt đòi cho mình những quyền giả định mang
tính độc đoán và hưởng thụ, với cớ rằng, những quyền này đã được cơ cấu nhà
nước công nhận và hỗ trợ, thì mặt khác, người ta lại chối bỏ và vi phạm những
quyền căn bản nơi một số lớn nhân loại [107]. Có một liên hệ dễ nhận ra giữa một bên là đòi quyền được sống trong dư
đầy, hay nói thẳng ra, được tự do phạm pháp và ăn chơi phung phí nơi các xã hội
giàu với một bên là sự thiếu thốn của ăn, nước uống, học vấn hoặc chăm sóc i tế
cơ bản nơi những vùng kém phát triển trên thế giới cũng như những vùng ngoại ô
của các đô thị lớn. Gốc rễ của liên hệ đó là, khi các quyền cá nhân không còn
được đóng khung trong các bổn phận tạo í nghĩa nữa, thì chúng sẽ trở nên thác
loạn và không ngừng đưa ra những đòi hỏi vô giới hạn và vượt mọi tiêu chuẩn.
Quá lạm quyền đưa tới việc buông thả bổn phận. Bổn phận giới hạn quyền, bởi vì
nó đưa quyền vào khung nhân học và đạo đức mà quyền vốn dĩ là một thành phần
trong đó, và nhờ khung này, quyền không trở thành chuyên quyền. Như vậy, bổn
phận củng cố, bảo vệ và thăng tiến các quyền trong công tác phục vụ điều thiện
của chúng. Ngược lại, nếu nền tảng các quyền của con người chỉ là kết quả của
các nghị quyết buổi họp, thì chúng có thể bị sửa đổi bất cứ lúc nào, và như
vậy, í thức coi trọng và tuân giữ quyền nơi người dân sẽ giảm. Các chính phủ và
tổ chức quốc tế, vì vậy, có thể phớt lờ tính khách quan và „bất khả xâm phạm“
của quyền. Một khi điều này xẩy ra, công cuộc phát triển thật sự của các dân
tộc sẽ lâm nguy [108]. Kiểu suy nghĩ và hành động đó sẽ làm giảm uy
tín của các cơ quan quốc tế, đặc biệt dưới con mắt các dân tộc đang cần phát triển
nhất. Các dân tộc này đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải có trách nhiệm giúp họ,
phải là những „kĩ sư xây dựng“ [109] cho số phận của họ, nghĩa là chính họ, họ cũng nhận lấy phần trách nhiệm
của mình. Việc chia sẻ những bổn phận qua lại có sức huy động mạnh hơn là chỉ
đòi hỏi quyền suông.
44. Quan niệm về quyền và bổn phận trong phát triển cũng phải quan tâm đến các
vấn đề liên quan tới việc phát triển dân số. Đây là một khía cạnh rất quan trọng
của sự phát triển đích thực, vì nó liên hệ tới các giá trị bất khả nhượng của
sự sống và của gia đình
[110]. Thật sai lầm
khi coi sự gia tăng dân số là nguyên do chính của kém phát triển – dù nhìn dưới
khía cạnh kinh tế . Cứ nhìn vào việc giảm số tử vong sơ sinh và tăng tuổi thọ
trung bình trong các xã hội mới phát triển kinh tế và vào những dấu hiệu khủng
hoảng nơi một số xã hội đang sút giảm trầm trọng về sinh số thì đủ rõ. Giáo
hội, vốn ưu tư tha thiết với sự phát triển đích thực của con người, khuyên họ
hãy tôn trọng tối đa các giá trị con người và những giá trị trong quan hệ tình
dục: Chúng ta không thể hạ tình dục xuống thành một thứ hành vi lạc thú hay
giải trí thuần tuý, cũng như không thể biến việc giáo dục sinh lí thành ra một
thứ hướng dẫn kĩ thuật, với quan tâm duy nhất là để tránh lây nhiễm bệnh hay để
tránh „nguy cơ“ truyền sinh. Làm như thế là khinh thường và làm nghèo đi í
nghĩa sâu xa của tình dục, một khía cạnh cuộc sống mà lẽ ra mỗi người và cả xã
hội phải công nhận và đón nhận trong trách nhiệm. Trách nhiệm cũng không cho
phép ta coi tình dục chỉ là nguồn khoái cảm, như đã phản ảnh trong các biện
pháp chính trị áp đặt trên kế hoạch hoá gia đình. Trong cả hai trường hợp, con
người đều đứng trước những quan điểm vật chất và các phương cách thực hiện
chính trị của chúng, và rốt cuộc họ phải đau khổ chịu đựng bạo lực dưới nhiều
hình thức khác nhau. Như vậy, để chống lại trong lĩnh vực này, chúng ta phải
đặt trách nhiệm của gia đình ưu tiên [111] lên trên nhà nước và các biện pháp thuần tuý chính trị của nó, cũng như phải giúp cho các bậc cha mẹ có
được một giáo dục thích hợp.
Hết lòng ủng hộ sự sống một cách có trách nhiệm về mặt đạo đức cũng là làm giàu
cho xã hội và kinh tế. Cũng nhờ lượng dân đông và năng lực của họ mà những quốc
gia lớn đã thoát ra được cảnh nghèo túng. Ngược lại, một số quốc gia trước đây
giàu có nay đang rơi vào bất an – cũng có những trường hợp đã suy tàn – chỉ vì
số sinh giảm, đây chính là một vấn nạn hệ trọng sinh tử của các xã hội giàu có
hiện nay. Khi số sinh giảm, đôi khi làm cho dân số quốc gia xuống dưới mức độ
tỉ lệ cho phép, hệ thống trợ cấp xã hội sẽ gặp khủng hoảng. Giảm sinh khiến chi
phí tăng, hạn chế sự lưu hồi tiết kiệm và hậu quả là khan hiếm vốn đầu tư; nó
làm giảm lượng lao động chuyên môn, làm cạn kiệt đi nguồn dự trữ „đầu óc“ cần
thiết cho nhu cầu phát triển quốc gia. Ngoài ra, gia đình ít người, lắm khi quá
ít người, sẽ tạo ra tình trạng khan hiếm quan hệ xã hội và không bảo đảm được
những hình thái liên đới hữu hiệu. Hệ quả của các tình trạng này là triệu chứng
giảm niềm tin vào tương lai và mỏi mệt về phương diện đạo đức. Vì thế, về mặt
xã hội, và ngay cả mặt kinh tế, cần làm sao cho các thế hệ trẻ thấy được nét
đẹp của gia đình và của hôn nhân cũng như thấy được rằng, hai định chế đó phù
hợp với những nhu cầu thâm sâu nhất của tâm hồn và phẩm giá con người. Trong
viễn tượng đó, các quốc gia được mời gọi đưa ra những biện pháp chính trị nhằm
bảo vệ và hỗ trợ vị trí trung tâm của định chế gia đình dựa trên hôn nhân nam
nữ, vốn là tế bào sự sống và căn bản của xã hội [112], bằng cách vừa quan tâm tới những vấn đề kinh tế và tài chánh vừa tôn trọng
bản chất quan hệ của nó.
45. Việc đáp ứng những yêu sách đạo đức thâm sâu nhất của con người cũng đưa
tới những ảnh hưởng quan trọng và tốt đẹp trên bình diện kinh tế. Để vận hành
đúng đắn, kinh tế cần có đạo đức; không phải loại đạo đức nào bất kì, mà là thứ
đạo đức thân thiện với con người. Ngày nay, người ta nói nhiều về đạo đức trong
lãnh vực kinh tế, tài chánh và xí nghiệp. Những trung tâm nghiên cứu và những
khoá huấn luyện đạo đức kinh doanh đã được mở ra. Trong thế giới các quốc gia
tiền tiến đã có hệ thống cấp chứng chỉ đạo đức doanh nghiệp, tiếp theo sau sự
có mặt của phong trào đòi các xí nghiệp phải có đạo đức xã hội. Các ngân hàng
đưa ra những cái gọi là tài khoản và quỹ đầu tư „đạo đức“. Một „nền tài chánh
đạo đức“ đã được thiết lập, đặc biệt nhờ vào việc cho vay những món tiền nhỏ,
và thông dụng hơn, nhờ vào chương trình cấp vốn nhỏ. Các chiều hướng phát triển
này quả đáng khen và cần được nâng đỡ. Một số vùng chậm tiến hơn trên thế giới
cũng đã nhìn ra những ảnh hưởng tích cực của các chương trình trên. Tuy nhiên,
cũng cần phải đặt ra một tiêu chuẩn phân biệt rõ ràng, là vì xem ra đã có sự
bào mòn í nghĩa của tính từ „đạo đức“, ai ai cũng dùng nó, mà í nghĩa thì lại
mông lung. Người ta có thể đi tới chỗ dùng từ ngữ này để làm bình phong cho những
quyết định và nghị quyết đi ngược lại công lí và hạnh phúc thật sự của con
người.
Quả thật, có nhiều điều được đánh giá tuỳ theo hệ thống đạo đức mà người ta
quy chiếu. Ở điểm này, học thuyết xã hội của Giáo hội có một đóng góp đặc biệt.
Học thuyết này coi con người được Thiên Chúa dựng nên theo „hình ảnh“ Người (St
1,27); từ căn bản này, con người có được một phẩm giá bất khả xâm phạm và những
chuẩn mực đạo đức tự nhiên cũng có được giá trị siêu việt. Một nền đạo đức kinh
tế không dựa trên hai cột trụ đó chắc chắn sẽ có nguy cơ biến chất đạo đức và sẽ
bị biến thành phương tiện; nói đúng hơn, nó sẽ có cơ nguy trở thành phương tiện
phục vụ nền kinh tế tài chánh đang có, chứ không phải là nhân tố giúp sửa chữa
những thiếu sót của chúng. Và trong muôn một, nó rốt cuộc sẽ tìm cách biện minh
cho việc tài trợ những chương trình và dự án phản đạo đức. Hơn nữa, cũng đừng
lạm dụng từ „đạo đức“ trong chiều hướng í thức hệ, nghĩa là xem hễ sáng kiến
nào không có cái đuôi „đạo đức“ thì bị đánh giá ngay là thiếu đạo đức. Không
những phải cố gắng làm sao – và đây là điểm tối quan trọng! - để hình thành nên
được những khu vực „đạo đức“ và những lãnh vực kinh tế hay tài chánh „đạo đức“,
mà phải sao cho toàn nền kinh tế và toàn hệ thống tài chánh có được tính đạo
đức, và không những đạo đức vì nhãn hiệu bên ngoài, mà còn vì tôn trọng những
đòi hỏi từ nền tảng bản chất của nó. Về điểm này, giáo huấn xã hội mới nhất của
Giáo hội đã nhắc nhở rất rõ là, toàn bộ nền kinh tế với mọi nhánh cành của nó
đều chỉ là một phần lãnh vực hoạt động muôn vẻ của con người [113].
46. Khi nhìn vào các lãnh vực hàm chứa mối liên hệ giữa kinh doanh và đạo đức
cũng như nhìn vào sự phát triển đang diễn ra của hệ thống sản xuất, chúng ta
thấy hình như việc phân biệt thông thường hiện nay giữa hai loại công ti vụ lợi
và bất vụ lợi hoàn toàn không còn hợp với tình trạng hiện nay nữa hoặc chúng
không thể là khuôn mẫu hữu hiệu cho những phát triển tương lai. Trong mấy chục
năm qua, đã nẩy sinh thêm một lãnh vực kinh doanh lớn bên cạnh hai loại hình
kinh doanh cố hữu. Đó là những công ti truyền thống, nhưng họ đã kí những hợp
đồng tài trợ cho các quốc gia kém phát triển. Đó là những nhóm công ti sẵn sàng
chia phần lợi nhuận cho các nhu cầu công ích xã hội. Đó là những tổ chức đa
dạng đại diện cho cái gọi là nền kinh tế công và kinh tế cộng đồng. Đây không
những là một „lãnh vực thứ ba“, nhưng là một thực tại lớn, bao quát, bao gồm
trong nó vừa yếu tố tư lẫn công; các công ti này tuy vẫn theo đuổi lợi nhuận,
nhưng biết sử dụng nó như phương tiện phục vụ cho những mục tiêu nhân bản và xã
hội. Dù các công ti xí nghiệp này không chia tặng lợi nhuận của họ, cũng như họ
vẫn là những tổ chức mang hình thái kinh doanh cố hữu, nhưng điều đó không quan
trọng. Quan trọng là chỗ họ biết dùng lợi nhuận như một thứ phương tiện để nhân
bản hoá thị trường và xã hội. Mong rằng loại hình kinh doanh này được mọi nước
trên thế giới hưởng ứng và cho chúng được hưởng những quy chế luật phát và thuế
khoá thuận lợi. Loại hình kinh doanh mới này, một mặt không tạo khó khăn hay
bất lợi nào cho các công ti xí nghiệp đang có, mặt khác cho thấy sự lớn dậy của
í thức chia sẻ trách nhiệm nơi tầng lớp lãnh đạo kinh tế. Nhưng không chỉ có
vậy mà thôi. Chính hình thái đa dạng của định chế kinh doanh sẽ tạo nên một thị
trường nhân bản và cạnh tranh năng động hơn.
47. Việc gia tăng các loại hình kinh doanh khác nhau, đặc biệt các loại có khả
năng í thức và dùng lợi nhuận của mình như một phương tiện để nhân bản hoá thị
trường và xã hội, cũng cần phải được khuyến khích thành lập trong các quốc gia
bị hạn chế hoặc bị đẩy ra khỏi vòng chảy của kinh tế thế giới. Trong các nước
này, rất cần phải đẩy mạnh các kế hoạch dựa trên nguyên tắc bổ trợ, được hoạch
định và quản lí tốt, nhằm củng cố các quyền lợi, đồng thời cũng luôn phải đảm
nhận những nhiệm vụ tương ứng. Phải đưa nhân vị lên hàng ưu tiên trong các chương
trình phát triển, vì nhân vị là chủ thể đầu tiên phải tự mang trách nhiệm phát
triển. Mục tiêu chính của các chương trình này là cải thiện hoàn cảnh sống của
những con người cụ thể trong một vùng, để giúp họ có thể hoàn thành được nhiệm
vụ mà, trong điều kiện sống khó khăn hiện tại, họ không thể chu toàn được. Nỗi
âu lo chẳng bao giờ là một cái gì trừu tượng. Để có thể thích ứng với những
hoàn cảnh riêng biệt, các chương trình phát triển phải uyển chuyển; và phải làm
sao để cho các đối tác nhận giúp đỡ cùng trách nhiệm trong việc hoạch định và
để họ khoác vai diễn viên chính trong tiến trình thực hiện. Cũng cần phải áp
dụng những tiêu chuẩn hỗ trợ và kiểm soát - kể cả kiểm soát kết quả - từng
chặng theo tiến độ thực hiện, bởi lẽ chẳng có một thứ công thức nào hoàn hảo
cho mọi thứ mọi nơi cả. Các chương trình phát triển có hữu hiệu và thành công
hay không, phần nhiều tuỳ thuộc vào cung cách can thiệp cụ thể. “Vì các dân
tộc là chủ các chương trình thăng tiến của chính mình, nên họ phải ưu tiên nhận
lấy gánh nặng và trách nhiệm của chương trình. Tuy nhiên họ sẽ không hoàn thành
được nhiệm vụ, nếu họ bị cô lập” [114]. Lời cảnh cáo này của giáo chủ Phao-lô VI vẫn còn giá trị cho ngày nay trước
bước tiến của tiến trình củng cố hội nhập thế giới. Động năng liên kết tự nó
chẳng phải là một cái gì mang tính cơ giới. Các giải pháp phải được xây dựng trên
nền tảng đánh giá chính xác cuộc sống của các dân tộc và của các con người cụ
thể. Bên cạnh các chương trình lớn, cần có những kế hoạch nhỏ và nhất là phải
làm sao động viên được toàn lực xã hội dân sự, vừa cả các pháp nhân lẫn những
con người cụ thể.
Việc hợp tác quốc tế cần những người sẵn sàng liên đới bằng sự tương kính và
có mặt của họ, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm của họ cho tiến trình phát triển kinh
tế và con người. Dưới nhãn quan này, các tổ chức quốc tế phải tự đặt vấn đề về
mức độ hữu hiệu thực sự của mình trước những bộ máy bàn giấy không hiếm khi rất
cồng kềnh và tốn kém của họ. Nhiều khi đối tượng giúp đỡ bị biến thành phương tiện
của người giúp đỡ và người nghèo được dùng làm cớ cho những cỗ máy bàn giấy tốn
kém tìm cách cắt xén phần lớn nguồn tài trợ của các dự án phát triển. Vì thế,
mong sao các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ hoạt động một cách
trong sáng, bằng cách bạch hoá danh sách người đóng góp, nội dung dự án và phần
chi thật sự cho dự án, cũng như bạch hoá những chi tiêu của chính tổ chức mình.
48. Ngày nay, đề tài phát triển luôn gắn liền với trách nhiệm; những trách nhiệm
này hình thành từ mối liên hệ giữa con người đối với môi sinh. Môi sinh được
Thiên Chúa trao ban cho mọi người. Việc sử dụng nó đặt ra cho chúng ta trách
nhiệm đối với người nghèo, với các thế hệ tương lai và với cả nhân loại. Nếu
vạn vật, mà trước hết là con người, được coi là hoa trái của tình cờ hay của
một tiến hoá định mệnh, thì í thức trách nhiệm nơi lương tâm con người sẽ yếu
đi. Kẻ tin vào Thiên Chúa, trái lại, nhận ra trong thiên nhiên công trình tạo
dựng huyền diệu của Người. Công trình này con người được phép sử dụng để thoả mãn
các nhu cầu vật chất và tinh thần của họ, nhưng phải trong tinh thần trách
nhiệm và biết giữ cho thiên nhiên cân đối hài hoà. Nếu thiếu cái nhìn này, con
người hoặc sẽ coi thiên nhiên là bất khả xâm phạm hoặc trái lại sẽ khai thác
cạn kiệt nó. Cả hai thái độ đều không phản ảnh quan điểm kitô giáo coi thiên
nhiên là hoa trái của Tạo Hoá.
Thiên nhiên nói lên một kế hoạch tình yêu và sự thật. Thiên nhiên có trước chúng
ta và nó được Thiên Chúa trao ban cho chúng ta làm không gian sống. Nó nói cho
chúng ta biết về đấng Tạo Hoá (xem Rom 1,20) và về tình yêu của Người đối với
con người. Thiên nhiên được tạo tác với mục đích là sẽ “quy tụ” lại trong đức
Kitô vào ngày sau hết (xem Eph 1,9-10; Col 1,19-20). Cả thiên nhiên như vậy
cũng là một “ơn gọi”
[115]. Nó không phải
là «một đống đồ phế thải vương vãi tình cờ” [116] để ta sử dụng, nhưng là món qùa của Tạo Hoá. Tạo Hoá ban cho nó những trật
tự nội tại, để con người rút ra từ đó những định hướng cần thiết “hầu canh
tác và chăm sóc nó” (St 2,15). Nhưng cũng phải nhấn mạnh điểm này: Nếu coi
thiên nhiên trọng hơn con người thì đấy là một quan điểm phản phát triển đích
thực. Quan điểm này sẽ dẫn đến những thái độ tân ngoại giáo hay một thứ thuyết
phiếm thần mới: Một thiên nhiên được hiểu với í nghĩa thuần tuý tự nhiên không
thể mang đến cứu rỗi cho con người được. Trái lại, cũng phải bác bỏ quan điểm
ngược lại: Cố gắng tìm cách kĩ thuật hoá toàn bộ thiên nhiên. Lí do là vì môi
trường thiên nhiên không phải chỉ là vật chất, để chúng ta có thể uốn nặn tuỳ
í, song đó là công trình huyền diệu của Tạo Hoá. Công trình này mang sẵn trong
nó một “hệ thống văn phạm” ấn định mục tiêu và các tiêu chuẩn cho việc sử dụng
một cách khôn ngoan, chứ không thể độc đoán và bừa bãi. Nhiều thiệt hại cho
công cuộc phát triển ngày nay xuất phát từ những nhận định sai trái đó. Căn
nguyên của bạo lực đối với môi sinh phát khởi từ quan điểm muốn giản lược thiên
nhiên xuống thành một mớ sự kiện đơn giản; quan điểm này cũng là đầu mối cho
những hành vi bất kính đối với bản chất tự nhiên của con người. Con người không
chỉ thuần vật chất, mà còn cả tinh thần, do đó nó mang nhiều í nghĩa cũng như
nhiều mục tiêu siêu việt để hướng tới, và nó cũng mang một đặc tính mẫu mực cho
thiên nhiên. Con người diễn dịch và kiến tạo môi trường thiên nhiên nhờ văn hoá
mình; văn hoá, về phần mình, lại được xác định bởi sự tự do có trách nhiệm và
tôn trọng các quy luật luân lí. Các kế hoạch phát triển con người toàn diện, do
đó, không thể không đoái tới các thế hệ tương lai; chúng phải được hoạch định
dựa trên tình liên đới và công bằng liên thế hệ, nghĩa là phải cùng lúc quan
tâm tới nhiều lãnh vực khác nhau như kinh tế, luật pháp, môi sinh, chính trị và
văn hoá [117].
49. Ngày nay, vấn đề năng lượng cũng phải được quan tâm xứng đáng như những
câu hỏi liên quan tới việc chăm sóc và bảo vệ môi sinh. Việc thu mua các nguồn năng
lượng không tái chế được do một số nước, một số tổ chức và công ti có ảnh hưởng
lớn chủ trương được xem là một ngăn trở trầm trọng cho việc phát triển các quốc
gia nghèo. Các quốc gia này không có phương tiện kinh tế để khai thác được
những nguồn năng lượng không tái chế mà họ đang có, cũng không có khả năng tài
chánh để tìm kiếm những nguồn mới thay thế. Việc thu mua các nguồn năng lượng
tự nhiên, mà đa phần diễn ra trong các nước nghèo, dẫn tới việc bóc lột và
những xung đột thường xuyên giữa các quốc gia và trong chính các quốc gia. Những
xung đột đó thường diễn ra trên đất các quốc gia nghèo với bao nhiêu hậu quả
thảm khốc: chết chóc, phá hoại và rồi quốc gia khánh kiệt. Cộng đồng quốc tế
phải làm sao cùng với các quốc gia nạn nhân nghèo tìm cho ra những con đường định
chế để ngăn chận việc bóc lột những nguồn tài nguyên không tái chế này và để
cùng nhau hoạch định tương lai chung.
Cả trên trận tuyến này cũng cấp thiết phải có một mối liên đới mới về mặt đạo
đức, đặc biệt trong quan hệ giữa các nước đang phát triển và những nước tân tiến [118]. Các nước tân tiến về mặt kĩ thuật có thể và phải
giảm bớt mức tiêu thụ năng nượng của họ, một phần bởi vì nền sản xuất của họ sẽ
không bị ảnh hưởng gì nhiều, và mặt khác vì người dân trong các nước này có í
thức nhạy cảm hơn về vấn đề môi sinh. Ngoài ra, còn phải thêm là ngày nay người
ta có thể gia tăng hiệu xuất của năng lượng và đồng thời có nhiều khả năng tìm
ra những nguồn năng lượng thay thế mới. Tuy nhiên, cũng cần phải có kế hoạch
mới phân chia nguồn năng lượng trên thế giới, để cho các nước tay không cũng có
được phần. Không thể để cho số phận của họ bị định đoạt bởi lí của kẻ mạnh hay
của những kẻ nhanh chân đến trước xí phần. Đấy là những vấn đề quan trọng. Để
giải quyết chúng một cách hiệu quả, đòi hỏi mọi người phải í thức về những hậu
quả có thể đổ trên đầu các thế hệ mai sau, đặc biệt trên đầu nhiều người trẻ
trong các nước nghèo, là những người “đòi
hỏi phải được đóng góp phần mình vào công cuộc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn” [119].
50. Trách nhiệm này mang tính toàn cầu, bởi vì nó không những đụng đến năng
lượng, nhưng đến cả toàn tạo dựng, mà chúng ta không thể phá hoại luôn phần của
các thế hệ ngày mai. Tạo Hoá dựng nên con người có khả năng xử sự với thiên nhiên
một cách trách nhiệm, để bảo vệ, sử dụng và cả canh tác nó bằng những phương
pháp kĩ thuật tân tiến, hầu có thể đón nhận và nuôi sống nhân loại địa cầu cách
xứng đáng. Địa cầu có đủ chỗ cho mọi người: Nó cung cấp đủ tài nguyên cho toàn
gia đình nhân loại, hầu họ có thể sống xứng đáng nhờ vào chính thiên nhiên là
quà tặng của Thiên Chúa cho con cái Người, nhờ vào lao động và óc sáng kiến của
họ. Tuy nhiên, chúng ta cần nhắc nhở về cái trách nhiệm rất quan yếu là, phải
để lại cho các thế hệ tương lai một trái đất với tình trạng tốt đẹp, để họ cũng
có thể có được một cuộc sống xứng đáng trên đó và tiếp tục canh tác nó cách dồi
dào. Điều này bao hàm việc “phải có bổn
phận cùng nhau lựa chọn với í thức trách nhiệm con đường nào phải đi, để làm
sao tăng cường được mối ràng buộc giữa người và môi sinh; mối dây này sẽ là tấm
gương phản ảnh tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa – Người là nguồn gốc xuất phát
của chúng ta mà cũng là cùng đích mà chúng ta đang trên đường tiến về” [120]. Mong sao cộng đồng quốc tế và các chính quyền
đừng để cho môi sinh bị sử dụng bào mòn tai hại. Các giới chức thẩm quyền cũng
cần phải nỗ lực bạch hoá các chi phí kinh tế và xã hội trong việc sử dụng các
tài nguyên môi sinh chung và cố gắng chia đều chi phí đó cho những người hưởng
thụ, chứ đừng bắt các thế hệ tương lai phải chịu gánh nặng đó. Việc bảo vệ môi
sinh, bảo vệ các nguồn tài nguyên và khí hậu đòi hỏi phải có một hành động chung
của các thẩm quyền trách nhiệm trên bình diện quốc tế; họ cần phải sẵn sàng
chung tay làm việc với các vùng nghèo nhất của địa cầu trong chân thành, đoàn
kết, trách nhiệm và vị luật
[121]. Một trong những
công tác quan trọng nhất của kinh tế chính là việc sử dụng hữu hiệu tối đa các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, chứ không phải phung phí chúng; mà cũng cần phải
nhớ là chữ “hữu hiệu” ở đây không phải là một từ mang giá trị trung tính.
51. Cách thức con người xử sự với môi sinh sẽ ảnh hưởng lên cách thức họ đối
xử với chính họ, và ngược lại. Điều này buộc xã hội hôm nay phải nghiêm túc xét
lại lối sống của họ, một lối sống mà trên nhiều vùng trái đất hiện nay có khuynh
hướng chạy theo khoái lạc và tiêu thụ, trong khi chẳng màng gì tới những thiệt
hại nẩy sinh từ lối sống đó
[122]. Cần phải có một
chuyển hướng tinh thần thực sự, để chúng ta có thể chấp nhận những lối sống
mới, “trong đó việc tìm kiếm chân thiện
mĩ và kiếm tìm mối liên hệ cộng đoàn đồng tiến với những người khác sẽ là những
yếu tố chỉ đạo cho việc tiêu thụ, tiết kiệm và đầu tư” [123]. Mỗi mất mát trong mối liên đới công dân và tình huynh đệ sẽ tạo ra thương
tích cho môi sinh, cũng như ngược lại, mỗi thương tích đối với môi sinh lại tạo
nên bất ổn cho các quan hệ xã hội. Đặc biệt trong thời đại chúng ta thiên nhiên
bị hoà nhập vào trong động năng của các giòng chảy xã hội và văn hoá, đến nỗi
nó gần như không còn là một thông số độc lập nữa. Tình trạng sa mạc hoá và bần
cùng hoá nơi một số vùng nông nghiệp cũng là kết quả của sự nghèo nàn hoá dân
cư ở đó và của sự chậm tiến. Giúp cho dân cư nơi các vùng đó phát triển về mặt
văn hoá và kinh tế cũng là biện pháp bảo vệ thiên nhiên. Ngoài ra, biết bao
nhiêu tài nguyên thiên nhiên đã bị tàn phá bởi chiến tranh! Hoà bình dân tộc và
giữa các dân tộc cho phép ta bảo vệ thiên nhiên được nhiều hơn. Việc thu mua
các tài nguyên, đặc biệt tài nguyên nước, có thể đưa tới những xung đột trầm
trọng giữa dân chúng trong vùng. Thiên nhiên và hạnh phúc của các xã hội liên
quan sẽ được bảo vệ tốt hơn, nếu có một thoả thuận hài hoà về việc sử dụng tài
nguyên.
Giáo hội mang một trách nhiệm về tạo dựng và cũng phải nói lên công khai trách
nhiệm đó của mình. Và khi Giáo hội làm điều đó thì không phải chỉ bảo vệ đất,
nước và không khí là những thứ quà tặng của Tạo Hoá cho mọi người. Trước hết
Giáo hội phải bảo vệ con người khỏi cuộc tự hủy của họ. Phải có một thứ gì đó
như là khoa “môi sinh học” về con người. Thật ra, sự phá hoại thiên nhiên có liên
hệ mật thiết với văn hoá là chất tạo khuôn sống chung cho con người. Khi “môi
sinh con người” [124] được xã hội coi trọng, lúc đó môi sinh thiên nhiên
cũng được hưởng lợi. Vì các đức hạnh của con người dính kết với nhau, nên, nếu
một đức hạnh bị suy yếu, thì nó sẽ kéo theo sự suy yếu của toàn thể các đức
hạnh khác. Hệ thống môi sinh cũng vậy, nó phải được đặt nền trên việc tuân giữ
một chương trình bao gồm việc chung sống lành mạnh trong xã hội và cách xử sự
tốt đẹp với thiên nhiên.
Để bảo vệ môi sinh, những biện pháp khuyến khích hoặc hạn chế không thôi thì
không đủ, cả việc hướng dẫn thích hợp cũng chưa đủ. Đó chỉ là những trợ cụ. Vấn
đề quyết định là lối hành xử đạo đức của xã hội. Một khi quyền sống và việc chết
tự nhiên không được coi trọng, một khi việc thụ thai, mang thai và sinh nở được
thực hiện bằng lối nhân tạo, một khi phôi thai bị hi sinh cho việc nghiên cứu,
thì rốt cuộc khái niệm Môi sinh con người và khái niệm cùng song hành với nó là
Môi sinh thiên nhiên cũng sẽ biến mất khỏi í thức chung của xã hội. Quả là
chuyện mâu thuẫn, khi ta đòi hỏi các thế hệ trẻ phải coi trọng môi sinh thiên
nhiên, trong lúc giáo dục và luật pháp chẳng giúp họ tự coi trọng chính họ.
Cuốn sách thiên nhiên là một và không thể tách chia, không thể tách chia cả về
mặt môi trường lẫn sự sống hay các lãnh vực tính dục, hôn nhân, gia đình, quan
hệ xã hội, tắt lại là sự phát triển toàn diện của con người. Bổn phận của chúng
ta đối với môi trường gắn liền với bổn phận đối với con người tự thân và trong
tương quan với những người khác. Không thể vừa đòi hỏi người này phải có trách
nhiệm trong lúc lại áp chế kẻ khác. Đó là một nghịch lí nghiêm trọng trong tâm
thức và thực hành của con người thời nay. Nó hạ thấp con người, phá vỡ thiên
nhiên và làm chấn thương xã hội.
52. Chúng ta không thể tạo ra sự thật và thứ tình yêu chứa đựng sự thật, mà
chỉ có thể đón nhận chúng. Tác giả cuối cùng của chúng không phải là con người,
mà là Thiên Chúa, chính Người là sự Thật và Tình yêu. Nguyên tắc này rất cần cho
xã hội và phát triển, bởi vì cả hai không thể là sản phẩm của con người. Ơn gọi
phát triển của con người và các dân tộc, cũng vậy, không chỉ là một quyết định
do con người, nhưng là một kế hoạch đã định sẵn. Kế hoạch này có trước chúng
ta, và mọi người chúng ta phải tự nguyện chấp nhận nó như một bổn phận phải
theo. Tình yêu và sự thật là những gì đi trước chúng ta và làm nên chúng ta,
chúng sẽ chỉ cho ta thấy đâu là thiện hảo và đâu là hạnh phúc. Như vậy, nó sẽ
chỉ cho ta con đường đi tới phát triển đích thực.
________________
[i][105] Phao-lô
VI, Thông điệp Populorum progressio,
17: sđd, 265-266.
[ii][106] Xem Gio-an Phao-lô II, Thông điệp ngày hoà bình thế giới 2003, 13: sđd, 781-782.
[iii][107] Xem như trên
[iv][108] Xem
Biển-đức XVI, Thông điệp ngày hoà bình
thế giới 2007, 13: sđd, 781-782.
[v][109] Phao-lô
VI, Thông điệp Populorum progressio, 65: sđd, 289.
[vi][110] Xem trên, 36-37: sđd, 275-276.
[vii][111] Xem như trên, 37: sđd, 275-276.
[viii][112] Xem
Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về tông đồ giáo dân Apostolicam actuositatem, 11.
[ix][113] Xem Phao-lô VI, Thông điệp Populorum progressio, 14: sđd, 264.
Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus
annus, 32: sđd, 832-833.
[x][114] Xem Phao-lô VI, Thông điệp Populorum progressio, 14: sđd, 264;
Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus
annus, 32: sđd, 832-833.
[xi][115] Phao-lô,
Thông điệp Populorum progressio, 77:
sđd, 295.
[xii][116] Heraklit
ở Ephesus (khoảng 535-475 trước công nguyên). Mảng 22B124, trong: H. Diehls – W. Kranz, Die Fragmente der Vorsokratiker,
Weidmann, Berlin, 1952(6)
[xiii][117] Xem Hội đồng Giáo chủ về Công lí và Hoà bình, Toát yếu về học thuyết xã hội công giáo,
số 451-487.
[xiv][118] Xem Gio-an Phao-lô II, Thông điệp ngày thế giới hoà bình 1990, 10: AAS 82 (1990), 152-153.
[xv][119] Phao-lô
VI, Thông điệp Populorum progressio,
65: sđd, 289.
[xvi][120] Biển-đức
XVI, Thông điệp ngày hoà bình thế giới
2008, 7: AAS 100 (2008), 41.
[xvii][121] Xem
Biển-đức XVI, Diễn văn trước các thành
viên Liên hiệp quốc (18.04.2008); Insegnamenti
IV, I (2008), 618-626.
[xviii][122] Xem Gio-an Phao-lô II, Thông điệp ngày hoà bình thế giới 1990, 13: sđd, 154-155.
[xix][123] Cùng
tác giả, Thông điệp Centesimus annus,
36: sđd, 838-840.
[xx][124] Như trên, 38: sđd, 840-841; Biển-đức XVI, Thông điệp ngày hoà bình thế giới 2007,
8: sđd, 779.