THÔNG ĐIỆP ECCLESIA DE
EUCHARISTIA
( số 26 – 33)
CHƯƠNG III: ĐẶC TÍNH TÔNG
TRUYỀN
CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ VÀ GIÁO
HỘIÍNH TÔNG
26. Như tôi đã nhắc
lại ở trên, Bí Tích Thánh Thể xây dựng Giáo Hội và Giáo Hội làm nên Bí Tích
Thánh Thể, vì thế mối liên hệ hai bên rất chặt chẽ. Điều đó chính xác đến
nổi chúng ta có thể áp dụng vào Mầu Nhiệm Thánh Thể những gì chúng ta nói về
Giáo Hội khi chúng ta tuyên xưng Giáo Hội là “duy nhất, thánh thiện, công giáo
và tông truyền” trong Kinh Tin Kính Nixê-Constantinốp. Bí Tích Thánh Thể cũng
duy nhất và công giáo. Bí Tích Thánh Thể cũng thánh thiện, và hơn thế nữa, là
Bí Tích Rất Thánh. Nhưng trên hết, giờ đây chúng tôi muốn chú trọng đến đặc
tính tông truyền của Bí Tích Thánh Thể.
27. Khi giải thích
Giáo Hội là tông truyền, sách Giáo Lý
Hội Thánh Công Giáo phân biệt ba
ý nghĩa trong cách nói đó. Một đàng, “ Giáo Hội đã và đang được xây dựng
trên “ nền tảng các tông đồ” (Ep 2, 20) là những chứng nhân đã được chính Chúa
Kitô tuyển chọn và sai đi” ( 51 ). Khởi đầu của Bí Tích Thánh Thể cũng đã có
các tông đồ, không phải vì thế mà bí tích nầy không bắt nguồn từ chính Chúa
Kitô, nhưng bởi vì Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ và được các ngài và các
đấng kế vị truyền lại cho đến chúng ta. Chính trong sự tiếp nối hành động của
các tông đồ, vâng theo lệnh truyền của Chúa mà Giáo Hội cử hành Bí Tích Thánh
Thể qua dòng thời gian.
Ý nghĩa thứ hai của tính tông truyền của Giáo Hội được Sách Giáo Lý nêu rõ là “Giáo Hội gìn
giữ và lưu truyền giáo huấn, kho tàng quí giá, những lời lành mạnh đã được nghe
từ các tông đồ với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần đang ở trong Giáo
Hội”(52). Cũng theo ý nghĩa nầy, Bí Tích Thánh Thể có tính tông truyền vì được
cử hành đúng như niềm tin của các tông đồ. Theo dòng lịch sử 2000 năm qua của
Dân Giao Ước Mới, Huấn Quyền đã xác định giáo thuyết về Bí Tích Thánh Thể trong
nhiều dịp khác nhau, ngay cả trong những điều liên hệ đến từ ngữ
chính xác, và điều đó chính là để bảo vệ đức tin tông truyền trong Mầu Nhiệm
thật cao cả nầy. Niềm tin nầy vẫn không thay đổi và điều đó rất thiết yếu đối
với Giáo Hội.
28. Sau cùng, Giáo
Hội tông truyền có nghĩa là: “Giáo hội vẫn tiếp tục được các tông đồ dạy dỗ,
thánh hóa và hướng dẫn cho đến ngày Chúa Kitô trở lại nhờ những vị kế
nhiệm các ngài trong nhiệm vụ mục tử: Giám mục đoàn, “với sự giúp đỡ của các linh
mục, hiệp thông với Đấng kế vị Thánh Phêrô là mục tử tối cao của Giáo Hội”
(53). Kế vị các tông đồ trong sứ mệnh mục tử đòi hỏi phải có bí tích
truyền chức, nghĩa là phải có việc phong chức giám mục liên tục và thành
sự, bắt đầu từ những nguồn gốc đầu tiên (54). Việc kế vị nầy rất thiết yếu để
có Giáo Hội đúng nghĩa và tròn đầy.
Bí Tích Thánh Thể cũng diễn tả ý nghĩa của tính tông truyền. Quả thật,
như Công Đồng Vaticanô II đã dạy, “ các tín hữu, nhờ chức tư tế vương giả cũng
góp phần vào việc hiến dâng Thánh Thể theo vị trí của họ” (55), nhưng chính
linh mục được truyền chức mới “ cử hành Hy tế Thánh Thể trong tư cách của Chúa
Kitô và hiến dâng cho Chúa Cha nhân danh toàn thể tín hữu”(56). Vì lẽ ấy mà
trong Sách Lễ Rôma đã quy định
chỉ một mình linh mục đọc kinh nguyện Thánh Thể, trong khi đó giáo dân thinh
lặng hiệp ý trong đức tin (57).
29. Cụm từ được Công
Đồng Vaticanô II sử dụng nhiều lần: “những ai đã nhận chức tư tế thừa tác
(?.) mới cử hành Hy Tế Thánh Thể trong tư cách của Chúa Kitô”(58) đã được khắc
sâu trong lời dạy của giáo huấn Tông Tòa như tôi đã có dịp xác định rõ, in persona Christi, có nghĩa mạnh hơn
là “ nhân danh” hay “thay thế” Chúa Kitô. In persona : nghĩa là trong sự đồng nhất đặc biệt, mang tính bí
tích, với “vị Thượng Tế của Giao Ước vĩnh cữu”, Đấng là tác giả và là chủ thể
chính của Hy Tế bản thân, trong đó không ai thay thế được”(60). Trong nhiệm cục
cứu độ do Chúa Kitô ấn định, tác vụ của các linh mục đã lãnh nhận bí tích
Truyền Chức Thánh, cho thấy rằng Bí Tích Thánh Thể mà các ngài cử hành là một hồng ân trổi vượt hẳn thẩm quyền của cộng
đoàn và trong mọi trường hợp, tác vụ ấy vẫn bất khả thay thế để nối liền
một cách thành sự việc truyền phép Thánh Thể vớiø Hy Tế Thập Giá và Bữa Tiệc
Ly.
Để thực sự là một cộng đoàn Thánh Thể, cộng đoàn đang tụ họp để cử hành
Bí Tích Thánh Thể buộc phải có linh mục đã được truyền chức chủ tọa. Đàng khác,
cộng đoàn không thể tự cung cấp cho mình thừa tác viên có chức thánh. Vị nầy là
một hồng ân mà cộng đoàn lãnh nhận qua
trung gian của giám mục, người kế nhiệm các tông đồ. Chính giám mục, nhờ
bí tích Truyền Chức Thánh, tạo ra một linh mục mới, ban cho ngài quyền truyền
phép Thánh Thể. Vì thế, “ không ai trong cộng đoàn được cử hành mầu nhiệm Thánh
Thể ngoài linh mục đã được truyền chức, như Công Đồng Latêranô IV đã công bố rõ
ràng”(61).
30. Giáo Lý
của Hội Thánh Công Giáo về tác vụ linh mục trong tương quan với Bí Tích Thánh
Thể cũng như giáo lý về Hy Tế Thánh Thể là đề tài cho các cuộc đối thoại hữu
ích trong khuôn khổ của hoạt động đại
kết những thập niên gần đây. Chúng ta phải cảm tạ Chúa Ba Ngôi chí
thánh, vì trong lãnh vực nầy, đã có những tiến triển có ý nghĩa và những sự
xích lại gần nhau, làm cho chúng ta hy vọng một tương lai hiệp thông trọn vẹn
trong đức tin. Lời nhận định của Công Đồng về các cộng đoàn giáo hội khác nhau,
đã có từ thời thế kỷ XVI, và ly khai với Giáo Hội Công Giáo, vẫn còn hoàn toàn
giá trị: “Mặc dù nhiều cộng đoàn giáo hội ly khai với chúng ta, không duy trì
sự hiệp nhất toàn vẹn với chúng ta, và mặc dù chúng ta tin họ không còn giữ
được bản chất đích thực và nguyện vẹn của Mầu Nhiệm Thánh Thể nhất là vì thiếu
Bí Tích Truyền Chức, tuy nhiên, khi họ tưởng niệm cái chết và sự phục sinh của
Chúa trong Tiệc Thánh Thể, họ tuyên xưng điều đó có nghĩa là sự sống với Chúa
Kitô và họ mong đợi ngày trở lại vinh quang của Người(62).
Các tín hữu công giáo, tuy phải tôn trọng những xác tín tôn giáo của
các anh em ly khai, phải tránh tham dự vào việc rước lễ trong những buổi cử
hành của họ, để không dung dưỡng một sự hàm hồ nào về bản chất của Thánh
Thể và, do đó thiếu sót trong bổn phận làm chứng cho sự thật một cách trong
sáng. Điều nầy có thể sẽ làm chậm lại bước tiến tới sự hiệp nhất hữu hình trọn
vẹn. Cũng vậy, không thể dự kiến thay thế Thánh Lễ Chúa Nhật bằng những buổi
suy tôn Lời Chúa đại kết, bằng những buổi hội họp cầu nguyện chung với
những Kitô hữu của các cộng đoàn Giáo Hội đã nói ở trên, hay bằng sự tham
dự vào những buổi cử hành phụng vụ của họ. Những cử hành và gặp gỡ như
thế đáng tán dương trong một vài trường hợp nào đó, nhằm mục đích chuẩn bị cho
sự hiệp thông trọn vẹn từng mong ước, kể cả hiệp thông Thánh Thể, nhưng những
điều đó cũng không thay thế thánh lễ được.
Quyền truyền phép Thánh Thể chỉ dành riêng cho giám mục và linh mục mà
thôi, việc nầy không làm suy giảm giá trị của các phần tử khác trong dân Chúa,
vì mọi người đều được hưởng nhờ hồng ân nầy trong sự hiệp thông vào Thân Thể
duy nhất của Chúa Kitô là Giáo Hội.
31. Nếu Thánh
Thể là trung tâm và chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội, nó cũng là như
thế đối với tác vụ linh mục. Vì vậy, khi tạ ơn Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,
tôi muốn lặp lại rằng Thánh Thể là “ lẽ sống chính yếu và trung tâm của bí tích
truyền chức được khai sinh thực sự ngay từ lúc thiết lập Thánh Thể và cùng với
Thánh Thể”(63).
Những hoạt động mục vụ của linh mục rất đa dạng. Nếu nghĩ đến những
điều kiện xã hội và văn hóa của thế giới hôm nay, thì dễ hiểu rằng các linh mục
bị rình rập bởi nguy cơ phân tán
trong nhiều công việc khác nhau. Công Đồng Vaticanô II đã nhận thấy rằng
bác ái mục vụ là mối dây liên kết đời sống và hoạt động của các ngài.
Công Đồng thêm: “ Bác ái mục vụ phát xuất trước tiên từ nơi Hy Tế Thánh Thể, do
đó Hy Tế Thánh Thể là trung tâm và gốc rễ của toàn thể đời sống linh mục”(64).
Vì thế, người ta hiểu được tầm quan trọng cho đời sống thiêng liêng của linh
mục, cũng như cho lợi ích của Giáo Hội và thế giới, của việc thực
thi lời khuyên của Công Đồng là cử hành Bí Tích Thánh Thể hằng ngày, “dù việc
cử hành không thể có giáo dân hiện diện , vẫn là hành động của Chúa Kitô
và Giáo Hội”(65). Bằng cách thế nầy, linh mục mới đủ sức thắng vượt tất cả
những căng thẳng làm cho ngài bị phân tán trong cuộc sống; mới tìm thấy trong
Hy Tế Thánh Thể, trung tâm đích thực của đời sống và tác vụ, sinh lực thiêng
liêng cần thiết để đương đầu với những công việc mục vụ đa dạng. Như thế, những
ngày sống của ngài sẽ thực sự trở nên Thánh Thể.
Bí Tích Thánh Thể là trung tâm đời sống và tác vụ của linh mục, cũng là
trung tâm mục vụ về ơn gọi linh mục.
Trước tiên, vì lời nguyện cầu cho ơn gọi tìm thấy nơi Bí Tích Thánh Thể môi
trường kết hiệp rất sâu xa với lời cầu nguyện của Chúa Kitô, vị Thượng Tế vĩnh
hằng; nhưng cũng vì sự chú tâm thi hành tác vụ Thánh Thể của linh mục,
cộng với việc tham dự ý thức, sống động và hiệu năng của các tín hữu vào
Bí Tích Thánh Thể, tạo nên cho giới trẻ một mẫu gương hữu hiệu và một
khích lệ đáp trả cách quãng đại tiếng gọi của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa
thường sử dụng mẫu gương bác ái mục vụ hăng say của một linh mục để tuôn
tràn và làm tăng triển trong tâm hồn người trẻ hạt giống ơn gọi linh mục.
32. Tất cả những điều đó
cho thấy tình trạng đau đớn và bất thường của một cộng đoàn Kitô hữu, hội đủ
mọi điều kiện của một giáo xứ về con số và sự đa dạng của giáo dân nhưng lại
thiếu vắng một linh mục để hướng dẫn. Quả vậy, một giáo xứ là một cộng đoàn
những người đã được rửa tội, họ diễn tả và củng cố căn tính của mình qua việc
cử hành Bí Tích Thánh Thể. Nhưng việc ấy đòi phải có sự hiện diện của một linh
mục, vì chỉ ngài mới có quyền tế lễ trong tư cách của Chúa Kitô (in persona Christi). Khi một cộng
đoàn nào thiếu vắng linh mục, người ta tìm cách giải quyết một cách thích đáng
vấn đề đó, để có thể tiếp tục những cử hành phụng vụ Ngày Chúa Nhật, và trong
trường hợp nầy, những tu sĩ hay giáo dân hướng dẫn anh chị em mình trong việc
cầu nguyện đều thi hành một cách đáng khen chức tư tế phổ quát của tất cả các
tín hữu, có nền tảng trong ân sủng của Bí Tích Rửa Tội. Nhưng những giải pháp
ấy chỉ được xem như tạm thời trong lúc cộng đoàn đang chờ có linh mục.
Tính chất bất toàn về mặt bí tích của những cử hành phụng vụ ấy trước
hết phải khuyến khích tất cả cộng đoàn cầu nguyện khẩn thiết hơn để Chúa sai
thợ đến gặt lúa của Ngài( x. Mt 9,38); nó cũng thúc đẩy cộng đoàn vận dụng tất
cả những yếu tố cần thiết khác để cổ võ việc mục vụ ơn gọi một cách thích
hợp, nhưng không chiều theo cám dỗ tìm những giải pháp hạ thấp đòi hỏi những
đức tính luân lý và một sự đào tạo cần thiết cho các ứng sinh linh mục.
33. Khi thiếu linh mục, việc tham gia vào công việc mục vụ của một giáo xứ đã được trao phó cho những giáo dân không có chức thánh, những người nầy cần phải ý thức như Công Đồng Vaticanô II dạy “ không một cộng đoàn Kitô hữu nào được thiết lập mà không lấy việc cử hành Bí Tích Thánh Thể chí thánh làm gốc rể và trung tâm của mình” (66). Vì thế, họ phải lo sao cho cộng đoàn luôn “khao khát” thực sự Bí Tích Thánh Thể. Sự khao khát nầy giúp họ không bỏ qua một dịp nào để được tham dự Thánh Lễ, lợi dụng cả sự có mặt tình cờ của một linh mục, miễn là vị nầy không bị ngăn trở theo giáo luật.