Tham Chiếu

(1) Cđ Vat. II, Hiến chế tín lý Lumen gentium số 11.

(2) Cđ Vat. II, Sắc lệnh chức vụ và đời sống linh mục Presbyterorum ordinis  số 5.

(3) x. Gioan-Phaolô II, tông thư Rosarium Virginis Mariae (16/10/2002) số 21. AAS 95 (2002) trang 19; La Domumentation catholique  99 (2002) trang 959-960.

(4) Đó là tựa mà tôi đã muốn đề cho một chứng từ tự thuật vào dịp lễ Kim Khánh linh mục của tôi.

(5) Lêo XIII, PM Acta XXII ( 1903) trang 115-116.

(6) AAS 39 ( 1947) trang 521-595; La Documentation catholique 45 ( 1948) cột 195-251.

(7) AAS 57 (1965) trang 753-774; La Documentation catholique 62 (1965) cột 1633-1651.

(8) AAS 72 (1980) trang 113-114. La Documentation catholique 77 (1980) trang 301-312.

(9) x. Cđ. Vat. II, Hiến chế Phụng vụ thánh số 47 : Salvator noster… Đấng Cứu Chuộc chúng ta  đã thiết lập Hy Tế Thánh Thể bằng Mình Máu Ngài, để nhờ đó, Hy Tế Thập Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Ngài lại đến…”.

(10) Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo  số 1085.

(11) Cđ. Vat. II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium số 3,

12) x. Phaolô VI , Tuyên xưng đức tin (30/06/1968) số 24: AAS 60 (1968) trang 442; La Documentation catholique 65 (1968) cột 1256-1257;  Gioan-Phaolô II, Tông thư Dominicae cenae ( 24/02/1980) số 9, AAS 72 (1980) trang 142-146; La Documentation catholique 77 (1980) trang 305-306.

(13) Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo  số 1382.

(14) Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo  số 1367.

(15) Bài giảng lễ về thư Do Thái 17, 3: PG 63, 131.

(16) x. Cđ. Triđentinô, Khóa XXII, Giáo thuyết về Hy Tế Thánh của Thánh Lễ, chương 2, La Documentation catholique 1743, la Foi catholique, số 768: “ Đó cũng là một hiến vật, đó chính là Đấng dâng hiến ngay bây giờ nhờ tác vụ của các linh mục, Đấng tự hiến lúc ấy ngay trên Thập Giá, chỉ có thể cách dâng là khác mà thôi.”

(17) Piô XII, Thông điệp Mediator Dei ( 20/11/1947) AAS 39 ( 1947) trang 548, La Documentation catholique 45 (1948) cột 216.

(18) Gioan-Phaolô II, Thông điệp Redemptoris hominis (15/03/1979) số 20; AAS 71 (1979) trang 310, La Documentation Catholique 76 (1979) trang 317.

(19)  Hiến chế tín lý Lumen Gentium số 11.

(20) De sacramentis, V, 4,26; CSEL 73, 70; SCh 25 bis trang 135.

(21) In Joannis Evangelium, XII, 20; PG 74, 726.

(22) Thông điệp Mysterium fidei (3/09/1965): AAS 75 (1965) trang 764, La Documentation catholique 62 (1965) cột 1643.

(23) Khóa XIII, sắc lệnh về Phép Thánh Thể rất thánh, chương 4 : DS 1462; la foi catholique số739.

(24) Catéchèses mystagogiques, IV, 6: SCh 126, trang 138.

(25) Cđ. Vat. II, hiến chế Dei Verbum số 8.

(26) Tuyên xưng đức tin (30/06/1968), số 25 : aas 60 (1968) trang 442-443; La Documentation catholique  65 (1968) cột 1256.

(27) Bài giảng lễ IV tuần thánh; CSCO 413/Syr. 182, 55.

(28) Kinh nguyện.

(29) Kinh nguyện Thánh Thể III.

(30) Lễ trọïng Mình Máu Thánh Chúa Kitô- Kinh Chiều II, Thánh ca Magnificat.

(31) Sách Lễ Rôma, kinh nguyện phụ thêm sau Kinh Lạy Cha.

(32) Thư cho giáo đoàn Êphêsô, 20 : PG 5, 661; SCh 10 bis trang 77.

(33) Cđ. Vat. II, Hiến chế Gaudium et Spes số 39.

(34) Bạn muốn tôn kính Thân Thể Đức Kitô ? Đừng khinh dễ nó khi nó trần truồng. Đừng tôn kính nó ở đây, trong nhà thờ, bằng vải lụa đang khi bạn để nó ngoài trời đau đớn vì lạnh và vì thiếu quần áo. Vì Đấng đã nói: Nầy là Mình Thầy, và đã thực hiện điều đó khi nói như thế, chính Ngài đã nói : Bạn đã thất Ta đói và không cho Ta ăn, và cũng thế: Mỗi lần bạn không làm cho một trong những kẻ bé mọn nầy, là không làm cho chính Ta (…) Ích lợi gì khi bàn tiệc của Chúa Kitô đây những bình bằng vàng, trong khi chính Ngài lại chết đói. Hãy bắt đầu làm cho kẻ đói được no đã, và cái gì còn lại hãy đem trang hoàng bàn thờ của ngươi”. Thánh Gioan Kim Khẩu, Bài giảng lễ về Tin Mừng Thánh Matthêu 50, 3-4: PG 58, 508-509; xem Gioan-Phaolô II : Sollicitudo rei socialis (30/12/1987) số 31; AAS 80 (1988) trang 553-556; La Documentation catholique 85 (1988) trang 246.

(35) Hiến chế tín lý Lumen gentium, số 3.

(36) nt.

(37) Cđ. Vat II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội Ad gentes, số 5.

(38) “ Môsê lấy máu, rảy trên dân, và nói:” Đây là máu Giao Ước Dức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời nầy” ( Xh 24,8).

(39) x. Cđ. Vat II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, số 1.

(40)  nt , số 9.

(41) x. Cđ. Vat II, Sắc lệnh chức vụ và đời sống linh mục , Presbyterorum ordinis, số 5. Sắc lệnh đó cũng nói ở số 6:”Không một cộng đoàn Kitô nào thiết lập mà không đặt nền tảng và trọng tâm vài việc cử hành Bí Tích Thánh Thể rất thánh”.

(42) Bài giảng lễ về thư thứ nhất cho giáo đoàn Côrintô, 24,2:PG 61,200; cf Didachè,IX,4; Funk,1,22; SCh 248,tráng77; Thánh Xiprianô, thư LXIII,13: PL4,384; Correspondance II, Les Belles Lettres, Paris (1925), tráng-202.

(43) PO 6,206.

(44) Cđ. Vat II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, số 1.

(45) x.Cđ. Tridentinô, khóa XIII, Sắc lệnh về phép Thánh Thể rất thánh, khoản 4: DS 1654; la foi catholique, số 748.

(46) x. Rituale Romanum: De sacra communione et de cultu mysterii eucharistici extra missam, trang 36 ( số 80); Sách nghi thức của Thánh Thể ngoài Thánh Lễ,, tái bản, AELF1996, trang67 (số80).

(47) x.nt, trang 38-39 ( số 86-90); ; trang 69-70 ( số86-90).

(48) Gioan-Phaolô II, Tông thư Novo millennio ineunte, số 32:AAS 93(2001), trang 88;  La Documentation catholique 98 (2001), trang 79.

(49) Chớ gì trong ngày, các tín hữu đừng quên viếng Thánh Thể, phải được giữ vào nơi thật xứng đáng của các nhà thờ, với  sự trang trọng có thể, như luật phụng vụ đã dạy. Vì thăm viếng như thế là một dấu hiệu biết ơn, một cử chỉ yêu thương và một bổn phận biết ơn đối vơiù Chúa Kitô, Chúa chúng ta hiện diện nơi đó”: Phaolô VI, Thông điệp Mysterium fidei ( 3-9-1965): AAS57(1965), trang771; La Documentation catholique 62 ( 1965), cột 1647-1648.

(50) Visite al S.S. Sacramento ed a Maria Santissima, Introductio: Opere ascetiche, Avellino ( 2000), trang 295.

(50*) Phaolô VI, Thông điệp Mysterium fidei (3/9/1965): AAS 57 (1965) trang 771.

(51) Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo  số .857.

(52) nt.

(53) nt.

(54) x. Thánh Bộ về Giáo lý đức tin, Thư  Sacerdotium ministeriale (6-8-1983), III,2:AAS 75 (1983), trang 05; La Documentation catholique 80 (1983), trang 886.

(55) Cđ. Vat II,  Hiến chế tín lý Lumen gentium số 10.

(56)  nt.

(57) Cf.Institutio generalis:Editio typica tertia, số 147.

(58) Cf. Cđ. Vat II,  Hiến chế tín lý Lumen gentium các số 10.28; Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, số 2.

(59) “ Chủ tế trên bàn thờ đại diện cho Chúa Kitô vớ tư cách là đầu hiến dâng nhân danh tất cả chi thể”: Piô XII, Thông điệp Mediator Dei (20-11-1947): AAS 39 (1947), trang 556;  La Documentation catholique 45 (1948), cột 221; x. Piô X, Huấn thị tông tòa Hoerent animo (4-8-1908): piiX Acta, IV,16;Piô XI, Thông điệp Ad catholici sacerdotii ( 20-12-1935): AAS 28 ( 1936, trang 20;  La Documentation catholique 35 (1936/1), cột 141.

(60) Tông thư Dominicae Cenoe (24-2-1980), số 8: AAS 72 (1980), trang 128-129; La Documentation catholique 77 (1980), trang 304.

(61)Thánh Bộ Giáo lý đức tin, Thư  Sacerdotium ministeriale (6-8-1983),III,4: AAS 75(1983), trang 06; La Documentation catholique 80 (1983), trang 887; x.Công Đồng Latêranô IV, ch. 1, Hiến chế về đức tin công giáo Firmiter credimus: DS 802; La foi catholique, số 31.

(62) Cđ. Vat II,  Sắc lệnh về hiệp nhất, Unitatis redintegratio, số 2.

(63) Tông thư Dominicae Cenae (24-2-1980), số 2:AAS 72 (1982),trang 115;  La Documentation catholique 77 ( 1980) , trang 301.

(64) Cđ. Vat II, Sắc lệnh Sắc lệnh chức vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis số 14.

(65) nt. số 13; x. Giáo luật, khoản 904; giáo luật của các Giáo Hội Đông Phương, khoản 378.

(66) Sắc lệnh Sắc lệnh chức vụ và đời sống linh mục, Presbyterorum ordinis, số 6.

(67) Cf. Báo cáo cuối cùng, II,C,1:L’Osservatorum Romano. 10-12 1985, trang 7; La Documentation Catholique 83, (1986), trang 39.

(68) Cđ. Vat II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, số 26.

(69) Nicôlaô Cabasilas, Cuộc sống trong Chúa Kitô, IV, số 10: SCh,335, trang 271.

(70) Thánh Têrêxa Giêsu, Con đường trọn lành, chương 37: Oeuvres complètes, Paris (1948), trang 766.

(71) Cf. Thánh Bộ Giáo lý đức tin, Communionis notio (28-5-1992), số 4:AAS 85 (1993), trang 839-840; La Documentation catholique 89 ( 1992), trang 730.

(72) Cf. Cđ. Vat II, Hiến chế tín lý Lumen gentium số 14.

(73) Bài giảng về Isaia, 6,3: PG 56,139.

(74) Số 1385; x Giáo luật, khoản 916; giáo luật các Giáo Hội Đông Phương khoản 711.

( 75) Diễn từ cho những thành phần của Nhà giam tông tòa và cho những Cha giải tội các Đại Thánh Đường thành Rôma (30-1-1982).

( 76) Khoản 915; x. Giáo luật các Giáo Hội Đông phương, khoản 712.

(77)  Cđ. Vat II, Hiến chế tín lý Lumen gentium số 14.

(78) Thánh Tôma Aquinôâ, Tổng luận thần học, III,q.73,a.3.

(79) Thánh Bộ Giáo lý đức tin, Thư Communionis notio (28-5-1992, số 11 La Documentation catholique 89 (1992), trang 731.

(80) Cf Cđ. Vat II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, số 23.

(81) Thư gửi giáo đoàn Smyrne,VIII, PG 5, 713; SCh số 10, trang 139.

(82) Cđ.  Vat II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, số 23.

(83) Thánh Bộ Giáo lý đức tin, thư Communionis notio ( 28-5-1992), số 14: AAS 85 (1993).

(84) nt. 1248.

(85) Bài giảng 272: PL 38,1247.

(86) x. nn. 31-51:AAS 90 (1998), trang 73746; La Documentation catholique 95 (1998) trang 666-672.

(87) x. nt.,nn.48-49: AAS 90 (1998), trang 744;  La Documentation catholique 95(1998) trang 671.

(88) N. 36:AAS 93 (2001), trang 291-292;  La Documentation catholique 98 (2001), trang 81.

(89) x. Sắc lệnh về hiệp nhất, Unitatis redintegratio, số 1.

(90) x. Hiến chế tín lý Lumen gentium, số 11.

(91) “ Chúng ta là những người tham dự vào một tấm bánh duy nhất và một chén duy nhất, xin cho chúng con được hiệp nhất với nhau trong sự hiệp thông cùng một Thánh Thần”:Kinh nguyện của Phụng vụ thánh Basiliô.

(92) x.GL khoản 908; GL các Giáo Hội Đông Phương, khoản 702; Hội đồng giáo hoàng về việc ……. cho hiệp nhất các kitô hữu, Chỉ nam đại kết (25-3-1993), các sô122-125,129-131; Thánh Bộ Giáo lý đức tin, Thư Ad exsequendam,(18-5-2001).

(93)“ Luật Chúa cấm tham dự vào sự thánh phương hại đến việc hiệp nhất Giáo Hội, hoặc đưa đến sai lầm thực sự hay nguy cơ lạc hướng về đức tin, sinh ra gương mù gương xấu và tạo nên thái độ lãnh đạm” Orientalium Ecclesiarum, số 26.

(94) N.45:AAS 87(1995) trang 948;  La Documentation catholique 92(1995), trang 579.

(95) x. Sắc lệnh về các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, Orientalium Ecclesiarum, số 27.

(96) x. GL, khoản 844, tiết 3-4; GL các Giáo Hội Đông Phương, khoản 671, tiết  3-4.

(97) N. 46: AAS 87(1995), trang 948;  La Documentation catholique 92 (1995), trang 580.

(98) x. Sắc lệnh về hiệp nhất Unitatis redintegratio, số 22.

(99) x. GL khoản 844; GL các Giáo Hội Đông Phương, số 671.

(100) x. AAS 91(1999), trang155-1172:  La Documentation catholique 96 (1999), trang 451-458.

(101) N.22: AAS 92(2000), trang 485;  La Documentation catholique 96(1999), trang 991

(102) x. số 21: AAS 95 (2003), trang 20; La Documentation catholique 99 (2002), trang 959-960.

(103) N. 29: AAS 93 (2001) trang 285;  La Documentation catholique 98 (2001), trang 78.

(104) Thánh Tôma Aquinô, Tổng luận thần học III,q.83,a.4c


Mục Lục Nội Dung Thông Điệp Ecclesia De Eucharistia