THÔNG
ĐIỆP
LUMEN
FIDEI – ÁNH SÁNG ĐỨC TIN
CỦA
ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ
GỬI
CÁC GIÁM MỤC,
LINH
MỤC VÀ PHÓ TẾ,
CÁC
TU SĨ
VÀ
TOÀN THỂ ANH CHỊ EM GIÁO DÂN
VỀ
ĐỨC TIN
29.6.2013
(Bản dịch của UBGLĐT/HĐGMVN)
Thông
điệp được công bố bằng 6 thứ tiếng : Ý, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Bồ đào
nha và được giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp báo tại phòng báo chí
Tòa Thánh, do ĐHY Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ GM, Đức TGM Gerhard Mueller,
Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin và Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng
Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng.
Văn
kiện này được gửi đến các GM, LM, Phó Tế, các tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo
dân. Như chính ĐTC Phanxicô giải thích : văn kiện này hầu như đã được ĐGH Biển
Đức 16 hoàn thành và ngài chỉ đóng góp thêm mà thôi. Mục đích của Thông Điệp là
phục hồi đặc tính ánh sáng của chính đức tin, có thể soi sáng cho toàn thể cuộc
sống con người.
Ngoài
phần nhập đề (1-7) và kết luận (58-60), Thông Điệp “Ánh Sáng Đức Tin” gồm 4
chương :
I.
Chúng tôi đã tin nơi tình yêu (1 Ga
4,6) [8-22]
II. Nếu các ngươi không
tin, thì sẽ không hiểu (Is 7,9) [23-36]
III. Tôi truyền lại cho
anh chị em điều tôi đã nhận lãnh (1 Cr
15,3) [37-49)
IV. Thiên Chúa chuẩn bị
cho họ một thành thị (Dt 11,16) [50-60]
Nội
dung tổng quát của Thông Điệp
-
Ai tin thì thấy. Ai tin thì không bao giờ lẻ loi vì đức tin là một thiện ích
cho tất cả mọi người, một công ích giúp phân biệt thiện và ác, xây dựng xã hội
chúng ta, mang lại hy vọng. Nội dung nòng cốt của Thông điệp “Ánh sáng đức tin”
là ý tưởng này : đức tin không tách rời con người ra khỏi thực tại, nhưng giúp
con người đón nhận ý nghĩa sâu xa nhất của thực tại. ĐGH nhận xét rằng : Trong
một thời tại như thời nay, trong đó người ta coi việc tin tưởng là điều trái
ngược với sự tìm kiếm và nghiên cứu, đức tin bị người ta coi là một ảo tưởng,
một thái độ nhảy vào khoảng không, ngăn cản tự do của con người, điều quan
trọng là tin tưởng và tín thác vào tình yêu thương từ bi của Thiên Chúa với
lòng khiêm tốn và can đảm, vì Thiên Chúa chữa lành mọi quanh co sai trái trong
lịch sử chúng ta.
-
Chứng nhân đáng tin cậy về đức tin chính là Chúa Giêsu, qua Ngài Thiên Chúa
thực sự hoạt động trong lịch sử. Ai tin tưởng nơi Chúa Giêsu thì không những
nhìn lên Ngài, nhưng còn nhìn với quan điểm của Ngài nữa. Và cũng như trong đời
sống thường nhật, chúng ta tín nhiệm kiến trúc sư, dược sĩ, trạng sư, vì họ là
những người biết rõ hơn chúng ta, cũng vậy đức tin làm cho chúng ta tín thác
nơi Chúa Giêsu, là chuyên gia trong những điều thuộc về Thiên Chúa, Đấng giải
thích cho chúng ta về Thiên Chúa.
ĐGH
cũng nhấn mạnh rằng đức tin không phải là một sự kiện riêng tư, vì chúng ta
tuyên xưng đức tin giữa lòng Giáo Hội, như một cộng đồng hiệp thông cụ thể của
các tín hữu. Và theo thể thức đó, cuộc sống của tín hữu cũng trở thành cuộc
sống của Giáo Hội.
Tiếp
đến, ĐGH chứng tỏ mối liên hệ chặt chẽ giữa đức tin, sự thật và tình thương, là
những điều đáng tin cậy của Thiên Chúa. Đức tin mà không có sự thật thì không
cứu thoát. Nó chỉ là một chuyện ngụ ngôn hay đẹp, nhất là ngày nay người ta
đang trải qua một cuộc khủng hoảng sự thật vì một nền văn hóa chỉ tin tưởng nơi
kỹ thuật hoặc những chân lý của mỗi người, có lợi cho cá nhân chứ không có lợi
cho công ích. Sự quên sót lớn lao của thế giới hiện tại là từ chối chân lý cao
cả, là quên đi câu hỏi về Thiên Chúa, vì người ta lo sợ thái độ cuồng tín và ưa
thích thái độ duy tương đối hơn.
Trái
lại, đức tin không phải là điều cố chấp, tín hữu không phải là người kiêu căng,
vì chân lý xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa không phải là điều bị áp đặt
bằng bạo lực và không đè bẹp mỗi người. Vì thế, có thể có cuộc đối thoại giữa
đức tin và lý trí : trước tiên vì đức tin thức tỉnh cảm thức phê bình và mở
rộng chân trời của lý trí ; tiếp đến vì Thiên Chúa là ánh sáng rạng ngời và cả
những người không tin cũng có thể tìm thấy Chúa khi họ tìm kiếm Ngài với con
tim chân thành. Ai lên đường để thực thi điều thiện thì họ là người đã đến gần
Thiên Chúa rồi.
Một
điểm thiết yếu khác của Thông điệp 'Ánh sáng đức tin' là việc rao giảng Tin
Mừng. ĐGH viết : Ai cởi mở đối với tình thương của Thiên Chúa thì không thể giữ
riêng hồng ân này cho mình. Như ngọn lửa được một ngọn lửa khác khơi lên, ánh
sáng của Chúa Giêsu chiếu sáng trên khuôn mặt các tín hữu Kitô và thông truyền
từ đời này sang đời khác, qua những chứng nhân đức tin. Vì thế, có một liên hệ
chặt chẽ giữa đức tin và ký ức, vì tình thương của Thiên Chúa liên kết mọi thời
đại và làm cho chúng ta trở thành những người đồng thời với Chúa Giêsu.
Nhưng
có một phương thế đặc biệt nhờ đó đức tin có thể được thông truyền, đó là các
bí tích. Trước tiên là bí tích rửa tội nhắc nhở chúng ta rằng đức tin phải được
lãnh nhận, trong niềm hiệp thông với Giáo Hội, vì không ai tự rửa tội cho mình
; và phép rửa tội làm nổi bật sự hợp lực giữa Giáo Hội và gia đình trong việc
thông truyền đức tin. Tiếp đến, là bí tích Thánh Thể, lương thực quí giá nuôi
dưỡng đức tin, dạy cho chúng ta nhìn thấy chiều sâu của thực tại. Và việc tuyên
xưng đức tin qua kinh Tin Kính và Kinh Lạy Cha làm cho tín hữu can dự vào những
chân lý mà họ tuyên xưng và cho họ thấy bằng đôi mắt của Chúa Kitô. Sau cùng là
10 giới răn : đây không phải là những giới luật tiêu cực, chỉ có tính chất cấm
đoán, nhưng là những chỉ dẫn cụ thể để đi vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa.
ĐGH nhấn mạnh rằng đức tin là duy nhất và sự hiệp nhất đức tin chính là sự hiệp
nhất của Giáo Hội.
Trong
chương cuối cùng của Thông điệp “Ánh sáng đức tin” ĐGH giải thích liên hệ giữa
việc tin và xây dựng công ích : đức tin nảy sinh từ tình yêu Thiên Chúa, làm
cho những liên hệ giữa con người được vững chắc và đặt mình phục vụ công lý,
công pháp, hòa bình. Đức tin không làm cho người ta xa lìa thế giới, trái lại :
nếu loại bỏ đức tin ra khỏi xã hội chúng ta, thì chúng ta không còn tín nhiệm
nhau và chúng ta chỉ liên kết với nhau vì sợ hãi hoặc vì quyền lợi mà thôi.
Trái lại có bao nhiêu lãnh vực được đức tin soi sáng như gia đình dựa trên hôn
nhân, được hiểu như một sự kết hợp bền vững giữa một người nam và một người nữ
; tiếp đến là thế giới của những người trẻ mong ước một cuộc sống cao cả, và
cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô mang lại cho họ niềm hy vọng vững chắc, không đánh
lừa. 'Đức tin không phải là một nơi nương náu cho những người thiếu can đảm” và
trong lãnh vực này những Ngày Quốc Tế giới trẻ giúp các bạn trẻ chứng tỏ niềm
vui đức tin và dấn thân sống đức tin một cách kiên cường và quảng đại.
Đức
tin cũng soi sáng cho cả thiên nhiên, giúp chúng ta tôn trọng thiên nhiên, “tìm
thấy những kiểu mẫu phát triển không phải chỉ dựa trên sự hữu ích hoặc lợi lộc,
nhưng coi thiên nhiên như một hồng ân”, đức tin dạy chúng ta tìm ra những hình
thức cai trị đúng đắn, trong đó quyền bính đến từ thiên Chúa và để phục vụ công
ích ; đức tin giúp chúng ta khả năng tha thứ, giúp khắc phục những cuộc xung
đột. ĐTC viết : “Khi đức tin bị suy yếu và thiếu sót, thì người ta gặp nguy cơ
là cả những nền tảng của cuộc sống sẽ bị thiếu sót. Vì thế, chúng ta đừng xấu
hổ khi công khai tuyên xưng Thiên Chúa, xét vì đức tin soi sáng cho toàn thể
cuộc sống xã hội.
ĐGH
cũng khẳng định rằng cả đau khổ và sự chết cũng nhận được một ý nghĩa nhờ sự
tín thác nơi Thiên Chúa : với những ngừơi đau khổ, Chúa ban cho họ một lý do
giải thích tất cả, nhưng ngài cũng trao tặng sự hiện diện của Ngài tháp tùng
họ. Theo nghĩa đó, đức tin đi chung với niềm hy vọng. Và tại đây, ĐGH đưa ra
một lời kêu gọi : “Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm hy vọng, chúng ta
đừng để cho niềm hy vọng bị tan biến với những giải pháp và đề nghị tức khắc,
ngăn cản hành trình của chúng ta”.
Và
thông điệp kết thúc với một lời kinh dâng lên Đức Mẹ Maria là hình ảnh tuyệt
vời của đức tin, xin Mẹ dạy chúng ta biết nhìn với đôi mắt của Chúa Giêsu.
G.
Trần Đức Anh OP – Nguồn Radiovaticana (05/07/2013 16 :51 :06)
ĐỌC THÔNG ĐIỆP ÁNH SÁNG ĐỨC
TIN (LUMEN FIDEI)
Ngay
từ khi bắt đầu Năm Đức Tin, nhiều người đã dự đoán và mong chờ một thông điệp
về Đức tin. Dự đoán ấy dường như không thành hiện thực khi Đức nguyên giáo
hoàng Bênêđictô XVI đưa ra quyết định từ nhiệm. Thế nhưng cuối cùng Đức giáo
hoàng Phanxicô cũng chính thức ban hành thông điệp Lumen fidei vào
ngày 29-6-2013, và ngài nói rõ : Đức Bênêđictô XVI “hầu như đã hoàn tất bản
thảo đầu tiên” và “tôi thêm vào một ít đóng góp của mình” (số 7). Như thế,
thông điệp này ghi dấu ấn của hai vị giáo hoàng, lại được công bố vào ngày kính
trọng thể hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Chọn lựa ấy làm nổi bật sự liên
tục và duy nhất trong giáo huấn của Hội Thánh, từ thời các Tông đồ đến ngày
nay. Bài viết này không chỉ tóm lược nội dung nhưng mong muốn tìm hiểu diễn
tiến tư tưởng của thông điệp.
Tựa
đề của thông điệp – Ánh sáng đức tin – đã muốn giới thiệu đức tin như ánh sáng, “ánh
sáng soi chiếu toàn bộ hành trình của các tín hữu” (số 1). Thế nhưng ánh sáng
ấy đang bị đặt thành nghi vấn, bị cho là vô dụng trong thời đại mới, khi nhân loại
đạt đến tuổi trưởng thành của lý trí. Tắt một lời, phải chăng đức tin chỉ là
“ánh sáng ảo”, và ảo tưởng ấy “ngăn cản con đường hướng đến tương lai của một
nhân loại được giải phóng” (số 2) ?
Đối
diện thách đố ấy, nhiều người tìm cách cứu vãn đức tin bằng cách trình bày đức
tin như thứ ánh sáng chủ quan, dựa trên cảm xúc cá nhân hơn là lý trí. Tuy
nhiên, theo cách trình bày đó, đức tin không còn là chân lý khách quan, có thể
chia sẻ cho người khác và soi sáng cho đời sống. Hậu quả là một đàng, lý trí ở tự
nó không thể soi tỏ tương lai, đàng khác, nó lại phủ nhận đức tin ; do đó người
ta không còn quan tâm tìm kiếm nguồn sáng vĩ đại nữa (số 3).
Chính
vì thế, cần phải tái khám phá đức tin như ánh sáng đến từ Thiên Chúa, “soi
chiếu mọi mặt của hiện hữu nhân sinh”. Đức tin ấy phát sinh từ sự gặp gỡ Thiên
Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi và bày tỏ tình yêu của Ngài với toàn thể tạo
thành. Đức tin ban tặng các tín hữu cặp mắt mới để nhìn mọi sự và hướng dẫn
hành trình đời sống của họ trong ánh sáng mới. Ánh sáng ấy một đàng đến từ quá
khứ vì chúng ta đón nhận từ Chúa Giêsu ; đàng khác, ánh sáng ấy lại đến từ
tương lai vì Đức Kitô là Đấng Phục sinh và Người dẫn chúng ta vượt qua cả sự
chết (số 4). Hiểu như thế, đức tin được ví như một người mẹ đã dẫn chúng ta đến
với ánh sáng và sinh hạ chúng ta trong đời sống mới (số 5). Hành trình tái khám
phá ánh sáng đức tin được thông điệp khai triển qua 4 chương :
–
Chương một : Chúng tôi đã tin vào tình yêu (số 8-22) ;
– Chương hai : Nếu các
ngươi không tin, các ngươi sẽ không hiểu (số 23-36) ;
– Chương ba : Tôi truyền
lại cho anh em điều tôi đã lãnh nhận (số 37-49) ;
– Chương bốn : Thiên Chúa
chuẩn bị cho họ một thành đô (số 50-60).
Chương
một : Chúng tôi đã tin vào tình yêu (x. 1Ga 4,16)
Hành
trình tái khám phá ánh sáng đức tin được thực hiện trước hết bằng cách nhìn lại
nẻo đường mà các chứng nhân đức tin trong Cựu Ước đã đi qua. Ở đó nổi bật khuôn
mặt của Abraham, tổ phụ của chúng ta trong đức tin (số 11).
Với Abraham, tin gắn liền với lắng nghe và bước vào mối quan hệ cá vị với Thiên
Chúa. Lời mà Abraham nghe được vừa là tiếng gọi vừa là lời hứa. Đó là tiếng gọi
lên đường, hướng đến một tương lai không thấy trước. Đó còn là lời hứa làm cho
ông thành cha của một dân đông đảo. Abraham được yêu cầu phải tuyệt đối tín
thác vào lời ấy, và tin chính là đón nhận lời ấy như tảng đá vững chắc. Trong
Kinh Thánh, từ “đức tin” vừa có nghĩa là sự trung tín của Thiên Chúa vừa có
nghĩa là niềm tin của con người. Đấng Thiên Chúa đòi hỏi nơi Abraham sự tín
thác tuyệt đối chính là cội nguồn sự sống, cội nguồn mọi hiện hữu.
Tiếp
nối đức tin của Abraham, lịch sử dân Isarel là một hành trình
dài được dệt bằng niềm tín thác vào Đấng giải thoát họ khỏi cảnh khốn cùng và
dẫn đưa họ đến miền Đất hứa (số 12). Những kỳ công của Chúa được nhắc nhớ, cử
hành trong phụng tự và truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tuy nhiên
lịch sử
Tất
cả Cựu Ước dẫn chúng ta đến với Đức Kitô là tâm điểm của đức tin Kitô
giáo (số 15). Nơi Đức Kitô, mọi lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện,
sự khả tín của Thiên Chúa được đóng dấu, và tình yêu của Ngài được bày tỏ trọn
vẹn. Chính vì thế, đức tin Kitô giáo là tin vào một tình yêu tuyệt hảo, tình
yêu làm nền tảng cho mọi thực tại và dẫn đưa nó đến vận mệnh tối hậu. Bằng
chứng rõ ràng nhất về tình yêu tuyệt hảo ấy là Đức Kitô đã chết vì chúng ta.
Người đã hiến dâng sự sống cho mọi người, kể cả kẻ thù, để biến đổi con tim của
họ. Sự hiến dâng và trao ban trọn vẹn của Đức Kitô vượt lên mọi nghi nan và làm
cho chúng ta có thể phó thác hoàn toàn cho Chúa (số 16). Hơn thế nữa, sự phục
sinh của Đức Kitô là bằng chứng thuyết phục về quyền năng của tình yêu Thiên
Chúa (số 17). Chính vì thế, thánh Phaolô nói, “Nếu Đức Kitô không sống lại, đức
tin của anh em thật hão huyền” (1Cr
15,17). Cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô không phải là chuyện tưởng tượng
nhưng đã diễn ra trong lịch sử này, vì thế người Kitô hữu không tin vào một
tình yêu mơ hồ, trừu tượng, nhưng là tình yêu đang có mặt trong lịch sử và uốn
nắn lịch sử này, một tình yêu được bày tỏ trọn vẹn nơi cái chết và sự phục sinh
của Đức Kitô.
Với
các Kitô hữu, Đức Kitô không chỉ là Đấng chúng ta tin, nhưng còn là Đấng mà
chúng ta kết hợp với Người để tin. Đức tin cũng không chỉ là nhìn vào Chúa
Giêsu mà còn là nhìn mọi sự như Người nhìn. Cho nên tin vào Chúa Giêsu là đón
nhận Người vào trong cuộc đời mình, gắn bó với Người trong tình yêu và bước
theo Người (số 18). Nói theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, các tín hữu trở thành
những tạo thành mới, “những người con trong Chúa Con” và được gọi Thiên Chúa là
Cha. Ơn cứu độ nhờ đức tin là ở đây. Niềm tin vào Đức Kitô
mang lại ơn cứu độ vì trong Người, cuộc đời chúng ta thật sự mở ra đón nhận một
tình yêu vốn có trước chúng ta, một tình yêu biến đổi chúng ta từ bên trong,
hoạt động trong và qua chúng ta (số 19, 20).
Được
tình yêu biến đổi, đời sống Kitô hữu mở rộng ra thành đời sống trong Giáo Hội.
Đức Kitô quy tụ tất cả những ai tin vào Người thành một thân thể, trong đó họ
kết hợp với Người và với nhau. Cho nên đức tin Kitô giáo luôn mang chiều kích
Giáo Hội chứ không chỉ đơn thuần là chuyện riêng tư của mỗi cá nhân.
Chương
hai : Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không
hiểu (x. Is 7,9)
Tin
và hiểu, đức tin và chân lý, đây là nội dung được nhấn mạnh và
triển khai trong chương hai, cũng là vấn đề cần được quan tâm trong thế giới
ngày nay do cuộc khủng hoảng về chân lý. Ngày nay dường như người ta chỉ nhìn
nhận chân lý duy nhất là chân lý kỹ thuật : chân lý là cái gì đem lại sự thoải
mái tiện nghi cho đời sống. Người ta quan tâm đến những chân lý chủ quan của
mỗi cá nhân, còn chính Chân Lý (viết hoa) thì bị lãng quên. Hậu quả là rơi vào
chủ nghĩa tương đối, trong đó câu hỏi về chân lý phổ quát, chân lý về Thiên
Chúa, bị loại trừ (số 25). Vậy đức tin Kitô giáo có thể cung cấp nẻo đường đúng
đắn dẫn đến chân lý không ?
Khởi
đi từ việc phân tích từ ngữ trong Isaia 7,9 ở hai bản văn Hípri và Hi Lạp,
thông điệp khẳng định : không có nhận thức và chân lý, chúng ta không thể đứng
vững và đi tới. Đức tin không có chân lý thì không thể cứu độ, không thể cung
cấp nền tảng vững chắc (số 24). Nhưng trong hành vi đức tin có một loại nhận
thức là nhận thức của con tim. Trái tim là tâm điểm của con người,
nơi chúng ta mở ra đón nhận chân lý và tình yêu, và để cho mình được biến đổi
cách sâu xa. Sự hiểu biết của đức tin phát sinh khi chúng ta đón nhận tình yêu
vô biên của Thiên Chúa, tình yêu biến đổi chúng ta từ bên trong và làm cho ta
nhìn thực tại bằng cặp mắt mới (số 26). Nói đến tình yêu, cần khẳng định rằng
tình yêu không chỉ là cảm xúc chóng qua nhưng tình yêu gắn với chân lý. Nếu
không gắn với chân lý, tình yêu chỉ còn là cảm xúc và không đứng vững nổi trước
thử thách của thời gian. Không có chân lý, tình yêu không thể thiết lập mối
quan hệ vững bền, không thể giải thoát chúng ta khỏi cái tôi ích kỷ, không thể
ban tặng sự sống và hoa trái. Ngược lại, chân lý cần đến tình yêu. Không có
tình yêu, chân lý trở thành khô khan, vô ngã và nặng nề (số 27). Đức tin Kitô
giáo bao hàm cả tình yêu và chân lý. Tin là tin vào Đấng Thiên Chúa trung tín
(trong Kinh Thánh, chân lý và trung tín đi đôi với nhau) với giao ước tình yêu
Ngài đã ký kết (số 28).
Ngôn
ngữ Kinh Thánh, cách riêng Tin Mừng Gioan, diễn tả đức tin bằng hai động từ : nghe
và thấy. Tin là nghe tiếng gọi của một Đấng và bước vào mối quan hệ với
Ngài, đồng thời đức tin mở mắt chúng ta để “thấy” mọi sự trong ánh sáng mới. Sự
kết hợp giữa nghe và thấy được thể hiện trọn vẹn nơi Chúa Giêsu, Đấng chúng ta
nghe và thấy được, Đấng là “Ngôi Lời đã làm người… và chúng tôi đã thấy vinh
quang của Người” (Ga 1,14). Nơi
Người, chân lý không còn là chân lý trừu tượng nhưng hóa thành nhục thể mà
chúng ta nghe, thấy, và hơn nữa, sờ được! (số 30, 31).
Từ
đó, các Kitô hữu hiểu được tầm quan trọng của cuộc đối thoại và mối
quan hệ giữa đức tin và lý trí (số 32-34). Ngày nay chân lý thường bị
giảm thiểu thành khẳng định chủ quan của mỗi cá nhân. Thế nhưng nếu chân lý
thật sự là chân lý của tình yêu, thì chân lý ấy phải giải thoát chúng ta khỏi
vòng vây của sự ích kỷ cá nhân và hướng đến ích chung ; đồng thời có thể thấm
nhập cõi lòng sâu xa nơi mỗi con người. Niềm tin vào chân lý ấy soi sáng mọi
thực tại đời sống, do đó đức tin không loại trừ khoa học nhưng đem lại lợi ích
cho khoa học : đức tin thúc đẩy nhà khoa học mở ra trước thực tại vô cùng phong
phú, ngăn cản thái độ tự mãn trong khoa học để không ngừng khám phá huyền nhiệm
sâu xa của tạo thành.
Ánh
sáng đức tin cũng soi chiếu con đường của tất cả những ai đang thành tâm tìm
kiếm Thiên Chúa, do đó góp phần tích cực vào cuộc đối thoại giữa các
tôn giáo (số 35). Thiên Chúa là ánh sáng và những ai thành tâm tìm
kiếm sẽ gặp được Ngài. Hình ảnh ba đạo sĩ trong Tin Mừng Matthêu diễn tả con
người tôn giáo là người đang trên đường đi, sẵn sàng ra khỏi bản thân để tìm
kiếm Đấng Thiên Chúa của những bất ngờ. Với các Kitô hữu, trọn vẹn ánh sáng của
Thiên Chúa được tập trung nơi Đức Kitô, do đó người Kitô hữu càng đón nhận ánh
sáng Đức Kitô thì họ càng có khả năng hiểu biết và đồng hành với những ai đang
tìm kiếm Chúa. Trong số đó có cả những người tuy không thuộc tôn giáo nào nhưng
vẫn khao khát tin và tiếp tục kiếm tìm. Nếu họ chân thành mở ra với tình yêu và
lên đường bước theo ánh sáng, thì họ đã ở trên đường dẫn đến đức tin rồi, dù
không nhận biết.
Trong
sự tìm kiếm Thiên Chúa, thần học đóng vai trò quan trọng vì
thần học không ngừng đào sâu hiểu biết về Thiên Chúa (số 36). Tuy nhiên, không
thể làm thần học mà không có đức tin, bởi lẽ thần học là một thành phần của
chính tiến trình đức tin. Thiên Chúa không chỉ là một đối tượng để nghiên cứu
nhưng là Đấng tỏ mình ra trong một tương quan liên vị. Vì thế thần học phải
khiêm tốn để cho Thiên Chúa chạm đến, nhìn nhận những giới hạn của mình trước
mầu nhiệm, đồng thời cố gắng tìm hiểu mầu nhiệm ấy bằng phương pháp riêng của
lý trí. Thần học cũng mang chiều kích Giáo hội, do đó một đàng thần học phải
phục vụ đức tin của các tín hữu, đàng khác phải nhìn nhận Huấn quyền như thành
tố thiết yếu trong suy tư và nghiên cứu của mình.
Chương
ba : Tôi truyền lại cho anh em điều tôi đã lãnh nhận (x. 1Cr 15,3)
Chương
ba của thông điệp tập trung vào chủ đề Thông truyền đức tin Kitô giáo.
Vì đức tin là nghe và thấy, nên đức tin ấy cũng được thông truyền như lời (để
nghe) và ánh sáng (để thấy). Đã đón nhận Lời Thiên Chúa thì phải tuyên xưng và
loan báo. Cũng vậy, ánh sáng của Đức Kitô chiếu tỏa trên khuôn mặt các Kitô hữu
và họ phải làm lan tỏa ánh sáng đó, như những ngọn nến được thắp lên trong Đêm
Vọng Phục Sinh (số 37). Việc thông truyền đức tin được thực hiện không chỉ từ
cá nhân này đến cá nhân khác, nhưng còn từ thế hệ này sang thế hệ kia. Sau 20
thế kỷ, làm sao chúng ta có thể chắc chắn mình đã gặp Chúa Giêsu đích thực như
Người là ? Được như thế là nhờ Hội Thánh. Hội Thánh là người mẹ dạy chúng ta
nói ngôn ngữ đức tin. Hội Thánh lưu giữ ký ức về Đức Kitô và truyền lại cho
chúng ta (số 38). Cho nên ở tự bản chất, đức tin là sự mở ra với cái “Chúng
tôi” trong Hội Thánh. Đức tin được tuyên xưng trong sự hiệp thông của Hội
Thánh. Sự mở ra này phản chiếu sự mở ra của chính tình yêu nơi Thiên Chúa :
không chỉ là tương quan giữa Cha và Con, mà còn là “trong Thánh Thần”, nghĩa là
“Chúng Ta”, sự hiệp thông giữa các ngôi vị (số 39).
Hội
Thánh thông truyền toàn bộ nội dung đức tin cho chúng ta qua Truyền thống tông
đồ được kính cẩn lưu giữ trong Hội Thánh nhờ Chúa Thánh Thần. Và Hội Thánh thực
hiện điều đó qua giáo lý, đời sống và việc thờ phượng.
Trước
hết là qua các bí tích (số 40). Nếu chỉ là thông truyền học
thuyết thì chỉ cần một cuốn sách, thế nhưng đức tin không chỉ là học thuyết mà
là ánh sáng mới phát sinh từ sự gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống. Do đó phải có một
phương thế đặc biệt là các bí tích được cử hành trong phụng vụ. Đầu tiên
là bí tích Rửa Tội. Trong bí tích này, người Kitô hữu vừa đón nhận
giáo lý phải tuyên xưng vừa đón nhận một lối sống mới phải thực hành. Vì thế
cần quan tâm đến giáo lý cho các dự tòng, đó là con đường chuẩn bị cho họ chịu
Phép Rửa và biến đổi toàn bộ đời sống trong Đức Kitô (số 42). Cũng ở đây, cần ý
thức tầm quan trọng và ý nghĩa của việc rửa tội cho trẻ nhỏ. Dù các em chưa ý
thức nhưng các em được nâng đỡ bởi cha mẹ, người đỡ đầu, và được đón nhận trong
đức tin của Hội Thánh. Điều đó làm nổi bật sự hợp tác giữa Hội Thánh và cha mẹ
trong việc thông truyền đức tin cho trẻ nhỏ, nhờ đó các em có được định hướng
nền tảng cho cuộc đời, hướng đến tương lai tốt đẹp (số 43).
Đặc
tính bí tích của đức tin đạt đến đỉnh cao nơi bí tích Thánh Thể (số
44). Thánh Thể là của ăn quý giá cho đời sống đức tin vì ở đó, chúng ta gặp gỡ
Đức Kitô, Đấng hiến mình vì chúng ta. Một đàng, chúng ta tưởng nhớ sự chết và
phục sinh của Chúa ; đàng khác, chúng ta được dẫn từ thế giới hữu hình đến thế
giới vô hình, khám phá chiều cao và chiều sâu của các thực tại, như bánh và
rượu được biến đổi nên Mình và Máu Đức Kitô.
Cùng
với các bí tích, Hội Thánh thông truyền đức tin cho các tín hữu qua lời
tuyên xưng đức tin, cụ thể là Kinh Tin Kính (số 45). Kinh Tin Kính có cấu
trúc Ba Ngôi, nghĩa là tâm điểm của mọi hiện hữu chính là sự hiệp thông nơi
Thiên Chúa. Kinh Tin Kính cũng mang chiều kích Kitô học vì nơi Đức Kitô, Đấng
Thiên Chúa của hiệp thông đã bước vào lịch sử thế giới này và đưa nó vào sự
hiệp thông vĩnh hằng của Ngài.
Ngoài
các bí tích và lời tuyên xưng, Hội Thánh còn thông truyền đức tin cho chúng ta
qua Kinh Lạy Cha và Kinh Mười Điều Răn (số
46). Với Kinh Lạy Cha, các Kitô hữu học chia sẻ chính kinh nghiệm thiêng liêng
của Đức Kitô và tập nhìn mọi sự như Người nhìn. Kinh Mười Điều Răn chỉ lối cho
chúng ta thoát khỏi sa mạc của cái tôi ích kỷ để bước vào cuộc đối thoại với
Thiên Chúa, để cho lòng thương xót của Chúa chiếm hữu và chia sẻ lòng thương
xót ấy cho người khác.
Bốn
yếu tố nói trên cũng là bốn phần chính trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh
Công Giáo, qua đó Hội Thánh thông truyền toàn bộ đức tin duy nhất của
mình. Tính duy nhất và toàn bộ là hai điều cần nhấn mạnh ở đây
(số 47, 48). Thánh Lêô Cả nói, “Nếu đức tin không duy nhất thì không còn là đức
tin nữa”. Đức tin duy nhất vì chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa duy nhất, vì chỉ
có một Chúa Giêsu Kitô, và vì đức tin ấy được toàn thể Hội Thánh tuyên xưng. Vì
đức tin duy nhất nên cũng phải toàn vẹn. Các chân lý đức tin đan kết với nhau
trong một toàn thể duy nhất như các chi thể trong một thân mình. Vì thế phải
cẩn trọng để kho tàng đức tin được thông truyền cách toàn vẹn. Để phục vụ cho
đòi hỏi này, Chúa đã ban cho Hội Thánh điều mà chúng ta gọi là sự kế
nhiệm tông đồ, nhờ đó ký ức của Hội Thánh được lưu giữ liên tục và thông
truyền qua các thế hệ (số 49).
Chương
bốn : Thiên Chúa chuẩn bị cho họ một thánh đô (x. Dt 11,16)
Sau
khi bàn đến trách nhiệm thông truyền đức tin, thông điệp dành chương bốn để nói
đến vai trò đức tin trong việc xây
dựng công ích. Thư Hípri không những trình bày đức tin như một hành trình
mà còn như tiến trình xây dựng một nơi con người có thể chung sống với nhau.
Chính vì đức tin gắn kết với tình yêu nên ánh sáng đức tin cũng soi chiếu việc
xây dựng công lý và hòa bình (số 50,51). Thật vậy, ánh sáng đức tin không chỉ
soi chiếu đời sống nội bộ của Hội Thánh, cũng không chỉ hướng đến thành đô vĩnh
cửu trong thế giới mai sau, nhưng còn giúp xây dựng xã hội trần thế hướng đến
tương lai tốt đẹp.
Trước
hết là gia đình, tế bào căn bản của xã hội (số 52,53). Dù không
luận bàn chi tiết, thông điệp khéo léo nhắc đến những giáo huấn căn bản về đời
sống gia đình như sự bền vững của hôn nhân giữa người nam và người nữ, sự tốt
đẹp của khác biệt giới tính, sự sinh sản. Trong khung cảnh gia đình, đức tin
đồng hành với mọi thành viên ở mọi lứa tuổi : trẻ thơ học tin tưởng vào tình
thương của cha mẹ, người trẻ phải cảm nhận sự gần gũi và nâng đỡ của cha mẹ và
Hội Thánh trong hành trình đức tin.
Nếu
được thấm nhuần tinh thần đức tin trong gia đình, đức tin ấy sẽ trở thành ánh
sáng soi chiếu mọi mối tương quan xã hội (số 54). Niềm tin vào
Thiên Chúa tình yêu thúc đẩy chúng ta xây dựng tình huynh đệ với mọi người, vì
Thiên Chúa muốn cho mọi người đều được chia sẻ cùng một phúc lành, và ánh sáng
của Thiên Chúa chiếu tỏa trên tôi qua khuôn mặt những người anh em tôi. Trong
thực tế, đức tin Kitô giáo đã góp phần tích cực vào việc xây dựng thành đô nhân
loại, cách riêng là gây ý thức về phẩm giá độc đáo của con người trong vũ trụ
và thúc đẩy con người sống đúng với phẩm giá của mình.
Đàng
khác, chính niềm tin vào tình yêu của Đấng Tạo Hóa giúp chúng ta biết tôn
trọng thiên nhiên vì nhìn công trình tạo dựng của Chúa như món quà
Chúa ban, biết điều hành xã hội để phục vụ công ích vì mọi
quyền bính đều phát xuất từ Thiên Chúa tình yêu, nhất là biết tha thứ vì
xác tín rằng tình yêu lớn hơn thù hận. Nếu đức tin suy yếu thì nền tảng đời
sống cũng bị suy yếu. Nếu chúng ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống xã
hội, thì con người cũng sẽ không còn tin tưởng nhau, sẽ chỉ còn sợ hãi và sự ổn
định xã hội bị đe dọa (số 55).
Ánh
sáng đức tin còn soi chiếu cuộc đời ngay cả khi phải đau khổ và thử
thách (số 56). Người Kitô hữu biết rằng không thể loại trừ đau khổ
cách tuyệt đối, nhưng nhờ đức tin, họ có thể đón nhận đau khổ như hành động của
tình yêu và tín thác nơi Thiên Chúa là Đấng không bao giờ bỏ rơi chúng ta, như
Đức Kitô đã kết hợp với Chúa Cha ngay giữa ngút ngàn đau khổ. Đồng thời ánh
sáng đức tin cũng không làm cho chúng ta quên đi những đau khổ của thế giới,
nhưng trái lại, thúc đẩy chúng ta đem tình yêu và sự an ủi đến chốn khổ đau,
như thánh Phanxicô Assisi và Mẹ Têrêxa Calcutta đã thể hiện. Đức tin Kitô giáo
gắn liền với hi vọng, niềm hi vọng lớn lao đến nỗi ngay cả khi nơi ở trên trần
gian này bị tiêu tan thì vẫn có nơi ở vĩnh hằng mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho
chúng ta trong Đức Kitô. Cùng với đức tin và đức ái, đức cậy thúc đẩy chúng ta
tiến đến tương lai vững chắc, gạt bỏ những ảo tưởng do các ngẫu tượng của trần
thế này loan báo, và vì thế, người Kitô hữu không được để mất hi vọng.
Để
kết thúc, Thông điệp hướng lòng chúng ta lên Đức Maria, người được
xưng tụng rằng, “Bà có phúc vì đã tin” (Lc
1,45). Đức Maria thật sự là gương mẫu tuyệt hảo của đức tin. Nơi Mẹ, hành trình
đức tin trong Cựu Ước trở thành hành trình bước theo Chúa Giêsu và đem lại hoa
trái phong phú. Ở tâm điểm đức tin Kitô giáo là lời tuyên xưng Chúa Giêsu là
Con Thiên Chúa, được sinh ra bởi một người nữ, và trong tác động của Thánh
Thần, đã làm cho chúng ta trở nên những người con cái Thiên Chúa. Vì thế, chúng
ta được mời gọi hướng nhìn lên Mẹ Maria và khẩn nài ơn trợ giúp. Xin Mẹ giúp
chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, dấn bước theo Ngài, phó thác nơi tình yêu của
Chúa, và tập nhìn mọi sự như Chúa Giêsu, để ánh sáng của Chúa thật sự soi chiếu
nẻo đường chúng ta đi.
+ Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Giám mục phụ tá TGP TP Hồ Chí Minh
THÔNG
ĐIỆP
LUMEN FIDEI
CỦA
ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ
GỞI
ĐẾN CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ
NHỮNG
NGƯỜI ĐƯỢC THÁNH HIẾN
VÀ
CÁC TÍN HỮU GIÁO DÂN
VỀ ĐỨC TIN
1. Lumen Fidei – Ánh
sáng đức tin : đây là cách thức truyền thống Giáo Hội diễn tả tặng phẩm cao cả
được trao ban từ Chúa Kitô, Đấng đã công bố trong Tin Mừng Gioan : “Tôi là ánh
sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,46).
Thánh Phaolô cũng nói : “Thiên Chúa, Đấng đã phán : ‘Ánh sáng hãy bừng lên từ
nơi tối tăm’ cũng chính Ngài làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi” (2 Cr 4,6). Nơi các dân ngoại, những
con người vẫn khát khao ánh sáng, mỗi ngày vào lúc bình mình vẫn có nghi thức
kêu cầu thần Mặt Trời, Sol invictus. Tuy nhiên dù được sinh
lại mỗi sáng, thì rõ ràng mặt trời cũng không thể tỏa chiếu ánh sáng của nó
trên toàn thể sự hiện hữu nhân sinh. Mặt trời không soi sáng tất cả thực tại ;
tia sáng của nó không thể dọi đến tận bóng tối sự chết, nơi đôi mắt của con
người phải khép lại trước ánh sáng mặt trời. Thánh Giustinô Tử đạo đã viết : “Không
ai đã từng sẵn sàng chết cho niềm tin của họ vào mặt trời”.[1]
Với ý thức sâu xa về chân trời bao la mà đức tin đã khai mở, các Kitô hữu kêu
cầu Đức Giêsu là mặt trời đích thực, “có những tia sáng trao ban sự sống”.[2]
Đức Giêsu nói với Marta đang khóc thương người em Lazaro của mình đã chết :
“Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang
của Thiên Chúa sao ?” (Ga 11,40). Ai tin thì nhìn thấy ;
họ thấy nhờ vào ánh sáng luôn chiếu soi toàn thể cuộc sống, ánh sáng đến từ Đức
Kitô phục sinh, ngôi sao mai không bao giờ lặn.
Một
ánh sáng hão huyền ?
2. Tuy
nhiên, khi nói về ánh sáng đức tin, chúng ta có thể nghe thấy những ý kiến phản
đối của nhiều người đương thời. Ngày nay, nhiều người nghĩ rằng ánh sáng đó đáp
ứng được cho xã hội cổ xưa, nhưng hoàn toàn không thích hợp cho thời đại mới,
cho những con người đang vươn lên, hãnh diện với khả năng suy lý và đang nỗ lực
khai phá tương lai theo một cách thế mới. Với cảm nhận này, đức tin được coi
như một ánh sáng hão huyền, ngăn cản con người lên đường tìm kiếm tri thức.
Chàng trai trẻ Nietzsche kêu gọi em mình là Elisabeth hãy dám liều lĩnh, bước
lên “những lối đường mới ... với tất cả sự không chắc chắn của kẻ phải tìm
đường mà đi”. Ông nói thêm rằng “đây là nơi mà lối đi của con người chia thành
nhiều ngã rẽ : nếu muốn cho tâm hồn bình an và hạnh phúc, hãy tin tưởng, nhưng
nếu muốn là người đi theo chân lý, hãy kiếm tìm”.[3]
Thái độ tin không thể đi chung với thái độ tìm kiếm. Từ khởi điểm này,
Nietzsche khai triển lời phê bình rằng Kitô giáo làm giảm thiểu ý nghĩa cuộc
sống nhân sinh và tước mất sự mới mẻ cũng như tính phiêu lưu của cuộc sống. Như
thế, đức tin là một ảo tưởng về ánh sáng, ngăn chặn bước tiến của những con
người tự do đang hướng đến tương lai.
3. Trong
tiến trình đó, rốt cuộc đức tin đồng nghĩa với bóng tối. Có người nghĩ rằng có
thể cứu vãn tình thế bằng cách dành cho đức tin một chỗ đứng bên cạnh ánh sáng
của lý trí. Đức tin sẽ ở vào những nơi lý trí không thể soi tỏ, nơi con người
không thể có được sự hiểu biết chắc chắn. Như thế đức tin được xem hoặc như một
cú nhảy liều vào khoảng không, được thực hiện khi thiếu vắng ánh sáng, được
thúc đẩy bởi cảm thức mù quáng ; hoặc như một thứ ánh sáng chủ quan, có thể
sưởi ấm tâm hồn và mang lại an ủi cá nhân, nhưng lại không thể trình bày cho
người khác như một ánh sáng khách quan để soi chung lối đường. Tuy nhiên, dần
dần, con người lại nhận ra rằng ánh sáng độc lập của lý trí không đủ để soi
sáng tương lai, một tương lai rốt cục vẫn mờ mịt và đặt con người vào nỗi sợ
hãi trước những ẩn số. Từ đó, nhân loại chối từ việc tìm kiếm một ánh sáng vĩ
đại là chính Chân Lý, để bằng lòng với những đốm sáng nhỏ bé chỉ đủ soi sáng
một thời điểm chóng qua, và rõ ràng là không thể soi rọi được cả con đường. Khi
thiếu ánh sáng, mọi thứ trở nên mập mờ dễ nhầm lẫn, không thể nhận ra điều tốt
điều xấu, không phân biệt được đâu là đường dẫn về đích điểm và đâu là lối đi
lòng vòng mất định hướng.
Một
ánh sáng phải được khôi phục
4. Như
thế điều cấp thiết là phải khôi phục lại bản chất của ánh sáng chiếu dọi vào
đức tin, vì khi ngọn lửa ấy tàn lụi, tất cả những ánh sáng khác rồi cũng sẽ lu
mờ. Ánh sáng đức tin mang tính chất độc đáo, vì có thể soi sáng toàn
thể cuộc hiện
hữu nhân sinh. Ánh sáng mạnh mẽ này không thể đến từ chúng ta, nhưng từ một
nguồn mạch nguyên khởi là chính Thiên Chúa. Đức tin được khai sinh từ việc gặp
gỡ Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi chúng ta và mặc khải tình yêu của Ngài,
một tình yêu luôn đi bước trước và chúng ta dựa vào đó để được kiên vững và xây
dựng cuộc sống. Được tình yêu của Thiên Chúa biến đổi, chúng ta như có được đôi
mắt mới, để nhận ra trong đó lời hứa trọng đại cho tình trạng viên mãn và một
chân trời rộng mở hướng về tương lai. Như một tặng phẩm siêu nhiên được chính
Thiên Chúa trao ban, đức tin tỏa chiếu ánh sáng trên đường chúng ta đi, soi dẫn
chúng ta trong cuộc hành trình trần thế. Đây là ánh sáng khởi phát từ quá khứ,
ánh sáng của một ký ức nền tảng về cuộc đời của Đức Giêsu, cuộc đời đã mặc khải
tình yêu hoàn toàn đáng tin cậy của Người, một tình yêu có thể chiến thắng sự
chết. Đồng thời, vì Đức Kitô đã phục sinh và đưa chúng ta vượt qua sự chết, nên
ánh sáng đức tin cũng đến từ tương lai, mở ra cho chúng ta những chân trời rộng
lớn và dẫn chúng ta vượt qua bản ngã cô lập của chính mình hướng tới không gian
trải rộng của tình hiệp thông. Chúng ta hiểu rằng đức tin không mất hút trong
tối tăm, nhưng là ánh sáng trước sự tối tăm của chúng ta. Trong tác phẩm Divine
Comedy, sau khi tuyên xưng đức tin của mình với thánh Phêrô, Dante
miêu tả niềm tin đó như một “tia lửa nhỏ cứ tỏa lan dần để rồi trở thành ngọn
lửa bùng cháy và rực sáng trong tôi như một ánh sao giữa bầu trời”.[4]
Tôi muốn trình bày về chính ánh sáng đức tin này, để đức tin bừng lên và chiếu
soi vào hiện tại, cho đến khi trở thành ánh sao soi rõ chân trời cuộc hành
trình của chúng ta, vào thời điểm mà con người đang đặc biệt cần đến ánh
sáng.
5. Vào trước ngày chịu khổ
nạn, Chúa cam đoan với Phêrô : “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng
tin” (Lc 22,32). Rồi Người bảo ông phải “làm cho
các anh em của anh nên vững mạnh” trong chính đức tin ấy. Ý thức bổn phận được
trao phó cho người kế vị thánh Phêrô, Đức Bênêđictô XVI đã công bố Năm đức tin,
một thời gian ân sủng giúp chúng ta cảm nhận niềm vui lớn lao của việc tin và
củng cố lại nhận thức của chúng ta về những tầm nhìn rộng lớn do đức tin mở ra,
để rồi tuyên xưng đức tin ấy trong tính duy nhất và toàn vẹn, trung thành với
ký ức của Chúa, được sự hiện diện của Người cũng như hoạt động của Thánh Thần
nâng đỡ. Các Kitô hữu đầu tiên đã trở nên nhiệt thành trong sứ mệnh của mình
nhờ niềm xác tín phát sinh từ đức tin mang đến giá trị cao cả và thành toàn cho
cuộc sống, một đức tin tập trung vào Đức Kitô và nhờ vào quyền năng của Người.
Trong biên sử các vị tử đạo, chúng ta đọc thấy cuộc đối thoại sau đây giữa quan
thái thú Roma Rusticus và một Kitô hữu tên là Hierax : “Khi quan hỏi vị tử đạo
là cha mẹ của Hierax ở đâu, ông trả lời : 'Người cha đích thật của chúng tôi là
Đức Kitô, và người mẹ của chúng tôi là đức tin vào Người'”.[5]
Đối với những Kitô hữu sơ khai đó, đức tin, cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng
sống được mặc khải trong Đức Kitô, thực sự là một “người mẹ”, vì đã cho họ nhìn
thấy ánh sáng, khai sinh sự sống thần linh trong họ, tạo nên một cảm nghiệm mới
và một nhãn quan rực sáng về cuộc sống, đến độ họ sẵn sàng làm chứng trước mặt
mọi người dù có phải chết.
6. Năm
đức tin được bắt đầu vào ngày kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng Vaticanô II. Sự
trùng hợp này cho thấy Vaticanô II là một Công đồng về đức tin,[6] vì
đã mời gọi chúng ta đặt quyền tối thượng của Thiên Chúa trong Đức Kitô vào
chính tâm điểm của đời sống cá nhân cũng như của cộng đoàn Giáo Hội. Giáo Hội
không bao giờ coi đức tin là một hành vi đã kết thúc, nhưng luôn biết rằng cần
phải nuôi dưỡng và kiện cường tặng phẩm này của Thiên Chúa, để đức tin tiếp tục
soi dẫn cuộc hành trình của Giáo Hội. Công đồng Vaticanô II làm cho ánh sáng
đức tin chiếu soi vào chiều sâu của kinh nghiệm nhân loại, khi cùng đồng hành
trên mọi nẻo đường với con người thời đại hôm nay. Công đồng đã nêu rõ cách
thức đức tin làm cho cuộc sống nên phong phú trong tất cả các chiều kích.
7. Những
suy tư ở đây về đức tin – tiếp nối những gì Huấn quyền của Giáo Hội đã công bố
về nhân đức đối thần này –[7] sẽ
bổ sung vào những gì Đức Bênêđictô XVI đã viết trong các thông điệp của ngài về
đức ái và đức cậy. Chính ngài đã hầu như hoàn tất bản nháp thứ nhất của thông
điệp về đức tin. Vì thế tôi tri ân ngài sâu xa, và như người anh em của ngài
trong Đức Kitô, tôi tiếp nhận công trình đầy giá trị của ngài, chỉ đưa vào bản văn
một vài đóng góp bổ sung. Người kế vị thánh Phêrô, hôm qua, hôm nay và ngày
mai, luôn được kêu gọi để kiện cường anh chị em mình trong kho tàng vô giá của
đức tin mà Thiên Chúa đã ban như ánh sáng soi đường cho nhân loại.
Chúng
ta nhận biết nơi tặng phẩm đức tin của Thiên Chúa, một nhân đức siêu nhiên được
phú ban, một Tình yêu lớn lao được trao hiến, một Lời tốt lành được nói cho
chúng ta, và khi chúng ta đón nhận lời đó, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời đã
thành xác phàm, Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta, thắp sáng con đường chúng ta
hướng tới tương lai và làm cho chúng ta có thể vui tươi tiến tới theo con đường
đó trên đôi cánh của hy vọng. Được đan dệt cách kỳ diệu như thế, đức tin, đức
cậy và đức mến tạo nên sức năng động của đời sống Kitô hữu để đạt tới sự hiệp
thông sung mãn với Thiên Chúa. Nhưng đức tin mở ra trước mắt chúng ta con đường
nào đây ? Đâu là cội nguồn phát sinh luồng ánh sáng uy quyền có khả năng chiếu
soi hành trình của một cuộc sống thành công, phong phú và đầy hoa trái ?
CHƯƠNG
MỘT
CHÚNG
TÔI ĐÃ TIN VÀO TÌNH YÊU
(x. 1 Ga 4,16)
Abraham,
cha của chúng ta trong đức tin
8. Đức
tin mở ra con đường và hướng dẫn những bước đi của chúng ta trên dòng lịch sử.
Vì vậy, nếu muốn hiểu đức tin là gì, chúng ta cần dõi theo lộ trình của chính
đức tin, trên lối đường của những người tin, qua những chứng từ trước tiên
trong Cựu ước. Chỗ đứng độc đáo nhất thuộc về Abraham, người cha của chúng ta
trong đức tin. Điều khuấy động cả cuộc đời ông đã xảy ra : Thiên Chúa lên tiếng
với ông ; Ngài mặc khải chính mình như một Thiên Chúa đang nói và gọi tên ông.
Đức tin được liên kết với việc nghe. Abraham không thấy Thiên Chúa, nhưng nghe
tiếng Ngài. Như thế, đức tin luôn mang tính cách cá nhân. Thiên Chúa không phải
là thượng đế của một nơi chốn nào đó, cũng không là vị thần được liên kết với
một thời gian linh thánh biệt loại, nhưng là Thiên Chúa của một người, chính
xác hơn, Ngài là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp, Đấng có thể đến gặp
và thiết lập giao ước với con người. Đức tin là lời đáp trả đối với lời mời gọi
dành cho từng cá nhân, với một “Đấng” đang gọi đích danh mỗi người chúng ta.
9. Lời
được nói cho Abraham chứa đựng một tiếng gọi và một lời hứa. Trước tiên, đây là
tiếng gọi rời bỏ quê hương bản quán, là lời mời đến với một cuộc sống mới, khởi
đầu cho cuộc xuất hành đưa ông vào chuyến hành trình không nhìn thấy trước
tương lai. Cái nhìn do đức tin mang đến cho Abraham luôn được liên kết với
những bước đi tới : đức tin “nhìn thấy” tùy theo cách ông bước đi, tùy theo mức
độ ông chọn để đi vào những nơi do Lời Chúa mở lối. Lời này cũng chứa đựng một
lời hứa : Dòng dõi ngươi sẽ đông đúc, ngươi sẽ là cha của một dân tộc vĩ đại
(x. St 13,16 ;
15,5 ; 22,17). Là lời đáp trả đối với một lời đã lên tiếng trước đó, đức tin
của Abraham luôn là một hành vi gắn liền với ký ức. Tuy nhiên, ký ức này không
gắn chặt vào quá khứ, nhưng liên quan đến một lời hứa, có thể mở hướng đến
tương lai, soi dẫn từng bước chân lên đường. Như thế, đức tin, một ký ức về
tương lai, memoria futuri, gắn kết cách chặt chẽ
với đức cậy.
10. Abraham
được yêu cầu phải phó thác chính mình cho Lời của Thiên Chúa. Đức tin hiểu rằng
dù Lời, có vẻ chỉ mang tính cách thoáng qua và dễ lướt trôi đi, nhưng khi được
nói lên bởi chính Thiên Chúa, Đấng trung thành, sẽ trở thành tuyệt đối chắc chắn
và không thể lay chuyển, cho phép cuộc hành trình của chúng ta được tiếp bước
trên dòng thời gian. Đức tin chấp nhận Lời Thiên Chúa như đá tảng vững chắc
trên đó chúng ta có thể đặt nền cho công trình xây dựng. Vì thế, trong Thánh
Kinh, đức tin được diễn đạt bằng tiếng Do Thái 'emunah, từ gốc động từ 'aman với ý nghĩa là “xác nhận”. Hạn từ 'emunah có thể dùng để nói về sự trung tín của
Thiên Chúa cũng như đức tin của con người. Con người của đức tin nhận được sức
mạnh bằng cách đặt mình trong tay Thiên Chúa, Đấng trung thành. Thánh Cyrilô
thành Giêrusalem đã dùng cả hai ý nghĩa của hạn từ này – với từpistos (trong tiếng Hy Lạp) và fidelis (trong tiếng La tinh) – để ca
ngợi phẩm giá của người Kitô hữu, được mang lấy danh hiệu của chính Thiên Chúa
: cả hai đều được gọi là “trung tín” (fidelis).[8]
Thánh Augustinô giải thích : “Con người trung tín khi tin vào Thiên Chúa, Đấng
đã đưa ra lời hứa, còn Thiên Chúa trung tín khi thực hiện điều Ngài đã hứa với
con người”.[9]
11. Yếu
tố cuối cùng trong câu chuyện của Abraham thật quan trọng để hiểu đức tin của
ông. Lời Thiên Chúa, mặc dù mang đến những điều mới mẻ và bất ngờ, nhưng lại
không xa lạ gì với kinh nghiệm của vị Tổ phụ. Trong giọng nói đang phán với
ông, Abraham nhận ra tiếng gọi sâu xa, từ lâu vẫn luôn hiện diện ở đáy lòng của
ông. Thiên Chúa đặt lời hứa của Ngài vào “nơi” mà sự hiện hữu của con người vẫn
mang nhiều hứa hẹn : tư cách làm cha, khả năng sinh ra một sự sống mới : “Chính
Sara, vợ ngươi, sắp sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ đặt tên cho nó là
Isaac” (St17,19). Thiên Chúa,
Đấng đòi hỏi Abraham tin tưởng hoàn toàn, đã mặc khải chính mình là nguồn mạch
sự sống. Như thế, đức tin được liên kết với tư cách là cha của Thiên Chúa, Đấng
đã sinh ra mọi loài thụ tạo ; Thiên Chúa, Đấng kêu gọi Abraham, chính Ngài là
Đấng Sáng tạo, Đấng “khiến những gì không có hoá có” (Rm 4,17), Đấng “đã chọn ta trước
cả khi tạo thành vũ trụ, ... đã tiền định cho ta làm nghĩa tử” (Ep 1,4-5). Đối với Abraham, đức
tin vào Thiên Chúa minh giải cho nguồn gốc sâu thẳm nhất của cuộc hiện hữu, cho
phép ông nhận ra mạch suối thiện hảo là cội nguồn của vạn vật, và hiểu rằng
cuộc sống không là sản phẩm của hư vô hay ngẫu nhiên, nhưng là hoa quả của một
tiếng gọi và một tình yêu cá vị. Thiên Chúa nhiệm mầu đã kêu gọi ông, không phải
là một thượng đế xa lạ, nhưng là cội rễ và cột trụ của mọi hiện hữu. Thử thách
lớn lao cho đức tin của Abraham, việc hiến tế Isaac con ông, cho thấy mức độ mà
tình yêu nguyên khởi này có thể bảo đảm cho sự sống vượt qua cả cái chết. Lời
có thể tạo nên một người con từ thân xác “như đã chết” của Abraham và “lòng dạ
đã chết” của Sara (x. Rm 4,19), Lời đó cũng có thể bảo
đảm cho lời hứa về một tương lai vượt qua mọi đe dọa và nguy hiểm (x. Hr 11,19 ; Rm 4,21).
Đức
tin của
12. Lịch
sử của dân
13. Lịch sử
14. Ông
Môisen, người trung gian, cũng có mặt trong niềm tin của
Sự
viên mãn của đức tin Kitô hữu
15. “Ông Abraham […] đã
hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ” (Ga 8,56). Theo những lời này của
Đức Giêsu, đức tin của Abraham hướng về Người, một cách nào đó nhìn thấy trước
mầu nhiệm của Người. Thánh Augustinô đã hiểu theo nghĩa đó khi nói rằng các tổ
phụ được cứu độ bởi đức tin, không phải bởi tin vào Đức Kitô Đấng đã đến, nhưng
vào Đức Kitô Đấng chưa đến, một đức tin hướng đến Đức Giêsu sẽ xuất hiện trong
tương lai.[13]
Đức tin Kitô hữu tập trung vào Đức Kitô, tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Chúa và
Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết (x. Rm 10,9). Toàn bộ Cựu ước đều quy
hướng vào Đức Kitô, Người trở thành tiếng “Vâng” dứt khoát cho tất cả mọi lời
hứa, nền tảng tối hậu của lời “Amen” chúng ta dâng lên Thiên Chúa (x. 2 Cr 1,20).
Lịch sử cuộc đời Đức Giêsu tỏ lộ đầy đủ tính cách đáng tin của Thiên Chúa. Nếu
trước đây Israel tưởng nhớ những hành động cao cả của tình yêu Thiên Chúa, là
cốt lõi của lời tuyên xưng đức tin và mở rộng tầm nhìn của họ trong đức tin,
thì giờ đây đời sống của Đức Giêsu tỏ hiện như một nơi cho Thiên Chúa can thiệp
cách dứt khoát, bày tỏ cách tuyệt đối tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. Lời
Thiên Chúa nói cho chúng ta trong Đức Giêsu không đơn giản là một lời bổ túc
cho những lời khác, nhưng là Lời vĩnh cửu của Ngài (x. Dt 1,1-2).
Thánh Phaolô nhắc nhớ chúng ta : Thiên Chúa chẳng thể trao một bảo chứng nào
lớn lao hơn nữa về tình yêu của Ngài (x. Rm 8,31-39). Như thế, đức tin Kitô
hữu là đức tin vào một Tình yêu sung mãn, vào quyền năng tuyệt đối và khả năng
biến đổi thế giới đồng thời soi dẫn lịch sử của Tình yêu ấy. “Chúng ta đã biết
tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó.” (1Ga 4,16). Đức tin được đặt nền
trên tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải trong Đức Giêsu, điểm tựa nền tảng
cho toàn thể thực tại cũng như vận mệnh chung cục của nó.
16. Chứng
cứ rõ ràng nhất về tình yêu khả tín của Đức Kitô được nhận ra trong cái chết
của Người vì chúng ta. Hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu là bằng chứng tình
yêu cao cả nhất (x. Ga 15,13),
và Đức Giêsu đã trao hiến mạng sống của Người cho tất cả mọi người, ngay cả cho
kẻ thù của Người, để biến đổi trái tim họ. Điều này giải thích tại sao các
thánh sử nhìn thấy giờ khổ hình thập giá của Đức Kitô là tột đỉnh của cái nhìn
đức tin ; đó chính là giây phút tỏa sáng chiều sâu và chiều rộng của tình yêu
Thiên Chúa. Thánh Gioan nói lên lời chứng long trọng của mình, khi cùng với mẹ
Đức Giêsu nhìn lên Đấng bị đâm thâu (x. Ga 19,37)
: “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực ;
và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19,35). Trong tác phẩm Người
khờ dại của
Dostoevsky, Hoàng tử Myskin, khi nhìn bức tranh của Hans Holbein Junior vẽ Đức
Kitô chết trong mồ, ông nói : “Nhìn vào bức tranh đó có thể khiến người ta mất
đức tin”,[14] bởi bức tranh diễn tả cách khủng khiếp
những vết tích tàn khốc của cái chết trên thân thể của Đức Kitô. Tuy nhiên,
chính việc chiêm ngắm cái chết của Đức Giêsu làm cho đức tin trở nên mạnh mẽ
hơn và nhận được ánh sáng chói lòa, vì là tin vào tình yêu vững bền của Đức
Kitô dành cho chúng ta, một tình yêu có thể đi vào tận cái chết để cứu rỗi
chúng ta. Chúng ta có thể tin vào tình yêu này, một tình yêu không thoái lui
trước cái chết để cho thấy Người yêu chúng ta đến chừng nào ; tình yêu trọn vẹn
đó loại bỏ mọi nghi ngờ và thúc đẩy chúng ta trao phó chính mình cho Người cách
hoàn toàn.
17. Cái
chết của Đức Kitô tỏ lộ sự khả tín hoàn toàn của tình yêu Thiên Chúa cách trọn
hảo trong ánh sáng phục sinh. Đức Kitô Phục sinh là chứng nhân
khả tín, đáng để chúng ta tin (x. Kh 1,5 ; Dt 2,17),
là điểm tựa vững chắc cho đức tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói : “Nếu Đức
Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền” (1Cr 15,17). Nếu tình yêu của Chúa
Cha không làm cho Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết, nếu tình yêu đó không thể
khôi phục sự sống cho thân xác của Người, thì đó không phải là một tình yêu
hoàn toàn khả tín, có thể soi sáng bóng tối sự chết. Khi nói về sự sống mới
trong Đức Kitô, thánh Phaolô quy chiếu về lòng tin “vào Con Thiên Chúa, Đấng đã
yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20).
Rõ ràng, “đức tin vào Con Thiên Chúa” chính là đức tin của vị Tông đồ Dân ngoại
vào Đức Giêsu, nhưng điều đó cũng giả định tính cách khả tín của Đức Giêsu,
không chỉ dựa vào việc Người đã yêu chúng ta đến nỗi chịu chết, nhưng còn dựa
vào tư cách Người là con Thiên Chúa. Chính bởi Đức Giêsu là Con, vì Người tuyệt
đối ở trong Chúa Cha, Người đã có thể chiến thắng cái chết và làm cho sự sống
chiếu tỏa cách sung mãn. Văn hóa của chúng ta đã mất đi khả năng cảm nhận sự
hiện diện thực sự của Thiên Chúa, và hoạt động của Ngài trong thế giới này.
Chúng ta nghĩ rằng chỉ có thể tìm thấy Thiên Chúa nơi thế giới bên kia, ở một
bậc thang khác của thực tại, xa khỏi những mối tương giao thực tế của chúng ta.
Nhưng nếu như thế, nếu Thiên Chúa không thể hoạt động trong thế giới, tình yêu
Ngài không thật sự quyền năng, không thật sự hiện thực, và như vậy thậm chí
không phải là tình yêu đích thực, một tình yêu có thể thực hiện lời hứa đem lại
hạnh phúc. Lúc đó chúng ta tin hay không tin vào Ngài cũng chẳng có gì khác
biệt. Trái lại, người Kitô hữu tuyên xưng đức tin vào tình yêu thiết thực và
đầy quyền năng của Thiên Chúa, Đấng thực sự hoạt động trong lịch sử và quyết
định định mệnh chung cục của nó, một tình yêu có thể gặp gỡ, một tình yêu được
mặc khải cách viên mãn trong cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Đức
Kitô.
18. Sự
viên mãn mà Đức Kitô mang lại cho đức tin còn có một khía cạnh quan trọng khác
nữa. Trong đức tin, Đức Kitô không chỉ là Đấng chúng ta tin tưởng, là sự biểu
lộ tối cao của tình yêu Thiên Chúa, nhưng Người cũng là Đấng chúng ta phải kết
hiệp để có thể tin. Đức tin không chỉ chăm chú nhìn vào Đức Giêsu, nhưng là
nhìn các sự vật như chính Đức Giêsu nhìn, với chính đôi mắt của Người : đó là
sự thông dự vào cách nhìn của Người. Trong nhiều lãnh vực cuộc sống, chúng ta
tin tưởng những người có kiến thức hơn chúng ta. Chúng ta tin tưởng người kiến
trúc sư đang xây nhà cho chúng ta, người dược sĩ cho chúng ta thuốc uống chữa
bệnh, người luật sư bảo vệ chúng ta ở tòa án. Chúng ta cũng cần một ai đó đáng
tin và biết rõ những điều liên quan đến Thiên Chúa. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa,
là Đấng tỏ bày cho chúng ta nhận biết Thiên Chúa (x. Ga 1,18). Đời sống của Đức Kitô,
cách thức Người biết Chúa Cha và sống trong mối tương giao liên lỉ và trọn vẹn
với Ngài, mở ra một không gian mới cho kinh nghiệm của con người và chúng ta có
thể bước vào đó. Thánh Gioan đã diễn tả tầm quan trọng của mối tương giao cá
nhân giữa Đức Giêsu với đức tin chúng ta bằng cách dùng nhiều dạng thức khác
nhau của động từ “tin”. Cùng với diễn ngữ “tin rằng” điều Đức Giêsu nói với
chúng ta là chân thật (x. Ga 14,10
; 20,31), Gioan cũng nói về việc “tin” Đức Giêsu và “tin vào” Đức Giêsu. Chúng
ta “tin” Đức Giêsu khi chấp nhận lời Người, chứng từ của Người, bởi vì Người
chân thật (x. Ga 6,30).
Chúng ta “tin vào” Đức Giêsu khi chính chúng ta đích thân tiếp nhận Người vào
cuộc sống và phó thác cho Người, gắn chặt với Người trong tình yêu và bước theo
Người trên mọi nẻo đường (x. Ga 2,11
; 6,47 ; 12,44).
Để
giúp chúng ta có thể biết, chấp nhận và đi theo Người, Con Thiên Chúa mặc lấy
xác phàm, và như thế, Người cũng nhìn Chúa Cha theo cách nhìn nhân loại, trong
khung cảnh của một cuộc hành trình diễn ra trong thời gian. Đức tin Kitô hữu là
đức tin vào mầu nhiệm Nhập thể của Ngôi Lời và sự Phục sinh thân xác của Người,
đức tin vào một Thiên Chúa gần gũi chúng ta đến độ đi vào trong lịch sử nhân
loại. Niềm tin vào Con Thiên Chúa làm người nơi Đức Giêsu Nazareth không tách
chúng ta ra khỏi thực tại, nhưng giúp chúng ta nắm bắt ý nghĩa sâu xa nhất của
thực tại, nhận ra Thiên Chúa yêu thế giới này biết bao và luôn hướng dẫn thế
giới đến với Ngài ; và chính điều này làm cho người Kitô hữu ngày càng kiên
quyết dấn bước trong cuộc hành trình trần thế.
Ơn
cứu độ nhờ đức tin
19. Khởi
đi từ việc thông dự vào cách nhìn của Đức Giêsu, thánh Phaolô đã viết nên một
bản mô tả đời sống đức tin. Khi chấp nhận tặng phẩm đức tin, người tín hữu trở
thành một thụ tạo mới, tiếp nhận một bản tính mới, bản tính con cái Thiên Chúa,
trở nên “con cái trong Chúa Con”. Tiếng gọi “Abba, cha ơi”, trước đây là cảm
nghiệm riêng của Đức Giêsu, nay trở thành nòng cốt của cảm nghiệm Kitô hữu
(x. Rm 8,15). Cuộc
sống đức tin, cuộc sống của những người con, là nhận biết ân huệ nguyên khởi và
tuyệt đối, ân huệ làm nên nền tảng cho cuộc hiện hữu của con người, và cuộc
sống ấy có thể được tóm tắt trong câu thánh Phaolô hỏi tín hữu Côrintô : “Bạn
có gì mà bạn đã không nhận lãnh ?” (1Cr 4,7).
Đây là tâm điểm của cuộc tranh cãi giữa Phaolô với nhóm Biệt phái về vấn đề ơn
cứu độ có được nhờ đức tin hay nhờ những việc làm theo lề luật. Phaolô chống
lại thái độ của kẻ cho rằng mình được công chính hóa trước mặt Thiên Chúa nhờ
các việc đã làm. Ngay cả khi tuân giữ các giới răn và làm việc thiện, người đó
luôn đặt mình là tâm điểm, không ý thức rằng sự thiện hảo đến từ Thiên Chủa.
Người làm như thế, muốn tự mình mang lại sự công chính, thấy rằng sự công chính
ấy chẳng mấy chốc sẽ rã tan và thậm chí người ấy cũng sẽ không còn trung thành
tuân giữ lề luật. Kẻ ấy tự khép kín chính mình, bị tách rời khỏi Thiên Chúa và
tha nhân, và hậu quả là cuộc sống trở thành trống rỗng và việc làm trở nên cằn
cỗi, như thân cây xa rời dòng nước. Thánh Augustinô diễn tả điều đó theo một
cách nói súc tích và đầy ấn tượng : “Ab
eo quy fecit te, noli deficere nec ad te”, “Đừng quay đi khỏi Đấng
đã tạo thành bạn và cũng đừng quay về chính bạn”.[15]
Khi con người nghĩ là sẽ tìm thấy chính mình bằng cách quay đi khỏi Thiên Chúa,
thì cuộc sống bắt đầu sụp đổ (x. Lc 15,11-24).
Khởi đầu của ơn cứu độ là thái độ mở rộng lòng đón nhận một điều gì đó có trước
chúng ta, một ân huệ nguyên khởi xác quyết sự sống và đỡ nâng cuộc hiện hữu.
Chỉ bằng cách mở rộng lòng và thừa nhận tặng phẩm này mà chúng ta có thể được
hoán cải, để ơn cứu độ hoạt động trong chúng ta và làm cho cuộc sống trở nên
phong phú, mang đầy hoa quả tốt lành. Ơn cứu độ nhờ đức tin có nghĩa là nhận
biết ân huệ của Thiên Chúa là tối thượng, như lời thánh Phaolô : “Chính do ân
sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ : đây không phải bởi sức anh em, mà
là một ân huệ của Thiên Chúa” (Ep 2,8).
20. Cách
nhìn mới của đức tin được tập trung vào Đức Kitô. Niềm tin vào Đức Kitô mang
đến ơn cứu độ, vì nơi Người cuộc sống được mở rộng tận căn cho một tình yêu
luôn đi bước trước và biến đổi chúng ta từ bên trong, luôn hoạt động trong
chúng ta và với chúng ta. Điều này càng hiển hiện rõ nét khi vị Tông đồ Dân
ngoại chú giải bản văn Đệ nhị luật, lối chú giải đi vào tận cốt lõi của Cựu
ước. Môisen nói với dân chúng rằng giới lệnh của Thiên Chúa không quá cao cũng
không quá xa đối với con người. Không cần phải nói : “'Ai sẽ lên trời lấy xuống
cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe” hay “Ai sẽ sang bên kia biển lấy về
cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe ?” (Đnl 30,11-14).
Phaolô giải thích sự gần gũi này của Lời Thiên Chúa chính là sự hiện diện của
Đức Kitô nơi người Kitô hữu. “Đừng tự hỏi : ai sẽ lên trời ?” ngụ ý là để đem
Đức Kitô xuống, cũng đừng hỏi : “Ai sẽ xuống âm phủ ?” ngụ ý là : để đưa Đức
Kitô lên từ cõi chết” (Rm 10,6-7).
Đức Kitô đã xuống thế và chỗi dậy từ cõi chết ; nhờ sự Nhập thể và Phục sinh,
Con Thiên Chúa đã tiếp nhận trọn vẹn cuộc hành trình của con người và đang sống
trong lòng chúng ta nhờ Thánh Thần. Đức tin biết rằng Thiên Chúa đã đến gần bên
chúng ta và Đức Kitô đã được ban cho chúng ta như một ân huệ lớn lao, biến đổi
chúng ta tận bên trong, ở trong chúng ta, và từ đó tỏa trên chúng ta ánh sáng
soi rõ nguồn gốc và cứu cánh của cuộc sống, chiếu sáng trọn vẹn hành trình của
con người.
21. Như thế, chúng ta
có thể hiểu được điều mới mẻ mà đức tin đem lại cho chúng ta. Người tín hữu
được biến đổi nhờ Tình Yêu họ đã đón nhận trong đức tin, và khi mở rộng lòng
tiếp nhận Tình Yêu được trao ban, sự sống được siêu thăng vượt trên cả chính
bản thân họ. Thánh Phaolô đã có thể nói : “Tôi sống, nhưng không còn phải là
tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20),
và ngài khuyên các tín hữu : “Nhờ lòng tin, anh em hãy để cho Đức Kitô ngự
trong tâm hồn” (Ep 3,17).
Trong đức tin, bản thân “tôi” của người tín hữu mở rộng để đón nhận một Đấng
khác đến ở cùng, để được sống trong Đấng khác ấy, và như thế, cuộc sống được
trải rộng trong tình yêu. Đó chính là hoạt động của Thánh Thần. Người Kitô hữu
có thể có được đôi mắt của Đức Giêsu, có cùng tâm tình như Người, có được cung
cách làm con giống như Người, vì đã thông dự vào tình yêu của Người, là chính
Thánh Thần. Một cách nào đó, người Kitô hữu nhận lấy cái nhìn của chính Đức
Giêsu. Nếu không có được sự đồng hình đồng dạng này trong tình yêu, nếu không
có sự hiện diện của Thần Khí, chúng ta không thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa
(x. 1Cr 12,3).
Dạng
thức Giáo Hội của đức tin
22. Trong ý nghĩa đó,
đời sống của người tín hữu trở thành một cuộc sống mang tính Giáo Hội. Khi
thánh Phaolô nói với các Kitô hữu ở Rôma về việc tất cả những ai tin vào Đức
Kitô sẽ làm nên một thân thể, ngài khuyên họ đừng tự hào về điều này, nhưng
đúng hơn, mỗi người phải nghiệm xét chính mình “theo lượng đức tin Thiên Chúa
đã phân phát cho” (Rm 12,3).
Người tín hữu học biết nhìn vào chính mình trong ánh sáng đức tin mà họ tuyên
xưng. Khuôn mặt Đức Kitô là tấm gương trong đó người tín hữu nhìn thấy hình ảnh
thành toàn của chính mình. Và cũng như Đức Kitô tiếp nhận tất cả các tín hữu
làm nên thân mình Người, người Kitô hữu hiểu rằng mình thuộc về thân mình này,
trong mối tương giao thiết yếu với Đức Kitô và các anh chị em khác trong đức
tin. Hình ảnh một thân mình không hàm ý rằng các tín hữu đơn giản là thành phần
của một toàn thể vô danh, một bộ phận trong một guồng máy lớn, nhưng đúng hơn
muốn nhấn mạnh đến sự kết hiệp sống động giữa Đức Kitô với các tín hữu và giữa
các tín hữu với nhau (x. Rm 12,4-5).
Các Kitô hữu là “một” (x. Gl 3,28),
nhưng vẫn không đánh mất tính cách cá vị, và khi phục vụ người khác, mỗi người
sẽ tìm gặp chính mình ở mức độ sâu sắc nhất. Điều này giải thích tại sao, nếu
tách ra khỏi thân mình này, tách khỏi sự duy nhất của Giáo Hội trong Đức Kitô,
một Giáo Hội – theo cách nói của Romano Guardini – “là người chuyển tải trong
lịch sử cái nhìn toàn vẹn của Đức Kitô về thế giới”,[16]
đức tin sẽ mất đi “kích thước” của mình, không còn quân bình, không có được
khoảng không gian cần thiết để giữ mình đứng vững. Đức tin phải có dạng thức
tất yếu mang tính Giáo Hội, được tuyên xưng trong thân mình Đức Kitô như một sự
hiệp thông cụ thể của các tín hữu. Chính trong bối cảnh có tính Giáo Hội này mà
đức tin mở hướng cho từng Kitô hữu đến với những người khác. Lời Đức Kitô, sau
khi đã được lắng nghe và phát huy năng lực, sẽ trở thành nơi người Kitô hữu một
lời đáp trả, lời được công bố, lời tuyên xưng đức tin. Thánh Phaolô nói : “có
tin thật trong lòng [...], có xưng ra ngoài miệng…” (Rm 10,10). Đức tin không phải là
một chuyện riêng tư, một vấn đề cá nhân, một ý kiến chủ quan, nhưng đức tin
khởi sinh từ việc lắng nghe, sau đó phải được tuyên xưng và trở nên lời công
bố. Thật vậy, “làm sao họ tin Đấng họ không được nghe ? Làm sao mà nghe, nếu
không có ai rao giảng ?” (Rm 10,14).
Đức tin hoạt động nơi người Kitô hữu nhờ ân huệ đã được nhận lãnh, nhờ Tình Yêu
đang lôi kéo họ đến với Đức Kitô (x. Gl 5,6),
và cho họ tham dự vào cuộc hành trình của Giáo Hội đang lữ hành trong lịch sử
cho đến tận thế. Đối với những người đã được biến đổi như thế, một cách nhìn
mới đã mở ra, đức tin trở thành ánh sáng cho đôi mắt họ.
CHƯƠNG
HAI
NẾU
ANH EM KHÔNG TIN,
ANH
EM SẼ KHÔNG HIỂU
(x. Is 7,9)
Đức
tin và chân lý
23. Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không
hiểu (x. Is 7,9).
Bản dịch Hy Lạp của Kinh Thánh Do Thái, bản Bẩy Mươi được thực hiện ở
Alexandria, đã dịch như trên những lời của ngôn sứ Isaia nói với vua Achaz. Nếu
như thế, vấn đề hiểu biết chân lý được đặt tại tâm điểm của đức tin. Tuy nhiên,
bản văn Do Thái lại viết khác, vị ngôn sứ nói với nhà vua : “Nếu không tin,
ngài sẽ không vững tâm”. Ở đây là kiểu chơi chữ dựa vào hai hình thức của động
từ ’amān : “tin” (ta’amînû) và “kiên vững” (tē’āmēnû). Kinh hãi vì kẻ thù mạnh thế,
nhà vua muốn được an toàn nhờ vào hiệp ước liên minh với đế quốc
24. Được
đọc trong ánh sáng này, bản văn ngôn sứ Isaia dẫn tới một kết luận : con người
cần tri thức, cần chân lý, vì nếu không có những điều này, con người không thể
đứng vững, không thể tiến tới. Đức tin không có chân lý sẽ không mang lại ơn
cứu độ, không làm cho bước chân chúng ta nên vững vàng được. Đức tin ấy chỉ là
một câu chuyện kể cho vui, là sự dọi phóng khát vọng của chúng ta về hạnh phúc,
một cái gì đó làm chúng ta thỏa mãn, qua đó chúng ta muốn đánh lừa chính mình.
Hoặc đức tin ấy giản lược vào một tình cảm cao đẹp, có thể an ủi và khích lệ,
nhưng lại tùy thuộc vào những tâm trạng thất thường của chúng ta, vào những
thay đổi của thời gian, không có khả năng nâng đỡ bước chân của chúng ta được
vững vàng trong cuộc sống. Nếu đức tin là như thế, thì vua Achaz sẽ có lý để
không không đặt cược mạng sống và sự an toàn của vương quốc vào một tình cảm.
Nhưng chính nhờ vào mối liên kết nội tại với chân lý, đức tin có thể cống hiến
một ánh sáng mới, cao vượt hơn những tính toán của nhà vua, vì đức tin nhìn
thấy xa hơn, nhờ hiểu rằng Thiên Chúa đang ra tay hành động, luôn trung thành
với giao ước và những lời hứa của Ngài.
25. Ngày
nay hơn bao giờ hết, cần phải nhắc nhớ về mối liên hệ giữa đức tin và chân lý,
vì chúng ta đang sống trong tình trạng khủng hoảng về chân lý. Trong nền văn
hóa đương thời, con người thường có khuynh hướng chỉ nhìn nhận chân lý của kỹ
thuật : chân lý là những gì con người đã thành công trong việc xây dựng và đo
lường nhờ khoa học, là chân lý vì những thứ đó đang hoạt động, làm cho cuộc
sống nên dễ dãi và tiện nghi hơn. Ngày nay, dường như đây là chân lý duy nhất
chắc chắn, chân lý duy nhất có thể chia sẻ được cho người khác, chân lý duy
nhất có thể đưa ra thảo luận và cùng nhau thực thi. Ngoài ra còn có những chân
lý riêng của mỗi người, căn cứ vào thái độ trung thực với sự xác tín nội tâm,
chỉ có giá trị cho từng cá nhân và không thể đề nghị cho người khác trong nỗ
lực phục vụ công ích. Còn đối với chính chân lý cao cả, chân lý có thể giải
thích toàn bộ cuộc sống cá nhân và xã hội, người ta lại tỏ ra nghi ngờ. Người
ta tự hỏi, đó có phải là thứ chân lý mà các nhà độc tài chuyên chế của thế kỷ
trước đây đã muốn sử dụng, thứ chân lý áp đặt quan điểm phổ quát của chính nó
để dẫm nát cuộc sống riêng tư của cá nhân ? Cuối cùng chỉ còn lại chủ thuyết
tương đối, trong đó câu hỏi về chân lý của tất cả mọi thực tại cũng chính là
câu hỏi về Thiên Chúa, không còn được quan tâm đến nữa. Với quan điểm này, cũng
là hợp lý khi người ta muốn hủy bỏ mối liên kết giữa tôn giáo và chân lý, vì
đây có thể sẽ làm phát sinh thái độ cuồng tín, muốn tiêu diệt những ai không
chấp nhận chia sẻ cùng một tín ngưỡng với mình. Về vấn đề này, chúng ta có thể
nói đến bệnh quên trầm trọng của thế giới hiện nay. Thật ra, câu hỏi về chân lý
là một vấn đề liên quan đến ký ức, một ký ức sâu xa, vì hướng đến điều gì đó có
trước chúng ta, và do đó có thể nối kết chúng ta theo một cách thức vượt quá
bản ngã nhỏ bé và giới hạn của chúng ta. Đây là câu hỏi về nguồn gốc của mọi
thực tại, có thể đem lại ánh sáng để soi cho chúng ta nhận ra đích điểm cũng
như ý nghĩa của lối đi chung cho tất cả chúng ta.
Tri
thức về chân lý và tình yêu
26. Trong
trường hợp này, đức tin Kitô giáo có thể phục vụ cho công ích theo cách hiểu
đúng về chân lý không ? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần suy tư về loại tri
thức đặc thù của đức tin. Có một câu nói của thánh Phaolô có thể giúp chúng ta
: “tin thật trong lòng” (Rm 10,10).
Trong Kinh Thánh, trái tim là cốt lõi của con người, nơi đây tập trung tất cả
những chiều kích khác nhau của con người : thể xác và tinh thần, nội tâm và sự
rộng mở hướng đến thế giới và tha nhân, lý trí, ý chí và tình cảm. Nếu trái tim
có khả năng liên kết những chiều kích này lại với nhau, chính bởi vì đó là nơi
chúng ta rộng mở tiếp nhận cũng như để cho chân lý và tình yêu chạm đến chúng
ta và biến đổi chúng ta cách sâu xa. Đức tin biến đổi toàn thể con người tùy
theo mức độ con người tiếp nhận tình yêu. Chính trong sự gặp gỡ giữa đức tin và
tình yêu mà con người nhận ra dạng tri thức đặc thù của đức tin, với sức mạnh
thuyết phục, khả năng soi sáng bước chân chúng ta. Đức tin hiểu biết theo mức
độ liên kết với tình yêu, vì tình yêu sẽ mang đến ánh sáng chiếu soi. Sự hiểu
biết của đức tin được khởi phát khi chúng ta lãnh nhận tình yêu vô biên của
Thiên Chúa, một tình yêu biến đổi chúng ta tận bên trong và làm cho chúng ta có
thể nhìn thực tại với đôi mắt mới.
27. Nhiều
người đã biết lời giải thích của triết gia Ludwig Wittgenstein về mối liên quan
giữa đức tin và sự chắc chắn. Theo ông, hành vi tin gần giống với kinh nghiệm
khi yêu, một kinh nghiệm chủ quan, không thể đề nghị như một chân lý có giá trị
cho mọi người.[19] Ngày
nay, tình yêu được xem như một kinh nghiệm gắn liền với những cảm xúc mau qua
chứ không còn đi liền với chân lý.
Nhưng
đây có phải là một diễn đạt xác đáng về tình yêu không ? Tình yêu không thể bị
giản lược vào cảm xúc phù du. Chắc chắn là tình yêu đụng chạm đến cảm tính của
chúng ta, nhưng đó là để cảm tính hướng đến người được yêu và từ đó mở lối cho
việc rời bỏ thái độ đóng kín trong cái “tôi” để hướng tới người khác, để xây
dựng một mối tương quan lâu dài ; tình yêu nhắm đến sự kết hợp với người được
yêu. Như thế đã cho thấy rõ tình yêu cần đến chân lý như thế nào. Chỉ khi được
đặt nền trên chân lý, tình yêu mới có thể vững bền trong thời gian, vượt lên
những khoảnh khắc chóng qua và luôn kiên trì để giữ vững cuộc hành trình chung.
Nếu không liên kết với chân lý, tình yêu sẽ lệ thuộc vào những cảm xúc hay thay
đổi và không thể vượt qua thử thách của thời gian. Trái lại, tình yêu chân thật
thống nhất tất cả những yếu tố của con người chúng ta và trở nên một ánh sáng
mới dẫn đến một cuộc sống cao cả và viên mãn. Không có chân lý, tình yêu không
thể thiết lập một mối liên hệ bền vững, không thể đưa cái “tôi” ra khỏi tư thế
cô lập, cũng không thể vượt lên những khoảnh khắc chóng qua để kiến tạo cuộc
sống và kết sinh hoa trái.
Nếu
tình yêu cần đến chân lý, thì chân lý cũng cần đến tình yêu. Tình yêu và chân
lý không thể tách rời nhau. Không có tình yêu, chân lý trở nên lạnh lùng, vô
ngã và nặng nề đối với cuộc sống con người. Chân lý mà chúng ta tìm kiếm, chân
lý mang lại ý nghĩa tròn đầy cho bước chân chúng ta, chân lý ấy sẽ soi sáng
chúng ta khi chúng ta được tình yêu chạm đến. Người đang yêu hiểu rằng tình yêu
là một kinh nghiệm về chân lý, tình yêu mở mắt chúng ta để nhìn thực tại theo
một cách thức mới, trong sự kết hiệp với người được yêu. Theo nghĩa này, thánh
Grêgôriô Cả viết : “amor ipse notitia est”, “chính tình
yêu là một tri thức”, kèm theo một lối lý luận mới.[20]
Đây là một lối nhìn mang tính liên hệ về thế giới, trở thành một dạng tri thức
được chia sẻ, nhìn trong cái nhìn của người khác và có được cái nhìn chung về
tất cả thực tại. William Saint Thierry, thời Trung cổ, đi theo truyền thống này
khi chú giải một câu trong sách Diễm ca khi người yêu nói với người được yêu :
“Đôi mắt nàng là đôi mắt bồ câu” (Dc 1,15).[21]
Theo William, đôi mắt của người được yêu chính là lý trí đang tin và tình yêu,
cả hai trở nên một để chúng ta có thể chiêm ngắm Thiên Chúa, khi tri thức trở
thành “tri thức của tình yêu được soi sáng”.[22]
28. Nhận thức tình yêu
như là nguồn mạch của tri thức, một nhận thức có trong kinh nghiệm nguyên thủy
của mọi người, đã được diễn tả đặc biệt trong một khái niệm của Thánh Kinh về
đức tin. Khi cảm nhận tình yêu Thiên Chúa đã truyển chọn và quy tụ họ thành một
dân tộc, Israel hiểu được tính cách duy nhất trong kế hoạch của Thiên Chúa, từ
lúc khởi sự đến khi hoàn tất. Vì được khởi sinh từ tình yêu Thiên Chúa, Đấng
thiết lập Giao ước, tri thức của đức tin là một tri thức thắp sáng cả lối đường
lịch sử. Cũng chính vì thế, trong Thánh Kinh, chân lý và sự trung thành luôn đi
đôi với nhau, Thiên Chúa thật cũng là Thiên Chúa trung thành, Đấng giữ trọn
những lời đã hứa và giúp cho con người dần dần hiểu được ý định của Ngài. Xuyên
qua kinh nghiệm của các ngôn sứ, trong nỗi đớn đau của cuộc lưu đày và trong
niềm hy vọng chờ ngày trở về Thành Thánh, Israel nhận ra rằng chân lý này của
Thiên Chúa được trải rộng, vượt khỏi lịch sử của riêng họ để bao trùm lịch sử
của cả thế giới, kể từ ngày tạo dựng. Tri thức của đức tin soi sáng, không chỉ
hành trình của một dân tộc cá biệt, nhưng là toàn thể lịch sử của thế giới thụ
tạo, từ thuở nguyên sơ cho đến ngày chung cuộc.
Đức
tin như việc lắng nghe và ngắm nhìn
29. Chính vì tri thức
đức tin gắn liền với giao ước của một Thiên Chúa trung thành, Đấng thiết lập
mối liên hệ tình yêu và ngỏ lời với con người, nên đã được diễn đạt trong Thánh
Kinh qua động tác lắng nghe, liên quan đến thính giác. Câu nói của thánh Phaolô
đã trở thành một công thức kinh điển : fides
ex auditu, “có đức tin là nhờ nghe giảng” (Rm 10,17). Được liên kết với lời,
tri thức luôn mang tính cách cá nhân, nhận biết lời đang được nói, tiếp nhận
lời trong tự do và làm theo lời trong vâng phục. Vì thế thánh Phaolô nói đến
“sự vâng phục của đức tin” (x. Rm 1,5
; 16,26).[23] Đức
tin cũng là một tri thức gắn liền với yếu tố thời gian, vì lời cần có thời gian
để được công bố : đây là một tri thức chỉ được tiếp thu trong hành trình của
người môn đệ đang bước theo thầy. Việc lắng nghe giúp làm rõ nét hơn mối liên
hệ giữa tri thức và tình yêu.
Khi
bàn đến tri thức về chân lý, hành vi lắng nghe đôi khi được đặt đối lập với
động tác nhìn, vẫn được xem là nét đặc trưng của văn hóa Hy Lạp. Ánh sáng cho
phép con người chiêm ngắm được cái toàn thể mà họ luôn khao khát, nhưng dường
như trong đó không có chỗ cho tự do, vì ánh sáng từ trời chiếu xuống và trực
tiếp đến với đôi mắt mà không đòi hỏi sự đáp trả. Ngoài ra, dường như ánh sáng
đưa đến một lối chiêm niệm ở trạng thái tĩnh, xa rời khỏi thời gian cụ thể với
những niềm vui và đau khổ của con người. Với quan điểm này, cách hiểu của Thánh
Kinh về tri thức sẽ đối nghịch với cách hiểu của Hy Lạp, một cách hiểu muốn nối
kết tri thức với cái nhìn, khi tìm cách đạt tới sự hiểu biết toàn vẹn về thực
tại.
Tuy
nhiên, sự đối lập này rõ ràng không tương ứng với những trình thuật Thánh Kinh.
Cựu ước nối kết cả hai loại tri thức, vì việc lắng nghe lời Thiên Chúa luôn đi
đôi với ước muốn nhìn thấy mặt Ngài. Như thế, vẫn có thể tiến hành cuộc đối
thoại với văn hóa Hy Lạp, cuộc đối thoại diễn ra ngay giữa lòng Thánh Kinh.
Việc lắng nghe nhấn mạnh đến ơn gọi và sự vâng phục cá nhân, vì chân lý được
mặc khải trong thời gian. Còn thị giác sẽ cung cấp một tầm nhìn về toàn thể
hành trình và định vị nó trong kế hoạch toàn diện của Thiên Chúa ; không có cái
nhìn này, chúng ta chỉ có trong tay những mảnh vụn rời rạc của một toàn thể vẫn
còn mịt mờ.
30. Mối
liên kết giữa việc nhìn xem và lắng nghe, những phương tiện để có được tri thức
của đức tin, được trình bày rất rõ trong Tin Mừng Gioan. Trong Tin Mừng thứ tư,
tin bao gồm cả nghe và nhìn. Việc nghe của đức tin nảy sinh một dạng thức hiểu
biết về tình yêu : đây là hành vi lắng nghe của cá nhân, phân biệt và nhận biết
tiếng của vị Mục Tử Nhân Lành (x. Ga 10,3-5)
; việc nghe cũng đòi hỏi sự đi theo, như trường hợp của các môn đệ đầu tiên :
“Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (Ga 1,37). Ngoài ra, đức tin cũng liên kết với việc
nhìn. Đôi khi, việc xem thấy những dấu chỉ do Đức Giêsu làm đã mở đường cho đức
tin, như trường hợp của những người Do Thái sau việc Lazarô sống lại, “được
chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người” (Ga 11,45). Những lúc khác, chính
đức tin mang lại cái nhìn sâu sắc hơn : “Nếu chị tin, chị sẽ nhìn thấy vinh
quang của Thiên Chúa” (Ga 11,40).
Cuối cùng, tin và nhìn đan kết với nhau : “Ai tin vào tôi, thì không phải là
tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi ; ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai
tôi” (Ga 12,44-45). Được
liên kết với thái độ lắng nghe, việc nhìn xem trở thành một cách thức đi theo
Đức Kitô, và đức tin trở nên như một tiến trình chăm chú nhìn với đôi mắt tập
quen quan sát ở mức độ sâu xa nhất. Vì thế, sáng sớm ngày Phục sinh, có một
chuyển biến từ Gioan, người đứng trong bóng tối trước ngôi mộ trống “ông đã
thấy và đã tin” (Ga 20,8),
rồi đến Maria Magđala, người đã “nhìn thấy Đức Giêsu” (x. Ga 20,14) và muốn giữ Người lại,
nhưng được mời gọi chiêm ngắm Người đang về cùng Chúa Cha, sau cùng dẫn đến lời
tuyên xưng trọn vẹn trước các môn đệ : “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18).
Làm
thế nào để đạt tới sự tổng hợp giữa nghe và thấy ? Điều này có thể thực hiện
được nhờ chính ngôi vị của Đức Giêsu, Đấng người ta có thể thấy và nghe. Người
là Lời đã thành xác thể và chúng ta đã chiêm ngưỡng vinh quang của Người
(x. Ga 1,14). Ánh
sáng đức tin là ánh sáng của một Khuôn Mặt trong đó chúng ta nhìn thấy Chúa
Cha. Trong Tin Mừng thứ tư, chân lý mà đức tin đạt tới chính là mặc khải của
Chúa Cha trong Chúa Con, nơi thân xác Người và trong những công việc trần thế
của Người, chân lý ấy có thể được định nghĩa là “một đời sống đầy ánh sáng” của
Đức Giêsu.[24]
Điều này có nghĩa rằng tri thức của đức tin không bảo chúng ta chăm chú nhìn
vào một chân lý nội tại. Chân lý mà đức tin bày tỏ cho chúng ta là một chân lý
tập trung vào một cuộc gặp gỡ Đức Kitô, vào việc chiêm ngắm cuộc đời Người và
vào ý thức về sự hiện diện của Người. Thánh Tôma Aquynô nói đến oculata
fides của các tông đồ — một đức tin đang nhìn thấy! — trước
thân xác của Đấng Phục sinh.[25] Bằng chính mắt mình, các ngài nhìn
thấy Đức Giêsu phục sinh và đã tin, nghĩa là có thể nhìn đến tận chiều sâu thẳm
của những gì đang thấy để tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa, Đấng ngự bên hữu
Chúa Cha.
31. Chỉ
bằng cách thức đó, qua mầu nhiệm Nhập thể, qua việc nhận lấy bản tính loài
người chúng ta, mà tri thức đặc thù của tình yêu mới có thể được thành toàn
cách viên mãn. Thật vậy, ánh sáng của tình yêu bừng lên khi trái tim chúng ta
rung động, vì đó là cách chúng ta đón nhận sự hiện diện bên trong của người
chúng ta yêu mến, Đấng cho chúng ta nhận biết mầu nhiệm của Người. Như thế,
chúng ta có thể hiểu tại sao, cùng với việc lắng nghe và nhìn xem, đức tin còn
được diễn tả như một sự “đụng chạm”, như thánh Gioan nói trong thư thứ nhất của
ngài : “điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi
đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống” (1Ga 1,1).
Bằng cách mặc lấy xác phàm và đến giữa chúng ta, Đức Giêsu đã chạm đến chúng
ta, và ngay cả hôm nay, qua các bí tích, Người vẫn tiếp tục chạm tới chúng ta ;
bằng cách biến đổi trái tim chúng ta, Người đã và vẫn đang làm cho chúng ta
nhận biết và tôn vinh Người là Con Thiên Chúa. Trong đức tin, chúng ta có thể
chạm đến Người và nhận được sức mạnh ân sủng của Người. Khi chú giải trình
thuật về người phụ nữ vì bệnh loạn huyết đã chạm đến Đức Giêsu để được chữa
lành (x. Lc 8,45-46),
thánh Augustinô nói : “Chạm đến Người bằng trái tim chúng ta : tin có nghĩa là
như thế đấy”.[26] Đám
đông chen lấn Người, nhưng họ không đến với Người qua sự đụng chạm cá nhân của
đức tin, để nhận biết mầu nhiệm Người là Con, Đấng mặc khải Chúa Cha. Chỉ khi
nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, chúng ta mới lãnh nhận được đôi mắt cần
thiết để nhìn thấy Ngài.
Cuộc
đối thoại giữa đức tin và lý trí
32. Trong
mức độ công bố chân lý về tình yêu toàn vẹn của Thiên Chúa và đón nhận sức mạnh
tình yêu này, đức tin kitô giáo chạm đến tận cốt lõi kinh nghiệm của mỗi người
đến với ánh sáng nhờ tình yêu và được mời gọi yêu thương để ở lại trong ánh
sáng.
Với
ước muốn soi rõ toàn thể thực tại bằng tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày
trong Đức Giêsu, và khi nỗ lực sống yêu thương với chính tình yêu đó, các Kitô hữu
đầu tiên tìm thấy trong thế giới Hy Lạp, vốn luôn khao khát chân lý, một đối
tác lý tưởng để đối thoại. Cuộc gặp gỡ của sứ điệp Tin Mừng với tư tưởng triết
học thời cổ đại quả là một bước quyết định trong việc Phúc âm hóa các dân tộc,
và đã tạo nên cuộc tương tác đầy hiệu quả giữa đức tin và lý trí, được tiếp tục
duy trì qua các thế kỷ cho đến thời đại chúng ta ngày nay. Trong Thông
điệp Fides
et Ratio, Chân phước Gioan Phaolô II đã cho thấy đức tin và lý
trí kiện cường lẫn nhau như thế nào.[27] Khi
đã có được ánh sáng viên mãn của tình yêu Đức Kitô, chúng ta nhận ra rằng một
phần nào ánh sáng đó vẫn xuất hiện trong tình yêu của chính chúng ta, và chúng
ta nhận thức được đâu là đích điểm tối hậu của tình yêu. Cũng chính lúc đó, với
tình yêu nhân loại mang theo một ánh sáng như thế, chúng ta có thể thấy rõ cuộc
hành trình tình yêu dẫn đến việc Con Thiên Chúa trao ban trọn vẹn chính mình vì
chúng ta. Trong chuyển động vòng tròn này, ánh sáng đức tin soi rọi tất cả
những mối liên hệ nhân loại của chúng ta, những liên hệ có thể được kiện toàn
nhờ kết hiệp với tình yêu và sự dịu hiền của Đức Kitô.
33. Trong
cuộc đời của thánh Augustinô, chúng ta tìm thấy một thí dụ đầy ý nghĩa về cuộc
hành trình của lý trí, với nỗi khát khao chân lý và sự rõ ràng, đã được hòa
nhập vào lãnh địa của đức tin, nhờ đó đạt được một nhận thức mới. Một đàng,
Augustinô chấp nhận triết học Hy Lạp về ánh sáng, nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của việc nhìn. Cuộc gặp gỡ với phái Tân Platon đã giúp ngài biết được mô hình
của ánh sáng, đến từ trên cao để chiếu sáng thực tại, và đây cũng là một biểu
tượng về Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã hiểu theo nghĩa đó về sự siêu việt của
Thiên Chúa và khám phá ra rằng tất cả mọi vật đều có một sự trong suốt nào đó,
có thể phản ánh sự tốt lành của Đấng là sự Thiện tuyệt đối. Điều này đã giải gỡ
ngài khỏi lạc giáo Manikê mà ngài đã đi theo trước đây và đã từng khiến ngài
cho rằng thiện ác liên lỉ đối đầu, lẫn lộn và hòa trộn vào nhau. Việc nhận biết
Thiên Chúa là ánh sáng đã đem lại một hướng đi mới cho cuộc sống, giúp ngài
nhận ra sự dữ ngài đã lỗi phạm và quay về với sự thiện.
Đàng
khác, theo kinh nghiệm của thánh Augustinô được kể lại trong quyển Tự
thú (Confessions), thời khắc quyết định
trong hành trình đức tin của ngài không phải là lúc nhìn thấy Thiên Chúa hiện
diện bên ngoài thế giới, nhưng thật ra là lúc đang lắng nghe một giọng nói
trong khu vườn : “Hãy cầm lấy mà đọc” ; ngài cầm lấy tập sách có các thư của
thánh Phaolô và dừng lại nơi chương 13 của thư gửi tín hữu Rôma.[28] Đấy là cách Thiên Chúa của Thánh Kinh
tự mặc khải, Ngài là Đấng có thể nói với con người, có thể đến để sống và đồng
hành với con người trong lịch sử, bằng cách cho thấy Ngài đang hiện diện trong
thời gian dành cho con người lắng nghe và đáp lời.
Tuy
nhiên cuộc gặp gỡ này với Thiên Chúa của Lời không làm cho thánh Augustinô từ
chối ánh sáng và nhìn xem. Liên lỉ được hướng dẫn bởi mặc khải về tình yêu
Thiên Chúa trong Đức Giêsu, ngài liên kết cả hai thái độ ấy. Với ý hướng đó,
Augustinô khai triển một triết học về ánh sáng có thể vừa tiếp nhận tính cách
song phương đặc thù của lời nói, đồng thời cũng dành chỗ cho tính cách tự do
của ánh mắt nhìn về ánh sáng. Giống như lời cần có sự đáp lời cách tự do, thì
ánh sáng cũng cần tìm thấy một lời đáp nơi hình ảnh phản chiếu lại. Như thế,
khi liên kết việc nghe với việc nhìn, thánh Augustinô có thể nói về “lời chiếu
sáng bên trong”.[29]
Có thể nói, ánh sáng trở thành ánh sáng của lời, vì đó là ánh sáng của một
Khuôn Mặt cá vị, ánh sáng đó, khi soi sáng chúng ta, kêu gọi chúng ta và muốn
được phản chiếu trên khuôn mặt chúng ta như thể đang chiếu tỏa từ bên trong
chúng ta. Ngoài ra, nỗi khao khát muốn nhìn thấy cái toàn thể, chứ không phải
chỉ những mảnh vụn của lịch sử, thật ra vẫn còn đó và rốt cuộc cũng sẽ được
thỏa mãn, khi con người, theo cách nói của thánh Augustinô, nhìn thấy và yêu
mến.[30] Điều
đó được thực hiện, không phải vì con người có thể sở hữu trọn vẹn ánh sáng, vốn
không bao giờ lụi tắt, nhưng vì được đi vào trong ánh sáng cách toàn vẹn.
34. Ánh
sáng của tình yêu, ánh sáng đặc thù của đức tin có thể soi sáng những câu hỏi
về chân lý của thời đại chúng ta. Ngày nay, chân lý thường bị giản lược thành
một vấn đề thuộc quyền cá nhân, chỉ có giá trị cho đời sống của từng cá nhân.
Một chân lý chung làm cho chúng ta e sợ, vì chúng ta đồng hóa chân lý với chủ
trương áp đặt chuyên chế. Nhưng nếu chân lý là chân lý của tình yêu, nếu đó là
chân lý được tỏ bày trong cuộc gặp gỡ cá nhân với Đấng Khác và với tha nhân,
thì chân lý ấy được đưa ra khỏi sự đóng kín trong cá nhân và góp phần tham gia
vào công ích. Là chân lý của tình yêu, chân lý ấy không áp đặt cách cưỡng bách,
cũng không đè bẹp cá nhân. Vì được sinh ra từ tình yêu, chân lý ấy có thể đi
vào đến tận trái tim, đến nơi sâu thẳm nhất của từng nhân vị. Như thế, rõ ràng
đức tin không mang tính cách bất khoan nhượng, nhưng tăng trưởng trong mối thân
tình luôn tôn trọng tha nhân. Người tín hữu không hề ngạo mạn, trái lại, chân lý
sẽ làm cho họ nên khiêm tốn, vì biết rằng, không phải mình là người sở hữu chân
lý, nhưng chính chân lý tiếp nhận và chiếm hữu con người. Chúng ta không cố
chấp, chính sự an toàn của đức tin thúc đẩy chúng ta lên đường, và cho chúng ta
có khả năng làm chứng và đối thoại với tất cả mọi người.
Được
liên kết với chân lý của tình yêu, ánh sáng đức tin sẽ không xa lạ với thế giới
vật chất, vì tình yêu luôn sống trong cả thân xác và tâm hồn ; ánh sáng đức tin
là một ánh sáng nhập thể, tỏa chiếu từ đời sống rạng ngời của Đức Giêsu. Ánh
sáng đó cũng chiếu tỏa cả vật chất, tin vào trật tự và nhận ra trong vật chất
vẫn có lối mở cho sự hòa hợp và thông cảm ngày càng nới rộng. Như thế, cái nhìn
của khoa học được hưởng lợi từ đức tin : đức tin khuyến khích nhà khoa học tiếp
tục khám phá thực tại trong tất cả sự phong phú vô tận của nó. Đức tin thức
tỉnh cảm thức phê bình bằng cách ngăn ngừa việc nghiên cứu đừng mãn nguyện với
những công thức được tìm thấy và giúp nó hiểu rằng thiên nhiên thì luôn lớn
hơn. Bằng cách gợi lên sự kinh ngạc thán phục trước những bí ẩn của công trình
tạo dựng, đức tin mở rộng những chân trời của lý trí để tỏa ánh sáng chói ngời
hơn nữa trên một thế giới luôn ưa chuộng những khảo cứu khoa học.
Đức
tin và sự tìm kiếm Thiên Chúa
35. Ánh
sáng của niềm tin vào Đức Giêsu cũng soi sáng lối đường của tất cả những ai
đang kiếm tìm Thiên Chúa, và đem đến một đóng góp đặc biệt của giáo thuyết Kitô
giáo trong cuộc đối thoại với những tín đồ của các tôn giáo khác. Thư gửi tín
hữu Do Thái nói với chúng ta về chứng từ của những người công chính đã tìm kiếm
Thiên Chúa trong đức tin, trước cả khi giao ước được thiết lập với Abraham. Về
Enoch, chúng ta đọc thấy “ông đã được chứng nhận là đã làm đẹp lòng Thiên Chúa”
(Dt 11,5), một điều chỉ có được nhờ đức
tin, vì “ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa và tin Ngài là
Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Ngài” (Dt 11,6). Như thế, chúng ta có thể thấy cuộc hành
trình của con người tâm linh trải qua để tuyên xưng một Thiên Chúa luôn chăm
sóc chúng ta và là Đấng không thể không tìm thấy. Thiên Chúa có thể ban phần
thưởng nào khác cho những kẻ tìm kiếm Ngài, nếu không phải là để cho chính Ngài
được tìm thấy ? Ngược lên xa hơn nữa, chúng ta gặp thấy hình ảnh của Abel, với
một đức tin được Thánh Kinh ca ngợi và nhờ đức tin, lễ phẩm của ông, những con
vật đầu lòng trong đoàn vật của ông (x. Dt 11,4)
đã làm vui lòng Thiên Chúa. Con người tâm linh cố gắng nhận biết những dấu chỉ
của Thiên Chúa trong hoàn cảnh cuộc sống hàng ngày, trong mùa màng luân chuyển,
trong hoa màu ruộng đất và trong mọi vận hành của thiên nhiên. Thiên Chúa luôn
tỏa sáng và những kẻ tìm Ngài với một tâm hồn chân thành đều có thể tìm thấy
Ngài.
Hình
ảnh của việc tìm kiếm Thiên Chúa cũng được nhìn thấy nơi các đạo sĩ, được ánh
sao dẫn tới Bêlem (x. Mt 2,1-12).
Đối với họ, ánh sáng của Thiên Chúa tỏ hiện như một chuyến đi, như một ngôi sao
dẫn lối trên đường tìm kiếm. Ngôi sao nói lên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối
với đôi mắt chúng ta đang cần quen dần với ánh quang rực sáng của Ngài. Con
người tâm linh luôn lên đường, sẵn sàng để cho mình được dẫn dắt, để ra khỏi
chính mình và tìm thấy Thiên Chúa, Đấng luôn khiến con người sững sờ thán phục.
Việc Thiên Chúa tôn trọng đôi mắt của con người dạy cho chúng ta hiểu rằng, Về
phía Thiên Chúa sự kính trọng này đối với con mắt nhân loại chúng ta tỏ cho
chúng ta thấy rằng, khi con người đến gần Ngài, ánh sáng nhân loại không bị tan
biến trong ánh sáng bao la của Ngài, như một ngôi sao bị hừng đông nuốt chửng,
nhưng càng tỏa sáng hơn khi càng đến gần ngọn lửa nguyên sơ, như một tấm gương
phản chiếu luồng ánh sáng rực rỡ. Kitô giáo của Đức Giêsu, Đấng Cứu độ duy
nhất, khẳng định rằng tất cả ánh sáng của Thiên Chúa đều được tập trung trong
Người, trong “đời sống rạng ngời” của Người, nơi tỏ bày cội nguồn và cùng đích
của lịch sử.[31] Không
có kinh nghiệm nhân loại nào, không có hành trình nào của con người đến với
Thiên Chúa, mà không được đón nhận, soi sáng và thanh luyện bởi ánh sáng này.
Người Kitô hữu càng để mình chìm ngập trong vòng ánh sáng của Đức Kitô, càng có
khả năng hiểu biết và đồng hành với mọi người trên đường đi tới Thiên Chúa.
Vì
đức tin mang hình ảnh một con đường, nên cũng liên quan đến đời sống của những
người, dù không tin, vẫn muốn tin và tiếp tục tìm kiếm. Theo mức độ họ chân
thành mở lòng đón nhận tình yêu và lên đường với một ánh sáng nào đó họ vừa tìm
thấy, thì họ cũng đã ở trên đường dẫn tới đức tin, dù không nhận ra điều đó. Họ
cố gắng hành động như thể Thiên Chúa hiện hữu, đôi khi vì nhận ra Ngài thật
quan trọng để định hướng rõ ràng cho cuộc sống chung, hoặc vì cảm nhận nỗi khao
khát ánh sáng giữa bóng tối, nhưng cũng có thể vì nhận ra nét cao cả và vẻ đẹp
của cuộc sống, nên nghĩ rằng sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ làm cho cuộc đời
tươi đẹp hơn. Thánh Irênê thành Lyon kể rằng, Abraham, trước khi nghe tiếng
Thiên Chúa, đã tìm kiếm Ngài “với trái tim cháy bỏng khát khao của ông”, và
“ông rảo khắp mặt đất để tìm xem Thiên Chúa ở đâu”, cho đến ngày “Thiên Chúa
đầy lòng thương xót tỏ mình ra cho ông, kẻ đi tìm Ngài trong đơn độc và thinh
lặng”.[32] Bất kỳ ai lên đường làm việc thiện,
đều đã đến gần Thiên Chúa, đã được Ngài trợ giúp đỡ nâng, vì đặc điểm của năng
lực nơi ánh sáng thần linh là soi tỏ đôi mắt chúng ta, mỗi khi chúng ta tiến
bước đi đến với tình yêu sung mãn.
Đức
tin và thần học
36. Vì
là ánh sáng, đức tin mời gọi chúng ta đi vào tận bên trong, khám phá ngày càng
trọn vẹn chân trời được đức tin soi sáng, để biết rõ hơn về đối tượng tình yêu
của chúng ta. Thần học Kitô giáo khởi sinh từ mong ước đó. Rõ ràng không thể có
thần học mà không có đức tin, và thần học nằm ngay trong tiến trình đức tin,
muốn đạt đến tri thức sâu xa hơn về Thiên Chúa, Đấng đã mặc khải chính mình,
với đỉnh điểm là mầu nhiệm Đức Kitô. Hệ luận đầu tiên là thần học không chỉ vận
dụng những nỗ lực của lý trí để nghiên cứu và tìm hiểu, như trong khoa học thực
nghiệm. Không thể xem Thiên Chúa như một đối tượng nghiên cứu. Ngài là Chủ thể
muốn được nhận biết và Ngài bày tỏ chính mình trong mối tương giao liên bản vị.
Đức tin ngay chính hướng dẫn lý trí, để tiếp nhận ánh sáng đến từ Thiên Chúa,
để khi được dẫn dắt bởi tình yêu chân lý, lý trí có thể hiểu biết Thiên Chúa
một cách thấu đáo. Những bậc thầy và các thần học gia nổi tiếng thời Trung cổ
cho rằng thần học, xét như một khoa học về đức tin, là thông phần vào chính tri
thức của Thiên Chúa về chính Ngài. Thần học không chỉ là lời nói về Thiên Chúa,
nhưng trước hết là sự chấp nhận và tìm kiếm một hiểu biết sâu xa hơn về lời
Thiên Chúa nói với chúng ta, lời Thiên Chúa nói về chính Ngài, vì Ngài chính là
cuộc đối thoại vĩnh cửu của tình hiệp thông, và Ngài cho phép chúng ta đi vào
cuộc đối thoại này.[33] Như
thế, thần học cần phải khiêm nhường để được Thiên Chúa “chạm tới”, chấp nhận
những giới hạn của mình trước mầu nhiệm, và nỗ lực dùng những bộ môn riêng của
lý trí để khám phá sự phong phú không sao dò thấu của mầu nhiệm ấy.
Ngoài
ra, thần học cũng dự phần vào dạng thức Giáo Hội của đức tin ; ánh sáng của
thần học là ánh sáng của chủ thể tin là chính Giáo Hội. Một đàng, điều đó có
nghĩa là thần học phải phục vụ đức tin của các Kitô hữu, phải khiêm tốn bảo
toàn và đào sâu đức tin của mọi người, nhất là những tín hữu đơn sơ hơn. Đàng
khác, vì sống nhờ đức tin, thần học không thể xem Huấn quyền của Giáo hoàng và
các giám mục trong sự hiệp thông với ngài như một điều gì đó ngoại tại, một
giới hạn đối với tự do của mình, nhưng trái lại, phải xem đó như một trong
những yếu tố nội tại, thiết yếu, bởi lẽ chính Huấn quyền xác nhận sự tiếp xúc
với nguồn mạch nguyên thủy, và do đó mang lại sự chắc chắn về tính cách toàn
vẹn của Lời Đức Kitô.
CHƯƠNG
BA
TÔI
TRAO LẠI CHO ANH EM
ĐIỀU
TÔI ĐÃ LÃNH NHẬN
(x. 1Cr 15,3)
Giáo
Hội, mẹ của đức tin chúng ta
37. Những người đã mở
lòng đón nhận tình yêu Thiên Chúa, nghe tiếng Ngài và nhận được ánh sáng của
Ngài, không thể giữ tặng phẩm này cho riêng mình. Vì đức tin là nghe và thấy,
nên nó cũng được chuyển trao như lời và ánh sáng. Khi nói với tín hữu ở
Côrintô, thánh Phaolô dùng chính hai hình ảnh này. Một đàng, ngài nói : “Vì có
được cùng một lòng tin, như đã chép : Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng
tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói” (2Cr 4,13). Lời được chấp nhận
trở thành lời đáp trả và tuyên xưng, và từ đó vang vọng đến những người khác và
mời gọi họ tin. Đàng khác, thánh Phaolô cũng nói đến ánh sáng : “Tất cả chúng
ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức
gương ; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày
càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí” (2Cr 3,18).
Đây là một ánh sáng phản chiếu từ khuôn mặt này tới khuôn mặt khác, như Môisen
phản ánh vinh quang của Thiên Chúa sau khi đã nói chuyện với Ngài : “Thiên
Chúa... cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên
hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Đức Kitô” (2Cr 4,6).
Như trong một tấm gương, ánh sáng Đức Kitô tỏa chiếu trên khuôn mặt của các
Kitô hữu, và tiếp tục lan tỏa, truyền đến chúng ta, để chúng ta cũng được thông
dự vào tầm nhìn ấy và phản chiếu ánh sáng cho những người khác, như trong phụng
vụ Phục sinh, ánh sáng của cây nến vượt qua thắp sáng vô số những cây nến khác.
Chúng ta có thể nói, đức tin được truyền qua sự tiếp chạm, từ người này tới
người kia, giống như ngọn lửa được thắp lên từ một ngọn lửa khác. Các Kitô hữu,
trong sự nghèo nàn của mình, gieo trồng một hạt giống phong phú đến độ trở
thành một cây lớn, có thể làm đầy thế giới bằng hoa quả của mình.
38. Sự
chuyển giao đức tin, chiếu sáng cho tất cả mọi người ở mọi nơi, cũng vượt trải
thời gian, đi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bởi được sinh ra từ một cuộc gặp
gỡ xảy ra trong lịch sử và thắp sáng hành trình của chúng ta qua thời gian, đức
tin phải được chuyển giao trong mọi thời đại. Chính nhờ cả một chuỗi dài liên
tục các chứng nhân mà khuôn mặt Đức Giêsu được truyền đến chúng ta. Nhưng làm
thế nào điều này có thể thực hiện được ? Làm sao chúng ta có thể chắc chắn
chúng ta gặp gỡ “Đức Giêsu thật sự” sau hàng bao thế kỷ ? Nếu con người chỉ là
những cá nhân biệt lập, nếu chúng ta chi khởi đi từ bản thân cá nhân, muốn tìm
thấy một tri thức chắc chắn nơi chính mình, thì tính cách chắc chắn này là điều
không thể có. Tôi không thể đích thân nhìn thấy điều đã xảy ra trước tôi rất
lâu. Tuy nhiên, không chỉ có một cách duy nhất ấy để con người biết được một
điều gì đó. Con người luôn sống trong tương quan. Chúng ta đến từ những người
khác, chúng ta thuộc về những người khác, và đời sống chúng ta được mở rộng nhờ
gặp gỡ những người khác. Ngay cả tri thức của riêng chúng ta, ý thức về chính
mình, cũng mang tính tương quan, và chúng ta được liên kết với những người khác
đã xuất hiện trước chúng ta : trước tiên là cha mẹ chúng ta, những người cho
chúng ta sự sống và tên gọi. Cả đến ngôn ngữ, những lời nói như là phương tiện
để diễn đạt cuộc sống và thực tại của chính chúng ta, cũng đến từ những người
khác, được gìn giữ trong ký ức sống động của những người khác. Chúng ta chỉ có
được tri thức về mình khi chia sẻ một ký ức lớn lao hơn. Cũng xảy ra như thế
trong lãnh vực đức tin, nhân tố mang lại sự hoàn chỉnh cho cách thức hiểu biết
của con người. Quá khứ của đức tin, hành vi yêu thương của Đức Giêsu, Đấng mang
lại sự sống mới cho thế giới, đến với chúng ta qua ký ức của những người khác,
của các chứng nhân, một ký ức vẫn luôn sống động trong chủ thể duy nhất của
việc ghi nhớ là chính Giáo Hội. Giáo Hội là người Mẹ dạy cho chúng ta biết nói
ngôn ngữ của đức tin. Thánh Gioan trình bày điều này trong Tin Mừng của ngài
bằng cách liên kết chặt chẽ đức tin và ký ức, và đặt cả hai gắn liền với hoạt
động của Thánh Thần, là Đấng, như lời Đức Giêsu, “sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi
điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Tình yêu, chính là Thánh Thần, đang ở trong Giáo Hội, nối kết tất cả các thời
đại lại với nhau và làm cho chúng ta thành những người đương thời của Đức
Giêsu, và từ đó trở nên người dẫn đường cho cuộc lữ hành đức tin của chúng ta.
39. Tin
một cách đơn độc là điều không thể có được. Đức tin không đơn giản là một quyết
định cá nhân diễn ra trong đáy sâu tâm hồn của người tin, cũng chẳng phải là
mối liên hệ hoàn toàn riêng tư giữa “tôi” đang tin và “Ngài” thần linh, giữa
một chủ thể độc lập và Thiên Chúa. Do tự bản chất, đức tin mở rộng tới “chúng
tôi” của Giáo Hội, luôn diễn ra trong sự hiệp thông của Giáo Hội. Chúng ta được
nhắc nhớ điều này bởi chính dạng thức đối thoại của kinh Tin Kính được dùng
trong phụng vụ phép rửa. Hành vi tin được diễn đạt như lời đáp cho một tiếng
mời gọi, đáp lại lời phải được nghe và lời đó không xuất phát từ tôi, nhưng
được đặt giữa lòng một cuộc đối thoại ; hiện hữu như thành phần của một cuộc
đối thoại và đây không thể đơn giản là lời tuyên xưng xuất phát từ một cá nhân.
Chúng ta có thể đáp lại bằng cách dùng ngôi thứ nhất “tôi tin”, chỉ vì chúng ta
thuộc về một sự hiệp thông lớn lao, chỉ vì chúng ta cũng có thể nói “chúng tôi
tin”. Sự rộng mở này đến cái “chúng tôi” của Giáo Hội phản ánh sự rộng mở của
chính tình yêu Thiên Chúa, không chỉ là mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con,
giữa “Tôi” và “Anh”, nhưng cũng là giữa “Chúng Tôi” trong Chúa Thánh Thần, một
sự hiệp thông của các ngôi vị. Đó là lý do tại sao người tin không bao giờ đơn
độc, và tại sao đức tin có khuynh hướng lan tỏa, khơi gợi niềm vui nơi những
người khác. Người đã lãnh nhận đức tin khám phá ra rằng không gian của “tôi” đã
được mở rộng và nảy sinh những tương giao mới làm cho cuộc sống trở nên phong phú.
Tertulianô diễn đạt điều này rất hay khi nói về những người tân tòng, những
người sau nghi thức thanh tẩy mang lại ơn tái sinh, được đón vào nhà Mẹ của
mình, để giang tay và cùng với các anh chị em đọc lời “Lạy Cha chúng con”, như
vừa được tiếp nhận vào một gia đình mới.[34]
Các
bí tích và sự thông truyền đức tin
40. Như
mọi gia đình, Giáo Hội chuyển giao cho con cái mình một kho tàng ký ức. Nhưng
làm thế nào để không đánh mất điều gì, mà trái lại toàn bộ gia sản đức tin được
trở nên sâu sắc hơn ? Chính nhờ Truyền thống Tông đồ, được giữ gìn trong Giáo
Hội với sự trợ giúp của Thánh Thần, mà chúng ta có được sự tiếp xúc sống động
với ký ức nền tảng. Như Công đồng Vaticanô II xác quyết, điều được các Tông đồ
truyền lại “gồm tất cả những gì góp phần giúp Dân Thiên Chúa sống thánh thiện
và làm tăng trưởng đức tin, và như thế, qua giáo lý, đời sống và việc phụng tự,
Giáo Hội bảo tồn và lưu truyền cho mọi thế hệ tất cả những gì Giáo Hội tin”.[35]
Thật
vậy, đức tin cần một nơi để được công bố và truyền đạt, một nơi thích hợp và
thuận lợi cho điều được truyền đạt. Để chuyển giao một nội dung thuần túy giáo
lý, một ý tưởng, có lẽ chỉ cần một quyển sách hay lập lại sứ điệp theo cách
truyền khẩu là đã đủ. Nhưng điều được truyền đạt trong Giáo Hội, điều được
chuyển giao trong Truyền thống sống động của Giáo Hội, lại là ánh sáng mới khởi
sinh từ cuộc gặp gỡ Thiên Chúa chân thật, một ánh sáng chạm đến tận nơi sâu
thẳm của con người, nơi trái tim, bao gồm cả tinh thần, ý chí và tình cảm, mở
lòng con người đón nhận những mối tương giao sống động của sự thông hiệp với
Thiên Chúa và tha nhân. Để chuyển giao sự sung mãn này, có một phương thế đặc
biệt liên quan đến con người toàn diện, cả thân xác và tinh thần, ý thức nội
tâm và những mối tương giao, đó là các bí tích được cử hành trong phụng vụ của
Giáo Hội. Các bí tích truyền đạt một ký ức nhập thể, được liên kết với thời gian
và không gian của cuộc sống, vận dụng tất cả các giác quan ; con người được
thông dự vào các bí tích như một phần tử của một chủ thể sống động, trong cả
một mạng lưới của những tương giao cộng đồng. Do đó, nếu các bí tích là bí tích
của đức tin,[36] thì
cũng có thể nói đức tin có một cấu trúc bí tích. Việc thức tỉnh đức tin được
thực hiện thông qua việc thức tỉnh cảm thức mới về bí tích trong đời sống của
con người và của Kitô hữu, cảm thức đó sẽ giúp nhận ra những thực tại vật chất
hữu hình hướng về mầu nhiệm vĩnh cửu như thế nào.
41. Sự
chuyển giao đức tin diễnra trước tiên trong bí tích Thánh tẩy. Một số người nghĩ
rằng bí tích Thánh tẩy chỉ là một cách thức biểu tượng hóa việc tuyên xưng đức
tin, một động tác mang tính sư phạm dành cho những người cần đến hình ảnh và cử
chỉ, thật ra là những yếu tố có thể bỏ đi. Một nhận xét của thánh Phaolô về bí
tích Thánh tẩy nhắc nhớ chúng ta rằng không đúng như thế. Ngài nói : “Vì được
dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi
thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của
Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,4). Nơi bí tích Thánh tẩy,
chúng ta trở thành một thụ tạo mới và những nghĩa tử của Thiên Chúa. Vị tông đồ
còn nói rằng các Kitô hữu được đưa vào một “quy luật đạo lý” (týpos didachés), mà họ sẽ toàn tâm vâng
phục (x. Rm 6,17). Nơi
bí tích Thánh tẩy, chúng ta cũng nhận lãnh một đạo lý được tuyên xưng và một
lối sống đặc biệt đòi hỏi sự dấn thân của con người toàn diện và dẫn đưa chúng
ta trên đường tới sự thiện hảo. Người được rửa tội bước vào một khung cảnh mới,
được đưa vào một môi trường mới, với một cách sống mới nơi cộng đoàn giữa lòng
Giáo Hội. Như thế, bí tích Thánh tẩy nhắc chúng ta nhớ rằng đức tin không phải
là công việc của một cá nhân cô lập, cũng không phải là hành vi mà một người có
thể tự mình thực hiện, nhưng là điều phải được lãnh nhậnkhi bước vào mối hiệp
thông trong Giáo Hội đang chuyển giao tặng phẩm của Thiên Chúa : không ai tự
rửa tội cho chính mình, giống như không ai tự sinh ra mình. Chúng ta được rửa
tội.
42. Nơi
bí tích Thánh tẩy, đâu là những yếu tố dẫn chúng ta vào “quy luật đạo lý” mới
này ? Trước tiên, danh Ba ngôi – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – được
kêu cầu trên người tân tòng. Thế là ngay từ đầu, một tổng hợp của hành trình
đức tin đã được cung cấp. Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi Abraham và muốn được gọi
là Thiên Chúa của ông ;Thiên Chúa, Đấng mặc khải danh Ngài cho Môisen ; Thiên
Chúa, Đấng mặc khải cách viên mãn mầu nhiệm thánh danh Ngài, khi ban chính Con
của Ngài cho chúng ta, nay ban xuống trên người được rửa tội một căn tính mới
của những người con. Điều này được tỏ rõ trong chính nghi thức phép rửa : dìm
ngập trong nước ; nước lúc đó là biểu tượng của sự chết, mời gọi chúng ta trải
qua sự hoán cải của cái “tôi”, tiếp nhận một”chúng tôi” rộng lớn hơn ; nhưng
đồng thời nước cũng là biểu tượng củasự sống, là lòng mẹ tái sinh chúng ta, cho
chúng ta bước theo Đức Kitô trong sự sống mới của Người. Như thế, qua việc dìm
vào nước, bí tích Thánh tẩy cho chúng ta nhận ra cấu trúc nhập thể của đức tin.
Tác động của Đức Kitô chạm đến chính bản vị con người chúng ta, biến đổi chúng
ta tận căn, làm cho chúng ta thành nghĩa tử của Thiên Chúa và được thông dự vào
bản tính thần linh ; như thế, tác động đó thay đổi tất cả những mối tương quan
của chúng ta, vị trí đặc biệt của chúng ta trong thế giới và vũ trụ, mở rộng
các tương quan đó đến chính sự sống hiệp thông vớiThiên Chúa. Sự biến đổi đầy
năng động này, một hiệu quả riêng của bí tích Thánh tẩy, giúp chúng ta hiểu tầm
quan trọng của thời kỳ dự tòng đối với việc tân phúc âm hóa ngày nay, cũng như
ngày xưa nơi những cộng đoàn Kitô hữu có số người trưởng thành đến với bí tích
Thánh tẩy ngày càng gia tăng. Đây là đoạn đường chuẩn bị cho bí tích Thánh tẩy,
cho việc biến đối toàn diện đời sống trong Đức Kitô.
Để
hiểu mối liên kết giữa bí tích Thánh tẩy và đức tin, chúng ta có thể nhắc đến
bản văn của ngôn sứ Isaia, gắn liền với bí tích Thánh tẩy trong văn chương Kitô
giáo sơ khai : “Người như thế [...] có đồn trên núi đá làm nơi trú ẩn. [...]
nước uống chẳng lo thiếu bao giờ” (Is 33,16).[37] Người
được rửa tội, được cứu độ nhờ dòng nước sự chết, được đặt trên “đồn lũy đá
tảng” bởi đã tìm thấy một chỗ dựa vững chắc. Như thế, dòng nước sự chết đã biến
thành dòng nước sự sống. Bản văn Hy Lạp mô tả đó là dòng nước pistèn,
nghĩa là dòng nước “đáng tin”. Thật vậy, dòng nước phép rửa đáng tin, vì tuôn
chảy với sức mạnh tình yêu của Đức Kitô, nguồn mạch của sự an toàn trong hành
trình cuộc sống chúng ta.
43. Cấu
trúc của bí tích Thánh tẩy, dạng thức của sự tái sinh, trong đó chúng ta nhận
được một tên gọi mới và một sự sống mới, giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa và tầm
quan trọng của bí tích Thánh tẩy dành cho trẻ em. Trẻ em không thể thực hiện
một hành vi tự do để chấp nhận đức tin ; chúng chưa thể tự mình tuyên xưng đức
tin, vì thế cha mẹ và người đỡ đầu tuyên xưng nhân danh chúng. Vì đức tin được
sống trong cộng đoàn Giáo Hội, trong cái “chúng ta” của cộng đoàn. Vì thế đứa
trẻ có thể được nâng đỡ bởi những người khác, bởi cha mẹ và người đỡ đầu, và
được tiếp nhận trong đức tin của họ, cũng chính là đức tin của Giáo Hội, được
tượng trưng bởi ánh sáng thắp lên từ cây nến phục sinh. Như thánh Augustinô
nói, cha mẹ được kêu gọi không chỉ sinh ra những đứa con, nhưng còn mang chúng
đến với Thiên Chúa, để qua bí tích Thánh tẩy, chúng được tái sinh làm con cái
Thiên Chúa và nhận lãnh hồng ân đức tin.[38] Như thế, cùng với sự sống, các trẻ nhỏ đã có được một định
hướng nền tảng và nhận được một bảo đảm cho tương lai tốt đẹp, định hướng ấy
sau này sẽ được kiện cường trong bí tích Thêm sức với ấn tín của Chúa Thánh
Thần.
44. Tính
cách bí tích của đức tin được diễn đạt rõ nhất trong bí tích Thánh Thể. Thánh
Thể là lương thực quý báu cho đức tin, là cuộc gặp gỡ với Đức Kitô thật sự hiện
diện trong hành vi cao cả nhất của tình yêu, là chính Người được trao ban để
mang lại sự sống. Trong bí tích Thánh Thể, chúng ta nhìn thấy giao điểm của hai
trục chính của đức tin. Trước tiên là trục lịch sử : bí tích Thánh Thể là một
hành vi tưởng niệm, hành vi hiện tại hóa mầu nhiệm, trong đó quá khứ, ở đây là
biến cố chết và phục sinh, tỏ rõ khả năng khai mở tương lai, dọn đường trước
cho sự thành toàn chung cuộc. Phụng vụ nhắc nhớ điều này bằng thuật ngữ hodie,
“ngày hôm nay” của mầu nhiệm cứu độ. Trục thứ hai chính là đường dẫn từ thế
giới hữu hình sang thế giới vô hình. Trong bí tích Thánh Thể,chúng ta học cách
nhìn thấy chiều sâu thẳm nhất của thực tại. Bánh rượu được biến đổi thành Mình
Máu Đức Kitô, Đấng luôn hiện diện trong cuộc hành trình vượt qua của Người về
với Chúa Cha : chuyển động này đưa chúng ta, cả hồn lẫn xác, vào trong chuyển
động của toàn thể thụ tạo hướng tới sự viên mãn trong Thiên Chúa.
45. Khi
cử hành các bí tích, Giáo Hội chuyển giao ký ức của mình, đặc biệt qua việc
tuyên xưng đức tin. Việc tuyên xưng này không chỉ thừa nhận bộ sưu tập những
chân lý trừu tượng. Nhưng trái lại, với lời tuyên xưng đức tin, toàn thể đời
sống được đưa vào cuộc hành trình đi đến sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa
hằng sống. Chúng ta có thể nói rằng,trong kinh Tin Kính, các tín hữu được mời
gọi để đi vào trong mầu nhiệm họ tuyên xưng và để được biến đổi nhờ những điều
họ tuyên xưng. Để hiểu ý nghĩa của xác quyết này, chúng ta trước tiên hãy nhìn
vào nội dung của kinh Tin Kính. Kinh này có một cấu trúc ba ngôi : Chúa Cha và
Chúa Con được kết hiệp trong Thánh Thần tình yêu. Như thế, người tín hữu xác
tín rằng tâm điểm của sự hiện hữu, huyền nhiệm cao cả nhất của tất cả thực tại,
chính là sự hiệp thông thần linh. Kinh Tin Kính cũng chứa đựng lời tuyên xưng
mang tính Kitô học : từ những mầu nhiệm của cuộc đời Đức Kitô, cái chết, phục
sinh và lên trời, cho đến việc Người lại đến trong vinh quang. Như thế,Thiên
Chúa hiệp thông, tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh
Thần, có thể ôm ấp và đưa tất cả lịch sử nhân loại vào trong sức năng động của
sự thông hiệp, khởi nguồn từ Chúa Cha và hướng đến đích điểm chung cuộc là
chính Ngài. Người tuyên xưng đức tin được đưa vào chân lý họ tuyên xưng. Khi
đọc kinh Tin Kính cách thành tâm, chắc chắn họ sẽ được biến đổi, được đưa vào
một cuộc tình liên quan đến họ, đang làm triển nở cuộc sống, làm cho họ trở nên
thành viên của sự hiệp thông cao cả, là phần tử của chủ thể tối hậu đang đọc
kinh Tin Kính, chính là Giáo Hội. Tất cả những chân lý phải tin đều quy hướng
về mầu nhiệm sự sống mới của đức tin như lối đường đưa tới sự hiệp thông với
Thiên Chúa hằng sống.
Đức
tin, cầu nguyện và thập điều
46. Trong
sự chuyển giao trung thành ký ức của Giáo Hội còn có hai yếu tố thiết yếu khác.
Trước tiên, đó là lời kinh của Chúa, kinh “Lạy Cha”. Trong lời kinh này, người
Kitô hữu học được cách thông dự vào kinh nghiệm thiêng liêng của chính Đức Kitô
và bắt đầu nhìn với đôi mắt của Người. Chính nhờ Đấng là Ánh sáng bởi Ánh sáng,
là Con Một Đức Chúa Cha, chúng ta cũng nhận biết Thiên Chúa và có thể thắp lên
nơi người khác ước muốn đến gần Ngài.
Sự
liên kết giữa đức tin và thập điều cũng thật quan trọng. Như đã nói, đức tin
mang hình ảnhcủa một cuộc hành trình, một lối đường phải trải qua, hướng đến
cuộc gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống. Chính vì thế, trong ánh sáng của đức tin, của
sự tín thác hoàn toàn vàoThiên Chúa cứu độ, Thập điều có được chân lý sâu xa
nhất của nó, được chứa đựng trong những lời dẫn nhập vào mười giới răn : “Ta là
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Aicập” (Xh 20,2). Thập điều không phải là một
bộ những mệnh lệnh mang tính cấm đoán, nhưng là những chỉ dẫn cụ thể để ra khỏi
sa mạc của cái “tôi” vị kỷ và đóng kín để đi vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa,
được lòng thương xót của Ngài ôm ấp, để rồi trở nên chứng nhân của lòng thương
xót đó. Như thế, đức tin tuyên xưng tình yêu Thiên Chúa, nguồn gốc và cột trụ
của mọi sự, để cho tình yêu ấy hướng dẫn đi tới sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên
Chúa. Thập điều nên như lối đường của lòng biết ơn, như lời đáp trả tình yêu,
đây là điều có thể thực hiện được vì trong đức tin, chúng ta dễ lĩnh hội kinh
nghiệm về tình yêu có sức biến đối của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Và lối
đường này tiếp nhận ánh sáng mới từ lời dạy dỗ của Đức Giêsu trong Bài giảng
trên núi (x. Mt 5–7).
Chúng
ta vừa đề cập đến bốn yếu tố bao gồm kho tàng ký ức được Giáo Hội chuyển giao :
tuyên xưng đức tin, cử hành bí tích, con đường thập điều, và cầu nguyện. Khoa
huấn giáo của Giáo Hội theo truyền thống được biên soạn xoay quanh bốn yếu tố
ấy, kể cả quyển Giáo lý của Hội ThánhCông giáo, một tài liệu chính thức của việc phối
kết ấy, nhờ đó, Giáo Hội truyền đạt toàn bộ nội dung đức tin : “Tất cả những gì
Giáo Hội là và tất cả những điều Giáo Hội tin”.[39]
Tính
duy nhất và toàn vẹn của
đức tin
47. Tính
duy nhất của Giáo Hội trong thời gian và không gian được liên kết với tính duy
nhất của đức tin : “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, ... một đức tin” (Ep 4,4-5). Ngày nay chúng ta có
thể thấy một nhóm người cùng làm việc chung, tương trợ lẫn nhau, chia sẻ cùng
một định mệnh và hướng đến cùng một mục tiêu. Nhưng chúng ta khó mà quan niệm
về tính duy nhất trong một chân lý. Dường như một duy nhất tính như thế không
tương hợp với sự tự do của tư tưởng và sự tự quản của cá nhân. Tuy nhiên, kinh
nghiệm của tình yêu cho chúng ta thấy rằng vẫn có thể có được một tầm nhìn
chung, bởi lẽ trong tình yêu, chúng ta học cách nhìn thực tại với đôi mắt của
người khác, và điều đó không làm cho chúng ta trở nên nghèo nàn, nhưng làm
phong phú tầm nhìn của chúng ta. Với mức độ của tình yêu Thiên Chúa, tình yêu
chân chính đòi hỏi chân lý, và trong cái nhìn chung về chân lý,chính là Đức
Giêsu, tình yêu ấy trở nên vững bền và sâu sắc. Tính duy nhất của tầm nhìn
trong cùng một thân thể và một tinh thần chính là niềm vui lớn lao của đức tin.
Thánh Lêô Cả đã có thể nói : “Nếu đức tin không phải là duy nhất thì đó không
phải là đức tin”.[40]
Đâu
là cốt lõi của tính duy nhất này ? Chỉ có một đức tin, trước tiên, vì Thiên
Chúa, Đấng chúng ta nhận biết và tuyên xưng, là duy nhất. Tất cả các tín điều
đều nói về Thiên Chúa, đó là những con đường để nhận biết bản tính và hành động
của Ngài, vì thế, tính duy nhất của các tín điều cao vượt hơn bất kỳ tính duy
nhất nào do lý trí con ngườinghĩ ra ; chính duy nhất tính của các tín điều làm
chúng ta nên phong phú, vì được trao ban cho chúng ta và làm chúng ta nên
một.
Hơn
nữa, đức tin chỉ là một, vì hướng đến một Chúa, đến đời sống của Đức Giêsu, đến
lịch sử cụ thể mà Người chia sẻ với chúng ta. Thánh Irênê thành
Cuối
cùng, đức tin là một, vì được chia sẻ bởi toàn thể Giáo Hội, vốn là một thân
thể và một Thần khí. Trong sự hiệp thông của một chủ thể duy nhất là Giáo Hội,
chúng ta nhận được một cái nhìn chung. Bằng việc tuyên xưng cùng một đức tin,
chúng ta đứng vững trên cùng một tảng đá, chúng ta được cùng một Thần khí tình
yêu biến đổi, chúng ta tỏa chiếu cùng một ánh sáng và chúng ta có cùng một nhận
thức về thực tại.
48. Vì
chỉ là một, nên đức tin phải được tuyên xưng trong tất cả sự tinh tuyền và toàn
vẹn. Chính vì tất cả các tín điều được nối kết với nhau, nên từ chối một tín
điều, ngay cả những điều dường như ít quan trọng hơn, cũng đều làm phương hại
đến toàn thể. Mỗi thời đại có thể cảm thấy dễ dàng hay khó khăn hơn trong việc
chấp nhận điểm này hay điểm kia của đức tin : vì thế điều quan trọng là phải
tỉnh thức để kho tàng đức tin được chuyển giao cách toàn vẹn (x. 1Tm 6,20), và để tất cả các khía
cạnh của việc tuyên xưng đức tin được nhấn mạnh cách thích đáng. Vì sự duy nhất
của đức tin cũng là sự duy nhất của Giáo Hội, nên bỏ đi một điều gì đó của đức
tin cũng là bỏ đi một điều gì đó của chân lý về sự hiệp thông. Các Giáo phụ mô
tả đức tin như một thân thể, thân thể của chân lý,gồm có những chi thể khác
nhau, hiểu theo cách loại suy với thân mình Đức Kitô được tiếp tục thể hiện
trong Giáo Hội.[42] Tính
toàn vẹn của đức tin cũng được liên kết với hình ảnh của Giáo Hội như một trinh
nữ và sự trung tín của nàng trong tình yêu đối với Đức Kitô, lang quân của mình
: hủy hoại đức tin cũng có nghĩa là hủy hoại sự hiệp thông với Chúa.[43] Như thế, sự duy nhất của đức tin là sự duy
nhất của một thân thể sống động, như chân phước John Henry Newman đã nhấn mạnh
khi đề cập đến một trong những đặc điểm để nhận ra tính liên tục của giáo lý
trong thời gian, đó là sự duy nhất này có khả năng tiếp thu tất cả những gì gặp
thấy trong những môi trường khác nhau và những nền văn hóa khác nhau,[44] thanh
luyện và làm cho tất cả các điều ấy có được sự diễn đạt chính xác hơn. Như thế,
đức tin là phổ quát, là công giáo, vì có ánh sáng luôn tỏa rộng để chiếu soi
toàn thể vũ trụ và toàn bộ lịch sử.
49. Để
phục vụ tính duy nhất và sự chuyển giao đức tin toàn vẹn, Chúa Giêsu đã ân ban
cho Giáo Hội sự kế vị tông đồ. Với phương cách này, tính liên tục của ký ức
Giáo Hội được bảo đảm và chúng ta có thể chắc chắn tìm đến
ngọn nguồn trong vắt, nơi đức tin đã được khởi sinh. Sự chắc chắn về mối liên
hệ gắn kết với cội nguồn được thực hiện bởi những con người sống động, điều này
thật phù hợp với đức tin sống động được Giáo Hội chuyển giao. Điểm tựa của Giáo
Hội chính là sự trung thành của các chứng nhân được Chúa chọn cho công việc
này. Vì thế, Huấn quyền luôn lên tiếng trong sự vâng phục với Lời nguyên thủy làm
nên nền tảng của đức tin, và Huấn quyền là khả tín vì tin tưởng vào Lời đã được
lắng nghe, gìn giữ và giải thích.[45] Trong diễn từ tạm biệt các trưởng lão của Êphêsô tại Milet,
được thánh Luca thuật lại trong sách Công vụ Tông đồ, thánh Phaolô chứng thực
rằng ngài đã hoàn thành trách vụ Chúa đã ủy thác, “là rao giảng cho anh em tất
cả ý định của Thiên Chúa” (Cv 20,27). Nhờ Huấn quyền của Giáo
Hội, ý định này được chuyển trao cách toàn vẹn cho chúng ta, cùng với niềm vui
của việc thi hành trọn vẹn ý định ấy.
CHƯƠNG BỐN
THIÊN
CHÚA CHUẨN BỊ CHO HỌ MỘT THÀNH ĐÔ
(x. Dt 11,16)
Đức
tin và công ích
50. Khi
trình bày lịch sử các tổ phụ và những người công chính trong Cựu ước, thư gửi
tín hữu Do Thái nêu rõ một khía cạnh cốt yếu nơi đức tin của các ngài. Đức tin
đó được trình bày không chỉ như một hành trình, nhưng còn như một công trình
xây dựng, chuẩn bị một nơi trong đó con người có thể sống với người khác. Người
xây dựng thứ nhất là ông Noê, người đã cứu gia đình mình trong một chiếc tàu
(x. Dt 11,7). Rồi đến Abraham, người nhờ đức tin chấp
nhận sống nơi lều tạm, trong khi chờ đợi thành đô có nền móng vững chắc (x. Dt 11,9-10). Từ đức tin nảy sinh
một thái độ tín thác mới, một sự vững chắc mới, mà chỉ riêng một mình Thiên
Chúa mới có thể trao ban. Nếu con người đức tin nương tựa vào Thiên Chúa của
lời Amen, Thiên Chúa trung thành (x. Is 65,16),
và nhờ đó trở nên kiên định, chúng ta có thể nói thêm rằng sự kiên định của đức
tin cũng quy chiếu về thành đô được Thiên Chúa chuẩn bị cho con người. Đức tin
cho biết những mối dây liên kết giữa con người với nhau có thể bền vững như thế
nào khi Thiên Chúa hiện diện ở giữa họ. Đây không chỉ là sự kiên định bên
trong, một sự xác tín vững chắc về phía người tín hữu ; đức tin cũng chiếu soi
những mối tương giao nhân loại vì đã được sinh ra từ tình yêu và mang sức năng
động của chính tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa khả tín ban cho con người một
thành đô khả tín.
51. Chính
vì được liên kết với tình yêu (x. Gl 5,6),
ánh sáng đức tin một cách cụ thể được đặt phục vụ sự công bằng, lề luật và bình
an. Đức tin sinh ra từ cuộc gặp gỡ với tình yêu nguyên sơ của Thiên Chúa, trong
đó sự thiện hảo và ý nghĩa của đời sống chúng ta được bộc lộ rõ ràng ; cuộc
sống ấy được chiếu sáng tùy theo mức độ tiếp nhận sức mạnh đầy năng động được
khai mở bởi chính tình yêu ấy, trở thành lối đi và cách thức hành động trong
tình yêu sung mãn. Ánh sáng đức tin có thể lượng giá sự phong phú của những
tương giao nhân loại, khả năng chịu đựng, trở nên đáng tin, làm giầu cho đời
sống chung. Đức tin không kéo chúng ta ra khỏi thế giới, cũng như làm chúng ta
vô tâm đối với sự dấn thân hoạt động thật đặc biệt của những con người trong
thời đại chúng ta. Nếu thiếu vắng một tình yêu đáng tin tưởng, sẽ chẳng còn
điều gì có thể giữ cho con người được hiệp nhất. Lúc đó sự hiệp nhất giữa chúng
ta chỉ mang tính thực dụng, vụ lợi, do sợ hãi, chứ không còn đặt nền trên hạnh
phúc của việc sống chung với nhau, hay trên niềm vui chỉ vì có sự hiện diện của
người khác. Đức tin giúp nhận ra cấu trúc của những mối tương giao nhân loại,
vì đức tin có nền tảng tối hậu và cứu cánh chung cuộc trong Thiên Chúa và trong
tình yêu của Ngài, từ đó chiếu sáng công trình xây dựng các mối tương giao,
phục vụ cho công ích. Đức tin là ân huệ cho tất cả mọi người, một ân huệ chung,
ánh sáng đức tin không chỉ chiếu soi bên trong Giáo Hội, cũng không chỉ dùng để
xây dựng thành đô vĩnh cửu đời sau ; đức tin cũng giúp chúng ta xây dựng các
cộng đồng xã hội, để cùng tiến bước về một tương lai tràn đầy hy vọng. Thư gửi
tín hữu Do Thái nêu lên một thí dụ về điều này khi nói đến những con người của
đức tin, đã nhắc đến Samuel và David, những người nhờ đức tin đã có thể
"thực thi sự công chính" (Dt 11,33).
Diễn đạt này quy chiếu về sự công chính của họ trong việc cai trị, về sự khôn
ngoan mang lại bình an cho dân chúng (x. 1Sm 12,3-5
; 2Sm 8,15). Những
đôi tay của đức tin hướng lên trời cao, nhưng cùng lúc cũng xây dựng trong đức
ái một thành đô, dựa vào những mối tương quan được đặt nền trên tình yêu Thiên
Chúa.
Đức
tin và gia đình
52. Nói
về cuộc hành trình của Abraham hướng tới thành đô tương lai, thư gửi tín hữu Do
Thái nhắc đến phúc lành được chuyển giao từ cha tới con (x. Dt 11,20-21). Gia đình chính là
khung cảnh đầu tiên trong đó đức tin soi sáng cho thành đô con người. Chúng ta
nghĩ ngay đến sự kết hợp bền vững của người nam và người nữ trong hôn nhân. Sự
kết hợp này khởi sinh từ tình yêu của cả hai, như dấu chỉ và sự hiện diện của
chính tình yêu Thiên Chúa, từ thái độ hiểu biết và đón nhận sự thiện hảo nơi
những khác biệt phái tính, nhờ đó vợ chồng trở thành một thân xác (x. St 2,24), có thể sinh ra một đời
sống mới, tỏ lộ sự thiện hảo, khôn ngoan và kế hoạch yêu thương của Tạo Hóa.
Được đặt nền trên tình yêu này, người nam và người nữ có thể đoan hứa trao cho
nhau tình yêu hỗ tương trong một cử chỉ can dự đến toàn thể đời sống và nhắc
đến nhiều dấu chỉ của đức tin. Việc đoan hứa yêu thương suốt đời là điều có thể
thực hiện được khi chúng ta nhận ra một kế hoạch lớn hơn những dự định riêng
của chúng ta, một kế hoạch sẽ nâng đỡ và cho phép chúng ta trao phó cả tương
lai cho người chúng ta yêu thương. Đức tin còn giúp hiểu thấu ý nghĩa sâu xa và
phong phú của việc sinh con, khi nhận ra ở đó tình yêu của Đấng Tạo Hóa, Đấng
trao phó cho chúng ta mầu nhiệm của một nhân vị mới. Chính như thế mà Sara đã
được làm mẹ nhờ vào đức tin của bà, trong niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng
luôn trung thành với lời Ngài đã hứa (x. Dt 11,11).
53. Trong
gia đình, đức tin có mặt nơi mọi lứa tuổi, kể từ tuổi thơ : trẻ em học biết tín
thác vào tình yêu của cha mẹ. Vì thế, cha mẹ phải thật quan tâm đến việc vun
đắp những thực hành đức tin chung trong gia đình, những thực hành giúp làm
trưởng thành đức tin của con cái. Đặc biệt những người trẻ, đang trải qua một
lứa tuổi rất phức tạp nhưng thật phong phú và quan trọng đối với đức tin, phải
quan tâm đến sự gần gũi và trợ giúp của gia đình cũng như cộng đoàn Giáo Hội,
để được trưởng thành trong đức tin. Trong những ngày Giới trẻ Thế giới, tất cả
chúng ta đã thấy cách các bạn trẻ bày tỏ niềm vui trong đức tin, muốn sống đức
tin ngày càng vững chắc và quảng đại hơn. Những người trẻ muốn có một cuộc sống
cao cả. Khi gặp gỡ Đức Kitô, khi để cho tình yêu Người nắm giữ và hướng dẫn,
chân trời cuộc sống sẽ được rộng mở, niềm hy vọng vững chắc không hề thất vọng
sẽ được trao ban. Đức tin không phải là nơi ẩn náu của những kẻ nhát gan, nhưng
là nhân tố làm triển nở cuộc sống. Đức tin giúp chúng ta nhận ra một tiếng gọi
tuyệt vời, tiếng gọi đến với tình yêu, và bảo đảm rằng tình yêu ấy thật đáng
tin, đáng được tiếp nhận, vì được đặt nền trên sự trung thành của Thiên Chúa,
vốn mạnh mẽ hơn sự yếu đuối của chúng ta.
Một
ánh sáng cho đời sống xã hội
54. Được
hấp thụ và đào sâu trong gia đình, đức tin trở thành ánh sáng chiếu soi tất cả
những mối tương giao trong xã hội. Như một kinh nghiệm về tình hiền phụ và lòng
thương xót của Thiên Chúa, đức tin mở rộng con đường của tình huynh đệ. Trong
“thời đại tân tiến” này, con người tìm cách xây dựng một tình huynh đệ phổ quát
dựa trên sự bình đẳng. Tuy nhiên, chúng ta dần dần hiểu rằng tình huynh đệ này
sẽ không sao có được nếu không quy chiếu về người Cha chung như là nền tảng tối
hậu. Cần phải quay về nền tảng đích thực của tình huynh đệ. Lịch sử của đức
tin, từ khi bắt đầu, cũng là lịch sử của tình huynh đệ, dù trong đó vẫn có
những đụng chạm đối kháng. Thiên Chúa gọi Abraham rời khỏi quê hương và hứa
rằng, từ nơi ông, Ngài sẽ lập nên một quốc gia lớn, một dân tộc vĩ đại, được
Thiên Chúa chúc phúc (x. St 12,1-3).
Trong suốt lịch sử cứu độ, con người nhận ra rằng Thiên Chúa muốn cho tất cả
mọi người, với tư cách là anh chị em của nhau, được thông dự vào một lời chúc
phúc duy nhất, phúc lành ấy đã nên sung mãn trong Đức Giêsu, để tất cả được
hiệp nhất nên một. Tình yêu vô biên của người Cha chung được thông truyền cho
chúng ta trong Đức Giêsu, qua sự hiện diện của anh chị em chúng ta. Đức tin dạy
chúng ta nhìn thấy mỗi người anh chị em là một phúc lành được ban cho tôi, và
ánh sáng của khuôn mặt Thiên Chúa chiếu dọi trên tôi qua khuôn mặt của anh chị
em tôi.
Cái
nhìn của đức tin Kitô giáo đã mang đến biết bao ơn phúc cho thành đô của con
người trong cuộc sống chung! Nhờ đức tin, chúng ta hiểu biết phẩm giá độc đáo
của từng nhân vị, điều chưa được tỏ bày trong thời cổ đại. Vào thế kỷ thứ hai,
Celsus, một người ngoại giáo, đã chỉ trích các Kitô hữu vì một ý tưởng theo ông
là ngu xuẩn và ảo tưởng : nghĩ rằng Thiên Chúa đã dựng nên thế giới cho con
người, đặt con người ở đỉnh cao của toàn thể vũ trụ. Ông tự hỏi : "Tại sao
lại bảo rằng [đám cỏ] mọc lên vì con người, hơn là vì những thú vật hoang dã
nhất trong số những loài không có lý trí ?".[46] "Nếu
nhìn vào trái đất từ trên cao, thì có thấy khác biệt gì giữa những hoạt động
của chúng ta và những hoạt động của loài kiến loài ong hay không ?".[47] Tại chính tâm điểm của đức tin theo
Thánh Kinh, chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, sự ân cần cụ thể của Ngài
dành cho từng người, kế hoạch cứu độ liên quan đến toàn thể nhân loại và cả
muôn loài thụ tạo, một kế hoạch với cao điểm là sự Nhập thể, cái Chết và sự
Phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Khi thực tại ấy không được nhận thức rõ ràng, sẽ
thiếu đi tiêu chuẩn để nhận rõ điều làm cho cuộc sống con người nên quý báu và
độc đáo. Con người đánh mất vị trí của mình trong vũ trụ, bị lạc lõng trong
thiên nhiên, trong lúc từ chối trách nhiệm luân lý của mình hoặc tự cho mình là
thẩm phán tuyệt đối, tự ban cho mình quyền thao túng không hạn chế đối với vạn
vật.
55. Ngoài
ra, trong khi tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, đức tin làm cho
chúng ta càng biết tôn trọng thiên nhiên hơn, khi nhận thấy trong đó một bút
pháp nào đó do chính tay Thiên Chúa viết ra, một nơi cư ngụ được trao phó cho
chúng ta bảo vệ và chăm sóc ; đức tin giúp chúng ta tìm ra những mẫu thức cho
sự phát triển, không chỉ dựa trên yếu tố tiện ích và lợi nhuận, nhưng nhìn công
trình tạo dựng như một tặng phẩm mà tất cả chúng ta đều mắc nợ ; đức tin dạy
chúng ta phân định những hình thức đúng đắn trong việc quản trị, khi ý thức
rằng quyền bính đến từ Thiên Chúa để phục vụ công ích. Đức tin cũng khẳng định
rằng con người có thể thực thi việc tha thứ, một việc thường đòi hỏi thời gian,
công sức, kiên nhẫn và nỗ lực : có thể tha thứ khi nhận thức rằng sự thiện hảo
luôn đi trước và mạnh hơn sự dữ, và lời Thiên Chúa dùng để nâng đỡ đời sống
chúng ta thì sâu xa hơn tất cả các thái độ chối từ của chúng ta. Ngoài ra, ngay
cả với một quan điểm thuần túy nhân học, sự hiệp nhất vẫn cao vượt hơn sự đối
kháng ; chúng ta cũng phải nhận trách nhiệm về những đối kháng có liên quan đến
chúng ta, chúng ta phải giải quyết và vượt qua, bằng cách biến đối kháng thành
một mắt xích trong tiến trình đi đến hiệp nhất.
Khi
đức tin suy giảm, những nền tảng của nhân loại cũng có nguy cơ trở nên yếu kém,
như thi sĩ Thomas Sterns Eliot cảnh báo : "Có cần phải nói với bạn điều
này không, đó là ngay cả những thành tựu khiêm tốn, những gì làm bạn tự hào về
một xã hội đầy kiến thức, sẽ khó mà sống sót khi không còn đức tin, một đức tin
đem lại ý nghĩa cho những thành tựu ấy ?".[48] Nếu chúng ta loại bỏ đức tin vào Thiên
Chúa khỏi các thành đô của chúng ta, sự tin tưởng lẫn nhau sẽ suy giảm. Chúng
ta có liên kết với nhau cũng chỉ vì sợ hãi, và sự ổn định sẽ bị lung lay. Trong
thư gửi tín hữu Do Thái, chúng ta đọc thấy : "Thiên Chúa đã không hổ thẹn
để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Ngài đã chuẩn bị một
thành cho các ngài" (Dt 11,16).
"Không hổ thẹn" là một diễn ngữ liên quan đến sự chấp nhận công khai.
Đây là cách để nói rằng Thiên Chúa, qua những hành động cụ thể, công khai tuyên
bố Ngài hiện diện giữa chúng ta, muốn chuẩn nhận tất cả các mối tương giao giữa
con người với nhau. Nhưng có phải là chính chúng ta lại hổ thẹn khi gọi Ngài là
Thiên Chúa của chúng ta ? Có phải là chính chúng ta lại không tuyên xưng điều
ấy cách công khai trong cuộc sống, hoặc không phô bày giá trị cao quý của cuộc
sống chung, điều mà chính Ngài đã cho chúng ta khả năng để thực hiện ? Đức tin
soi sáng đời sống trong xã hội, mang trong mình một ánh sáng mang tính sáng tạo
cho mỗi thời khắc mới của lịch sử, vì đức tin đặt tất cả các biến cố trong mối
liên hệ với cội nguồn và cứu cánh của mọi sự nơi Chúa Cha, Đấng hằng yêu thương
chúng ta.
Sự
an ủi và sức mạnh giữa đau khổ
56. Khi
nhắc lại cho các Kitô hữu ở Côrintô những gian truân và khổ cực của mình, thánh
Phaolô liên kết đức tin với việc rao giảng Tin Mừng. Ngài nói một câu Thánh
Kinh đã ứng nghiệm nơi chính ngài : "Tôi đã tin, nên tôi mới nói" (2 Cr 4,13). Thánh Tông đồ nhắc đến Thánh vịnh 116,
trong đó có câu : "Tôi đã tin cả khi mình đã nói : "Ôi nhục nhã ê chề
!"(c. 10). Đề cập đến đức tin thường cũng sẽ nói đến những gian truân khổ
cực, nhưng chính trong những gian khổ đó, thánh Phaolô nhìn thấy lời loan báo
Tin Mừng thuyết phục nhất, bởi lẽ chính trong sự yếu đuối và đau khổ mà sức
mạnh của Thiên Chúa đã tỏ lộ và được nhận biết, một sức mạnh luôn vượt trên sự
yếu đuối và đau khổ của chúng ta. Chính thánh Tông đồ như bị cái chết đe dọa,
nhưng cái chết đó lại trở thành sự sống cho các Kitô hữu (x. 2 Cr 4,7-12). Trong giờ thử thách, đức tin mang đến ánh
sáng, trong đau khổ và yếu đuối đã tỏ lộ rõ là "chúng tôi không rao giảng
chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa" (2 Cr 4,5). Chương 11 của Thư gửi tín hữu Do Thái được
kết thúc với việc nhắc đến những người đã từng chịu khổ nạn vì đức tin của mình
(x. Dt 11,35-38),
nổi bật giữa những người ấy là Môsê, kẻ đã hứng chịu nỗi ô nhục của người được
xức dầu (x. c. 26). Các Kitô hữu biết là đau khổ không thể bị loại bỏ hẳn, tuy
nhiên nó có thể nhận lấy một ý nghĩa, trở thành hành vi của tình yêu, hành vi
dâng hiến vào tay Thiên Chúa, Đấng không bỏ rơi chúng ta, và như thế, đây chính
là giai đoạn làm tăng trưởng đức tin và tình yêu. Bằng cách chiêm ngắm sự kết
hiệp của Đức Kitô với Chúa Cha ngay trong thời điểm của những đau khổ tột cùng
trên thập giá (x. Mc 15,34),
các Kitô hữu học biết thông dự vào cái nhìn của chính Đức Giêsu. Thế là chính
sự chết đã được chiếu soi và có thể được cảm nhận như tiếng gọi tối hậu của đức
tin, như một lệnh truyền dứt khoát : "Hãy rời bỏ xứ sở" (St 12,1), như lời mời chung cuộc
"Hãy đến!" của Chúa Cha, nơi Ngài chúng ta đặt trọn niềm tín thác để
chính Ngài làm cho chúng ta kiên vững cả trong bước đi cuối cùng.
57. Ánh
sáng đức tin không làm chúng ta quên đi những đau khổ của thế giới này. Những
người đau khổ đã trở thành những trung gian của ánh sáng đối với biết bao nhiêu
tín hữu nam nữ. Như người phong cùi đối với thánh Phanxicô Assisi, hay những
người nghèo đối với chân phước Têrêsa Calcutta. Các ngài thấu hiểu mầu nhiệm đang
hoạt động nơi những người đau khổ. Khi đến với họ, các ngài không thể làm cho
họ hết đau đớn, cũng không thể giải thích cho họ về sự dữ. Đức tin không là một
ánh sáng xua tan tất cả những bóng tối của chúng ta, nhưng là một ngọn đèn dẫn
bước chúng ta trong đêm tối, và điều đó đã đủ để thực hiện cuộc hành trình. Đối
với những người đau khổ, Thiên Chúa không cung cấp những lý lẽ để giải thích
mọi sự, nhưng trao cho họ câu trả lời của Ngài dưới hình thức của một sự hiện
diện đồng hành, của một câu chuyện hạnh phúc gắn liền với mỗi câu chuyện đau
khổ để mở lối cho ánh sáng đi vào. Trong Đức Kitô, chính Thiên Chúa muốn dẫn
chúng ta vào lối đường này và dạy chúng ta cái nhìn của Ngài, để chúng ta có
thể nhìn thấy ánh sáng chiếu soi lối đi ấy. Đức Kitô, sau khi chịu đau khổ,
chính là người "khai mở và kiện toàn lòng tin" (Dt 12,2).
Đau
khổ nhắc nhớ chúng ta rằng sự phục vụ của đức tin cho công ích luôn luôn là một
sự phục vụ của niềm hy vọng, một niềm hy vọng luôn nhìn tới phía trước, biết
rằng chỉ từ Thiên Chúa, từ tương lai đến từ Đức Giêsu phục sinh, xã hội chúng
ta mới có thể tìm thấy những nền tảng chắc chắn và vững bền. Theo nghĩa này,
đức tin được liên kết với đức cậy, bởi lẽ mặc dù nơi cư ngụ tạm thời của chúng
ta đang qua đi, chúng ta có một nơi ở vĩnh cửu đã được Thiên Chúa chuẩn bị
trong Đức Kitô, trong thân mình của Người (x. 2Cr 4,16-5,5). Sức năng động của đức tin, cậy và mến
(x. 1Tx 1,3 ; 1Cr 13,13) làm cho chúng ta quan
tâm đến những lo âu của nhân loại, trong cuộc hành trình đi tới “thành đô do chính
Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng” (Dt 11,10), vì "trông cậy
không gây thất vọng" (Rm 5,5).
Kết
hợp với đức tin và đức ái, đức cậy đưa chúng ta tới một tương lai chắc chắn,
trong một viễn cảnh khác với những đề xướng đầy ảo tưởng của những thần tượng
trần thế, nhưng là một tương lai mang lại cho cuộc sống hằng ngày một sức bật
mới và sức mạnh mới. Đừng để niềm hy vọng bị tước mất, cũng đừng để niềm hy
vọng rã tan vì những giải pháp và đề xướng bộc phát tức thời, những thứ gây trở
ngại cho cuộc hành trình của chúng ta, làm cho thời gian bị vỡ vụn và biến
thành không gian. Thời gian luôn lớn hơn không gian. Không gian ghìm giữ bước
chân, còn thời gian luôn vươn tới tương lai và thúc giục chúng ta lên đường
trong hy vọng.
Mẹ
thật có phúc vì đã tin (Lc 1,45)
58. Trong
dụ ngôn người gieo giống, thánh Luca ghi lại những lời Đức Giêsu giải thích ý
nghĩa của diễn ngữ "đất tốt" : "đó là những kẻ nghe Lời với tấm
lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết
quả" (Lc 8,15).
Trong ngữ cảnh của Tin Mừng Luca, nói đến tấm lòng cao thượng và quảng đại,
luôn quy hướng về Lời đã được nghe và ghi nhớ, phải hiểu đó là một mô tả mặc
nhiên về đức tin của Đức Trinh Nữ Maria. Cũng chính thánh sử Luca nói về ký ức
của Đức Maria, cách thức Mẹ lưu giữ trong lòng tất cả những gì Mẹ đã nghe và đã
thấy, để Lời sinh hoa kết quả trong cuộc đời Mẹ. Mẹ của Chúa là hình ảnh hoàn
hảo của đức tin, như lời thánh Elisabeth : "Em thật có phúc, vì đã
tin" (Lc 1,45).
Nơi
Đức Maria, nữ tử Sion, đã hoàn tất lịch sử đức tin lâu dài của Cựu ước với
những trình thuật về những người nữ đầy lòng tin, nơi họ, bắt đầu với Sara, bên
cạnh các tổ phụ, lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện và sự sống mới được
triển nở. Khi thời gian viên mãn, Lời Thiên Chúa được nói với Đức Maria và Mẹ
nhận lãnh Lời với trọn vẹn con người của Mẹ, trong trái tim của Mẹ, để Lời mặc
lấy xác phàm trong cung lòng Mẹ và được sinh ra như ánh sáng cho nhân loại.
Trong quyển Đối thoại với Tryphon, Thánh tử đạo
Justinô đã có một diễn đạt thật độc đáo khi nói rằng, lúc chấp nhận lời truyền
tin của thiên sứ, Đức Maria đã cưu mang "đức tin và niềm vui".[49] Thật vậy, nơi Mẹ của Đức Giêsu, rõ
ràng đức tin đã mang đầy hoa trái, và khi đời sống thiêng liêng của chúng ta
sinh hoa kết quả, chúng ta cũng được tràn đầy niềm vui, đây là dấu chỉ rõ ràng
nhất về sự cao cả của đức tin. Đức Maria đã hoàn tất cuộc lữ hành đức tin trong
đời sống của Mẹ, bước theo người Con của Mẹ.[50] Nơi
Đức Maria, cuộc hành trình đức tin trong Cựu ước được tiếp bước bằng việc đi
theo Đức Kitô, để được Người biến đổi và tiếp nhận chính cái nhìn của Con Thiên
Chúa nhập thể.
59. Chúng
ta có thể nói rằng, nơi Đức Trinh Nữ Maria, đã diễn ra điều này, như đã nhấn
mạnh trước đây, đó là người tin được gắn kết trọn vẹn vào việc tuyên xưng đức
tin. Vì mối liên hệ mật thiết của Mẹ với Đức Giêsu, Đức Maria cũng được nối kết
chặt chẽ với những gì chúng ta tin. Trong việc cưu mang đồng trinh của Đức
Maria, chúng ta nhận ra dấu chỉ rõ ràng Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Nguồn gốc
vĩnh cửu của Đức Kitô ở nơi Chúa Cha, là Con của Cha theo nghĩa toàn vẹn và độc
nhất ; vì thế, Người được sinh ra trong thời gian mà không có sự can thiệp của
người nam. Là Chúa Con, Đức Giêsu mang đến cho thế giới một khởi đầu mới và một
ánh sáng mới, sự sung mãn của tình yêu trung thành của Thiên Chúa, Đấng trao
ban chính mình cho nhân loại. Ngoài ra, tư cách là mẹ thật sự của Đức Maria sẽ
mang lại cho Con Thiên Chúa một lịch sử nhân loại thật sự, một thân xác thật
sự, trong thân xác đó Người sẽ chết trên thập giá và sống lại từ cõi chết. Đức Maria
sẽ đồng hành với Đức Giêsu đến tận thập giá (x. Ga 19,25), kể từ đó tư cách là mẹ
của Đức Maria trải rộng tới tất cả các môn đệ của Người (x. Ga 19,26-27). Mẹ cũng sẽ hiện diện
trong phòng Tiệc ly sau khi Đức Giêsu phục sinh và lên trời, cùng với các Tông
đồ khẩn cầu Thiên Chúa ban Thánh Thần xuống (x. Cv 1,14). Sức năng động của tình
yêu giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tuôn đổ trong suốt lịch sử chúng
ta ; Đức Kitô lôi kéo chúng ta đến với chính Người để cứu độ chúng ta (x. Ga 12,32). Tâm điểm của đức tin là
lời tuyên xưng về Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, được sinh ra bởi người phụ nữ, đã
cho chúng ta được nhận là con cái Thiên Chúa, nhờ ân huệ Chúa Thánh Thần
(x. Gl 4,4).
60. Chúng
ta hướng về Mẹ Maria, Mẹ của Giáo Hội, Mẹ của đức tin chúng ta, và cùng dâng
lời cầu nguyện.
Lạy
Mẹ, xin hãy trợ giúp đức tin của chúng con.
Xin
mở tai chúng con lắng nghe Lời Thiên Chúa, để nhận ra tiếng Ngài đang mời gọi.
Xin
thức tỉnh nơi chúng con ước muốn bước theo vết chân Ngài, để rời bỏ mảnh đất
riêng của chúng con và tiếp nhận lời hứa của Ngài.
Xin
giúp chúng con để cho tình yêu Ngài chạm đến, để chúng con có thể chạm đến Ngài
trong đức tin.
Xin
giúp chúng con phó thác hoàn toàn cho Ngài, tin vào tình yêu của Ngài, đặc biệt
khi gặp gian truân và thập giá, là những lúc đức tin của chúng con được mời gọi
nên trưởng thành hơn.
Xin
gieo vào đức tin chúng con niềm vui của Đấng phục sinh.
Xin
nhắc chúng con luôn nhớ rằng những người tin không bao giờ cô đơn.
Xin
dạy chúng con nhìn mọi sự với đôi mắt của Đức Giêsu, để Người nên ánh sáng
chiếu soi lối đường chúng con đi.
Và
xin cho ánh sáng đức tin luôn tăng triển nơi chúng con, cho đến khi xuất hiện
ngày không có hoàng hôn, là chính Đức Kitô, Con của Mẹ, Chúa chúng con.
Ban hành tại Rôma, Vương
cung thánh đường thánh Phêrô, ngày 29 tháng 6, lễ trọng kính hai thánh Tông đồ
Phêrô và Phaolô, năm 2013, năm thứ nhất triều đại Giáo hoàng của tôi.
Đức Thánh Cha
Phanxicô
Bản
dịch của UBGLĐT/HĐGMVN
[1] Dialogus cum Tryphone Iudaeo,
121, 2 : PG 6, 758.
[2] Thánh Clêmentê
[3] Brief an Elisabeth
Nietzsche (11 June 1865), trong Werke in drei Bänden,
München, 1954, 953ff.
[4] Paradiso XXIV, 145-147.
[5] Acta Sanctorum, Junii,
I, 21.
[6] “Mặc dù Công Đồng không đề cập
rõ ràng về đức tin, nhưng trang nào cũng nói về đức tin, nhắc đến tính cách
sống động và siêu nhiên của đức tin, công nhận đó là những yếu tố đầy đủ và
vững chắc, trở nên điểm tựa cho những giáo huấn của Công Đồng. Chỉ cần nhắc lại
những văn kiện Công Đồng ... chúng ta có thể thấy được là Công Đồng, dựa vào
giáo thuyết truyền thống của Giáo Hội, đã xác nhận tầm quan trọng thiết yếu của
đức tin, một đức tin đích thực khởi nguồn từ Đức Kitô, và được Huấn quyền Giáo Hội truyền đạt” (ĐGH Phaolô VI,
Buổi triều yết chung [8.3.1967] : Insegnamenti V [1967], 705).
[7] x. CĐ Vaticanô I, Hiến chế về
đức tin công giáo Dei Filius, Ch. 3 : DS 3008-3020 ; CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum,
5 : Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 153-165.
[8] x. Catechesis V, 1 : PG 33, 505A.
[9] In Psal. 32, II, s. I,
9 : PL 36, 284.
[10] M. Buber, Die
Erzählungen der Chassidim, Zürich, 1949, 793.
[11] Émile, Paris, 1966,
387.
[12] Lettre à Christophe de
Beaumont,
[13] x. In Ioh. Evang.,
45, 9 : PL 35, 1722-1723.
[14] Part II, IV.
[15] De Continentia, 4, 11 :
PL 40, 356.
[16] “Vom Wesen katholischer Weltanschauung” (1923),
in Unterscheidung des Christlichen. Gesammelte Studien 1923-1963,
[17] XI, 30, 40 : PL 32, 825.
[18] x. XI, 30, 40 : PL 32, 825-826.
[19] x. Vermischte
Bemerkungen / Culture and Value, ed. G.H. von Wright,
[20] Homiliae in Evangelia,
II, 27, 4 : PL 76, 1207.
[21] x. Expositio super
Cantica Canticorum, XVIII, 88 : CCL, Continuatio
Mediaevalis 87, 67.
[22] Expositio super Cantica
Canticorum, XIX, 90 : CCL, Continuatio Mediaevalis 87,
69.
[23] “Đối với Thiên Chúa, Đấng mạc
khải, con người phải bày tỏ “sự vâng phục bằng đức tin” (Rm 16,26 ; x. Rm 1,5 ; 2 Cr 10,5-6), qua đó, con người tự do
phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa bằng việc “dâng lên Thiên Chúa, Đấng mạc
khải, sự quy phục trọn vẹn của lý trí và ý chí”, và tự nguyện ưng thuận mạc
khải Ngài đã ban. Để có được đức tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước
nâng đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần, Đấng lay chuyển và quy
hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và cho “mọi người cảm thấy dịu
ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý”. Và cũng chính Thánh Thần không ngừng
kiện toàn đức tin bằng các ân huệ của Ngài để giúp con người ngày càng thấu
hiểu mạc khải sâu xa thêm hơn” (CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum, 5).
[24] x. H. Schlier, Meditationen
über den Johanneischen Begriff der Wahrheit, in Besinnung auf das
Neue Testament. Exegetische Aufsätze und Vorträge 2, Freiburg,
[25] x. S. Th. III, q.
55, a. 2, ad 1.
[26] Sermo 229/L (Guelf. 14), 2 (Miscellanea
Augustiniana 1, 487/488) : “Chạm đến bằng trái tim, đó là tin”.
[27] x. Thông điệp Fides et
Ratio (14.9.1998), 73 : AAS (1999),
61-62.
[28] x. Confessiones, VIII,
12, 29 : PL 32, 762.
[29] De Trinitate, XV, 11,
20 : PL 42, 1071 : “lời soi chiếu bên trong”.
[30] x. De Civitate Dei,
XXII, 30, 5 : PL 41, 804.
[31] x. Thánh Bộ Giáo lý Đức
tin, Tuyên ngôn Dominus Iesus (6.8.2000),
15 : AAS 92
(2000), 756.
[32] Demonstratio Apostolicae
Predicationis, 24 : SC 406, 117.
[33] x. Thánh Bônaventura, Breviloquyum, prol.
: Opera Omnia, V, Quaracchi 1891, 201 ; In I Sent., proem,
q. 1, resp. : Opera Omnia, I, Quaracchi 1891, 7; Thomas Aquynas, S.
Th I, q.1.
[34] x. De Baptismo,
20, 5 : CCL 1, 295.
[35] Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum,
8.
[36] x. CĐ Vaticanô II, Hiến chế
về Phụng vụ Sacrosanctum
Concilium, 59.
[37] x. Epistula Barnabae,
11, 5 : SC 172, 162.
[38] x. De Nuptiis et
Concupiscentia I, 4, 5 : PL 44, 413 : “Họ có ý định cho
những đứa con được tái sinh, để những đứa con do họ sinh ra được tái sinh làm
con cái Thiên Chúa”.
[39] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý
về Mặc khải Dei Verbum,
8.
[40] In Nativitate Domini Sermo,
4, 6 : SC 22, 110.
[41] x. Irenaeus, Adversus
Haereses, I, 10, 2 : SC 264, 160.
[42] x. Irenaeus, Adversus
Haereses, II, 27, 1 : SC 294, 264.
[43] x. Thánh Augustinô, De
Sancta Virginitate, 48, 48 : PL 40, 424-425 : “Sự khiết trinh
được bảo toàn nguyên vẹn trong đức tin, nhờ đó Giáo Hội như một trinh nữ được chuẩn
bị đón Phu quân”.
[44] x. An Essay on the
Development of Christian Doctrine (Uniform Edition : Longmans, Green
and Company, London, 1868-1881), 185-189.
[45] x. CĐ Vaticanô II, Hiến chế
tín lý về Mặc khải Dei Verbum,
10.
[46] Origen, Contra Celsum, IV, 75 : SC 136, 372.
[47] Origen, Contra Celsum, IV,85 : SC 136, 394.
[48] "Choruses from The Rock", trong The
Collected Poems and Plays 1909-1950,
[49] x. Dialogus cum Tryphone Iudaeo, 100, 5 : PG 6, 710.
[50] x. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium,
58.