II. LINH MỤC, THẦY DẠY YÊU THƯƠNG

Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình” là chóp đỉnh và trọng tâm của lề luật. Chẳng có điều răn nào khác hơn điều răn đó (x. Mc 12,30-33).

Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8).

Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).

Điều răn đã có từ thuở ban đầu, đó là chúng ta phải yêu thương nhau. Và yêu thương là sống theo điều răn của Thiên Chúa : “Đây không phải là một điều răn mới tôi viết ra, nhưng là điều răn chúng ta đã có từ lúc khởi đầu - đó là : chúng ta phải yêu thương nhau. Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa. Như anh em đã được nghe từ lúc khởi đầu, điều răn này là : anh em phải sống trong tình thương” (x. 2Ga 1,5-6).

Tình yêu của Chúa Kitô là tình yêu tha thứ, phục vụ và hy sinh mạng sống, các môn đệ phải noi gương Người : “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì : đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta.Như vậy, cả chúng ta nữa,chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (x. 1Ga 3, 16).

Ai yêu mến anh em thật lòng là đã yêu mến Chúa rồi, mặc dù không minh nhiên ý thức : “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han… Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (x. Mt 25,34-40).

I. Linh mục, thầy dạy yêu Chúa

1.

+ Linh mục là thầy dạy sống đạo, và sống đạo là thực hiện lệnh truyền của Chúa. Lệnh truyền quan trọng nhất là giới răn yêu thương. Tất cả các giới răn có thể được tóm lại trong hai giới răn nền tảng : mến Chúa và yêu người.

+ Dạy giáo dân “mến Chúa và yêu người” là nhiệm vụ cơ bản nhất của linh mục, là nội dung chủ yếu trong sứ mạng tiên tri của linh mục (giáo dục Dân Chúa). Ơn gọi của người kitô hữu là bước theo Đức Kitô, gắn bó với Người, nên một với Người, để được cùng Người ở trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi, hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa.

+ Chúng ta học sống đạo chủ yếu với Đức Kitô. Mãi mãi Đức Kitô là vị Thầy dạy chúng ta sống đạo sâu xa nhất, và hoàn toàn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa. Sống đạo sâu xa là trở nên người môn đệ không ngừng noi gương Thầy chí thánh, trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy, giống Thầy ở điều sâu thẳm nhất là “tình yêu đối với Chúa Cha”. Đó là điều sâu thẳm nhất nơi Chúa Giêsu, không còn gì sâu thẳm hơn nữa.

2.

+ Linh mục tiếp nối sứ mạng của Đức Kitô, dạy người tín hữu yêu mến Thiên Chúa cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô. Linh mục dạy cho các kitô hữu thực hiện điều răn thứ nhất : “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn”. Không ai có thể thực hiện được điều đó nếu không kết hợp với Đức Kitô. Chỉ có Đức Kitô mới có thể yêu mến Chúa Cha đến thế (yêu hết mình, yêu cho đến cùng, yêu cho đến chết : usque ad finem)

+ Do đó, dạy cho con người yêu mến Thiên Chúa là dạy họ kết hợp với Đức Kitô, nên một với Đức Kitô, để cùng với Đức Kitô yêu mến Thiên Chúa. Dạy cho người tín hữu nên thánh là nhiệm vụ chủ yếu của linh mục. Nên thánh cách cụ thể là yêu mến Chúa Giêsu, gắn bó với Chúa Giêsu, nên một với Chúa Giêsu. Linh mục có nghĩa vụ làm cho giáo dân yêu mến Chúa Giêsu (officium amoris). Đây là một nhiệm vụ rất khó, nếu chính linh mục không có lòng yêu mến Chúa Giêsu.

+ Linh mục phải yêu mến Chúa Giêsu thế nào cho đủ để có thể dạy giáo dân yêu mến Chúa ? Ở đây không thể áp dụng quy luật “nemo dat qod non habet - Không ai cho điều mình không có”. Nếu ứng dụng quy luật này, người linh mục sẽ thất vọng vì thấy mình không bao giờ yêu Chúa đủ để có thể dạy giáo dân yêu mến Chúa. Tự mình, linh mục không thể thực hiện nghĩa vụ làm thầy (magister : ba lần hơn). Có khá nhiều linh mục thấy như vậy, nghĩ như vậy, nên không còn thực hiện nghĩa vụ chủ yếu của mình nữa (không còn dạy giáo dân yêu Chúa nữa).

3.

+ Thực ra, tự sức mình, không ai có thể tin Chúa và yêu Chúa. Không ai có thể nói Chúa Giêsu là Chúa nếu không bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Dạy giáo dân yêu mến Chúa Giêsu mà không nói đến Chúa Thánh Thần là điều không thể được.

Tình yêu dành cho Chúa Giêsu không là một tình yêu thuần túy tự nhiên, nhưng là một tình yêu siêu nhiên, được thực hiện với ân sủng của Thiên Chúa : “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (Ga 6, 44.66). Yêu Chúa là một hành vi siêu nhiên. Ý nghĩa sâu xa của chữ “siêu nhiên” là : “tự sức mình, con người không thể thực hiện được”, nhưng họ chỉ thực hiện được với sức mạnh của Thiên Chúa, với thần lực của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần.

+ Chúa Thánh Thần là sức mạnh yêu thương (la force d’aimer) của Chúa Cha đối với Chúa Con, và của Chúa Con đối với Chúa Cha. Muốn yêu mến Chúa Giêsu, phải có sức mạnh của Thiên Chúa lôi kéo chúng ta. Chính vì thế, trong nhiệm vụ dạy giáo dân yêu Chúa, linh mục chỉ là dụng cụ của Chúa Thánh Thần. Linh mục là “thầy dạy yêu Chúa” nhờ vị thầy siêu đẳng là Chúa Thánh Thần. Vẫn cần phải có linh mục, vì người ta không thể thấy được Chúa Thánh Thần, mà thấy “dụng cụ hữu hình” của Chúa Thánh Thần là linh mục (officium amoris). Chính vì thế, có những linh mục yêu mến Chúa ít hơn giáo dân mà vẫn có thể dạy giáo dân yêu mến Chúa, vẫn có quyền và có nghĩa vụ dạy giáo dân yêu mến Chúa. Có khi linh mục dạy giáo dân yêu mến Chúa, nhưng chính giáo dân lại yêu mến Chúa hơn linh mục. Và chính linh mục cũng học yêu mến Chúa khi dạy giáo dân yêu mến Chúa.

4.

+ Dù là vị thầy có thể yêu Chúa ít hơn học trò, linh mục vẫn có thể dạy cho học trò yêu Chúa, vì linh mục có vị thầy siêu đẳng là Chúa Thánh Thần, Đấng là Tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con mật thiết đến nỗi trở nên một. Thiên Chúa giàu lòng nhân ái và là Đấng quảng đại hơn con người gấp bội, nên không tiếc ban ân sủng, cũng như lấp đầy tâm hồn của một linh mục còn chút tình yêu thương (còn trong ân nghĩa Chúa, ơn thánh Chúa). Chỉ cần linh mục còn chút thiện chí thì Chúa sẽ rót đầy ân sủng, ban tràn Thánh Thần, để linh mục có thể làm thầy dạy yêu Chúa trong Thánh Thần và cùng với Thánh Thần.

+ Nhưng điều kiện quan trọng là linh mục phải còn ở trong ân nghĩa Chúa, phải có ơn thánh (gratia sanctificans), mới có thể là thầy dạy yêu Chúa. Linh mục không ở trong ân nghĩa Chúa thì không thể là thầy dạy yêu mến Chúa, vì công việc giáo dục của linh mục không thuộc lãnh vực “ex opere operato” (do sự), mà là “ex opere operantis (do nhân).

Thừa tác viên có thể là người rất yếu đuối và khô khan, nhưng vẫn là dụng cụ của Chúa Thánh Thần khi cử hành thánh lễ (do sự). Sứ vụ làm thầy và công việc giáo dục không phải “do sự” (lãnh vực bí tích), mà là “do nhân”. Do đó, kẻ phạm tội trọng không thể thi hành sứ vụ “thầy dạy yêu thương”, nếu chưa hoán cải trong tâm hồn.

5.

+ Linh mục là dụng cụ của Chúa Thánh Thần, nhưng không là dụng cụ bất động, mà là dụng cụ sống động, vẫn là thầy, nên tận dụng những phương pháp tự nhiên cũng như siêu nhiên để thúc giục giáo dân yêu mến Chúa. Linh mục dạy giáo dân yêu mến Chúa Giêsu dựa vào Kinh Thánh, nhất là các sách Tin Mừng, các thư Phaolô và các tác giả Tân Ước khác. Linh mục dạy giáo dân biết Chúa thì họ sẽ yêu mến Chúa. Chúa Thánh Thần là tác giả của Kinh Thánh nên sử dụng Kinh Thánh là sử dụng đường lối giáo dục của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần sẽ hướng trái tim người kitô hữu đến với Đức Kitô, hay có thể nói ngược lại, Chúa Thánh Thần sẽ đưa Đức Kitô vào trong trái tim của người kitô hữu.

+ Chúa Thánh Thần sẽ tháp nhập người tín hữu vào trong mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô (Tử nạn - Phục Sinh), để người tín hữu cùng chết với Chúa và cùng sống lại với Người.

+ Linh mục còn có thể dùng hạnh các thánh để thúc đẩy, tăng cường lòng yêu mến Chúa nơi bổn đạo. Linh mục có thể dùng gương sáng của nhiều người giáo dân tốt lành để xây dựng một cách tế nhị cho các giáo dân khác. Linh mục còn có thể dùng “khoa tu đức” mà mình đã học để giúp giáo dân tiến bước trên con đường tình yêu. Linh mục hãy dạy giáo dân cách tiếp xúc với Chúa, để nhờ gặp gỡ Chúa, họ thêm lòng yêu mến Chúa.

6.

+ Linh mục còn phải giúp giáo dân kinh nghiệm được tình yêu của Chúa trong Giáo hội và qua Giáo hội. Chẳng ai thấy Thiên Chúa. Nhưng người ta sẽ kinh nghiệm được phần nào tình yêu của Thiên Chúa qua tình thương của linh mục. Dù khuyết điểm, bất toàn và nhiều yếu đuối, linh mục nào yêu mến giáo dân sẽ có nhiều cơ may làm cho giáo dân kinh nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa và đáp trả lại tình yêu ấy. Linh mục yêu mến giáo dân sẽ làm cho giáo dân vui sướng, vì cảm thấy Thiên Chúa thương mình, Giáo hội thương mình. Cách dạy yêu Chúa hữu hiệu nhất chính là chứng từ đời sống yêu thương của linh mục. Linh mục có thể khô khan như người giáo dân, vì linh mục không thấy Chúa. Nhưng giáo dân được trao phó cho linh mục, thì linh mục thấy, và linh mục phải yêu thương những con người ấy, yêu Chúa ở trong họ. Chính tình yêu cụ thể dành cho giáo dân là bằng chứng tình yêu Chúa của linh mục. Càng yêu mến nhiều người giáo dân nghèo nàn, tội lỗi, linh mục càng biểu hiện lòng yêu mến Chúa (tránh mục vụ trừng phạt, quở mắng, chùy những giáo dân chống đối, nhưng nên ứng dụng mục vụ con chiên lạc).

II. Linh mục, thầy dạy yêu người (bác ái)

1. Linh mục, thầy dạy tình yêu tự nhiên

+ Không có gì cao quí bằng tình yêu, dù tình yêu ấy thuộc phạm vi tự nhiên. Tình yêu ấy cần được linh mục trân trọng và khuyến khích. Linh mục phải luôn thúc đẩy tình yêu cha mẹ, vợ con của giáo dân, giúp họ củng cố đời sống hôn nhân gia đình.

+ Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, trong thông điệp “Deus caritas est - Thiên Chúa là Tình Yêu”, không chấp nhận tách rời tình yêu tự nhiên (eros) và tình yêu siêu nhiên (agape), nhưng xem tình yêu siêu nhiên có tác dụng thanh luyện tình yêu tự nhiên, để tình yêu tự nhiên không rơi vào ích kỷ, đóng kín, và hưởng thụ, mà giúp cho tình yêu tự nhiên hướng tới chóp đỉnh cao đẹp nhất là tình yêu tự hiến.

+ Để giúp củng cố và thanh luyện tình yêu tự nhiên của giáo dân, linh mục phải tỏ ra gần gũi và biết chia sẻ đời sống của họ, những vui buồn và sướng khổ của họ. Dĩ nhiên, linh mục cũng cần một sự khôn ngoan và cẩn trọng để khỏi gây ra hiểu lầm và tạo thêm chia rẽ giữa vợ chồng, hoặc tạo ra những gương mù gương xấu có thiệt hại lớn cho đời sống gia đình của giáo dân.

+ Hơn bao giờ hết, ngày nay tình yêu tự nhiên và các giá trị nhân bản cần được linh mục đề cao, để người ta thấy sự gần gũi giữa đạo và đời sống, thấy được sự hiện diện của Chúa trong đời sống thực tế hằng ngày của con người. Đừng để cho giáo dân có cảm tưởng Chúa quá xa lạ với nhu cầu thực tế của con người, những nhu cầu căn bản nhất như “nhu cầu tình cảm”.

+ Linh mục còn có thể giúp cho giáo dân điều chỉnh các mối tương quan chằng chịt trong cuộc sống, làm cho các tương quan ấy trong sáng, tốt đẹp và đúng đắn, không lệch lạc, giúp giải toả nhiều hiểu lầm gây tai hại, nối kết lại những gì đã đổ vỡ. Khoa tâm lý có thể giúp ích nhiều cho linh mục.

2. Linh mục, thầy dạy bác ái siêu nhiên

+ Sứ vụ của linh mục không dừng lại ở bình diện giáo dục tự nhiên. Mọi nhà giáo chính danh đều được mời gọi xây dựng và giáo dục tình người. Linh mục là một nhà giáo đặc biệt, dạy những điều vượt trên bình diện tự nhiên. Linh mục là thầy dạy bác ái siêu nhiên. Và chỉ có bác ái siêu nhiên mới có thể vượt mọi ranh giới : ranh giới của hận thù, ranh giới của tội lỗi và ích kỷ, ranh giới của sự chết.

+ Trong “bài ca đức ái” của thánh Phaolô (x.1Cr 13), “lòng mến” hay “đức ái” phải được hiểu theo một nghĩa hoàn toàn siêu nhiên, thì mới có thể chấp nhập được. Bác ái là “yêu thương như Thiên Chúa” (1Ga 4,11), yêu thương như Đức Kitô (x. Ga 15,12). Đó là một đòi hỏi quá lớn, tự sức mình con người không thể làm được; chỉ có một cách duy nhất là nhờ Chúa Thánh Thần, là “sức mạnh yêu thương” của Thiên Chúa, ở trong chúng ta, yêu mến trong chúng ta. Chúng ta chỉ có thể yêu thương như Thiên Chúa, khi yêu thương bằng chính tình yêu của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần được đổ xuống trong lòng chúng ta : “Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài đã ban cho chúng ta” (Rm 5,5).

3.

+ Linh mục phải dạy giáo dân yêu người như Thiên Chúa yêu, như Chúa Giêsu yêu. Điều này xem ra không thể thực hiện được, nếu chỉ dừng lại ở góc độ tự nhiên. Người kitô hữu phải tập yêu mến bằng đức ái siêu nhiên, nếu không mọi sự sẽ là vô ích : “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,1-3).

+ Và linh mục là người phải dạy giáo dân thực hành đức bác ái siêu nhiên ấy. Vì đức ái siêu nhiên vượt trên mọi khả năng tự nhiên của linh mục, nên linh mục không thể tự mình dạy cho giáo dân sống bác ái được. Cần phải có vị thầy dạy khác hoạt động qua linh mục, đó là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là một vị Thầy kỳ diệu, và là một Tình Yêu kỳ diệu mà Thiên Chúa ban cho những ai yêu mến Ngài. Những ai yêu mến Chúa thì được chia sẻ tình yêu của Chúa, sống bằng tình yêu của Chúa, yêu bằng tình yêu của Chúa. Linh mục phải là một con người có lòng yêu mến Chúa, thì mới có thể dạy đức ái siêu nhiên.

+ Khi gọi “lòng mến” là đức ái siêu nhiên, ta không cố ý loại trừ những yếu tố tự nhiên. Nhưng tất cả những gì tốt đẹp trong tình yêu tự nhiên đều được đảm nhận và thăng hoa trong đức ái siêu nhiên, như những đặc điểm của đức ái mà Phaolô kê khai ra : “Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tuông, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác” (1Cr 13,4-7).

4.

+ Rõ ràng ở đây tự nhiên và siêu nhiên không đi ngược với nhau, nhưng hoà lẫn với nhau, bao bọc lẫn nhau, phong phú hoá cho nhau, vì cả hai đều có cùng cội nguồn là Thiên Chúa Tình Yêu. Tập cho giáo dân sống bác ái siêu nhiên là tập cho họ siêu nhiên hóa, phúc âm hóa mọi ngỏ ngách của con người và cuộc sống họ.

+ Linh mục phải tập cho giáo dân sống bác ái trong tâm tình, phúc âm hóa lãnh vực tình cảm của họ. Tập cho giáo dân biết kính trọng người khác, chấp nhận người với những khác biệt của họ, biết đón nhận người khác vào trong trái tim mình (biết tự hiến đời mình cho tha nhân).

+ Phải tập cho giáo dân biết “phúc âm hóa” tư tưởng của họ. Người ta thường lỗi đức bác ái rất nhiều trong tư tưởng và phán đoán. Linh mục tập cho giáo dân phán đoán ngay lành, xóa bỏ thành kiến. Linh mục tập cho giáo dân “bao dung trong phê phán”, nhờ đó tránh ngộ nhận, tránh cái nhìn và ý nghĩ đen tối về người khác.

+ Linh mục cũng phải tập cho giáo dân “bác ái trong lời nói”, vì người ta thường đả thương nhau bằng lời nói, làm mất lòng nhau vì lời nói, và thậm chí đưa tới xung đột nặng nề do lời nói. Linh mục tập cho giáo dân biết nói những lời khích lệ, an ủi, thông cảm, chia sẻ với nhau. Linh mục tập cho giáo dân biết nói những lời làm vui lòng người khác, những lời xây dựng, bày tỏ sự thật để góp ý thăng tiến người khác, xây dựng lợi ích chung.

Cuối cùng, linh mục phải tập cho giáo dân thực hành các hành vi bác ái như : những hành vi giúp đỡ và phục vụ, những hành vi tha thứ và hòa giải, những hành vi chia sẻ và tự hiến. Người kitô hữu phải được tập luyện để có thể làm nhiều điều đẹp lòng Chúa và đẹp lòng tha nhân.


Mục Lục