Bài 3:

Hội Thánh Tại Gia Trong Thư Phaolô

                                                                                                   L.m G.B. Ngô Đình Tiến

 

Qua các trang thư của ngài, thánh Phaolô có một cái nhìn rất phong phú về Hội thánh tại gia. Đây là một hình ảnh Kinh Thánh về Hội thánh sơ khai.

Hội thánh tại gia (house churches)[1] là một hình ảnh Kinh Thánh về Hội thánh sơ khai, có những nét đặc trưng về văn hoá và tôn giáo của những thế kỷ đầu Kitô giáo cũng như mang những dấu ấn đặc biệt của Phaolô. Vì thế, đề tài được chọn để tìm hiểu chủ đề “Phaolô, nhà giáo dục đức tin”. Bài trình bày gồm hai phần: - Những nét tổng quát về Hội thánh tại gia trong các Thư Phaolô, - một số nhận xét về Hội thánh tại gia nhằm rút ra những áp dụng cho Giáo hội ngày nay.

I. Những nét tổng quát về Hội thánh tại gia


1. Nguồn gốc và sự tiến triển của Hội thánh tại gia


Các tín hữu đầu tiên vẫn tiếp tục tự nhận mình là những người Do Thái đạo đức. Là những kitô hữu gốc Do Thái họ vẫn gắn bó với đền thờ và các thực hành cầu nguyện Do Thái giáo. Nhưng niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh và cảm nghiệm sự hiệp nhất trong Thánh Thần khiến họ dần dần khai triển một hình thức và một địa điểm mới để cùng họp nhau cầu nguyện. Đó là qui tụ cầu nguyện tại tư gia của các kitô hữu, nhất là tại nhà các tín hữu có thế giá trong cộng đoàn, vì không có nơi nào thích hợp hơn. Công vụ Tông đồ nhắc đến các buối cầu nguyện tại tư gia nơi Cv 2, 46 và 5, 42, và đặc biệt là tại nhà của bà Maria, mẹ của Gioan Marcô (Cv 12, 12). Đó là nguồn gốc của Hội thánh họp tại tư gia (house church/oikos ekklesia) vào thời điểm những năm 50 – 60 của Kitô giáo, nổi bật là “Hội thánh tại gia” được trình thuật nơi các thư của thánh Phaolô.


Lý do của sự hình thành Hội thánh tại gia được giải thích như sau. Trong các thế kỷ đầu, nhất là vào thế kỷ 1, Kitô giáo chưa phải là một tôn giáo được chính thức nhìn nhận. Các kitô hữu sơ khai không có nghi thức dâng lễ vật như Do Thái giáo nên không có nhu cầu về đền thờ cũng như chưa có các “linh mục/tư tế” để dâng hy lễ. Họ không có nơi gặp gỡ cầu nguyện chung như hội đường Do Thái giáo, cũng chưa phát triển đủ số lượng cần thiết để xây dựng những nhà thờ riêng biệt. Hơn nữa, số các kitô hữu gốc dân ngoại phát triển mạnh ở một số thành phố nhưng họ lại là tân tòng nên không thể đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng nhà thờ. Vì thế, để qui tụ lại với nhau các kitô hữu trong cùng một vùng đã tổ chức cộng đoàn/hội thánh một cách tương tự như những tổ chức hiện có trong xã hội Hy Lạp - La Mã thời đó (các câu lạc bộ, các hiệp hội tự nguyện) hay tổ chức hội đường Do Thái (synagogue trước hết có nghĩa là sự qui tụ, sau này mới có nghĩa là hội đường tức toà nhà/nơi qui tụ). Các tín hữu sơ khai gọi việc qui tụ hay nhóm họp của họ là ekklesia, có lẽ là để phân biệt với việc qui tụ (synagoge) của người Do Thái. Sử dụng từ Hy Lạp, ekklesia
[2] nhưng từ này không còn mang mầu sắc chính trị của nguyên ngữ, trái lại mang ý nghĩa tôn giáo, nghĩa là dân được Chúa chọn gọi/qui tụ để ra khỏi bóng tối và để sống theo ánh sáng của Đức Kitô cũng như của người môn đệ Chúa (x. 1 Pr 2,9-11). Như thế, từ “ekklesia” diễn tả ý thức của các kitô hữu đầu tiên về việc được Thiên Chúa tuyển chọn và về sứ mạng của họ.


Các tín hữu sơ khai qui tụ tại tư gia (house/home) hay theo hộ gia đình (household) vì trong thế giới Hy - La, hộ gia đình (oikos) là tổ chức và tế bào cơ bản của xã hội, tuy nó vượt ra ngoài phạm vi của gia đình hạt nhân. Tiếng Do Thái và Hy lạp không có từ “gia đình” (family) theo nghĩa của ngày nay. Hộ gia đình (Do Thái và Hy Lạp) thường bao gồm: (1) gia đình mở rộng của chủ hộ/chủ gia đình (cha, mẹ, con, cháu, bà con), (2) đầy tớ và nô lệ làm việc cũng như những công dân tự do có liên hệ gắn bó hay có quan hệ nghề nghiệp, buôn bán với hộ gia đình, (3) và tài sản của gia đình. Hộ gia đình khá giả thường có khu vực phòng ăn và sân
[3] khá rộng rãi là nơi tiếp đón được một số đông người. Ngoài ra, hộ gia đình là một cơ cấu mang tính gia trưởng nghĩa là chủ hộ là nam giới (paterfamilias), tuy nhiên phụ nữ cũng có quyền hành trong một vài lãnh vực của cuộc sống hộ gia đình (x. Cn 31). Cách riêng, hộ gia đình Do Thái nổi bật với việc cầu nguyện (sáng, tối, trước bữa ăn) và dạy giáo lý trong gia đình. Chính tầm quan trọng của hộ gia đình trong xã hội Hy - La giúp giải thích việc đưa qui luật gia đình vào đời sống Hội thánh như thấy trong Thư Côlôsê, Êphêsô, các Thư Mục vụ và 1 Phêrô. Việc áp dụng các qui luật gia đình này một đàng giúp các kitô hữu không coi nhẹ những bổn phận chính đáng của đời sống xã hội, đàng khác cũng giúp giảm bớt nghi ngờ của giới cầm quyền xã hội đối với Kitô giáo nói chung và Hội thánh tại gia nói riêng. Cách chung, giới cầm quyền vẫn coi Kitô giáo là tôn giáo ngoại lai, có thể gây bất ổn cho xã hội. Tuy nhiên, qui luật/chỉ thị về gia đình này được mô tả và áp dụng theo tinh thần Kitô giáo vào cuộc sống và tương quan giữa các thành viên gia đình (x. Cl 3,18-4,1; Ep 5,21 – 6,9, 1 Pr 3).[4] Hội thánh tại gia như một địa điểm hội họp, cầu nguyện tồn tại suốt 3 thế kỷ đầu nhưng như một cơ cấu tổ chức thì Hội thánh tại gia chấm dứt khoảng gần cuối thế kỷ 1.


Trong khoảng thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Kitô giáo tư gia của một vài kitô hữu (khu vực phòng ăn và sân ngay trước phòng ăn) là khung cảnh diễn ra các sinh hoạt của cộng đoàn, là nơi tín hữu gặp gỡ, hội họp, cầu nguyện.
[5] Các ngôi nhà của các hộ gia đình này là nơi chia sẻ và cung cấp nguồn tài nguyên kinh tế cho cộng đoàn và thành viên, là cơ sở hoạt động truyền giáo, là cơ cấu thích hợp cho đời sống người môn đệ Chúa cũng như cho việc lãnh đạo cộng đoàn. Như thế, có thể nói rằng nhà của chủ hộ gia đình vừa là nơi sinh sống của gia đình vừa là nơi hội họp cầu nguyện của cộng đoàn. Nơi ở của gia đình, nhất là khu vực phòng ăn, cung cấp khung cảnh rất thích hợp cho mối quan tâm chính yếu của cộng đoàn tiên khởi. Mối quan tâm này phản ánh việc Chúa Giêsu chọn tầng trên của ngôi nhà để cử hành bữa tiệc ly với các môn đệ, cũng như việc Chúa chọn lựa một “không gian đời thường” làm bối cảnh cho sứ vụ của Ngài và thường xuyên đề cập đến mối liên hệ gia đình với các môn đệ.[6]


Từ hậu bán thế kỷ thứ 2 bắt đầu có sự thay đổi quan trọng. Đó là việc các kitô hữu dành riêng nhà ở của mình để làm nơi hội họp của cộng đoàn, không còn việc sử dụng chung tức là vừa làm nhà ở vừa làm nơi hội họp cầu nguyện. Khu vực phòng ăn được nới rộng hơn để thành phòng hội chung khá lớn, còn các phòng nhỏ thì được dùng cho những sinh hoạt khác của cộng đoàn. Mặc dù cấu trúc bên ngoài vẫn còn rất giống nhà ở nhưng ngôi nhà đã trở thành “nhà thờ”. Dần dần chính quyền cho phép tín hữu xây mới nhà ở của họ và như thế những ngôi nhà mới này phù hợp hơn cho sinh hoạt tôn giáo. Vào năm 314, một năm sau sắc chỉ Milan, thì ngôi thánh đường (basilica) đầu tiên mới được xây dựng.


2. Hội thánh tại gia trong Thư Phaolô


Kiểu nói “Hội thánh tại gia” cần được hiểu trong bối cảnh của khái niệm ekklesiaoikos ở trên.
[7] Cách cụ thể, trong Thư Phaolô người ta gặp thấy kiểu nói “Hội thánh họp tại nhà…” (he kat’ oikon + [đại danh từ sở hữu] ekklesia), chẳng hạn, tại nhà Aquila và Prisca (1 Cr 16, 19; x. Cv 18,18-19; Rm 16,5), Philêmôn (Plm 2), Nympha (Cl 4,15). Đây là bốn nơi trong Thư Phaolô dùng kiểu nói đặc trưng này để chỉ các cộng đoàn đặc biệt gọi là “Hội thánh tại gia”.[8] Kiểu nói này (kat’ oikon) nói lên nơi chốn/địa điểm Hội thánh hội họp như vẫn thường được dịch như thế. Tuy nhiên, có lẽ thánh Phaolô còn dùng kiểu nói này để phân biệt những “nhóm riêng lẻ Hội thánh tại gia” (dựa trên căn bản hộ gia đình) với “cả Hội thánh hay cả cộng đoàn” (hole he ekklesia) đôi khi cũng có thể tụ họp lại với nhau (1 Cr 14,23; Rm 16,23, x. 1 Cr 10,12). Như thế không nên đồng nhất hai kiểu nói này với nhau. “Hội thánh họp tại nhà...” chỉ một nhóm thuộc/của một cộng đoàn lớn hơn và có thể có thể có nhiều nhóm “Hội thánh họp tại nhà…” trong cùng một vùng vì khó có thể dung nạp hết các tín hữu của một vùng (thành phố) tại một tư gia. Chẳng hạn ở Côrintô có gia đình Stephanas (1 Cr 1,16; 16,15), Prisca và Aquila, Titius Justus (Cv 18, 7), Crispus (Cv 18,8; x. 1 Cr 1,14), và ở Rôma có 4 hội thánh (Rm 16,4-5.10.14.15).


Mỗi nhóm họp tại một tư gia, dưới quyền điều hành của chủ hộ, thông thường là nam giới nhưng cũng có thể là nữ giới. Thánh Phaolô thường được xem là người thành lập các Hội thánh tại gia, nhưng chủ nhân lại là giáo dân và đôi khi chính họ có sáng kiến thành lập cộng đoàn.
[9] Họ thường hội họp hằng tuần giống như Do Thái giáo (x. 1 Cr 16,2). Đây là Hội thánh tại gia, mà điển hình là gia đình của những người Do Thái làm nghề tự do hay buôn bán nhỏ, sinh sống tại các thành phố Hy Lạp.


3. Hai hình thức Hội thánh tại gia


Có 2 hình thức Hội thánh tại gia: toàn tòng khi toàn thể thành viên một đại gia đình trở lại và được rửa tội do ảnh hưởng của chủ gia đình (Stephanas: 1 Cr 1,16; Cornelius: Cv 10,24.44-48; viên cai ngục: Cv 16,15.33), và không toàn tòng khi chỉ một số thành viên trong gia đình đón nhận đức tin và được rửa tội. Hình thức thứ nhất tạo nhiều thuận lợi cho việc tổ chức, lãnh đạo Hội thánh tại gia vì có sự thống nhất, hoà hợp giữa gia đình và Hội thánh, tuy cách đón nhận đức tin của mỗi thành viên có thể khác nhau. Nếu số thành viên gia đình (chủ hộ) nhiều thì tự nó đã đủ số làm thành Hội thánh tại gia hay sẽ có thêm vài người ngoài gia đình đến tham dự nếu nhà còn đủ chỗ để hội họp. Hình thức thứ hai là do sự trở lại từng cá nhân (1 Cr 1, 14-15; 7,12-16), hay nói cách khác là các thành viên gia đình có thể theo các tôn giáo khác nhau. Khi đó Hội thánh tại gia tạo thành từ một số thành viên gia đình chủ hộ trở lại cộng với sự tham gia của những người khác ngoài gia đình hoặc từ những người trở lại riêng rẽ đến nhập với gia đình chủ hộ có nhiều thành viên là kitô hữu. Trong trường hợp này những người ngoài đến tham dự phải tùy thuộc quyền điều hành hay những qui định của chủ gia đình nơi hội họp cầu nguyện, và như thế có thể có xung khắc về quyền bính, quyền lợi, tuy cũng có có thể mang lại một số lợi ích như phá bỏ dần những ngăn cách về xã hội, kinh tế. Hơn nữa, sự không đồng nhất về tôn giáo giữa các thành viên gia đình và Hội thánh tại gia cũng tạo nên thái độ cởi mở/tiếp đón đối với người ngoài kitô giáo.


Việc các Hội thánh tại gia họp riêng rẽ nhau và không gian tương đối nhỏ của hộ gia đình cũng có thể tạo nên một số vấn đề. Những Hội thánh tại gia tạo thành một mạng liên kết trong một vùng (chẳng hạn Hội thánh tại Corintô) nhưng thường hội họp riêng rẽ, vì khó có thể hội họp chung tại một nhà, nên từ đó có thể tạo ra tình trạng mỗi nơi phát triển một đường lối (thần học/tu đức) riêng. Không gian và bầu khí gia đình tạo nên sự gắn bó thân mật nhưng cũng có thể tạo nên sự phân nhóm (1 Cr 1,11-13) trong phạm vi rộng lớn hơn của toàn thể Hội thánh tại một vùng (Hội thánh địa phương). Không gian không lớn lắm của phòng ăn trong nhà và sân ngoài trời buộc phải phân chia các tín hữu đến hội họp thành nhiều nhóm khác nhau, chẳng hạn nhóm trong nhà (ăn với tư thế nằm, x. 1 Cr 8,10), nhóm ngoài sân (ăn ngồi, 1 Cr 14,30), nhóm quen thân với chủ gia đình, nhóm người xa lạ, nhóm khá giả, nhóm nghèo túng… (x. 1 Cr 11,17-34).


4. Những đặc tính làm nên Hội thánh tại gia


Không phải bất kỳ cuộc hội họp tại nhà chủ hộ gia đình đều được gọi là Hội thánh tại gia, nhưng để được nhìn nhận là “hội thánh” cuộc qui tụ phải có bốn đặc tính sau đây: koinonia (cộng đoàn), diakonia (phục vụ/sứ vụ), kerygma (rao giảng Tin mừng) và leiturgia (tiệc Thánh thể).
[10] Các thành viên của Hội thánh tại gia tạo thành một cộng đoàn nơi đó mọi người đều quan tâm đến nhu cầu và lợi ích của kẻ khác; tất cả đều có ý thức cùng thuộc về nhau và nối kết với các Hội thánh tại gia ở các nơi khác. Thật vậy, Hội thánh tại gia cổ vũ một ý thức mạnh mẽ về cộng đoàn cũng như các sinh hoạt đều nhấn mạnh tình cộng đoàn (x. Rm 10,12.16; 16,16; Gl 5,13; 6,2) và như thế làm tan vỡ những ranh giới về văn hoá xã hội. Người chủ hộ gia đình và mọi thành viên Hội thánh tại gia phục vụ nhu cầu vật chất-xã hội của nhau vì họ đều là anh chị em trong Chúa Kitô. Tình anh chị em trong Chúa thôi thúc họ phục vụ cả những người ngoài Hội thánh, trong đời sống xã hội. Trong các buổi hội họp họ công bố Lời Chúa, chia sẻ với nhau giáo huấn của Chúa và kinh nghiệm về Ngài cũng như cử hành việc bẻ bánh hay bữa tiệc của Chúa.


Từ những đặc tính trên có thể nói đến hai sinh hoạt chính yếu của Hội thánh tại gia: truyền giáo và dạy giáo lý. Theo Công vụ Tông đồ thì Phaolô trước hết rao giảng cho người Do Thái trong các hội đường, nhưng vì ít thành công nên ngài chuyển cách thức hoạt động và đến ở tại các gia đình có thế giá trong vùng rồi dần dần tìm cách rửa tội họ. Gia đình trở lại này trở thành căn cứ để khai triển sứ mạng truyền giáo. Có thể gọi đây là chiến lược truyền giáo từ nhà này đến nhà khác (Cv 16,13-34; 17,2-9; 18,1-11). Vì thế, Hội thánh tại gia nồng hậu tiếp đón các nhà truyền giáo lưu động (Rm 16,1-2; Pl 2,27-29), là nơi trao đổi thư từ liên lạc (1 Tx 5,27; 2 Cr 1,1; Cl 4,16)và giúp đỡ tài chính cho nhau (Rm 15,25-28; 1 Cr 16,1-4; 2 Cr 8-9).


Gia đình cũng là nơi thuận tiện để cha mẹ giảng dạy, cắt nghĩa giáo lý cho con cái. Đức Giêsu thường cắt nghĩa thêm giáo lý cho các môn đệ khi họ về đến nhà (Mc 7,17; 9,28). Chính nơi khung cảnh gia đình của Hội thánh tại gia mà giáo lý được giảng dạy dễ dàng, đức tin được đón nhận và đào sâu.


5. Hình thức hội họp cầu nguyện


Đây chính là yếu tố cho thấy Hội thánh tại gia của các tín hữu sơ khai rất gần với đời sống tôn giáo của gia đình Do Thái. Thông thường chủ hộ (kitô hữu) sẽ điều hành việc hội họp cầu nguyện của Hội thánh tại gia, gồm: hát thánh ca, thánh vịnh, đọc Kinh Thánh Cựu Ước, cầu nguyện chúc tụng, hôn chúc bình an và cử hành bữa tiệc của Chúa (1 Cr 11). Nói chung, hình thức cầu nguyện và giáo lý gia đình bổ túc cho nhau trong khung cảnh Hội thánh tại gia. Có thể nêu lên vài nét đặc trưng của các buổi cầu nguyện tại tư gia như sau. Đó là việc giảng dạy của các Tông đồ, có thể dưới hình thức nhắc hay ôn lại và thảo luận về các lời giảng dạy của Chúa Giêsu (Cv 2,42; 5,42; 11,26; 13,1), hoặc có thể là suy niệm và cố gắng giải thích Kinh thánh của Do Thái (Cựu ước) dưới ánh sáng của biến cố Đức Kitô rao giảng, tử nạn và phục sinh (Lc 24,25-27; 44-45; Cv 8,32; 17,2-3.11). Cầu nguyện cũng đóng vai trò quan trọng trong các hội họp tại gia, đặc biệt là Kinh Lạy Cha (như nơi Mt 6,9-13 và Lc 11,2-4). Các cách xưng hô như Abba (Gl 4,6; Rm 8,15) hay lời đáp Amen (1 Cr 14,16) cũng được sử dụng trong buổi cầu nguyện. Ngoài các hình thức cầu nguyện cố định này còn có những lời cầu nguyện ứng khẩu (Cv 4,24-30; 12,5; 13,3). Nói chung, hình thức cầu nguyện của các tín hữu sơ khai mang tính cầu nguyện thánh linh/tự phát (charismatic) và bày tỏ lòng sốt sắng nhiệt thành (enthusiastic) hơn là những lời cầu nguyện/lời kinh đã hình thành cố định (structured).


6. Thành viên và Tổ chức lãnh đạo Hội thánh tại gia


Thành viên của “Hội thánh họp tại nhà…” không chỉ bao gồm thành viên của chính hộ gia đình được nhắc tên mà còn có sự tham dự của những thành phần khác nữa, như những người làm ăn buôn bán, những người tân tòng được sát nhập vào gia đình cùng họp nhau cầu nguyện. Thông thường, buổi hội họp cầu nguyện của Hội thánh tại gia, được diễn ra nơi khu vực phòng ăn, gồm thành viên trong gia đình, người làm công phục vụ và bạn bè lân cận. Con số người này có thể lên tới 50 người trong mỗi lần hội họp vì những bằng chứng khảo cổ cho thấy khu vực phòng ăn và sân của những gia đình có thế giá vào thế kỷ 1 có thể dung nạp số người này. Trong số thành viên của hộ gia đình Kitô cũng có thể có những người chưa rửa tội (trường hợp Ôsênimô, Plm 10) hoặc cũng có trường hợp chủ hộ không phải là kitô hữu trong khi các thành viên gia đình đã là kitô hữu (x. Rm 16,11). Như thế, thành phần của Hội thánh tại gia rất đa dạng: Do Thái, Hy Lạp, nô lệ, tự do, giàu, nghèo…Nhưng với số lượng tương đối nhỏ nên mối liên hệ giữa họ sẽ dễ dàng phát triển. Ngoài ra, cơ cấu của buổi cầu nguyện tại gia cũng thuận lợi để phát huy tình hiệp thông.


Tổ chức lãnh đạo của Hội thánh những năm 50 – 60 tức là thời thánh Phaolô, gồm: các Tông đồ (theo nghĩa rộng, như Phaolô, Barnaba, Andronicô và Junia; x. Rm 16,7), các thừa sai phụ tá (như Sylvanô, Titô, Timôtê, Aquila; x. 1 Cr 4,17; 16,10; Rm 16,3) và các lãnh đạo địa phương (1 Tx. 5,12). Công việc có thể được phân chia như sau: (1) Phaolô thường xuyên đi từ nơi này đến nơi khác để thiết lập giáo đoàn, giảng dạy, thăm viếng; (2) Ngài có các phụ tá là những người lãnh đạo cộng đoàn lưu động, được sai đến các giáo đoàn để giảng dạy và để duy trì liên hệ giữa các giáo đoàn; (3) các người lãnh đạo tại chỗ hay là người bảo trợ cộng đoàn lo các công việc như lãnh đạo, khuyên nhủ trong cộng đoàn (1 Tx 5,12). Trong thành phần thứ ba này phải kể đặc biệt là các chủ hộ gia đình; họ không chỉ dành nhà cửa của họ cho việc hội họp cầu nguyện hay đáp ứng bất cứ nhu cầu tôn giáo của cộng đoàn mà còn chủ toạ các sinh hoạt đạo đức này.
[11] Việc điều hành gia đình tạo điều kiện thuận lợi để họ trở thành người điều hành cộng đoàn vì đã quen thuộc với cách tổ chức gia đình. Nhìn chung, công việc của ba thành phần lãnh đạo này có thể trùng lập nhau. Tuy nhiên, chính trong bối cảnh thường xuyên phải di chuyển, phải lưu động để truyền giáo đồng thời cũng có cơ sở tại chỗ yểm trợ mà cơ cấu Hội thánh tại gia phát huy lòng hiếu khách, việc tiếp đón các nhà truyền giáo cũng như việc chuẩn bị và phát triển nhân sự làm việc (từ cơ sở gia đình) thông qua tổ chức 3 thành phần lãnh đạo này.


7. Phụ nữ trong sinh hoạt Hội thánh tại gia


Phaolô coi trọng các phụ nữ trong công việc tham gia điều hành Hội thánh cũng như rao giảng Tin mừng (Rm 16, 1.3.6.12). Ngài tập họp được một số đông phụ nữ cho công việc truyền giáo và tận dụng đặc sủng của phụ nữ để rao giảng Tin Mừng. Ngài không ngại khẳng định điều này trong các thư. Một số cặp vợ chồng hay các phụ nữ được nhắc đến là những người cộng tác đắc lực trong Hội thánh (Phêrô và vợ: 1 Cr 9,5; Aquila và Prisca: Rm 16,3-5; Andronico và Junia: Rm 16,7; bà Evodia và bà Syntyche: Pl 4,2). Đặc biệt, tên bà Prisca được nhắc trước tên ông Aquila (Cv 18,18.26; Rm 16,3; Tm 4,19).
[12] Thật vậy, trong Hội thánh tại gia các phụ nữ đóng góp và tham gia nhiều trong cuộc sống cũng như hoạt động truyền giáo của cộng đoàn, bao gồm cả việc lãnh đạo cộng đoàn, một công việc có thể xem là đi ngược với tập tục xã hội truyền thống đề cao nam giới. Hơn nữa, việc Hội thánh hội họp tại nhà rất phù hợp với ý tưởng của Phaolô là mọi thành viên tạo thành một gia đình mới, là anh chị em với nhau (Rm 8,14.19.20; 9,26; 2 Cr 6,18; Gl 3,26; 4,6.7.31). Điều này có thể làm cho việc lãnh đạo của phụ nữ trong cộng đoàn được dễ dàng chấp nhận hơn đối với nam giới. Nhưng vào khoảng cuối thế kỷ 1 vai trò phụ nữ trong Giáo hội bị giảm dần khi Giáo hội được cơ cấu hoá cũng như đề cao quyền lãnh đạo của nam giới.


8. Từ ngữ liên hệ gia đình để nói về Giáo hội


Kiểu nói “Hội thánh tại gia” có thể ít gặp thấy nhưng những từ ngữ diễn tả Hội thánh trong mối tương quan hay hình ảnh gia đình lại rất phong phú trong các thư của Phaolô. Các kitô hữu được xem là thành phần của gia đình Thiên Chúa, trong đó Thiên Chúa là Cha (1 Tx 1,1; 3,11; 13,2; 2 Tx 1, 1-2;2,16) và Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhờ đó các kitô hữu là dưỡng tử, đồng thừa tự với Đức Kitô và được phép gọi Thiên Chúa là Abba (Gl 4,4-6; Rm 8,16-17; x. 1 Tx 1,10). Thánh Phaolô áp dụng quan hệ Thiên Chúa, Chúa Giêsu và kitô hữu trong đời sống Hội thánh nên mọi kitô hữu phải đối xử với nhau và phục vụ lợi ích lẫn nhau như trong một gia đình, gia đình đức tin – gia đình Thiên Chúa (Gl 6,10; Ep 2,18-19). Phaolô còn sử dụng những từ ngữ liên hệ đến tổ chức gia đình như người quản lý (oikonomos), tôi tớ, kẻ phục vụ (1 Cr 4,1-2; 9,17; Cl 1,25; 4,7; Ep 3,2; 2; 6,6; Cr 4,5; Rm 1,1), anh em (adelphoi), anh em yêu quý (Gl 1,2; 1 Cr 15,58; 16,20; 2 Cr 9,3; Ep 6,21). Ngài còn tự xưng mình là cha, mẹ, anh em với các kitô hữu và họ là anh chị em hay con cái của ngài (Plm 2,10; Cl 4,9; Pl 2,12. 22; 1 Tx 3,22, Rm 16,13).


Hội thánh vào những năm 70-80 (như trình bày trong Thư Timôthêô, Titô và 1 Phêrô) bắt đầu được củng cố và cơ cấu hoá với thành phần lãnh đạo như giám quản, trợ tá. Hội thánh được tổ chức có qui củ, trong đó vai trò nam giới lãnh đạo được nhấn mạnh và phát triển. Một hình ảnh Hội thánh nổi bật của thời kỳ này có liên quan đến vấn đề đang tìm hiểu, đó là “Hội thánh là gia đình Thiên Chúa” (1 Tm 3,15; 1 Pr 4,17). Để điều hành tốt Hội thánh các giám quản và trợ tá phải có những tiêu chuẩn như biết điều khiển tốt gia đình, biết dạy dỗ con cái…(1 Tm 3, 4-5.12). Kiểu nói Hội thánh gia đình Thiên Chúa gợi lên hình ảnh thành phần làm nên gia đình cũng như Hội thánh là cha, mẹ, con cái, ông bà cũng như người phục vụ gia đình. Từ “Thiên Chúa” trong cách nói “Hội thánh gia đình Thiên Chúa” làm tương đối hoá tầm quan trọng của liên hệ gia đình nhân loại (rất mạnh trong xã hội La-Hy đương thời) đồng thời đề cao hình ảnh “gia đình mới của Chúa Giêsu” trong Tân ước (x. Mc 3,33-35) nơi đó mọi kitô hữu không còn ngăn cách huyết thống, xã hội, kinh tế nhưng là anh chị em với nhau cùng một Cha trên trời.


II. Hội thánh tại gia: Nhận xét và ứng dụng


1.
Điểm tựa chính yếu của Hội thánh tại gia là gia đình hay nói một cách khác, Hội thánh tại gia sử dụng phương châm lấy gia đình cũng như giáo dân làm gốc, làm cơ sở để khai triển các sinh hoạt tôn giáo cũng như xã hội. Chính cơ cấu gia đình có nhiều thuận lợi để phát triển đời sống cộng đoàn kitô hữu. Các tín hữu mới gia nhập Hội thánh dễ dàng nhận ra sự hiệp nhất trong tình anh chị em nhờ việc cử hành bữa tiệc của Chúa trong Hội thánh tại gia. Cũng giống như tiệc Vượt Qua được cử hành trong gia đình Do Thái thì giờ đây tiệc Thánh Thể được tổ chức tại gia đình kitô hữu với Đức Kitô phục sinh. Trong bối cảnh đó, đền thờ không cần thiết vì chính gia đình trở thành đền thờ sống động xây trên nền tảng Đức Kitô. Môi trường gia đình kitô hữu giúp phát triển tinh thần, ý thức trách nhiệm đối với Giáo hội vì họ coi Giáo hội như chính gia đình của họ. Những công việc và bổn phận trong gia đình là cơ sở để phát triển ý thức trách nhiệm trong cộng đoàn đức tin. Phaolô chọn các ông/bà có khả năng lãnh đạo nơi gia đình để trao phó cho họ trách nhiệm coi sóc cộng đoàn. Từ đó, có thể phát triển nhiều cộng đoàn kitô hữu với nhân sự tại chỗ. Gia đình kitô hữu cũng tạo điều kiện để dần dần tương đối hoá hay phá vỡ những hàng rào khác biệt về văn hoá xã hội, sắc tộc và tôn giáo. Việc mọi thành phần (chủ nhà, đầy tớ, nam, nữ, Do Thái, dân ngoại, trí thức, ít học..) qui tụ quanh bàn tiệc Thánh Thể trong một tình yêu thương thực sự chắc chắn lôi cuốn các tân tòng. Như thế, nguyên tắc bình đẳng trong Đức Kitô đã được đưa ra và áp dụng trong cộng đoàn Kitô hữu sơ khai tuy còn đòi hỏi nhiều nỗ lực để duy trì và thực hành trong đời sống Giáo hội.


2.
Hội thánh tại gia là môi trường thuận tiện để nuôi dưỡng công việc truyền giáo cũng như các nhà truyền giáo. Đây chính là căn cứ/cơ sở truyền giáo. Chính nhờ môi trường Hội thánh tại gia mà các tín hữu sơ khai biết được các nhu cầu truyền giáo và nỗ lực sống tinh thần tông đồ truyền giáo tại khu xóm (Cv 10,24; Cl 4,5-6; Dt 12, 14), trong chính gia đình (1 Tm 6,1; 1 Pr 3,1) hay ở nước ngoài (Cv 13,1-3). Cũng chính nơi Hội thánh tại gia mà các thừa sai lưu động nhận được nhiều sự tiếp đón, nâng đỡ, khích lệ và trợ giúp vật chất (Cv 20,7; Rm 15,24; 16,1-2). Hội thánh tại gia là “trạm dừng chân” rất thuận tiện cho các nhà truyền giáo lưu động cũng như cho giáo dân đi đường như khi đi làm ăn buôn bán xa. Các liên hệ xã hội (do quan hệ làm ăn, làm thuê) với gia đình chủ hộ cũng góp phần vào sự tham gia của lương dân vào cộng đoàn kitô hữu để rồi dần dần họ được rửa tội. Có thể nói rằng thông qua tổ chức “Hội thánh tại gia” hay “hộ gia đình” mà đức tin kitô giáo đã được truyền bá nhanh chóng vào thế giới La – Hy.


3.
Hội thánh tại gia là hình thức hội nhập, thích ứng Giáo hội vào tổ chức gia đình của xã hội đương thời; nó có những ứng dụng cho cơ cấu nội tại của cộng đoàn cũng như cho mối liên hệ của cộng đoàn với xã hội. Giáo hội hôm nay cũng cần tận dụng các cơ cấu/tổ chức gia đình của xã hội để có thể hội nhập Tin mừng vào các cơ cấu này. Hội thánh tại gia làm phát huy và tăng trưởng mối liên hệ gia đình, họ hàng, các người lệ thuộc cũng như mối liên hệ bạn bè và khách hàng. Gia đình là nơi hội họp tạo điều kiện phát triển sự gắn bó, thân mật và ổn định. Các thành viên cảm nhận được tình gia đình, cộng đoàn, phấn khởi hăng say phục vụ xã hội, tập thể nhưng đôi khi lại đi quá đà. Do đó, môi trường này cũng có thể là nguyên nhân gây nên sự phân hoá giữa các Hội thánh trong một vùng vì có nhiều Hội thánh/cộng đoàn, chẳng hạn sự chia rẽ do bè phái mà Phaolô nhắc đến nơi 1 Cr 1-4. Một số vấn đề khác của Hội thánh tại gia có thể nêu lên đây là việc tự cao về những ân huệ của Thần Khí như nói tiếng lạ, hay việc để cho những khác biệt về xã hội chi phối cộng đoàn như sự phân chia giai cấp trong bữa tiệc của Chúa (1 Cr 11-14). Vì thế, không nên quá lý tưởng hay thi vị hoá hình ảnh cũng như kinh nghiệm của Hội thánh tại gia mà quên đi những vấn đề khó khăn có thể có từ hình mẫu này.


4.
Chúng ta không biết nhiều về các cảm nghiệm tôn giáo hay việc thờ phượng của Hội thánh tiên khởi trong đó có Hội thánh tại gia. Thánh Phaolô và các tác giả Tân ước có đề cập đến Phép Rửa cũng như Bữa tiệc của Chúa trong khi giảng dạy về đức tin và sự hiệp nhất nhưng lại không cảm thấy cần thiết phải nói chi tiết về thời gian, nơi chốn, nghi thức và công thức cử hành, v.v…. Có lẽ vì giả định rằng các độc giả của họ biết những chi tiết này do kinh nghiệm bản thân hay không cần giải thích chi tiết. Nhưng con người ngày nay lại muốn biết về sinh hoạt đạo đức của Giáo hội sơ khai.Vì thiếu kiến thức, thông tin về các chi tiết sinh hoạt đạo đức của Giáo hội sơ khai nên hiện nay có nhiều phong trào, đoàn thể nhấn mạnh sinh hoạt này mà lại loại trừ cử hành khác trong khi sinh hoạt của các kitô hữu tiên khởi có nhiều cử hành, như kinh nghiệm nói tiếng lạ, cử hành phụng vụ Lời Chúa, bữa tiệc Thánh thể của Chúa, thinh lặng cầu nguyện… Ý thức kinh nghiệm phong phú, đa dạng này sẽ giúp các phong trào, cộng đoàn khiêm tốn phục vụ cũng như phát huy sự hiệp nhất trong đa dạng của Giáo hội.


5.
Mỗi Hội thánh tại gia chỉ dung nạp được một số ít kitô hữu, tân tòng, dự tòng.. nên cần có nhiều Hội thánh tại gia để đáp ứng sự gia tăng tín hữu. Sự phát triển nhanh chóng với số lượng nhiều Hội thánh tại gia cũng dễ đưa đến tình trạng tự do phát triển, có thể không kiểm soát được các sinh hoạt, các nghi lễ… nếu không có cách điều hành, quản lý nhằm duy trì tính chính thống. Từ thực tế đó việc điều hành của Giáo hội sơ khai tiến dần tới chỗ tập trung về lãnh đạo cũng như xác định thư quy Kinh Thánh để duy trì sự hiệp nhất và hiệp thông trong Giáo hội. Chính vì thế, giáo huấn của Giáo hội vẫn đòi buộc các “cộng đoàn cơ bản” (Basic ecclesial communities) hay các tổ chức, đoàn thể… phải có liên hệ gắn bó với giáo quyền địa phương.


6.
Hội thánh tại gia nhấn mạnh đến chiều kích cộng đoàn cũng như đóng góp/dấn thân của cá nhân. Việc truyền giáo của Giáo hội sơ khai nhắm đến việc thành lập Hội thánh tại gia hơn là nhắm đến từng cá nhân. Từ đó có thể liên hệ đến việc loan báo Tin mừng cho một số dân tộc thiểu số ngày nay là nên nhắm đến hình thức ảnh hưởng tập thể hơn là cá nhân. Đời sống cộng đoàn có thể ít hấp dẫn với một cộng đoàn đã có đông người hay với thành viên đã quen sống trong trong một đại gia đình, nhưng cũng có thể có nhiều hấp dẫn đối với những ai không có gia đình, cũng như những người nghèo, bị đặt bên lề xã hội (kể cả phụ nữ) không có điều kiện để giao lưu với tập thể trong đời sống xã hội. Hội thánh tại gia đáp ứng nhu cầu tạo mối liên hệ này nên chắc chắn được sự đón nhận, hưởng ứng của nhiều người thuộc thành phần đang tìm kiếm sự giao lưu, sự bảo trợ nào đó từ cộng đoàn. Trong một cộng đoàn nhỏ như Hội thánh tại gia cá nhân cũng cảm thấy được khích lệ, ít cảm thấy lẻ loi và dễ dàng đóng góp cho tập thể. Do đó, có thể nói Hội thánh tại gia là nguồn gốc phát sinh của cộng đoàn cơ bản ngày nay, một hình thức được Giáo hội cổ vũ nhằm phát triển các hoạt động đa dạng của Giáo hội. “Hội thánh tại gia”, “cộng đoàn cơ bản” hay “liên gia Công giáo”đáp ứng nhu cầu của con người ngày nay là cần đến với nhau để được nâng đỡ. Các tổ chức này tạo nên mối liên hệ thân thiết trong bối cảnh con người càng ngày càng lẻ loi, xa cách nhau do toàn cầu hoá.


7.
Hội thánh tại gia là nơi vun trồng và phát huy tình yêu thương. Các chủ hộ đã dành nhà riêng của họ làm trung tâm hội họp mà còn rất quảng đại điều hành công việc truyền giáo, tiếp đón mọi người. Về phía các thành viên họ không chỉ gọi nhau là anh chị em mà còn đối xử cách cụ thể tình cảm này với nhau. Bức thư ngắn của Phaolô gởi cho Hội thánh tại nhà ông Philêmon là một trường hợp tiêu biểu. Cách đối xử và sự can thiệp của Phaolô trong trường hợp Ôsênimô rất là tình cảm đặc biệt, không chỉ dùng cách xưng hô anh em mà còn cách lập luận tại sao phải gọi nhau là anh em. Phaolô đồng hoá mình với Ôsênimô. “Hãy đón nhận nó [Ôsênimô] như đón nhận chính tôi. Nếu nó đã làm thiệt hại anh hoặc mắc nợ anh điều gì, thì xin để tôi nhận cả…tôi sẽ hoàn trả lại” (Plm 17-19). Ôsênimô, khi được rửa tội, trở thành hoàn toàn bình đẳng với chủ trong việc loan báo Tin mừng, được quyền tham dự vào sinh hoạt cuả Hội thánh, trao hôn bình an với chủ mình trong khi cử hành tiệc Thánh Thể. Cách đối xử yêu thương và tôn trọng lẫn nhau này chắc chắn cũng phải thể hiện trong cuộc sống thường ngày, ngoài giờ phụng vụ. Tình yêu thương, phục vụ sẽ giúp vượt qua hay hạn chế tính cách gia trưởng (patriarchal) và phẩm trật (hierarchical) thường được xem là mặt trái của gia đình.


8.
Sự kiện các tín hữu sơ khai họp nhau tại tư gia nhắc chúng ta rằng gia đình là môi trường rất thuận tiện cho sinh hoạt tôn giáo và rằng “Hội thánh/nhà thờ” (church/église) không phải chỉ là toà nhà (building) hay cơ sở vật chất. Đúng hơn, Hội thánh (ekklesia) trước hết chính là một cộng đoàn tín hữu tụ họp nhân danh Chúa Giêsu Kitô (x. 1 Cr 11,18). Thánh Phaolô không bao giờ dùng từ “ekklesia” để chỉ toà nhà nơi cộng đoàn hội họp. Những ân huệ khác nhau mà Thiên Chúa ban cho các tín hữu trong Hội thánh không phải để khoe khoang hay đề cao cá nhân nhưng là để phục vụ lợi ích chung và xây dựng cộng đoàn. Không thể tránh vấn đề là các Hội thánh tại gia gia tăng về số lượng sẽ có thể gây nên một số trục trặc nhưng vẫn luôn phải xây dựng và nuôi dưỡng ý thức căn tính cũng như cộng đoàn tính mà Hội thánh tại gia tạo ra nơi các tín hữu ban đầu.


Tìm hiểu kỹ về Hội thánh tại gia cho thấy mô hình này của Giáo hội sơ khai có những vấn đề cần lưu tâm cũng như có những khả năng gợi lên những áp dụng cho Giáo hội và con người hôm nay. Thật vậy, “Hội thánh tại gia” có thể bị chất vấn nếu áp dụng cách máy móc. Hình mẫu Hội thánh này vẫn lôi cuốn nhiều Giáo hội tại châu Mỹ La Tinh, châu Phi và châu Á, cách riêng tại Việt Nam, vì thích hợp với các nền văn hoá này.
[13] Việc tìm hiểu, học hỏi kỹ lưỡng hình ảnh Kinh Thánh “Giáo hội tại gia” và “Giáo hội là gia đình Thiên Chúa” trong các Thư Phaolô sẽ giúp chúng ta thấy được những điểm tích cực để ứng dụng và phát huy cũng như những điểm tiêu cực để hạn chế và tìm cách vượt qua hầu xây dựng và phát triển Giáo hội là Gia đình Thiên Chúa.


Câu hỏi thảo luận:


Những áp dụng cụ thể và những thách đố (tích cực cũng như tiêu cực) của hình mẫu Giáo hội là Gia đình Thiên Chúa trong bối cảnh Giáo hội và xã hội Việt Nam?


---------------------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo


-Cwiekowski, F.J., The Beginnings of the Church. Mahwah, NJ: Paulist Press, 1988.


-Banks, Robert, Paul’s Idea of Community. Rev. ed. Peabody, Massachusetts: Hendrickson Publishers, Inc. 1998.


-Doohan, H., Paul’s Vision of Church. Wilmington, DE: Michael Grazier, Inc., 1989.


-Harrington, Daniel J., The Church According to the New Testament. Franklin, Wisconsin: Sheed & Ward, 2001.


-Hendrickx, Herman, The Household of God. Quezon City: Claretian Publications, 1992.


-Lee, B.J. and M.A. Cowan, Dangerous Memories. House Churches and Our American Story. Kansas City: Sheed & Ward, 1986.


-Meeks, Wayne A., The First Urban Christians. Binghamton, N.Y.: Yale University, 1983.


-Lohfink, G., Jesus and Community. Philadelphia: Fortress Press, 1984.


-Murphy-O’Connor, J. St. Paul’s Corinth. Wilmington, DE: Michael Grazier, Inc., 1983.


-Schneider, H., “Women in Early Christianity and the Institutionalization of Charisma,” EAPR 44, no.2 (2007), http://eapi.admu.edu.ph/eapr007/eapr007.htm


-Theissen, G., The Social Setting of Pauline Christianity. Edinburgh: T. & T. Clark Limited, 1982.

 

-----------------------------------------------
[1]
“Hội thánh tại gia” (house churches) trong Thư Phaolô chỉ một hình thức/địa điểm hội họp cũng như một cơ cấu của Giáo hội sơ khai khác với hình ảnh “gia đình là Hội thánh tại gia” (domestic church/Ecclesia domestica) như được Công đồng Vaticanô II đề cập (LG 11; FC 21). Có thể nói Hội thánh tại gia nhắm đến “tính cách gia đình” của Hội thánh (mối tương quan gia đình như là mẫu mực cho các thành phần Hội thánh) còn gia đình là hội thánh tại gia nhấn mạnh đến tính cách “giáo hội” của gia đình (Giáo hội như là mẫu mực cho gia đình).

[2] Ekklesia nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là sự kêu gọi/qui tụ, và nguyên thủy được dùng trong nghĩa là công dân được qui tụ/kêu gọi lại để đại diện cho chính mình và cho thành phố về những vấn đề chính trị.

[3] Căn cứ vào kết quả khảo cổ một villa của người Rôma tại Corintô vào thời thánh Phaolô thì diện tích phòng ăn (triclinium) là 41.25m² (5.5 x 7.5) nhưng chung quanh phòng có đặt một số giường để nằm khi ăn tiệc, và diện tích sân (atrinum) là 30m² nhưng “giếng trời” chiếm hết 1/9 diện tích của sân.

[4] Những thư này mô tả Hội thánh thời chuyển tiếp (năm 60-70). Những bổn phận, qui định trong gia đình Kitô hữu dựa trên qui định của xã hội đương thời nhưng cũng có những đặc điểm Kitô giáo, như quan tâm nhiều hơn đến những thành phần bị thiệt thòi (phụ nữ, trẻ em, đầy tớ), kêu gọi sự tùng phục lẫn nhau của cả vợ lẫn chồng, hay tùng phục nhau vì “đó là điều làm đẹp lòng Chúa…, vì kính sợ Chúa,…như thể là cho Chúa”. Có thể kể đến 7 lần nhắc đến mục đích giữ chỉ thị của đời sống gia đình là vì Chúa (Cl 3,18.20.22.23.23; 4,1).

[5] Với những hộ gia đình sống ở những khu nhà nhiều tầng (chung cư) do điều kiện kinh tế, không có hộ gia đình khá giả, thì nơi hội họp có thể không phải ở phòng ăn và sân, nhưng diễn ra nơi không gian chật chội của chung cư.

[6] Herman Hendrickx, The Household of God (Quezon City: Claretian Publications, 1992) 16.

[7] Trong các Thư Phaolô, có thể gặp thấy hai từ “oikos” (15 lần) và “oikia” (8 lần) trong tổng số 218 lần trong toàn bộ Tân ước. Phaolô dùng hai từ này theo nghĩa là hộ gia đình cùng với số người và tài sản thuộc về gia đình. Oikos có nghĩa là hộ gia đình và nơi ở của gia đình (Lc 10,5; 11,17; Cv 10,2; 16,15; 1 Cr 1,16…). Oikia có nghĩa là nơi Chúa Giêsu và các tín hữu triển khai, thực hiện tác vụ/sứ vụ (Mc 1,29; 2,15; Lc 7,37; Cv 9,11.17; 10,6.17.31…). Tuy nhiên, sự khác biệt về ý nghĩa giữa hai từ này không đáng kể.

[8] Ngoài ra còn có những chỗ khác nói đến mối liên hệ với hộ gia đình: 1 Cr 1,16; 16,15, Rm 16,10.14; 1 Cr 1, 11; Pl 4,22.

[9] Prisca và Aquila thành lập Hội thánh tại gia ở Rôma trước khi Phaolô đến rao giảng thành phố này. Đôi vợ chồng này đã là kitô hữu khi họ gặp Phaolô.

[10] B.J. Lee and M.A. Cowan, Dangerous Memories. House Churches and Our American Story (Kansas City: Sheed & Ward, 1986) 24-28.

[11] Chúng ta không biết chắc ai là người chủ tọa các Bữa tiệc của Chúa trong cộng đoàn Hội thánh sơ khai. Chúng ta cũng đừng nghĩ là các kỳ mục/giám quản được truyền chức trong các giáo đoàn của Phaolô lo công việc này. Trong số những người chúng ta có thể nghĩ đến đó là các ngôn sứ, các lãnh đạo có sức thu hút (charismatic) của cộng đoàn địa phương. Trong Bữa Tiệc ly Chúa Giêsu hành động như một người cha gia đình đọc lời chúc lành. Một cách tương tự như gia đình Do Thái, người chủ gia đình – chủ nhân dành nhà ở của mình cho cộng đoàn cầu nguyện, sẽ đảm nhận vai trò này…Cũng có thể thỉnh thoảng là khách mời danh dự của cộng đoàn sẽ chủ tọa bữa tiệc của Chúa. Đó có thể là khi toàn Hội thánh tụ họp tại một nơi hay khi có các Tông đồ hiện diện trong buổi hội họp cầu nguyện. Đây là ý kiến của H.J. Klauck được trích dẫn nơi H. Schneider, “Women in Early Christianity and the Institutionalization of Charisma,” EAPR 44, no.2 (2007).

[12] “Đây không phải vì lịch sự…Ngược lại, kiểu nói này phá vỡ qui ước của thời xưa; sự kiện này cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của phụ nữ đối với việc truyền giáo của Kitô giáo tiên khởi. Bà Prisca đã có những hoạt động truyền giáo vượt xa khỏi môi trường cơ bản là gia đình”. Đây là nhận định của H.J. Klauck được trích dẫn nơi G. Lohfink, Jesus and Community (Philadelphia: Fortress Press, 1984) 97.

[13] Xem CELAM, Puebla Document (1979); Tông huấn Giáo hội tại Phi Châu (1995), 63; FABC VIII (2004), The Asian Family Towards a Culture of Integral Life, 50; Acta Synodalia Sacrosancti Concilii Oecumenici Vaticani II, vol. II, pars II (Rome: Typis Polyglotis Vaticanis, 1972), 44. Tham luận của Đức cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền tại kỳ họp Công đồng Vaticano II (khoá 2) như sau: “Quan niệm Giáo hội là gia đình của Thiên Chúa rất gần gũi với con người. Cách trình bày mầu nhiệm Giáo Hội bằng những từ ngữ về gia đình rất quen thuộc và dễ hiểu đối với mọi người... Trình bày Giáo hội như gia đình của Thiên Chúa giúp các Kitô hữu trở về với Tin Mừng, trở về với cách giảng dạy đơn sơ của Ðức Giêsu (Ðức Giêsu dùng rất nhiều hình ảnh về gia đình); nhờ đó dễ hiểu và thấm nhuần Tin Mừng hơn”; Bản trả lời các câu hỏi – Phụ trương của Lineamenta và Bản Góp ý của HĐGM Việt Nam cho THĐGM Á Châu (1997). Các Giám mục Việt Nam nhấn mạnh cần phải “xây dựng một Hội thánh như một gia đình con cái Thiên Chúa” thay vì “một phẩm trật với những cơ chế và luật pháp kiện toàn. Một Hội thánh như một cộng đồng gia đình sẽ dễ hội nhập vào trong xã hội Á châu”.


Trở về Trang Mục Lục