Bài
3:
Hội Thánh Tại Gia Trong Thư Phaolô
L.m
G.B. Ngô Đình Tiến
Qua các trang thư của ngài, thánh Phaolô có một
cái nhìn rất phong phú về Hội thánh tại gia. Đây là một hình ảnh Kinh Thánh về
Hội thánh sơ khai.
Hội thánh tại gia (house churches)[1] là một hình ảnh Kinh Thánh về Hội thánh
sơ khai, có những nét đặc trưng về văn hoá và tôn giáo của những thế kỷ đầu
Kitô giáo cũng như mang những dấu ấn đặc biệt của Phaolô. Vì thế, đề tài được
chọn để tìm hiểu chủ đề “Phaolô, nhà giáo dục đức tin”. Bài trình bày gồm hai
phần: - Những nét tổng quát về Hội thánh tại gia trong các Thư Phaolô, - một số
nhận xét về Hội thánh tại gia nhằm rút ra những áp dụng cho Giáo hội ngày nay.
1. Nguồn gốc và sự tiến triển của Hội thánh
tại gia
Các tín hữu đầu tiên vẫn tiếp tục tự nhận mình là những người Do Thái đạo đức.
Là những kitô hữu gốc Do Thái họ vẫn gắn bó với đền thờ và các thực hành cầu
nguyện Do Thái giáo. Nhưng niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh và cảm nghiệm sự
hiệp nhất trong Thánh Thần khiến họ dần dần khai triển một hình thức và một địa
điểm mới để cùng họp nhau cầu nguyện. Đó là qui tụ cầu nguyện tại tư gia của
các kitô hữu, nhất là tại nhà các tín hữu có thế giá trong cộng đoàn, vì không
có nơi nào thích hợp hơn. Công vụ Tông đồ nhắc đến các buối cầu nguyện tại tư
gia nơi Cv 2, 46 và 5, 42, và đặc biệt là tại nhà của bà Maria, mẹ của Gioan
Marcô (Cv 12, 12). Đó là nguồn gốc của Hội thánh họp tại tư gia (house church/oikos ekklesia) vào thời
điểm những năm 50 – 60 của Kitô giáo, nổi bật là “Hội thánh tại gia” được trình
thuật nơi các thư của thánh Phaolô.
Lý do của sự hình thành Hội thánh tại gia được giải thích như sau. Trong các
thế kỷ đầu, nhất là vào thế kỷ 1, Kitô giáo chưa phải là một tôn giáo được
chính thức nhìn nhận. Các kitô hữu sơ khai không có nghi thức dâng lễ vật như
Do Thái giáo nên không có nhu cầu về đền thờ cũng như chưa có các “linh mục/tư
tế” để dâng hy lễ. Họ không có nơi gặp gỡ cầu nguyện chung như hội đường Do
Thái giáo, cũng chưa phát triển đủ số lượng cần thiết để xây dựng những nhà thờ
riêng biệt. Hơn nữa, số các kitô hữu gốc dân ngoại phát triển mạnh ở một số
thành phố nhưng họ lại là tân tòng nên không thể đóng vai trò quyết định trong
việc xây dựng nhà thờ. Vì thế, để qui tụ lại với nhau các kitô hữu trong cùng
một vùng đã tổ chức cộng đoàn/hội thánh một cách tương tự như những tổ chức
hiện có trong xã hội Hy Lạp - La Mã thời đó (các câu lạc bộ, các hiệp hội tự
nguyện) hay tổ chức hội đường Do Thái (synagogue
trước hết có nghĩa là sự qui tụ, sau này mới có nghĩa là hội đường tức toà
nhà/nơi qui tụ). Các tín hữu sơ khai gọi việc qui tụ hay nhóm họp của họ là ekklesia, có lẽ là để phân biệt với
việc qui tụ (synagoge) của
người Do Thái. Sử dụng từ Hy Lạp, ekklesia[2] nhưng từ này không còn mang mầu sắc
chính trị của nguyên ngữ, trái lại mang ý nghĩa tôn giáo, nghĩa là dân được
Chúa chọn gọi/qui tụ để ra khỏi bóng tối và để sống theo ánh sáng của Đức Kitô
cũng như của người môn đệ Chúa (x. 1 Pr 2,9-11). Như thế, từ “ekklesia” diễn tả
ý thức của các kitô hữu đầu tiên về việc được Thiên Chúa tuyển chọn và về sứ
mạng của họ.
Các tín hữu sơ khai qui tụ tại tư gia (house/home)
hay theo hộ gia đình (household)
vì trong thế giới Hy - La, hộ
gia đình (oikos) là tổ chức và
tế bào cơ bản của xã hội, tuy nó vượt ra ngoài phạm vi của gia đình hạt nhân.
Tiếng Do Thái và Hy lạp không có từ “gia đình” (family) theo nghĩa của ngày nay. Hộ gia đình (Do Thái và
Hy Lạp) thường bao gồm: (1) gia đình mở rộng của chủ hộ/chủ gia đình (cha, mẹ,
con, cháu, bà con), (2) đầy tớ và nô lệ làm việc cũng như những công dân tự do
có liên hệ gắn bó hay có quan hệ nghề nghiệp, buôn bán với hộ gia đình, (3) và
tài sản của gia đình. Hộ gia đình khá giả thường có khu vực phòng ăn và sân[3] khá rộng rãi là nơi tiếp đón được một số
đông người. Ngoài ra, hộ gia đình là một cơ cấu mang tính gia trưởng nghĩa là
chủ hộ là nam giới (paterfamilias),
tuy nhiên phụ nữ cũng có quyền hành trong một vài lãnh vực của cuộc sống hộ gia
đình (x. Cn 31). Cách riêng, hộ gia đình Do Thái nổi bật với việc cầu nguyện
(sáng, tối, trước bữa ăn) và dạy giáo lý trong gia đình. Chính tầm quan trọng
của hộ gia đình trong xã hội Hy - La giúp giải thích việc đưa qui luật gia đình
vào đời sống Hội thánh như thấy trong Thư Côlôsê, Êphêsô, các Thư Mục vụ và 1
Phêrô. Việc áp dụng các qui luật gia đình này một đàng giúp các kitô hữu không
coi nhẹ những bổn phận chính đáng của đời sống xã hội, đàng khác cũng giúp giảm
bớt nghi ngờ của giới cầm quyền xã hội đối với Kitô giáo nói chung và Hội thánh
tại gia nói riêng. Cách chung, giới cầm quyền vẫn coi Kitô giáo là tôn giáo
ngoại lai, có thể gây bất ổn cho xã hội. Tuy nhiên, qui luật/chỉ thị về gia
đình này được mô tả và áp dụng theo tinh thần Kitô giáo vào cuộc sống và tương
quan giữa các thành viên gia đình (x. Cl 3,18-4,1; Ep 5,21 – 6,9, 1 Pr 3).[4] Hội thánh tại gia như một địa điểm hội
họp, cầu nguyện tồn tại suốt 3 thế kỷ đầu nhưng như một cơ cấu tổ chức thì Hội
thánh tại gia chấm dứt khoảng gần cuối thế kỷ 1.
Trong khoảng thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Kitô giáo tư gia của một vài kitô
hữu (khu vực phòng ăn và sân ngay trước phòng ăn) là khung cảnh diễn ra các
sinh hoạt của cộng đoàn, là nơi tín hữu gặp gỡ, hội họp, cầu nguyện.[5] Các ngôi nhà của các hộ gia đình này là
nơi chia sẻ và cung cấp nguồn tài nguyên kinh tế cho cộng đoàn và thành viên,
là cơ sở hoạt động truyền giáo, là cơ cấu thích hợp cho đời sống người môn đệ
Chúa cũng như cho việc lãnh đạo cộng đoàn. Như thế, có thể nói rằng nhà của chủ
hộ gia đình vừa là nơi sinh sống của gia đình vừa là nơi hội họp cầu nguyện của
cộng đoàn. Nơi ở của gia đình, nhất là khu vực phòng ăn, cung cấp khung cảnh
rất thích hợp cho mối quan tâm chính yếu của cộng đoàn tiên khởi. Mối quan tâm
này phản ánh việc Chúa Giêsu chọn tầng trên của ngôi nhà để cử hành bữa tiệc ly
với các môn đệ, cũng như việc Chúa chọn lựa một “không gian đời thường” làm bối
cảnh cho sứ vụ của Ngài và thường xuyên đề cập đến mối liên hệ gia đình với các
môn đệ.[6]
Từ hậu bán thế kỷ thứ 2 bắt đầu có sự thay đổi quan trọng. Đó là việc các kitô
hữu dành riêng nhà ở của mình để làm nơi hội họp của cộng đoàn, không còn việc sử
dụng chung tức là vừa làm nhà ở vừa làm nơi hội họp cầu nguyện. Khu vực phòng
ăn được nới rộng hơn để thành phòng hội chung khá lớn, còn các phòng nhỏ thì
được dùng cho những sinh hoạt khác của cộng đoàn. Mặc dù cấu trúc bên ngoài vẫn
còn rất giống nhà ở nhưng ngôi nhà đã trở thành “nhà thờ”. Dần dần chính quyền
cho phép tín hữu xây mới nhà ở của họ và như thế những ngôi nhà mới này phù hợp
hơn cho sinh hoạt tôn giáo. Vào năm 314, một năm sau sắc chỉ
2. Hội thánh tại gia trong Thư Phaolô
Kiểu nói “Hội thánh tại gia” cần được hiểu trong bối cảnh của khái niệm ekklesia và oikos ở trên.[7] Cách cụ thể, trong Thư Phaolô người ta
gặp thấy kiểu nói “Hội thánh họp tại nhà…” (he
kat’ oikon + [đại danh từ sở hữu] ekklesia), chẳng hạn, tại nhà
Mỗi nhóm họp tại một tư gia, dưới quyền điều hành của chủ hộ, thông thường là
nam giới nhưng cũng có thể là nữ giới. Thánh Phaolô thường được xem là người
thành lập các Hội thánh tại gia, nhưng chủ nhân lại là giáo dân và đôi khi
chính họ có sáng kiến thành lập cộng đoàn.[9] Họ thường hội họp hằng tuần giống như
Do Thái giáo (x. 1 Cr 16,2). Đây là Hội thánh tại gia, mà điển hình là gia đình
của những người Do Thái làm nghề tự do hay buôn bán nhỏ, sinh sống tại các
thành phố Hy Lạp.
3. Hai hình thức Hội thánh tại gia
Có 2 hình thức Hội thánh tại gia: toàn tòng khi toàn thể thành viên một đại gia
đình trở lại và được rửa tội do ảnh hưởng của chủ gia đình (Stephanas: 1 Cr
1,16; Cornelius: Cv 10,24.44-48; viên cai ngục: Cv 16,15.33), và không toàn tòng khi chỉ một số thành
viên trong gia đình đón nhận đức tin và được rửa tội. Hình thức thứ nhất tạo nhiều
thuận lợi cho việc tổ chức, lãnh đạo Hội thánh tại gia vì có sự thống nhất, hoà
hợp giữa gia đình và Hội thánh, tuy cách đón nhận đức tin của mỗi thành viên có
thể khác nhau. Nếu số thành viên gia đình (chủ hộ) nhiều thì tự nó đã đủ số làm
thành Hội thánh tại gia hay sẽ có thêm vài người ngoài gia đình đến tham dự nếu
nhà còn đủ chỗ để hội họp. Hình thức thứ hai là do sự trở lại từng cá nhân (1
Cr 1, 14-15; 7,12-16), hay nói cách khác là các thành viên gia đình có thể theo
các tôn giáo khác nhau. Khi đó Hội thánh tại gia tạo thành từ một số thành viên
gia đình chủ hộ trở lại cộng với sự tham gia của những người khác ngoài gia
đình hoặc từ những người trở lại riêng rẽ đến nhập với gia đình chủ hộ có nhiều
thành viên là kitô hữu. Trong trường hợp này những người ngoài đến tham dự phải
tùy thuộc quyền điều hành hay những qui định của chủ gia đình nơi hội họp cầu
nguyện, và như thế có thể có xung khắc về quyền bính, quyền lợi, tuy cũng có có
thể mang lại một số lợi ích như phá bỏ dần những ngăn cách về xã hội, kinh tế.
Hơn nữa, sự không đồng nhất về tôn giáo giữa các thành viên gia đình và Hội
thánh tại gia cũng tạo nên thái độ cởi mở/tiếp đón đối với người ngoài kitô
giáo.
Việc các Hội thánh tại gia họp riêng rẽ nhau và không gian tương đối nhỏ của hộ
gia đình cũng có thể tạo nên một số vấn đề. Những Hội thánh tại gia tạo thành
một mạng liên kết trong một vùng (chẳng hạn Hội thánh tại Corintô) nhưng thường
hội họp riêng rẽ, vì khó có thể hội họp chung tại một nhà, nên từ đó có thể tạo
ra tình trạng mỗi nơi phát triển một đường lối (thần học/tu đức) riêng. Không
gian và bầu khí gia đình tạo nên sự gắn bó thân mật nhưng cũng có thể tạo nên
sự phân nhóm (1 Cr 1,11-13) trong phạm vi rộng lớn hơn của toàn thể Hội thánh
tại một vùng (Hội thánh địa phương). Không gian không lớn lắm của phòng ăn
trong nhà và sân ngoài trời buộc phải phân chia các tín hữu đến hội họp thành
nhiều nhóm khác nhau, chẳng hạn nhóm trong nhà (ăn với tư thế nằm, x. 1 Cr
8,10), nhóm ngoài sân (ăn ngồi, 1 Cr 14,30), nhóm quen thân với chủ gia đình,
nhóm người xa lạ, nhóm khá giả, nhóm nghèo túng… (x. 1 Cr 11,17-34).
4. Những đặc tính làm nên Hội thánh tại gia
Không phải bất kỳ cuộc hội họp tại nhà chủ hộ gia đình đều được gọi là Hội
thánh tại gia, nhưng để được nhìn nhận là “hội thánh” cuộc qui tụ phải có bốn
đặc tính sau đây: koinonia
(cộng đoàn), diakonia (phục
vụ/sứ vụ), kerygma (rao giảng
Tin mừng) và leiturgia (tiệc
Thánh thể).[10] Các
thành viên của Hội thánh tại gia tạo thành một cộng đoàn nơi đó mọi người đều
quan tâm đến nhu cầu và lợi ích của kẻ khác; tất cả đều có ý thức cùng thuộc về
nhau và nối kết với các Hội thánh tại gia ở các nơi khác. Thật vậy, Hội thánh
tại gia cổ vũ một ý thức mạnh mẽ về cộng đoàn cũng như các sinh hoạt đều nhấn
mạnh tình cộng đoàn (x. Rm 10,12.16; 16,16; Gl 5,13; 6,2) và như thế làm tan vỡ
những ranh giới về văn hoá xã hội. Người chủ hộ gia đình và mọi thành viên Hội
thánh tại gia phục vụ nhu cầu vật chất-xã hội của nhau vì họ đều là anh chị em
trong Chúa Kitô. Tình anh chị em trong Chúa thôi thúc họ phục vụ cả những người
ngoài Hội thánh, trong đời sống xã hội. Trong các buổi hội họp họ công bố Lời
Chúa, chia sẻ với nhau giáo huấn của Chúa và kinh nghiệm về Ngài cũng như cử
hành việc bẻ bánh hay bữa tiệc của Chúa.
Từ những đặc tính trên có thể nói đến hai sinh hoạt chính yếu của Hội thánh tại
gia: truyền giáo và dạy giáo lý. Theo Công vụ Tông đồ thì Phaolô trước hết rao
giảng cho người Do Thái trong các hội đường, nhưng vì ít thành công nên ngài
chuyển cách thức hoạt động và đến ở tại các gia đình có thế giá trong vùng rồi
dần dần tìm cách rửa tội họ. Gia đình trở lại này trở thành căn cứ để khai
triển sứ mạng truyền giáo. Có thể gọi đây là chiến lược truyền giáo từ nhà này
đến nhà khác (Cv 16,13-34; 17,2-9; 18,1-11). Vì thế, Hội thánh tại gia nồng hậu
tiếp đón các nhà truyền giáo lưu động (Rm 16,1-2; Pl 2,27-29), là nơi trao đổi
thư từ liên lạc (1 Tx 5,27; 2 Cr 1,1; Cl 4,16)và giúp đỡ tài chính cho nhau (Rm
15,25-28; 1 Cr 16,1-4; 2 Cr 8-9).
Gia đình cũng là nơi thuận tiện để cha mẹ giảng dạy, cắt nghĩa giáo lý cho con
cái. Đức Giêsu thường cắt nghĩa thêm giáo lý cho các môn đệ khi họ về đến nhà
(Mc 7,17; 9,28). Chính nơi khung cảnh gia đình của Hội thánh tại gia mà giáo lý
được giảng dạy dễ dàng, đức tin được đón nhận và đào sâu.
5. Hình thức hội họp cầu nguyện
Đây chính là yếu tố cho thấy Hội thánh tại gia của các tín hữu sơ khai rất gần
với đời sống tôn giáo của gia đình Do Thái. Thông thường chủ hộ (kitô hữu) sẽ
điều hành việc hội họp cầu nguyện của Hội thánh tại gia, gồm: hát thánh ca,
thánh vịnh, đọc Kinh Thánh Cựu Ước, cầu nguyện chúc tụng, hôn chúc bình an và
cử hành bữa tiệc của Chúa (1 Cr 11). Nói chung, hình thức cầu nguyện và giáo lý
gia đình bổ túc cho nhau trong khung cảnh Hội thánh tại gia. Có thể nêu lên vài
nét đặc trưng của các buổi cầu nguyện tại tư gia như sau. Đó là việc giảng dạy
của các Tông đồ, có thể dưới hình thức nhắc hay ôn lại và thảo luận về các lời
giảng dạy của Chúa Giêsu (Cv 2,42; 5,42; 11,26; 13,1), hoặc có thể là suy niệm
và cố gắng giải thích Kinh thánh của Do Thái (Cựu ước) dưới ánh sáng của biến
cố Đức Kitô rao giảng, tử nạn và phục sinh (Lc 24,25-27; 44-45; Cv 8,32;
17,2-3.11). Cầu nguyện cũng đóng vai trò quan trọng trong các hội họp tại gia,
đặc biệt là Kinh Lạy Cha (như nơi Mt 6,9-13 và Lc 11,2-4). Các cách xưng hô như
Abba (Gl 4,6; Rm 8,15) hay
lời đáp Amen (1 Cr 14,16)
cũng được sử dụng trong buổi cầu nguyện. Ngoài các hình thức cầu nguyện cố định
này còn có những lời cầu nguyện ứng khẩu (Cv 4,24-30; 12,5; 13,3). Nói chung,
hình thức cầu nguyện của các tín hữu sơ khai mang tính cầu nguyện thánh linh/tự
phát (charismatic) và bày tỏ
lòng sốt sắng nhiệt thành (enthusiastic)
hơn là những lời cầu nguyện/lời kinh đã hình thành cố định (structured).
6. Thành viên và Tổ chức lãnh đạo Hội thánh
tại gia
Thành viên của “Hội thánh họp tại nhà…” không chỉ bao gồm thành viên của chính
hộ gia đình được nhắc tên mà còn có sự tham dự của những thành phần khác nữa,
như những người làm ăn buôn bán, những người tân tòng được sát nhập vào gia
đình cùng họp nhau cầu nguyện. Thông thường, buổi hội họp cầu nguyện của Hội
thánh tại gia, được diễn ra nơi khu vực phòng ăn, gồm thành viên trong gia
đình, người làm công phục vụ và bạn bè lân cận. Con số người này có thể lên tới
50 người trong mỗi lần hội họp vì những bằng chứng khảo cổ cho thấy khu vực
phòng ăn và sân của những gia đình có thế giá vào thế kỷ 1 có thể dung nạp số
người này. Trong số thành viên của hộ gia đình Kitô cũng có thể có những người
chưa rửa tội (trường hợp Ôsênimô, Plm 10) hoặc cũng có trường hợp chủ hộ không
phải là kitô hữu trong khi các thành viên gia đình đã là kitô hữu (x. Rm
16,11). Như thế, thành phần của Hội thánh tại gia rất đa dạng: Do Thái, Hy Lạp,
nô lệ, tự do, giàu, nghèo…Nhưng với số lượng tương đối nhỏ nên mối liên hệ giữa
họ sẽ dễ dàng phát triển. Ngoài ra, cơ cấu của buổi cầu nguyện tại gia cũng
thuận lợi để phát huy tình hiệp thông.
Tổ chức lãnh đạo của Hội thánh những năm 50 – 60 tức là thời thánh Phaolô, gồm:
các Tông đồ (theo nghĩa rộng, như Phaolô, Barnaba, Andronicô và Junia; x. Rm
16,7), các thừa sai phụ tá (như Sylvanô, Titô, Timôtê,
7. Phụ nữ trong sinh hoạt Hội thánh
tại gia
Phaolô coi trọng các phụ nữ trong công việc tham gia điều hành Hội thánh cũng như
rao giảng Tin mừng (Rm 16, 1.3.6.12). Ngài tập họp được một số đông phụ nữ cho
công việc truyền giáo và tận dụng đặc sủng của phụ nữ để rao giảng Tin Mừng.
Ngài không ngại khẳng định điều này trong các thư. Một số cặp vợ chồng hay các
phụ nữ được nhắc đến là những người cộng tác đắc lực trong Hội thánh (Phêrô và
vợ: 1 Cr 9,5;
8. Từ ngữ liên hệ gia đình để nói về Giáo
hội
Kiểu nói “Hội thánh tại gia” có thể ít gặp thấy nhưng những từ ngữ diễn tả Hội
thánh trong mối tương quan hay hình ảnh gia đình lại rất phong phú trong các
thư của Phaolô. Các kitô hữu được xem là thành phần của gia đình Thiên Chúa,
trong đó Thiên Chúa là Cha (1 Tx 1,1; 3,11; 13,2; 2 Tx 1, 1-2;2,16) và Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa, nhờ đó các kitô hữu là dưỡng tử, đồng thừa tự với Đức Kitô và được phép gọi Thiên
Chúa là Abba (Gl 4,4-6; Rm
8,16-17; x. 1 Tx 1,10). Thánh Phaolô áp dụng quan hệ Thiên Chúa, Chúa Giêsu và
kitô hữu trong đời sống Hội thánh nên mọi kitô hữu phải đối xử với nhau và phục
vụ lợi ích lẫn nhau như trong một gia đình, gia đình đức tin – gia đình Thiên
Chúa (Gl 6,10; Ep 2,18-19). Phaolô còn sử dụng những từ ngữ liên hệ đến tổ chức
gia đình như người quản lý (oikonomos),
tôi tớ, kẻ phục vụ (1 Cr 4,1-2; 9,17; Cl 1,25; 4,7; Ep 3,2; 2; 6,6; Cr 4,5; Rm
1,1), anh em (adelphoi), anh
em yêu quý (Gl 1,2; 1 Cr 15,58; 16,20; 2 Cr 9,3; Ep 6,21). Ngài còn tự xưng
mình là cha, mẹ, anh em với các kitô hữu và họ là anh chị em hay con cái của
ngài (Plm 2,10; Cl 4,9; Pl 2,12. 22; 1 Tx 3,22, Rm 16,13).
Hội thánh vào những năm 70-80 (như trình bày trong Thư Timôthêô, Titô và 1
Phêrô) bắt đầu được củng cố và cơ cấu hoá với thành phần lãnh đạo như giám
quản, trợ tá. Hội thánh được tổ chức có qui củ, trong đó vai trò nam giới lãnh
đạo được nhấn mạnh và phát triển. Một hình ảnh Hội thánh nổi bật của thời kỳ
này có liên quan đến vấn đề đang tìm hiểu, đó là “Hội thánh là gia đình Thiên
Chúa” (1 Tm 3,15; 1 Pr 4,17). Để điều hành tốt Hội thánh các giám quản và trợ
tá phải có những tiêu chuẩn như biết điều khiển tốt gia đình, biết dạy dỗ con
cái…(1 Tm 3, 4-5.12). Kiểu nói Hội thánh
gia đình Thiên Chúa gợi lên hình ảnh thành phần làm nên gia đình
cũng như Hội thánh là cha, mẹ, con cái, ông bà cũng như người phục vụ gia đình.
Từ “Thiên Chúa” trong cách nói “Hội thánh gia đình Thiên Chúa” làm tương đối
hoá tầm quan trọng của liên hệ gia đình nhân loại (rất mạnh trong xã hội La-Hy
đương thời) đồng thời đề cao hình ảnh “gia đình mới của Chúa Giêsu” trong Tân
ước (x. Mc 3,33-35) nơi đó mọi kitô hữu không còn ngăn cách huyết thống, xã
hội, kinh tế nhưng là anh chị em với nhau cùng một Cha trên trời.
II. Hội thánh tại gia: Nhận xét và ứng
dụng
1. Điểm tựa chính yếu của Hội thánh tại gia là gia đình hay nói một cách khác, Hội
thánh tại gia sử dụng phương châm lấy gia
đình cũng như giáo dân làm
gốc, làm cơ sở để khai triển các sinh hoạt tôn giáo cũng như xã hội.
Chính cơ cấu gia đình có nhiều thuận lợi để phát triển đời sống cộng đoàn kitô
hữu. Các tín hữu mới gia nhập Hội thánh dễ dàng nhận ra sự hiệp nhất trong tình
anh chị em nhờ việc cử hành bữa tiệc của Chúa trong Hội thánh tại gia. Cũng
giống như tiệc Vượt Qua được cử hành trong gia đình Do Thái thì giờ đây tiệc
Thánh Thể được tổ chức tại gia đình kitô hữu với Đức Kitô phục sinh. Trong bối
cảnh đó, đền thờ không cần thiết vì chính gia đình trở thành đền thờ sống động
xây trên nền tảng Đức Kitô. Môi trường gia đình kitô hữu giúp phát triển tinh
thần, ý thức trách nhiệm đối với Giáo hội vì họ coi Giáo hội như chính gia đình
của họ. Những công việc và bổn phận trong gia đình là cơ sở để phát triển ý
thức trách nhiệm trong cộng đoàn đức tin. Phaolô chọn các ông/bà có khả năng
lãnh đạo nơi gia đình để trao phó cho họ trách nhiệm coi sóc cộng đoàn. Từ đó,
có thể phát triển nhiều cộng đoàn kitô hữu với nhân sự tại chỗ. Gia đình kitô
hữu cũng tạo điều kiện để dần dần tương đối hoá hay phá vỡ những hàng rào khác biệt
về văn hoá xã hội, sắc tộc và tôn giáo. Việc mọi thành phần (chủ nhà, đầy tớ,
nam, nữ, Do Thái, dân ngoại, trí thức, ít học..) qui tụ quanh bàn tiệc Thánh
Thể trong một tình yêu thương thực sự chắc chắn lôi cuốn các tân tòng. Như thế,
nguyên tắc bình đẳng trong Đức Kitô đã được đưa ra và áp dụng trong cộng đoàn
Kitô hữu sơ khai tuy còn đòi hỏi nhiều nỗ lực để duy trì và thực hành trong đời
sống Giáo hội.
2. Hội thánh tại gia là môi trường thuận tiện để nuôi dưỡng công việc
truyền giáo cũng như các nhà truyền giáo. Đây chính là căn cứ/cơ sở truyền
giáo. Chính nhờ môi trường Hội thánh tại gia mà các tín hữu sơ khai biết được
các nhu cầu truyền giáo và nỗ lực sống tinh thần tông đồ truyền giáo tại khu
xóm (Cv 10,24; Cl 4,5-6; Dt 12, 14), trong chính gia đình (1 Tm 6,1; 1 Pr 3,1)
hay ở nước ngoài (Cv 13,1-3). Cũng chính nơi Hội thánh tại gia mà các thừa sai
lưu động nhận được nhiều sự tiếp đón, nâng đỡ, khích lệ và trợ giúp vật chất
(Cv 20,7; Rm 15,24; 16,1-2). Hội thánh tại gia là “trạm dừng chân” rất thuận tiện
cho các nhà truyền giáo lưu động cũng như cho giáo dân đi đường như khi đi làm
ăn buôn bán xa. Các liên hệ xã hội (do quan hệ làm ăn, làm thuê) với gia đình
chủ hộ cũng góp phần vào sự tham gia của lương dân vào cộng đoàn kitô hữu để
rồi dần dần họ được rửa tội. Có thể nói rằng thông qua tổ chức “Hội thánh tại
gia” hay “hộ gia đình” mà đức tin kitô giáo đã được truyền bá nhanh chóng vào
thế giới La – Hy.
3. Hội thánh tại gia là hình thức hội
nhập, thích ứng Giáo hội vào tổ chức gia đình của xã hội đương thời; nó có
những ứng dụng cho cơ cấu nội tại của cộng đoàn cũng như cho mối liên hệ của
cộng đoàn với xã hội. Giáo hội hôm nay cũng cần tận dụng các cơ cấu/tổ chức gia
đình của xã hội để có thể hội nhập Tin mừng vào các cơ cấu này. Hội thánh tại
gia làm phát huy và tăng trưởng mối liên hệ gia đình, họ hàng, các người lệ
thuộc cũng như mối liên hệ bạn bè và khách hàng. Gia đình là nơi hội họp tạo
điều kiện phát triển sự gắn bó, thân mật và ổn định. Các thành viên cảm nhận
được tình gia đình, cộng đoàn, phấn khởi hăng say phục vụ xã hội, tập thể nhưng
đôi khi lại đi quá đà. Do đó, môi trường này cũng có thể là nguyên nhân gây nên
sự phân hoá giữa các Hội thánh trong một vùng vì có nhiều Hội thánh/cộng đoàn,
chẳng hạn sự chia rẽ do bè phái mà Phaolô nhắc đến nơi 1 Cr 1-4. Một số vấn đề
khác của Hội thánh tại gia có thể nêu lên đây là việc tự cao về những ân huệ
của Thần Khí như nói tiếng lạ, hay việc để cho những khác biệt về xã hội chi
phối cộng đoàn như sự phân chia giai cấp trong bữa tiệc của Chúa (1 Cr 11-14).
Vì thế, không nên quá lý tưởng hay thi vị hoá hình ảnh cũng như kinh nghiệm của
Hội thánh tại gia mà quên đi những vấn đề khó khăn có thể có từ hình mẫu này.
4. Chúng ta không biết nhiều về các cảm
nghiệm tôn giáo hay việc thờ phượng của Hội thánh tiên khởi trong đó có Hội
thánh tại gia. Thánh Phaolô và các tác giả Tân ước có đề cập đến Phép Rửa cũng
như Bữa tiệc của Chúa trong khi giảng dạy về đức tin và sự hiệp nhất nhưng lại
không cảm thấy cần thiết phải nói chi tiết về thời gian, nơi chốn, nghi thức và
công thức cử hành, v.v…. Có lẽ vì giả định rằng các độc giả của họ biết những
chi tiết này do kinh nghiệm bản thân hay không cần giải thích chi tiết. Nhưng
con người ngày nay lại muốn biết về sinh hoạt đạo đức của Giáo hội sơ khai.Vì
thiếu kiến thức, thông tin về các chi tiết sinh hoạt đạo đức của Giáo hội sơ
khai nên hiện nay có nhiều phong trào, đoàn thể nhấn mạnh sinh hoạt này mà lại
loại trừ cử hành khác trong khi sinh hoạt của các kitô hữu tiên khởi có nhiều
cử hành, như kinh nghiệm nói tiếng lạ, cử hành phụng vụ Lời Chúa, bữa tiệc
Thánh thể của Chúa, thinh lặng cầu nguyện… Ý thức kinh nghiệm phong phú, đa
dạng này sẽ giúp các phong trào, cộng đoàn khiêm tốn phục vụ cũng như phát huy
sự hiệp nhất trong đa dạng của Giáo hội.
5. Mỗi Hội thánh tại gia chỉ dung nạp được
một số ít kitô hữu, tân tòng, dự tòng.. nên cần có nhiều Hội thánh tại gia để
đáp ứng sự gia tăng tín hữu. Sự phát triển nhanh chóng với số lượng nhiều Hội
thánh tại gia cũng dễ đưa đến tình trạng tự do phát triển, có thể không kiểm
soát được các sinh hoạt, các nghi lễ… nếu không có cách điều hành, quản lý nhằm
duy trì tính chính thống. Từ thực tế đó việc điều hành của Giáo hội sơ khai
tiến dần tới chỗ tập trung về lãnh đạo cũng như xác định thư quy Kinh Thánh để
duy trì sự hiệp nhất và hiệp thông trong Giáo hội. Chính vì thế, giáo huấn của
Giáo hội vẫn đòi buộc các “cộng đoàn cơ bản” (Basic ecclesial communities) hay các tổ chức, đoàn thể…
phải có liên hệ gắn bó với giáo quyền địa phương.
6. Hội thánh tại gia nhấn mạnh đến chiều
kích cộng đoàn cũng như đóng góp/dấn thân của cá nhân. Việc truyền giáo của
Giáo hội sơ khai nhắm đến việc thành lập Hội thánh tại gia hơn là nhắm đến từng
cá nhân. Từ đó có thể liên hệ đến việc loan báo Tin mừng cho một số dân tộc
thiểu số ngày nay là nên nhắm đến hình thức ảnh hưởng tập thể hơn là cá nhân.
Đời sống cộng đoàn có thể ít hấp dẫn với một cộng đoàn đã có đông người hay với
thành viên đã quen sống trong trong một đại gia đình, nhưng cũng có thể có
nhiều hấp dẫn đối với những ai không có gia đình, cũng như những người nghèo,
bị đặt bên lề xã hội (kể cả phụ nữ) không có điều kiện để giao lưu với tập thể
trong đời sống xã hội. Hội thánh tại gia đáp ứng nhu cầu tạo mối liên hệ này
nên chắc chắn được sự đón nhận, hưởng ứng của nhiều người thuộc thành phần đang
tìm kiếm sự giao lưu, sự bảo trợ nào đó từ cộng đoàn. Trong một cộng đoàn nhỏ
như Hội thánh tại gia cá nhân cũng cảm thấy được khích lệ, ít cảm thấy lẻ loi
và dễ dàng đóng góp cho tập thể. Do đó, có thể nói Hội thánh tại gia là nguồn
gốc phát sinh của cộng đoàn cơ bản ngày nay, một hình thức được Giáo hội cổ vũ
nhằm phát triển các hoạt động đa dạng của Giáo hội. “Hội thánh tại gia”, “cộng
đoàn cơ bản” hay “liên gia Công giáo”đáp ứng nhu cầu của con người ngày nay là
cần đến với nhau để được nâng đỡ. Các tổ chức này tạo nên mối liên hệ thân
thiết trong bối cảnh con người càng ngày càng lẻ loi, xa cách nhau do toàn cầu
hoá.
7. Hội thánh tại gia là nơi vun trồng và
phát huy tình yêu thương. Các chủ hộ đã dành nhà riêng của họ làm trung tâm hội
họp mà còn rất quảng đại điều hành công việc truyền giáo, tiếp đón mọi người.
Về phía các thành viên họ không chỉ gọi nhau là anh chị em mà còn đối xử cách
cụ thể tình cảm này với nhau. Bức thư ngắn của Phaolô gởi cho Hội thánh tại nhà
ông Philêmon là một trường hợp tiêu biểu. Cách đối xử và sự can thiệp của
Phaolô trong trường hợp Ôsênimô rất là tình cảm đặc biệt, không chỉ dùng cách
xưng hô anh em mà còn cách lập luận tại sao phải gọi nhau là anh em. Phaolô
đồng hoá mình với Ôsênimô. “Hãy đón nhận nó [Ôsênimô] như đón nhận chính tôi.
Nếu nó đã làm thiệt hại anh hoặc mắc nợ anh điều gì, thì xin để tôi nhận cả…tôi
sẽ hoàn trả lại” (Plm 17-19). Ôsênimô, khi được rửa tội, trở thành hoàn toàn
bình đẳng với chủ trong việc loan báo Tin mừng, được quyền tham dự vào sinh
hoạt cuả Hội thánh, trao hôn bình an với chủ mình trong khi cử hành tiệc Thánh
Thể. Cách đối xử yêu thương và tôn trọng lẫn nhau này chắc chắn cũng phải thể
hiện trong cuộc sống thường ngày, ngoài giờ phụng vụ. Tình yêu thương, phục vụ
sẽ giúp vượt qua hay hạn chế tính cách gia trưởng (patriarchal) và phẩm trật (hierarchical) thường được xem là mặt trái của gia đình.
8. Sự kiện các tín hữu sơ khai họp nhau
tại tư gia nhắc chúng ta rằng gia đình là môi trường rất thuận tiện cho sinh
hoạt tôn giáo và rằng “Hội thánh/nhà thờ” (church/église)
không phải chỉ là toà nhà (building)
hay cơ sở vật chất. Đúng hơn, Hội thánh (ekklesia)
trước hết chính là một cộng đoàn tín hữu tụ họp nhân danh Chúa Giêsu Kitô (x. 1
Cr 11,18). Thánh Phaolô không bao giờ dùng từ “ekklesia” để chỉ toà nhà nơi
cộng đoàn hội họp. Những ân huệ khác nhau mà Thiên Chúa ban cho các tín hữu
trong Hội thánh không phải để khoe khoang hay đề cao cá nhân nhưng là để phục
vụ lợi ích chung và xây dựng cộng đoàn. Không thể tránh vấn đề là các Hội thánh
tại gia gia tăng về số lượng sẽ có thể gây nên một số trục trặc nhưng vẫn luôn
phải xây dựng và nuôi dưỡng ý thức căn
tính cũng như cộng đoàn tính
mà Hội thánh tại gia tạo ra nơi các tín hữu ban đầu.
Tìm hiểu kỹ về Hội thánh tại gia cho thấy mô hình này của Giáo hội sơ khai có
những vấn đề cần lưu tâm cũng như có những khả năng gợi lên những áp dụng cho
Giáo hội và con người hôm nay. Thật vậy, “Hội thánh tại gia” có thể bị chất vấn
nếu áp dụng cách máy móc. Hình mẫu Hội thánh này vẫn lôi cuốn nhiều Giáo hội
tại châu Mỹ La Tinh, châu Phi và châu Á, cách riêng tại Việt Nam, vì thích hợp
với các nền văn hoá này.[13] Việc tìm hiểu, học hỏi kỹ lưỡng hình ảnh Kinh Thánh “Giáo hội tại gia”
và “Giáo hội là gia đình Thiên Chúa” trong các Thư Phaolô sẽ giúp chúng ta thấy
được những điểm tích cực để ứng dụng và phát huy cũng như những điểm tiêu cực
để hạn chế và tìm cách vượt qua hầu xây dựng và phát triển Giáo hội là Gia đình
Thiên Chúa.
Câu hỏi thảo luận:
Những áp dụng cụ thể và những thách đố (tích cực cũng như tiêu cực) của hình
mẫu Giáo hội là Gia đình Thiên Chúa trong bối cảnh Giáo hội và xã hội Việt
Tài liệu tham khảo
-Cwiekowski, F.J., The Beginnings of the
Church.
-Banks, Robert, Paul’s Idea of Community.
Rev. ed.
-Doohan, H., Paul’s Vision of Church.
-Harrington, Daniel J., The Church
According to the New Testament.
-Hendrickx, Herman, The Household of God.
-Lee, B.J. and M.A. Cowan, Dangerous
Memories.
-Meeks, Wayne A., The First Urban
Christians.
-Lohfink, G., Jesus and Community.
-Murphy-O’Connor, J. St. Paul’s Corinth.
-Schneider, H., “Women in Early Christianity and the Institutionalization of
Charisma,” EAPR 44, no.2
(2007), http://eapi.admu.edu.ph/eapr007/eapr007.htm
-Theissen, G., The Social Setting of
Pauline Christianity.
-----------------------------------------------
[1] “Hội
thánh tại gia” (house churches)
trong Thư Phaolô chỉ một hình thức/địa điểm hội họp cũng như một cơ cấu của
Giáo hội sơ khai khác với hình ảnh “gia đình là Hội thánh tại gia” (domestic church/Ecclesia domestica) như
được Công đồng Vaticanô II đề cập (LG 11; FC 21). Có thể nói Hội thánh tại gia nhắm đến “tính cách gia
đình” của Hội thánh (mối tương quan gia đình như là mẫu mực cho các thành phần
Hội thánh) còn gia đình là hội thánh tại
gia nhấn mạnh đến tính cách “giáo hội” của gia đình (Giáo hội như
là mẫu mực cho gia đình).
[13] Xem CELAM, Puebla Document (1979);
Tông huấn Giáo hội tại Phi Châu
(1995), 63; FABC VIII (2004), The Asian
Family Towards a Culture of Integral Life, 50; Acta Synodalia Sacrosancti Concilii Oecumenici
Vaticani II, vol. II, pars II (Rome: Typis Polyglotis Vaticanis,
1972), 44. Tham luận của Đức cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền tại kỳ họp Công đồng
Vaticano II (khoá 2) như sau: “Quan niệm Giáo hội là gia đình của Thiên Chúa rất gần gũi với
con người. Cách trình bày mầu nhiệm Giáo Hội bằng những từ ngữ về gia đình rất
quen thuộc và dễ hiểu đối với mọi người... Trình bày Giáo hội như gia đình của
Thiên Chúa giúp các Kitô hữu trở về với Tin Mừng, trở về với cách giảng dạy đơn
sơ của Ðức Giêsu (Ðức Giêsu dùng rất nhiều hình ảnh về gia đình); nhờ đó dễ
hiểu và thấm nhuần Tin Mừng hơn”; Bản trả
lời các câu hỏi – Phụ trương của Lineamenta và Bản Góp ý của HĐGM Việt Nam cho
THĐGM Á Châu (1997). Các Giám mục Việt Nam nhấn mạnh cần phải “xây
dựng một Hội thánh như một gia đình con cái
Thiên Chúa” thay vì “một phẩm trật với những cơ chế và luật pháp
kiện toàn. Một Hội thánh như một cộng đồng gia đình sẽ dễ hội nhập vào trong xã
hội Á châu”.