Bài 4:
NGÔN NGỮ CỦA THẬP
GIÁ TRONG CÁC THƯ PHAOLÔ
(LE LANGAGE
DE LA CROIX DANS LES ÉCRITS PAULINIENS par Chantal Reynier)
Chúng
ta có thể khám phá khuôn mặt nào của Thiên Chúa và khuôn mặt nào của con người
trong "ngôn ngữ của thập giá" mà Phaolô nói tới? Hay nói một cách
trực tiếp hơn: đau khổ và sự chết có ý nghĩa gì đối với kitô hữu? Chantal
Reynier mời chúng ta đi sâu hơn vào tư tưởng của Phaolô.
Lm. Gioan Boscô Cao Tấn Phúc
Có bằng tiến sĩ thần học, Chantal Reynier dạy môn chú giải Tân ước tại
Centre Sèvres ở Paris. Bà đã xuất bản: Evangile et mystère. Les enjeux
théologiques de lEpitre aux Ephésiens (Paris, Cerf, 1992) và l’Evangile du
Ressuscité. Une lecture de Paul (Paris, Cerf 1995).
Chúng ta có thể
khám phá khuôn mặt nào của Thiên Chúa và khuôn mặt nào của con người trong
"ngôn ngữ của thập giá" mà Phaolô nói tới? Hay nói một cách trực tiếp
hơn: đau khổ và sự chết có ý nghĩa gì đối với kitô hữu? Chantal Reynier mời
chúng ta đi sâu hơn vào tư tưởng của Phaolô.
............
Kiểu nói
"ngôn ngữ của Thập Giá" chỉ xuất hiện trong các thư Phaolô và xem ra
đó là cả một cương lĩnh (quasiment programmatique). Nói như thế có phải là cho
rằng mọi công bố Tin Mừng đều chỉ qui về mỗi một việc là công bố thập giá hay
không? thập giá mà người ta rất thường biểu dương nhằm khích lệ các kẻ tin,
cũng như rất thường loại bỏ do việc nó đề cao sự đau khổ. Trong trường hợp này,
các thư Phaolô không đầy dẫy những mâu thuẩn đó hay sao? Thực vậy, Phaolô khẳng
định ngài "đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Ðức Giêsu Kitô chịu đóng
đinh" (1 Cr 2,2) và đồng thời, ngài công bố là vô ích một
đức tin muốn chối bỏ việc Phục Sinh. Trong thư gởi tín hữu Roma, trong khi công
bố lòng thương xót dạt dào của Thiên Chúa, Phaolô nói đến Ðấng đã treo Con của
Người trên thập giá làm nơi xá tội (x. Rm 3,25).
Gương mặt
nào của Thiên Chúa được trình
bày trong câu nói đó? Và gương mặt nào của con người? Có phải là gương mặt của
một vị Thiên Chúa, vì muốn xoa dịu cơn giận do tội lỗi loài người gây ra, đã đi
tới chỗ bỏ mặc Con mình trên một cây thập giá? Có phải là gương mặt của một vị
Thiên Chúa cho rằng mình đã được phục hồi quyền lợi bởi lẽ một người vô tội đã
trả nợ thay cho nhân loại tội lỗi? Có phải là gương mặt của một vị Thiên Chúa
bắt con người bước vào chỗ của tội nhân được cứu chuộc? Như thế làm Kitô hữu có
phải hệ tại tìm kiếm cách vô vọng để được đúng luật với một vị Thiên Chúa chỉ
thấy sự khốn cực của con người? Ðó là những hệ luận do kiểu nói "ngôn ngữ
của thập giá" của vị Tông đồ đặt ra. Nhưng ngài đã thật sự nói gì về thập
giá?
Thập giá của Ðức Giêsu Kitô, Ðức Chúa vinh hiển
Muốn hiểu
bản chất và vai trò của thập giá như được biểu lộ trong các bản văn, trước hết
cần phải thu thập từ ngữ liên quan đến thập giá là một đồ vật gồm một cọc đứng
và một đà ngang. Ðó là những tiếng: thập giá, giá treo cổ, và những động
từ: đóng đinh
vào thập giá, đóng đinh, treo lên. Tuy nhiên những từ này lại vắng
bóng trong những thư đầu tiên của Phaolô (1 và 2 Tx), là những bức thư còn rất
gần với biến cố đóng đinh thập giá, cũng như vắng bóng trong những thư cuối
cùng, những thư mục vụ. Nhất là những từ vựng này vắng bóng trong những công
thức công bố Tin Mừng (formules kérigmatiques) quan trọng (1 Tx 4,14; 1 Cr
15,3; Rm 8,34); trong những công thức ấy, sự chết chỉ được được nhắc tới như
thực tại song đối với sự phục sinh. Sau cùng, những từ đó không xuất hiện trong
lãnh vực khuyến thiện, đang khi chủ đề thập giá sẽ được đề cập nhiều trên bình
diện luân lý và tu đức.
Những qui chiếu về thập giá thực ra không nhiều - tổng cộng 23 lần, nếu người
ta căn cứ theo ngữ vựng chính xác -; Phaolô không khác gì lắm với các tác giả
tin mừng là những người nhắc tới thập giá với nhiều dè dặt. Một nhận xét như
thế có cho phép ta qui kết rằng diễn từ của Phaolô về thập giá, được thu gọn
trong một vài qui chiếu, đã được phóng đại do những lần đọc lại khác nhau đã
được thực hiện theo dòng thời gian?
Thập giá nói ở đây chỉ liên quan đến Ðức Giêsu Kitô. Thập giá chỉ đáng quan tâm
trong mức độ nó là thập giá của Ðức Chúa vinh hiển. Ngay cả trong
trường hợp liên quan đến kitô hữu, thập giá này luôn qui chiếu về thập giá của
Ðức Giêsu Kitô. Như thế, các bản văn gợi lên hai phương diện, một phương diện
kitô học và một phương diện nhân loại học; hai phương diện này, nếu đúng như
vậy, sẽ cho phép loại bỏ một số hàm hồ.
Một biến cố, chướng kỳ và điên rồ
Khi Phaolô
nói tới thập giá, thì trước tiên và trên hết ngài nhắm tới một biến cố cụ thể
mà các sách tin mừng nhất trí ấn định tại một nơi có tên là Golgotha, và vào
một thời điểm, áp ngày sabát, ngày chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua, mặc dầu vị Tông
Ðồ không bao giờ ám chỉ tới thời điểm ấy hay tới nơi chốn ấy. Ðó là một biến cố
lịch sử, nên ta phải quan tâm tới sự đánh giá của các nền văn hoá đồng
thời với nó.
Cây gỗ trên đó Ðức Giêsu bị treo là một vật gia hình tàn ác và ô nhục. Ðối với người Rôma,
hình phạt ấy bất xứng ngay cả với công dân đáng khinh bỉ nhất của họ; nó dành
cho những tên nô lệ. Người ta có thể hiểu dễ dàng tại sao kẻ bị treo trên thập
giá dầu thế nào đi nữa cũng không thể là một vị thần, cũng không thể là một
trong những vị thần ẩn tàng thỉnh thoảng ghé thăm trái đất, càng không thể là
một vị anh hùng biết cách biến hình đổi dạng. Dám coi kẻ chịu đóng đinh thập
giá là một vị thần, đó thật là một sự điên rồ. Ðối với người Do Thái,
kẻ bị treo là một người bị Thiên Chúa chúc dữ theo khẳng định của Ðnl 21,22: chướng kỳ này
được nhân đôi nếu kẻ bị treo nầy tự xưng là đấng Mêsia muôn dân trông đợi. Ðối
với những kẻ này, ngôn ngữ của thập giá là điên rồ, một sự vô nghĩa tuyệt đối,
một sự phi lý; đối với những kẻ khác, đó là một chướng kỳ, một cớ vấp phạm (1
Cr 1,23). Như thế, thập giá là cái lật đổ các nền văn hoá ngay chính
tại điểm các nền văn hoá ấy đang trông chờ (trông chờ sự khôn ngoan hay trông
chờ đấng Mêsia).
Bởi vì thập giá luôn là thập giá của Ðức Giêsu Kitô, Ðức Chúa vinh hiển, nên
thập giá qui
chiếu về Phục Sinh. Thập giá với tư cách là thập giá không thay
đổi gì cho dòng lịch sử. Ðức Giêsu với tư cách kẻ chịu đóng đinh thập giá ở vào
số tất cả những kẻ chịu đóng đinh thập giá mà không ai nhớ đến tên họ. Hãy nghĩ
tới hai ngàn người Do Thái bị đóng đinh thập giá dưới triều vua Áckêlaô hay là
tới vô số kẻ trộm cướp bị treo trên thập giá thời quan Phêlíc, tổng trấn xứ
Giuđê.
Thập giá chỉ có ý nghĩa dưới ánh sáng của phục sinh. Bởi vì đấng bị đóng đinh
thập giá là đấng phục sinh, nên lịch sử thay đổi chiều hướng. Bởi đó, do tính
cách đặc biệt của đấng bị đóng đinh vào đó, thập giá hạ bệ tất cả những đường
lối khôn ngoan. Không ý thức hệ nào, không nền văn hoá nào có thể
giam hãm thập giá và đồng thời, các ý thức hệ và các nền văn hoá có thể hoàn
toàn bị thập giá khống chế do quyền năng của sự phục sinh. Bởi vì Thiên Chúa ở
đó hành động cho mọi người, lịch sử không những thay đổi chiều hướng, mà nhân
loại còn khám phá ra gương mặt của Thiên Chúa mình cũng như gương mặt của chính
mình.
Dâng hiến cho đến tận cùng (?)
Bởi vì đấng
chịu đóng đinh thập giá là đấng phục sinh, Người mặc khải cho chúng ta một điều
gì thuộc căn tính đặc biệt của Người ngay trong phong cách (modalité) chết của Người.
Người là kẻ "vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã trở nên giống phàm nhân"
(Pl 2,6) và chấp nhận lãnh cái chết của mình từ tay con người. Trong sự chấp
nhận bị đóng đinh này, người ta thấy để lộ ra nội tâm (intériorité) của kẻ chịu đóng
đinh. Người không coi việc từ bỏ địa vị thần linh của mình là đủ
(tức là khước từ tất cả những gì trong việc mặc khải thần tính có thể là một
ngăn trở để kết hiệp với nhân tính), Người không cho việc mặc lấy điều kiện
nhân loại đến nỗi chấp nhận sự kết thúc cuối cùng bằng cái chết là đủ, nhưng
Người, Ðức Chúa vinh hiển (1 Cr 2,8) sẽ để mình bị đóng đinh vào thập giá như
một kẻ rốt hết trong các nô lệ chịu án tử.
Khi nhấn mạnh đến phong cách chết "và chết trên thập giá", Pl 2,8 nêu
lên tính cách đặc thù của cái chết đó; cái chết này là một cái chết ô nhục
người Con nhận lãnh vì tình yêu đối với Cha của Người và đối với chúng ta. Như
vậy cái chết đó là cái chết hiến dâng (mort doblativité) nhờ đó tỏ bày tình yêu
của Con đối với Cha và đối với chúng ta. Ðức Giêsu chấp nhận làm một người bị
chúc dữ (trước mắt những người Do Thái), làm một kẻ ngu dại (trước mắt những
người Rôma), đang khi Người là kẻ được Thiên Chúa chúc phúc, là đấng Mêsia, là
người Con, kẻ cho ta hưởng muôn vàn ân phúc (Ep 1,3). Khi dùng cái chết trên
thập giá để mặc khải một sự dâng hiến đi tới chỗ tột cùng của nhục nhã và đau
khổ, Người lật đổ mọi tiên thức (précompréhension) về Thiên Chúa và về con
người.
Hơn nữa, qua nội tâm của Người hoàn toàn phó dâng, Người hoà giải mỗi ngườivà mọi
người không trừ ai với Thiên Chúa và với nhau. Người cũng hoà giải các hữu thể
trên trái đất và trên trời. Ðấng đã hoà giải tất cả là Ðấng đã dựng nên tất cả:
lịch sử gởi trả chúng ta về nguồn cội, về cuộc sáng tạo. Biến cố thập giá có
một tầm mức vũ trụ: tất cả tạo thành đều được hành động của Ðức Kitô trên thập
giá đụng chạm đến. Như vậy không chỉ có một sự đi xuống của Thiên Chúa với nhân
loại, nhưng cũng có một sự đi lên trong đó Ðức Kitô cho chúng ta tham dự từ bên
trong vào cuộc đi lên của Người với Cha.
Tình yêu của Cha được tỏ bày
Gương mặt của Thiên
Chúa cũng được mặc khải nơi đấng bị đóng đinh. Thực vậy, vị Thiên Chúa tỏ mình
ra không phải là Thiên Chúa của giận dữ, nhưng là Ðấng dấn thân trong thân phận
con người đến nỗi chấp nhận cái chết, chết trong người Con của Người. Thiên
Chúa đã chọn đi qua con đường thập giá và lệ thuộc vào lịch sử thế giới để tỏ
mình ra (1 Cr 1,21). Thập giá được trồng rất cụ thể và vững chắc trên mặt đất. Ðó
là một nơi tỏ bày sự dâng hiến của Con mà cũng là của Cha. Do đó thập giá là
một cuộc thần hiển (théophanie) thực sự với tất cả mức độ Con làm hiển thị tình yêu của Cha,tình
yêu được tỏ bày nhờ hy tế Cha thực hiện nơi Con.
Ðặc tính lạ lùng này trong ý định của Thiên Chúa chỉ có thể hiểu được trong
biến cố thập giá nhờ ánh sáng phục sinh. Không những thập giá nói lên sự hoàn
tất của Kinh Thánh mà còn mặc khải ý nghĩa của Kinh Thánh. Thập giá chẳng là
chữ "tau" đó hay sao, mà chữ "tau" là chữ cuối cùng trong
bảng chữ cái Do thái và như vậy cũng là kết thúc của nó? Tất cả đã được nói ra,
tất cả mọi lời tiên tri về lòng thương xót của Thiên Chúa đã được ứng nghiệm.
Chắc chắn, sự ứng nghiệm được thực hiện cách bất ngờ. Nhưng khía cạnh này rất thường
bị xem nhẹ và những khẳng định liên quan đến sự giận dữ, món nợ, sự công chính
hoá đã trở nên quan trọng đến mức chúng đã che khuất mất ý định lạ lùng của
Thiên Chúa, cho dù Phaolô đã nói rõ điều này bằng cách sử dụng từ ngữ "mầu
nhiệm". Ngôn ngữ của thập giá mặc khải cách độc đáo và đặc biệt sự hy sinh
của Con và của Cha. Mọi kitô hữu đều được mời gọi thể hiện hai sắc thái này trong cuộc sống của mình.
Loan báo đấng chịu đóng đinh
Người tín
hữu là người tiếp nhận lời loan báo về đấng chịu đóng đinh, chấp nhận và làm
chứng cho sự việc này. Phaolô tuyên bố ngài "không muốn biết gì khác ngoài Ðức Giêsu
Kitô bị đóng đinh" và ngài lãnh trách nhiệm đi loan báo trước
cả việc ban phép rửa tội (1 Cr 1,17). Một sự loan báo như thế phải không ngừng
được đổi mới bởi vì nó có nguy cơ bị lãng quên, có khi bị loại bỏ nữa. Tín hữu
Corintô không chia rẽ sao khi công bố mình thuộc về người này hay người khác
trong số các thủ lãnh của mình (1 Cr 1,10-16) và tín hữu Galát đã chẳng chạy
theo một Tin Mừng thứ hai sao, cho dù họ "thấy hình ảnh Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh
vào thập giá phơi bày ra trước mắt" (Gl 1,6; 3,1)?
Ðiều thập giá nhắc nhở thì thuộc phạm vi kinh nghiệm chứ không thuộc trật tự
suy tư hay ý thức hệ. Niềm tin vào Ðức Kitô đi ngang qua việc chấp nhận cuộc
Vượt Qua của Người và sẽ luôn là chướng kỳ và điên rồ cho tất cả các nền văn hoá
cũng như niềm tin ấy đã là chướng kỳ và điên rồ cho thế giới Hy Lạp vì một nền
tảng như thế thật bất lực và phi lý. Khía cạnh gai chướng của ý định Thiên Chúa
là yếu tố cơ bản trong việc đưa thập giá vào lịch sử. Nếu thập giá chỉ có ý
nghĩa bởi vì đấng chịu đóng đinh thập giá là đấng đã sống lại, - vì không có sự
sống lại Ðức Giêsu chỉ là một kẻ chết treo được ghi vào danh sách hàng ngàn
người đã bị đóng đinh trong thời Cổ đại -, thì theo sự khôn ngoan của thế gian,
thập giá vẫn là khổ hình mà một Thiên Chúa thánh thiện không thể nào phải chịu.
Khía cạnh này của lời loan báo là tuyệt đối đến mức tạo thành động lực cho mọi việc
truyền giáo: "Ðức Kitô đãchẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai
tôi đi rao giảng Tin Mừng" (1 Cr 17). Nội dung của việc truyền
giáo nằm nơi ngôn ngữ của thập giá; ngôn ngữ này hoàn toàn tùy thuộc vào Ðức
Giêsu Kitô trong khía cạnh khách quan và ý nghĩa của việc Người mặc khải.
Biết Người
Việc loan
báo đấng chịu đóng đinh được liên kết với một sự hiểu biết không theo kiểu khai
tâm hay ma thuật. Nó lật đổ những con đường đi tới Thiên Chúa mà từ nay được mở
ra cho mọi người. Sự hiểu biết không còn là sở hữu mà lần hồi những người Do
Thái và Hy Lạp tự tạo ra cho họ (1 Cr 1,21-25), như vậy là bắt Thiên Chúa phải
đi qua các lối đường của họ. Thập giá có một nhiệm vụ mặc khải bởi vì thập giá
mở ra một sự
hiểu biết mới về Thiên Chúa. Bằng cách làm nổ tung những nền văn
hoá khi chúng mưu đồ nắm chắc sự hiểu biết của mình và áp đặt nó, thập giá giới
thiệu một ngôn ngữ mới, nghịch với mọi hệ thống và mọi khôn ngoan.
Bởi đó cho nên làm
chứng về thập giá không phải là cười nhạo các nền văn hoá, nhưng đó
là vượt qua chúng trên cây gỗ thập giá: cây gỗ này được trồng xuống đất nhưng
sự cao cả của nó sẽ vươn cao hơn chúng. Sự làm chứng đạt được mức độ của nó
trong biến cố Ðức Giêsu Kitô bị đóng đinh thập giá chứ không phải trong kinh
nghiệm của thế gian, bởi vì kinh nghiệm của thế gian, do đã chất đầy ý nghĩa, chỉ
có giá trị qua kinh nghiệm của thập giá. Thiên Chúa có khinh chê các nền văn
hoá không? Chắc chắn là không, bởi Thiên Chúa đáp ứng sự tìm kiếm của chúng, nhưng một cách bất ngờ.
Ðối với những người Do Thái tìm kiếm những dấu chỉ, thì họ được thấy một kẻ bị
treo. Ðối với những người Hy Lạp quan niệm sự khôn ngoan theo hình ảnh của một
lý trí xơ cứng, Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra, nơi thế giới này, trong sự nghịch
thường của siêu việt tính của Người.
Chịu đóng đinh với Ðức Kitô
Trong Rm
6,6, Phaolô công bố rằng "con người cũ đã bị đóng đinh thập giá với"
Ðức Kitô. Thập giá là một điều khó hiểu đến nỗi phải có sự táo bạo của ngôn ngữ
để diễn tả. Phaolô luôn mô tả đời sống kitô hữu bằng những từ ngữ sự sống, ân
ban, ân sủng, sự dồi dào, sự kết hợp với Ðức Kitô (Rm 5-8) hơn là bằng những từ
ngữ phán xét mà người ta đã gán cho một tầm quan trọng quá lớn khi tách những
từ ngữ ấy ra khỏi bối cảnh của sự nhưng không và của sự sống, trong bối cảnh
này chúng như thể là bị chìm ngập. Người kitô hữu là kẻ nhận lãnh ân huệ được
ban cho họ trong sự chết của Ðức Kitô, một lần cho tất cả và mãi mãi.
Như vậy người Kitô hữu nhận ra căn tính cá nhân (identité personnelle) của mình trong Ðức Kitô,
bởi vì với tư cách là con người mà Người là Con. "Bị đóng đinh thập giá
với" không có nghĩa là hành hạ thân xác để đạt tới một lý tưởng - bởi
trong trường hợp này, người ta trở lại với lề luật - nhưng đây là sống trong
một tương quan kết hiệp với đấng chịu đóng đinh, bởi vì đấng chịu đóng đinh
"đã hủy diệt thân xác tội lỗi" (Rm 6,6) một lần cho tất cả. Những từ
ngữ này không diễn tả cái gì khác hơn là tình yêu được Ðức Chúa bày tỏ trên
thập giá mà người tín hữu được mời đáp trả trong cùng một đà yêu thương và dâng hiến.
Vác thánh giá của mình hay "mang những thương tích của Ðức Giêsu"?
Không có
văn bản nào của Phaolô đòi hỏi người kitô hữu phải vác thập giá mình như những
lời của Ðức Giêsu được các sách Tin Mừng thuật lại (Mc 8,34; Mt 10,38). Ngược
lại, Phaolô mời các tín hữu "đóng đinh vào thập giá xác thịt và những ham
muốn xác thịt của mình" (Gl 5,24), "mang những thương tích của Ðức
Giêsu" (Gl 6,17). Phải chăng điều đó có nghĩa là xác thịt tự nó là xấu xa
phải quăng đi để cứu vớt tinh thần? Thực ra, tình yêu đối với Ðức Kitô phải in sâu trong xác thịt
(chair),trong xác thể tính (corporéité), nếu không đó là thứ tình yêu ý thức hệ
và mất đi sự qui chiếu về ngôn ngữ của thập giá. Có một cách loan báo Tin Mừng
và sống Tin Mừng biến thập giá của Ðức Kitô thành hư vô (1 Cr 1,17); đó là cách
tách riêng lời nói và hành động. Bởi đó cho nên sự qui chiếu về xác thịt là chủ
yếu.
Trong khi ngày trước phép cắt bì là dấu giao ước thì ngày nay toàn bộ xác thịt được
kêu gọi nhận lãnh "dấu" của Ðức Chúa để bày tỏ Người. Trong Ðức Kitô,
có sự mặc khải về Thiên Chúa mà tình yêu là vô cùng, trong người kitô hữu, có sự hiển linh
(épiphanie)
của Ðức Kitô: "Tôi bị đóng đinh vào thập giá, không phải
tôi sống, chính Ðức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20). Và đó không phải là
những từ ngữ: Phaolô trình bày cho các kitô hữu bắt chước, không phải do kiêu
căng, nhưng bởi vì ngài cảm thấy cần thiết phải loan báo Tin Mừng và một sự
loan báo như thế chỉ mặc lấy đầy đủ chiều kích rộng lớn mà nó phải có trong sự mạch lạc (cohérence)
giữa một lời được định hình bởi dấu thập giá của Ðức Kitô với một sự sống được
đánh dấu bởi tính nghịch thường của Ðức Kitô đấng là sự sống qua cái chết.
(x. 1 và 2 Cr).
Người Kitô hữu chiếm hữu một sự tự do đích thực đối với thế gian. Tuy vẫn ở
trong thế gian, người kitô hữu làm cho thế gian đi vào trong chuyển động dâng hiến (mouvement
doblativité)
của Ðức Kitô. Do đó, đối với Phaolô, người kitô hữu có thể nói
rằng những gian nan thử thách Ðức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân
cho đủ mức (Cl 1,24). Không còn thiếu gì trong cuộc thương khó của Ðức Kitô và
tất cả các bản văn của vị Tông đồ đều minh chứng điều này. Nhưng trong người
tín hữu, tất cả không phải là sự trong sáng tinh ròng của tình yêu mà họ được
yêu. Chính sự ao ước cho hoàn thành này thúc đẩy Phaolô nói rằng những thử
thách liên kết với thân phận làm người - kể cả thử thách lớn nhất là sự chết -
cho phép ngài ghi trong xác thịt mình sự sống của Ðức Kitô.
Giáo Hội
Ðiều gì
đúng cho trường hợp cá nhân thì cũng đúng cho trường hợp cộng đoàn. Thập giá có
một vai trò giáo hội bởi vì thập giá hoà giải những nhóm đối nghịch, Do Thái và
Lương Dân, thành một khối duy nhất, triệt để mới mẻ, đó là Giáo Hội (Ep 2,16).
Muốn làm điều này, cần phải hủy diệt hận thù là bức tường chia rẽ. Ðó cũng là
công trình của Ðức Kitô trên thập giá bởi vì thập giá hủy diệt tham vọng của lề
luật hay của sự khôn ngoan là đối chọi người Do Thái và Hy Lạp trong một ngoại
giới tính (bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Cộng đoàn những kẻ tin là một cộng
đoàn những người được kêu gọi (église= ek kalein=kêu gọi), theo hình ảnh của
đấng kêu gọi (1 Cr 1,26). Cũng như cá nhân, cộng đoàn phải phản chiếu sứ điệp
mà cộng đoàn có trách nhiệm loan báo; nếu không, diễn từ của mình sẽ thành vô
ích và bất nhất.
Ngôn ngữ của thập giá
Ngôn ngữ
của thập giá là ngôn ngữ của Thánh Thần về nội dung cũng như về các
phương cách. Ngôn ngữ này phê bình tất cả mọi nền văn hoá đi tìm kiếm một sự
khôn ngoan chủ trương không cần đến Thiên Chúa. Với tư cách là ngôn ngữ của
Thánh Thần, ngôn ngữ của thập giá chỉ có thể diễn tả qua những nghịch lý, như
những nghịch lý của sức mạnh và yếu đuối hay là qua những cách diễn tả có thể
xem ra đối nghịch nhau.
Ngôn ngữ của thập giá là một ngôn ngữ mặc khải, vừa của Con vừa
của Cha, bởi vì thập giá là nội tại đối với biến cố phục sinh và là thập giá
của Đức Chúa vinh hiển. Thập giá có tính thần hiển (théophanique) đối với Cha,
có tính hiện sinh (existentielle) đối với Con và có tính tâm linh (spirituelle)
đối với kitô hữu. Phaolô không có ý định đề cao cái chết hay sống trong ảo
tưởng nhưng chỉ muốn rút ra những hệ lụy của biến cố phục sinh trong lịch sử,
trong lịch sử của mỗi người, những hệ lụy đi ngang qua cuộc Vượt Qua một cách
tất yếu. Ðó là sức mạnh trọng yếu và sinh động của ngôn ngữ thập giá được hiểu
dưới ánh sáng của cuộc phục sinh, ngoài nó ra thì ngôn ngữ của thập giá không
có nghĩa gì cả.
Chantal Reynier
Câu hỏi thảo luận:
"Ngôn
ngữ của thập giá" biểu lộ gương mặt nào của Thiên Chúa và gương mặt nào
của con người ?