CHƯƠNG V
HIỆP THÔNG VÀ ĐỐI
THOẠI
ĐỂ TRUYỀN GIÁO
Hiệp Thông và
Truyền Giáo Đi Đôi Với Nhau
24. Theo kế
hoạch đời đời của Chúa Cha, Giáo Hội, được tiên báo từ lúc khởi đầu thế giới,
được chuẩn bị trong Cựu Ước, được Đức Giêsu thiết lập và được Chúa Thánh Thần
làm cho hiện diện trong thế gian vào ngày lễ Ngũ Tuần, "lữ hành giữa cơn
bách hại của thế gian và trong niềm an ủi của Thiên Chúa" (113), đang khi
tiến đến sự trọn lành trong vinh quang thiên quốc. Bởi vì Thiên Chúa muốn
"toàn thể nhân loại trở nên một Dân của Thiên Chúa, làm thành một Thân Thể
của Đức Kitô, và được xây dựng thành một đền thờ của Chúa Thánh Thần"
(114), nên Giáo Hội là "kế hoạch hữu hình của tình yêu Thiên Chúa đối với
nhân loại, là bí tích cứu rỗi" (115) trong trần gian. Do đó Giáo Hội không
thể được hiểu thuần tuý như là một tổ chức xã hội hay là cơ quan trợ cấp cho
con người. Mặc dầu gồm những con người nam và nữ tội lỗi, Giáo Hội phải được
xem như là một nơi dành riêng cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, nơi
Thiên Chúa chọn để mạc khải mầu nhiệm sự sống bên trong của Người và thi hành
kế hoạch cứu rỗi cho thế gian.
Mầu nhiệm kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa được
làm cho hiện diện và sinh động trong cộng đồng những người nam và người nữ là
những kẻ được mai táng trong cái chết với Đức Kitô qua bí tích Rửa Tội, để như
Đức Kitô đã chỗi dậy từ kẻ chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha thì họ có
thể bước đi trong đời sống mới (x. Rm 6,4). Tại trung tâm của mầu nhiệm Giáo
Hội, là sợi dây hiệp thông nối kết Đức Kitô, vị Tân Lang, với tất cả những
người được rửa tội. Nhờ sự hiệp thông sống động và ban sự sống này, "các
Kitô hữu không thuộc về mình nữa, mà là những người thuộc riêng về Chúa"
(116). Được hợp nhất với Chúa Con trong sợi dây tình yêu của Chúa Thánh Thần,
các Kitô hữu được hiệp nhất với Chúa Cha, và từ sự hiệp thông này tuôn tràn sự
hiệp thông mà các Kitô hữu chia sẻ với nhau nhờ Đức Kitô trong Chúa Thánh
Thần" (117). Như vậy mục đích đầu tiên của Giáo Hội là nên bí tích của sự hợp
nhất mật thiết của con người với Thiên Chúa, và bởi vì sự hiệp thông giữa
con người với nhau được đâm rễ trong sự hiệp nhất với Thiên Chúa, nên Giáo Hội
cũng là bí tích hiệp nhất của loài người (118). Nơi Giáo Hội, sự hiệp
nhất này đã bắt đầu; và đồng thời Giáo Hội là "dấu chỉ và khí cụ" của
sự thực hiện trọn vẹn sự hiệp nhất còn phải đạt đến (119).
Một đòi hỏi thiết yếu của sự sống trong Đức Kitô là
bất cứ ai đi vào sự hiệp thông với Chúa, thì cần phải sinh hoa trái: "Ai ở
lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa
trái" (Ga 15,5). Lời nói đó thật đúng đến nỗi người nào không sinh hoa
trái thì không ở trong sự hiệp thông: "Cành nào gắn liền với Thầy mà không
sinh hoa trái, thì Người chặt đi" (Ga 15,2). Sự hiệp thông với Đức Giêsu,
nguồn gốc của sự hiệp thông giữa các Kitô hữu với nhau, là điều kiện cần thiết
để sinh hoa trái; và sự hiệp thông với kẻ khác, một ân huệ của Đức Kitô và Thần
khí của Người, là hoa trái tốt đẹp nhất mà các cành có thể cho. Theo nghĩa này,
sự hiệp thông và việc truyền giáo liên kết với nhau không thể phân ly. Chúng
thâm nhập và bao hàm lẫn nhau, đến nỗi "sự hiệp thông diễn tả vừa là nguồn
suối vừa là hoa trái của việc truyền giáo: sự hiệp thông phát sinh việc truyền
giáo và sự truyền giáo được hoàn tất trong sự hiệp thông" (120).
Sử dụng khoa thần học về sự hiệp thông, Công đồng
Vatican II có thể diễn tả Giáo Hội như là dân lữ hành của Thiên Chúa mà tất cả
các dân tộc đều có liên hệ theo một cách nào đó (121). Dựa trên căn bản này,
các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh tới mối liên hệ mầu nhiệm giữa Giáo Hội
và những người đi theo các tôn giáo khác tại Á Châu, mà lưu ý rằng họ
"liên hệ với Giáo Hội trong những cấp độ và cách thức khác nhau"
(122). Giữa bao nhiêu dân tộc, văn hoá và tôn giáo khác nhau, "đời sống
của Giáo Hội như sự hiệp thông có tầm quan trọng lớn nhất" (123). Quả
thực, việc phục vụ hiệp thông của Giáo Hội là việc làm đặc biệt thích đáng tại
Á Châu, nơi có nhiều căng thẳng, chia rẽ và xung đột, do những khác biệt chủng
tộc, xã hội, văn hoá, ngôn ngữ, kinh tế và tôn giáo. Chính trong bối cảnh này
mà các Giáo Hội địa phương tại Á Châu, cùng hiệp thông với Đấng kế vị thánh
Phêrô, cần cổ võ một sự hiệp thông lòng trí sâu xa hơn, bằng cách cộng tác chặt
chẽ với nhau. Mối liên hệ với những Giáo Hội và các cộng đồng Giáo Hội Kitô
khác, và với những người theo các tôn giáo khác cũng rất quan trọng với việc
rao giảng Tin Mừng (124). Do đó, Thượng Hội Đồng tái xác định sự dấn thân của
Giáo Hội tại Á Châu trong công việc cải thiện cả những liên hệ đại kết lẫn sự
đối thoại liên tôn, bằng cách nhìn nhận rằng xây dựng sự hiệp nhất, thực hiện
sự hoà giải, tạo ra những sợi dây liên đới, cổ võ đối thoại giữa các tôn giáo
và các nền văn hoá, loại bỏ những thành kiến và đem lại sự tin tưởng giữa các
dân tộc, tất cả những điều đó là thiết yếu cho sứ mạng Phúc âm hoá của Giáo Hội
trên lục địa này. Tất cả những điều đó đòi hỏi cộng đồng công giáo phải thành
thật xét lại lương tâm, can đảm tìm kiếm sự hoà giải và một sự dấn thân mới mẻ
cho việc đối thoại. Tại ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, thật rõ ràng rằng khả năng
Phúc âm hoá của Giáo Hội đòi buộc Giáo Hội phải ra sức phục vụ sự hiệp nhất
trong tất cả mọi chiều kích. Sự hiệp thông và truyền giáo đi đôi với nhau.
Hiệp Thông Trong Lòng Giáo Hội
25. Tập họp
xung quanh Đấng kế vị Thánh Phêrô, cầu nguyện và làm việc với nhau, các Giám
Mục dự Hội Nghị Đặc Biệt về Á Châu, cách nào đó đã nhân cách hoá sự hiệp thông
của Giáo Hội, trong tất cả sự khác biệt phong phú của các Giáo Hội địa phương
mà các ngài lãnh đạo với tình bác ái. Sự hiện diện của chính tôi trong các Khoá
Họp Khoáng Đại Thượng Hội Đồng, là một cơ hội tốt để chia sẻ niềm vui và hy
vọng, những khó khăn và âu lo của các Giám Mục, và đồng thời là việc thi hành
đầy nhiệt huyết và rất sâu sắc về chính thừa tác vụ của tôi. Trên thực tế,
chính trong viễn tượng hiệp thông Giáo Hội mà quyền bính phổ quát của Đấng kế
vị thánh Phêrô toả sáng rõ ràng hơn, không phải chủ yếu như là một quyền tài
phán trên các Giáo Hội địa phương, nhưng trước hết như là một quyền ưu tiên mục
vụ, để phục vụ sự hiệp nhất đức tin và sự sống của toàn thể Dân Chúa. Ý thức
đầy đủ rằng "chức vụ Phêrô có nhiệm vụ duy nhất là bảo đảm và cổ võ sự
hiệp nhất của Giáo Hội" (125) nên các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng công nhận
sự phục vụ mà các cơ quan của Giáo triều Roma và Bộ Ngoại Giao của Toà Thánh
mang lại cho các Giáo Hội tại địa phương, trong tinh thần hiệp thông và đồng
đoàn (126). Một nét chính yếu của sự phục vụ này là sự kính trọng và nhạy cảm
mà các cộng tác viên gần của Đấng kế vị thánh Phêrô bày tỏ trước sự khác biệt
chính đáng của Giáo Hội địa phương và sự đa dạng của các nền văn hoá và dân tộc
mà các vị đó tiếp xúc.
Mỗi một Giáo Hội riêng phải được
đặt nền móng trên chứng tá của sự hiệp thông Giáo hội, vì sự hiệp thông cấu tạo
nên chính bản tính của Giáo Hội. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng muốn diễn tả Giáo
phận như là một sự hiệp thông các cộng đoàn bao quanh vị Chủ Chăn, nơi
đây hàng giáo sĩ, những người sống đời thánh hiến và giáo dân dấn thân vào một
"đối thoại đời sống và con tim" được nâng đỡ nhờ ân sủng của Chúa
Thánh Thần (127). Chính trong Giáo phận mà cái nhìn về sự hiệp thông các cộng
đoàn được thực hiện giữa những thực tại xã hội, chính trị, tôn giáo, văn hoá,
và kinh tế phức tạp tại Á Châu. Sự hiệp thông Giáo Hội bao hàm rằng mỗi Giáo
Hội địa phương phải trở nên điều mà các Nghị phụ Thượng Hội Đồng gọi là
"một Giáo Hội tham gia" (participatory Church), có nghĩa là một Giáo
Hội trong đó mọi người đều sống ơn gọi của riêng mình và chu toàn vai trò của
mình. Để xây dựng "sự hiệp thông để truyền giáo" và "sự truyền
giáo của sự hiệp thông", thì ơn đoàn sủng độc nhất của mỗi thành viên phải
được nhìn nhận, phát triển và sử dụng cho hữu ích (128). Cách riêng, cần phải
để cho người giáo dân và các người nam nữ sống đời thánh hiến, dấn thân nhiều
trong việc đặt kế hoạch mục vụ và đưa ra quyết định, nhờ các cơ cấu tham gia
như Hội Đồng Mục Vụ và các Hội Đoàn Giáo Xứ (129).
Trong mỗi Giáo Phận, Giáo xứ vẫn là nơi bình
thường để người tín hữu tập hợp và lớn lên trong đức tin, sống mầu nhiệm hiệp
thông Giáo Hội và dự phần trong sứ mạng của Giáo Hội. Cho nên, các Nghị Phụ
Thượng Hội Đồng thúc giục các Chủ Chăn tìm ra những phương thế mới và hữu hiệu
để chăn dắt người tín hữu, làm thế nào để mỗi người, cách riêng người nghèo, sẽ
cảm thấy mình thật sự là một thành phần của Giáo xứ và của toàn thể dân Chúa.
Sự tham gia của người giáo dân trong việc lên kế hoạch mục vụ phải là một nét
bình thường của tất cả các Giáo xứ (130). Thượng Hội Đồng chọn riêng giới trẻ
làm những người mà "Giáo xứ phải dành cho nhiều cơ hội hơn, để họ sống
tình bạn và hiệp thông. như tổ chức hiệp hội tông đồ và câu lạc bộ giới
trẻ" (131). Không một người nào bị loại trừ cách tiên thiên, khỏi
sự chia sẻ đầy đủ vào đời sống và sứ mạng của Giáo xứ, chỉ vì quá trình xã hội,
kinh tế, chính trị, văn hoá hay giáo dục của họ. Vì mỗi người theo Đức Kitô đều
có một quà tặng để trao ban cho cộng đoàn, nên cộng đoàn phải có thiện chí đón
nhận và hưởng nhờ tặng vật của mỗi người.
Trong bối cảnh này, và theo kinh nghiệm mục vụ của
mình, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh giá trị của những cộng đoàn
Giáo Hội cơ bản như là một phương thức hiệu nghiệm để cổ võ sự hiệp thông
và tham gia trong các Giáo xứ và Giáo phận, và như là một lực lượng đích thực
cho việc rao giảng Tin Mừng (132). Những nhóm nhỏ này giúp người tín hữu sống
thành những cộng đoàn tin, cầu nguyện và yêu thương như các Kitô hữu thời đầu
(x. Cv 2,44-47; 4,32-35). Các cộng đoàn này có mục đích là giúp đỡ các thành
viên của mình sống Tin Mừng trong một tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ,
và do đó chúng là khởi điểm vững chắc để xây dựng một xã hội mới, một diễn tả
của nền văn minh tình thương. Cùng với Thượng Hội Đồng, tôi khuyến khích Giáo
Hội tại Á Châu, nơi nào có thể, thì xem những cộng đoàn cơ bản này như là một
nét tích cực của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội. Đồng thời, các cộng đoàn
này chỉ có thể mang lại hiệu quả đích thực nếu -như Đức ĐGH Phaolô VI viết-
chúng hiệp nhất với Giáo Hội địa phương và Giáo Hội hoàn vũ, trong sự hiệp
thông chân tình với các vị Chủ Chăn của Giáo Hội và với Huấn Quyền, biết dấn
thân mở rộng việc truyền giáo và không theo chủ nghĩa biệt lập hay sự khai thác
ý thức hệ (133). Sự hiện diện của những cộng đoàn nhỏ này không làm cho vô hiệu
những thể chế và cơ cấu đã được thiết lập, vẫn còn cần thiết để Giáo Hội hoàn
thành sứ vụ của mình.
Thượng Hội Đồng cũng nhìn nhận vai trò của những
phong trào canh tân, để xây dựng sự hiệp thông, để tạo điều kiện thuận lợi
giúp có kinh nghiệm thân mật hơn với Thiên Chúa qua đức tin và các Bí Tích, và
để cổ võ việc hoán cải đời sống (134). Trách nhiệm của các Chủ Chăn là hướng
dẫn, đồng hành và khích lệ những nhóm đó để họ có thể hội nhập vào đời sống và
sứ mạng của Giáo xứ và Giáo phận. Những ai dấn thân vào trong các hiệp hội và
phong trào, phải trợ giúp Giáo Hội tại địa phương và đừng có coi mình như là
những gì thay thế cho những cơ cấu Giáo phận và đời sống Giáo xứ. Sự hiệp thông
lớn mạnh hơn khi các lãnh đạo địa phương của các phong trào này làm việc chung
với các vị Chủ Chăn trong tinh thần bác ái vì lợi ích chung (x. 1 Cr 1,13).
Tình Liên Đới Giữa Các Giáo Hội
26. Sự hiệp
thông nội bộ góp phần tạo ra tình liên đới giữa các Giáo Hội địa
phương. Việc chú ý tới các nhu cầu địa phương là điều chính đáng và cần
thiết, nhưng sự hiệp thông đòi hỏi các Giáo Hội địa phương cởi mở đón tiếp lẫn
nhau và cộng tác với nhau, để trong sự khác biệt, họ có thể gìn giữ và tỏ bày
rõ ràng mối giây hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ. Sự hiệp thông đòi hỏi phải
hiểu biết lẫn nhau và một đường lối truyền giáo có phối hợp, mà không làm tổn
hại sự độc lập và các quyền của các Giáo Hội, theo truyền thống thần học, phụng
vụ và thiêng liêng của riêng từng Giáo Hội. Tuy nhiên lịch sử cho thấy rằng các
mối chia rẽ thường đã làm tổn thương sự hiệp thông của các Giáo Hội tại Á Châu.
Suốt bao thế kỷ, các mối liên hệ giữa các Giáo Hội địa phương thuộc các quyền
tài phán khác nhau, các truyền thống phụng vụ và các phương cách truyền giáo,
nhiều khi căng thẳng và khó khăn. Các Giám Mục hiện diện tại Thượng Hội Đồng
nhìn nhận rằng, ngay cả ngày hôm nay, trong nội bộ và giữa các Giáo Hội địa
phương tại Á Châu, thỉnh thoảng xảy ra những chia rẽ đáng tiếc, thường liên can
đến những khác biệt về nghi lễ, ngôn ngữ, chủng tộc, đẳng cấp và ý thức hệ. Một
số vết thương đã được chữa lành phần nào, nhưng chưa lành hẳn. Nhìn nhận rằng
nơi nào sự hiệp thông bị suy yếu, thì chứng tá của Giáo Hội và công việc truyền
giáo bị thiệt hại, nên các Nghị Phụ đề nghị những bước cụ thể để gia tăng mối
liên hệ giữa các Giáo Hội địa phương tại Á Châu. Ngoài những diễn tả cần thiết
về mặt thiêng liêng như cổ vũ và khuyến khích, các ngài gợi ý có sự phân bổ đều
hơn các linh mục, sự liên đới tài chánh hữu hiệu hơn, những trao đổi văn hoá và
thần học, và tăng thêm những dịp thông hiệp giữa các Giáo phận (135).
Những hiệp hội Giám mục cấp vùng hay cấp lục địa,
đáng chú ý là Hội Đồng các Thượng Phụ Giáo Chủ Trung Đông và Liên Hội Đồng Giám
Mục Á Châu, đã góp phần cổ võ sự hiệp nhất giữa các Giáo Hội địa phương và đã
là nơi gặp gỡ để cộng tác giải quyết những vấn đề mục vụ. Cũng vậy, có nhiều
trung tâm thần học, tu đức và hoạt động mục vụ tại Á Châu đã cổ võ sự hiệp
thông và hợp tác cụ thể (136). Tất cả phải quan tâm lo cho các sáng kiến đầy
hứa hẹn đó được phát triển hơn nữa vì lợi ích vừa của Giáo Hội vừa của xã hội
tại Á Châu.
Những Giáo Hội Công Giáo Đông Phương
27. Hoàn
cảnh các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, nhất là ở Trung Đông và Ấn độ đáng lưu
ý cách riêng. Từ thời các Tông Đồ, các Giáo Hội đó đã nắm giữ một gia sản
thiêng liêng, phụng vụ và thần học quí báu. Những truyền thống và nghi lễ của
các Giáo Hội ấy, phát sinh từ việc hội nhập văn hoá sâu xa của đức tin trong
phần đất của nhiều quốc gia Á Châu, đáng được sự kính trọng nhất. Cùng với các
Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi kêu gọi mọi người nhìn nhận những tập quán chính
đáng và sự tự do chính đáng của các Giáo Hội này trong các vấn đề kỷ luật và
phụng vụ, như được qui định trong bộ giáo luật của các Giáo Hội Đông Phương
(137). Theo giáo huấn của Công Đồng Vatican II, có một nhu cầu cấp bách vượt
thắng những sợ hãi và hiểu lầm thỉnh thoảng xuất hiện giữa các Giáo Hội Công
Giáo Đông Phương và Giáo Hội La tinh, và giữa các Giáo Hội này với nhau, đặc
biệt trong việc chăm sóc mục vụ cho các tín hữu của mình, cả bên ngoài địa hạt
của mình (138). Là con cái của một Giáo Hội duy nhất, được tái sinh vào sự sống
mới trong Đức Kitô, các tín hữu được mời gọi gánh vác mọi sự trong sự quan tâm
đến mục đích chung, trong một tinh thần tin tưởng và bác ái không lay chuyển.
Không nên để những xung đột tạo nên chia rẽ, nhưng ngược lại phải giải quyết
trong tinh thần chân lý và kính trọng, bởi vì không có sự thiện hảo nào đến mà
không do tình yêu (139).
Những Giáo Hội đáng kính này đã trực tiếp dấn thân
vào cuộc đối thoại đại kết với các Giáo Hội Chính Thống đàn chị, và các Nghị
Phụ Thượng Hội Đồng thúc giục họ tiếp tục con đường đó (140). Các Giáo Hội ấy
cũng đã có kinh nghiệm đáng giá trong việc đối thoại liên tôn, nhất là với Hồi
giáo. Điều đó có thể hữu ích cho các Giáo Hội khác tại Á Châu và bất cứ nơi nào
khác. Rõ ràng là các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương có một sự phong phú lớn lao
về truyền thống và kinh nghiệm có thể đem lại nhiều lợi ích cho toàn thể Giáo
Hội.
Chia Sẻ Những Hy Vọng Và Đau Khổ
28. Các
Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng ý thức về sự cần thiết giữ một sự hiệp thông và
hợp tác hữu hiệu với các Giáo Hội địa phương tại các phần đất Sô-viết cũ ở Á
Châu, những Giáo Hội đang tái thiết trong những hoàn cảnh đầy thử thách do thời
kỳ khó khăn lịch sử để lại. Giáo Hội đồng hành với họ trong lời cầu nguyện,
chia sẻ những đau khổ và hy vọng mới tìm lại được của họ. Tôi khuyến khích toàn
thể Giáo Hội nâng đỡ họ về mặt tinh thần, thiêng liêng và vật chất, và cung ứng
cho họ các thừa tác viên giáo sĩ hay giáo dân mà họ rất cần, để giúp đỡ những
cộng đồng này trong công tác chia sẻ với các dân tộc những vùng đất này tình
yêu của Thiên Chúa được mạc khải trong Đức Kitô (141).
Trong nhiều phần đất Á Châu, anh chị em chúng ta
tiếp tục sống đức tin giữa những hạn chế hay là có khi mất hoàn toàn tự do. Các
Nghị Phụ Thượng Hội Đồng bày tỏ sự quan tâm và lo lắng cách riêng đối với những
thành viên đang đau khổ này. Cùng với các Giám Mục Á Châu, tôi tha thiết
xin anh chị em của các Giáo Hội đang gặp khó khăn này, biết kết hợp các đau khổ
của mình với các đau khổ của Chúa chịu đóng đinh, bởi vì chúng ta và họ đều
biết duy chỉ có thánh giá, khi bằng lòng vác trong đức tin và tình yêu, mới là
con đường phục sinh và ban sự sống mới cho nhân loại. Tôi khuyến khích các Hội
đồng Giám Mục quốc gia tại Á Châu thiết lập một văn phòng để giúp đỡ các Giáo
Hội này, và tôi cam kết Toà Thánh tiếp tục gần gũi và lo lắng cho tất cả những
ai đang bị bắt bớ vì niềm tin vào Đức Kitô (142). Tôi kêu gọi các chính phủ và
các vị lãnh đạo quốc gia chấp nhận và thực hiện những chính sách bảo đảm tự do
tôn giáo cho tất cả các công dân của mình.
Trong nhiều dịp, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã
nghĩ tới Giáo Hội Công giáo tại lục địa Trung Hoa, và cầu nguyện cho sớm tới
ngày anh chị em Trung Hoa thân mến của chúng ta được hoàn toàn tự do thực hành
đức tin của mình trong sự hiệp thông hoàn toàn với Toà Thánh Phêrô và Giáo Hội
hoàn vũ. Hỡi những anh chị em Trung Hoa thân mến, tôi tha thiết gởi lời nhắn
nhủ này với anh chị em: đừng bao giờ để những gian khổ và buồn phiền làm giảm
sút lòng sốt mến của anh chị em đối với Đức Kitô và sự dấn thân của anh chị em
đối với quê hương vĩ đại của anh chị em (143). Thượng Hội Đồng cũng bày tỏ sự
liên đới chân tình với Giáo Hội công giáo tại Triều Tiên, và ủng hộ "những
nỗ lực của người công giáo nhằm trợ giúp dân chúng Bắc Triều Tiên đang thiếu thốn
những phương tiện tối thiểu để sống còn, và mang lại hoà giải giữa hai quốc gia
có cùng một chủng tộc, một ngôn ngữ và một gia sản văn hoá" (144).
Cũng vậy, Thượng Hội Đồng thường nghĩ tới Giáo Hội
tại Giêrusalem, một Giáo Hội có chỗ đứng đặc biệt trong con tim của mọi Kitô
hữu. Quả vậy, những lời nói của ngôn sứ Isaia vang dội trong con tim hàng triệu
người tín hữu khắp thế giới, đối với họ Giêrusalem chiếm một chỗ đứng duy nhất
và thân ái: "Hãy vui mừng với Giêrusalem, hãy vì thành Giêrusalem mà hoan
hỉ, hỡi tất cả những người yêu mến thành đô!. để được thoả thích nếm mùi sung
mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ" (66,10-11). Giêrusalem, đô
thị của sự hoà giải con người với Thiên Chúa và với nhau, đã nhiều phen là một
nơi xung đột và chia rẽ. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng kêu gọi các Giáo Hội địa
phương biểu lộ một sự liên đới với Giáo Hội tại Giêrusalem, bằng cách chia sẻ
những đau buồn, cầu nguyện và hợp tác với Giáo Hội này nhằm phục vụ hoà bình,
công bình và hoà giải giữa hai dân tộc và ba tôn giáo hiện diện trong Thành
Thánh này (145). Tôi lập lại lời kêu gọi mà tôi thường gởi đến các vị lãnh đạo
chính trị và tôn giáo và mọi người thiện chí, nhằm tìm kiếm những phương thức
bảo đảm hoà bình và sự toàn vẹn cho Giêrusalem. Như tôi đã viết, tôi tha thiết
ước mong làm một chuyến hành hương tôn giáo tới đó, như vị Tiền Nhiệm của tôi
là Đức Phaolô VI, để cầu nguyện trong thành thánh nơi Đức Giêsu Kitô đã sống,
đã chết và đã chổi dậy và viếng nơi mà, trong quyền lực Chúa Thánh Thần, các
tông đồ đã ra đi rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô cho thế giới (146).
Một Sứ Mạng Đối Thoại
29. Chủ đề
chung của các Thượng Hội Đồng "lục địa" khác nhau nhằm chuẩn bị Đại
Năm Thánh năm 2000, đó là Tân Phúc Âm hoaù. Một thời kỳ mới của việc
loan báo Tin Mừng là cần thiết, không những vì, sau hai ngàn năm, một phần lớn
gia đình nhân loại còn chưa biết Đức Kitô, nhưng cũng vì hoàn cảnh mà Giáo Hội
và thế giới đang sống ở ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, gợi lên những thách đố đặc
biệt đối với niềm tin tôn giáo và những chân lý luân lý phát sinh từ đó. Gần
như nơi nào cũng có khuynh hướng xây dựng sự tiến bộ và sự thịnh vượng mà không
hề qui chiếu về Thiên Chúa, và khuynh hướng thu gọn chiều kích tôn giáo của con
người vào lãnh vực riêng tư. Xã hội nào tách biệt khỏi chân lý nền tảng nhất về
con người, nghĩa là mối tương quan với Đấng Tạo hoá và sự cứu chuộc do Đức Kitô
thực hiện trong Chúa Thánh Thần thì chỉ có thể càng ngày càng lạc xa nguồn mạch
đích thật của sự sống, tình yêu và hạnh phúc. Thế kỷ đầy tàn bạo này, đang đến
hồi kết thúc, đưa ra một chứng tá khủng khiếp về cái gì có thể xảy ra khi chân
lý và sự thiện bị bỏ qua, để chạy theo sự tham lam quyền lực và mở rộng quyền
hành cho mình. Việc tân Phúc Âm hoá, như là một lời mời gọi hoán cải, hướng về
ân sủng và khôn ngoan, là niềm hy vọng đích thực và duy nhất về một thế giới
tốt đẹp hơn và một tương lai sáng sủa hơn. Vấn đề không phải là Giáo Hội có
điều gì căn bản để nói với những con người nam nữ của thời đại chúng ta, nhưng
Giáo Hội có thể nói điều đó cách nào cho rõ ràng và xác tín!
Thời gian họp Công đồng Vatican II, vị tiền nhiệm
của tôi là Đức Phaolô VI, trong thông điệp Ecclesiam suam, đã tuyên bố
rằng vấn đề mối tương quan giữa Giáo Hội và thế giới Tân thời, là một trong
những vấn đề quan trọng nhất của thời đại chúng ta. Ngài viết rằng "sự
hiện hữu của nó và sự cấp bách của nó, như thể tạo nên một gánh nặng trên tâm
hồn chúng ta, tạo ra một kích thích, một ơn gọi" (147). Kể từ Công Đồng,
Giáo Hội luôn tỏ ra rằng mình muốn theo đuổi mối tương quan đó trong tinh thần
đối thoại. Tuy nhiên ước muốn đối thoại không phải đơn thuần là một chiến lược
để chung sống hoà bình giữa các dân tộc, nó còn là một phần chủ yếu của sứ mạng
Giáo Hội, bởi vì nó bắt nguồn từ sự đối thoại cứu rỗi đầy yêu thương của Chúa
Cha với nhân loại qua Chúa Con trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Giáo Hội chỉ
có thể hoàn thành sứ mạng mình theo một cách thức phù hợp với cách thức mà
Thiên Chúa đã hành động trong Đức Giêsu Kitô: trở nên người phàm, chia sẻ đời
sống nhân loại chúng ta và nói bằng ngôn ngữ con người để truyền thông sứ điệp
cứu rỗi của Người. Sự đối thoại mà Giáo Hội đề nghị, đặt nền tảng trên cái
lô-gích của mầu nhiệm Nhập Thể. Do đó, không gì ngoài tình liên đới nhiệt thành
và vô vị lợi thúc giục Giáo Hội đối thoại với những người nam nữ Á Châu, là
những người đang tìm kiếm chân lý trong tình yêu.
Là bí tích hiệp nhất toàn thể nhân loại, Giáo Hội
không thể không đi vào cuộc đối thoại với các dân tộc, trong mọi lúc và mọi
nơi. Đáp trả với sứ mạng đã lãnh nhận, Giáo Hội dám đi gặp các dân tộc trên thế
giới, ý thức rằng mình là "một đoàn chiên bé nhỏ" giữa đám đông bao
la nhân loại (x. Lc 12,32), nhưng cũng là men trong đấu bột của thế giới (x. Mt
13,33). Trước hết, Giáo Hội cố gắng dấn thân đối thoại với những kẻ chia sẻ
niềm tin với mình vào Đức Giêsu Kitô, là Chúa và Đấng Cứu độ. Sự đối thoại trải
rộng ra ngoài thế giới Kitô giáo, tới những kẻ theo mọi truyền thống tôn giáo
khác, dựa trên nền tảng là khát vọng tôn giáo có trong tâm hồn mọi người. Đối
thoại đại kết và đối thoại liên tôn tạo thành một ơn gọi đích thật của Giáo
Hội.
Đối Thoại Đại Kết
30. Đối
thoại đại kết là một thách đố và là một lời mời gọi hoán cải đối với toàn thể
Giáo Hội, cách riêng đối với Giáo Hội tại Á Châu, nơi mà dân chúng trông chờ
nơi người Kitô hữu một dấu chỉ rõ nét hơn về sự hợp nhất. Để cho mọi dân tộc
qui tụ lại dưới tác động của ân sủng Chúa, thì cần phải khôi phục sự hiệp thông
giữa những kẻ, trong đức tin, đã nhìn nhận Đức Giêsu Kitô là Chúa. Chính Đức
Giêsu đã cầu nguyện và không ngừng kêu gọi các môn đệ hợp nhất với nhau, để thế
gian có thể tin rằng Chúa Cha đã sai Người (x. Ga 17,21) (148). Nhưng ý của
Chúa muốn cho Giáo Hội nên một, còn trông chờ sự đáp trả hoàn toàn và can đảm
từ phía các môn đệ của Người.
Tại Á Châu, do số Kitô hữu tương đối ít, nên sự
chia rẽ càng làm cho công việc truyền giáo trở nên khó khăn hơn. Các Nghị Phụ
Thượng Hội Đồng nhìn nhận rằng "gương xấu của một Kitô giáo chia rẽ, là
một ngăn trở lớn cho việc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu" (149). Quả thực,
nhiều người tại Á Châu đang đi tìm sự hoà hợp và hiệp nhất qua các tôn giáo và
văn hoá của họ, coi sự chia rẽ giữa các Kitô hữu như là một phản chứng với Đức
Giêsu Kitô. Do đó Giáo Hội Công Giáo tại Á Châu đặc biệt cảm thấy bị thúc đẩy
hợp nhất với các Kitô hữu khác, và nhận thức rằng tìm kiếm sự hoà hợp đầy đủ
đòi hỏi mỗi người phải có lòng bác ái, sự biện phân, lòng can đảm và niềm hy
vọng. "Muốn trở nên xác thực và mang lại kết quả, phong trào đại kết đòi
hỏi một số trạng thái tinh thần cơ bản về phía người tín hữu Công Giáo: trước
hết là đức ái, với một cái nhìn đầy thiện cảm và ước muốn hăng say hợp tác, nơi
nào có thể được, với tín hữu của các Giáo Hội và của các cộng đoàn Giáo Hội
khác; hai là, lòng trung thành với Giáo Hội Công Giáo, không vì thế mà phớt lờ
hoặc phủ nhận những khuyết điểm nơi một số thành phần của Giáo Hội; ba là, một
tinh thần biết biện phân để thấy giá trị của tất cả những gì là tốt và đáng
ngợi khen. Sau cùng, một ước muốn thanh tẩy và đổi mới chân thành cũng là điều
cần thiết" (150).
Đang khi công nhận những khó khăn còn tồn tại trong
các liên hệ giữa người Kitô hữu, những khó khăn đó bao gồm không những các
thành kiến trong quá khứ, mà còn những phê phán ăn rễ sâu trong các niềm xác
tín đụng chạm tới lương tâm, (151) các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng chỉ rõ
những dấu chỉ về các liên hệ được cải thiện giữa một số Giáo Hội Kitô giáo và
những cộng đồng Giáo Hội tại Á Châu. Những Kitô hữu Công giáo và Chính thống
giáo, chẳng hạn, thường nhìn nhận một sự thống nhất văn hoá với nhau, một cảm
thức chia sẻ các yếu tố quan trọng của một truyền thống Giáo Hội chung. Điều đó
làm thành một nền tảng vững chắc để tiếp tục cuộc đối thoại đại kết có hiệu quả
trong ngàn năm sắp tới. Chúng ta phải hy vọng và cầu nguyện cho ngàn năm sắp
tới này chấm dứt mọi chia rẽ của ngàn năm sắp kết thúc.
Trên bình diện thực hành, Thượng Hội Đồng đề nghị
các Hội Đồng Giám Mục quốc gia tại Á Châu, mời những Giáo Hội Kitô giáo khác
liên kết trong một tiến trình cầu nguyện và trao đổi, để nghiên cứu khả năng
hình thành các cơ cấu và hiệp hội đại kết nhằm cổ võ sự hiệp nhất Kitô giáo.
Gợi ý của Thượng Hội Đồng muốn cho Tuần lễ Cầu Nguyện cho sự Hiệp Nhất Kitô
giáo được cử hành cách có kết quả hơn, cũng là một trợ giúp. Các Giám Mục được
khích lệ thiết lập và trông nom các trung tâm đại kết để cầu nguyện và đối
thoại; và sự đào tạo thích đáng cho việc đối thoại đại kết cần phải được đem
vào chương trình giảng dạy tại các chủng viện, các nhà huấn luyện và những cơ
sở giáo dục.
Đối Thoại Liên Tôn
31. Trong
Tông Thư Tertio Millenio Adveniente, tôi đã trình bày rằng biến cố ngàn
năm mới là một dịp lớn để đối thoại liên tôn và để gặp gỡ các nhà lãnh đạo
những tôn giáo lớn thế giới (152). Tiếp xúc, đối thoại và hợp tác với những
người theo các tôn giáo khác, là một trách nhiệm mà Công Đồng Vatican II trối
lại cho toàn thể Giáo Hội như là một bổn phận và một thách đố. Những nguyên tắc
để tìm kiếm một tương giao tích cực với các truyền thống tôn giáo khác, đã được
trình bày trong Tuyên Ngôn Nostra Aetate của Công Đồng, ban hành ngày 28
tháng 10 năm 1965, đó là bản Đại Hiến Chương về đối thoại liên tôn của thời đại
chúng ta. Đứng từ quan điểm Kitô giáo, đối thoại kiên tôn còn hơn là một cách
thức cổ võ sự hiểu biết và làm giàu cho nhau; đó là thành phần của sứ mạng rao
giảng Tin Mừng của Giáo Hội, một diễn tả của sứ vụ đến với dân ngoại (Ad
Gentes) (153). Người Kitô hữu mang đến cho cuộc đối thoại liên tôn niềm xác tín
vững chắc rằng ơn cứu độ trọn vẹn chỉ đến từ Đức Kitô và cộng đoàn Giáo Hội mà
họ thuộc về, là một phương tiện bình thường của sự cứu rỗi (154). Ở đây
tôi lập lại điều tôi đã viết cho khoá họp khoáng đại lần thứ 5 của Liên Hội
Đồng Giám Mục Á Châu: "Mặc dầu Giáo Hội vui mừng công nhận bất cứ cái gì
là chân thật và thánh thiêng trong các truyền thống đạo Phật, đạo Hindu và đạo
Hồi, như là một phản ảnh của chân lý soi sáng muôn dân, điều đó không làm giảm
thiểu bổn phận và quyết tâm của Giáo Hội, đó là rao giảng không do dự về Đức
Giêsu Kitô, Đấng là "đường, là sự thật và là sự sống". Sự kiện những
kẻ theo các tôn giáo khác có thể nhận lãnh ân sủng của Thiên Chúa và được Đức
Kitô cứu độ không bằng những phương tiện bình thường Người đã thiết lập, không
vì thế mà hủy bỏ mời gọi lãnh nhận đức tin và phép Thánh tẩy mà Thiên Chúa muốn
cho mọi người" (155).
Trong quá trình đối thoại, như tôi đã viết trong
Thông Điệp Redemptoris Missio, "không thể loại bỏ các nguyên tắc,
cũng không nên chủ trương hoà giải giả tạo (irenicism), nhưng ngược lại, phải
làm chứng lẫn cho nhau để cùng nhau tiến bước trên con đường tìm kiếm và sống
kinh nghiệm tôn giáo, và đồng thời loại bỏ được những tiên kiến, bất bao dung
và hiểu lầm" (156). Chỉ những người có đức tin Kitô giáo trưởng thành và
xác tín, mới có tư cách dấn thân vào việc đối thoại liên tôn chân chính.
"Chỉ những Kitô hữu được dìm sâu vào trong mầu nhiệm Đức Kitô và sống hạnh
phúc trong cộng đồng đức tin của họ, mới có thể dấn thân vào việc đối thoại
liên tôn, mà tránh được sự liều lĩnh không đáng và có hy vọng hái được hoa quả
tích cực" (157). Do đó, điều quan trọng tại Á Châu là cung cấp những kiểu
mẫu xứng hợp cho cuộc đối thoại liên tôn -Phúc âm hoá trong đối thoại và đối
thoại để Phúc âm hoá- và sự đào tạo xứng hợp cho những ai dấn thân vào đó.
Khi đã nhấn mạnh về sự cần thiết của sự đối thoại
liên tôn để tiến tới một đức tin vững mạnh trong Đức Kitô, các Nghị Phụ Thượng
Hội Đồng nói tiếp về sự cần thiết phải đối thoại bằng cuộc sống và con tim
(dialogue of life and heart). Môn đệ Đức Kitô phải có tấm lòng hiền lành và
khiêm nhượng của Thầy mình, không bao giờ tỏ ra kiêu căng, không bao giờ có
thái độ hạ cố, khi gặp những đối tác trong cuộc đối thoại (x. Mt 11,29).
"Những liên hệ liên tôn được phát huy tốt nhất trong khung cảnh cởi mở với
những tín hữu khác, một thái độ saün sàng lắng nghe, ước muốn kính trọng và
hiểu biết kẻ khác trong sự khác biệt của họ. Để đạt được tất cả điều đó, cần
phải thương yêu kẻ khác. Điều đó phải dẫn đến sự hợp tác, hoà hợp và làm giàu
cho nhau" (158).
Để hướng dẫn những người dấn thân trong tiến trình
này, Thượng Hội Đồng gợi ý soạn thảo một cuốn kim chỉ nam về đối thoại liên tôn
(159). Đang khi Giáo Hội thăm dò những thể thức mới để gặp gỡ các tôn giáo
khác, tôi nhắc lại một số hình thức đối thoại đã thực hiện được và có kết quả
tốt, gồm có những trao đổi nghiên cứu giữa các chuyên viên trong nhiều truyền
thống tôn giáo khác nhau hay những đại diện của các truyền thống này, hành động
chung nhằm phát triển toàn diện con người và bênh vực các giá trị nhân bản và
tôn giáo (160). Tôi nhắc lại là thật quan trọng biết bao việc làm sinh động lại
sự cầu nguyện và chiêm ngưỡng trong quá trình đối thoại. Các người nam và nữ
trong đời sống thánh hiến, có thể góp phần rất có ý nghĩa trong việc đối thoại
liên tôn, bằng cách làm chứng cho sức mạnh của các truyền thống lớn Kitô giáo,
là chủ thuyết khổ chế và thần bí (161).
Cuộc gặp gỡ đáng ghi nhớ tại Assisi, thành phố của
thánh Phanxicô, ngày 27 tháng 10 năm 1986, giữa Giáo Hội Công giáo và đại biểu
các tôn giáo khác trên thế giới, chứng tỏ rằng các người nam nữ có tôn giáo,
tuy không bỏ các truyền thống riêng của mình, vẫn còn có thể dấn thân vào việc
cầu nguyện và kiến tạo hoà bình thịnh vượng cho nhân loại (162). Giáo Hội phải
tiếp tục cố gắng gìn giữ và cổ võ, ở mọi cấp bậc, tinh thần gặp gỡ và hợp tác
giữa các tôn giáo đó.
Sự hiệp thông và đối thoại là hai khía cạnh thiết
yếu của sứ mạng Giáo Hội. Sứ mạng đó có một tấm gương vô cùng nổi bật trong mầu
nhiệm Ba Ngôi, từ đó phát xuất mọi sứ mạng và từ đó mọi sứ mạng phải hướng tới.
Một trong những món quà "sinh nhật" quý báu mà các thành viên của
Giáo Hội, và nhất là các vị Chủ chăn của Giáo Hội, có thể dâng lên Đức Chúa của
lịch sử nhân dịp kỷ niệm hai ngàn năm của mầu nhiệm Nhập Thể, là tăng cường
tinh thần hiệp nhất và hiệp thông ở mọi cấp bậc đời sống Giáo Hội, là sự
"hãnh diện thánh thiện" được đổi mới qua sự liên lỉ trung thành của
Giáo Hội đối với những sự gì đã được ban cho, và là một sự tin tưởng mới mẻ vào
ân sủng và sứ mạng bất biến đã sai Giáo Hội đi giữa các dân tộc trên thế giới
để làm chứng cho tình yêu cứu chuộc và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chỉ khi
nào Dân Chúa nhìn nhận ân huệ là của mình trong Đức Kitô, thì họ mới có khả
năng thông truyền ân huệ đó sang cho kẻ khác nhờ sự rao giảng và đối thoại.