VÀ ĐỜI
SỐNG THÁNH CỦA LINH MỤC
Lm.Micae Trần Đình
Quảng
Một trong
những mục tiêu được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhấn mạnh khi quyết
định mở Năm Linh Mục chính là hướng các linh mục về sự trọn lành
thiêng liêng, tức về sự thánh thiện, vì hiệu năng của sứ vụ linh mục
tùy thuộc vào đó[1].
Công đồng
Vaticanô II dạy rằng chủ yếu của sự thánh thiện là kết hợp với Đức
Kitô (GH 39 ; 50). Vì “chỉ có Chúa là Đấng Thánh”, là nguồn mạch của
sự thánh thiện, nên sống thánh là cố gắng đồng hình đồng dạng với
Đức Kitô (Rm 8,29), đồng hóa mình với Ngài, mặc lấy não trạng và tâm
tình của Ngài, nhất là tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha và mọi
nguời. Đó là đòi hỏi đầu tiên của sự thánh thiện kitô giáo. Đó
cũng là định hướng cơ bản chung cho mọi kitô hữu.
Riêng linh mục,
do bí tích truyền chức thánh, còn phải đồng hình đồng dạng với Đức
Kitô là Đầu và Mục Tử.[2]
Linh mục không chỉ sống thánh thiện cho riêng mình, nhưng sống thánh
trong chính bổn phận làm đầu và mục tử, để vừa thánh hóa bản thân,
vừa giúp đào tạo đời sống thánh của dân Chúa.
Có nhiều
phương tiện giúp cho linh mục thực hiện điều trên đây, trong đó quan
trọng nhất phải là những gì liên hệ tới Thánh Thể. “Mọi dấn thân
vào sự thánh thiện phải múc lấy nơi mầu nhiệm Thánh Thể sức mạnh
cần thiết, và phải hướng về đó như chóp đỉnh.”[3]
Ở đây, chúng ta
giới hạn vào việc cử hành Thánh Thể hay Thánh Lễ, xem việc cử hành
này có liên hệ thế nào với đời sống thánh của linh mục.
Theo Chỉ Nam Linh Mục, cử hành Thánh Lễ
là tột đỉnh của đời sống thiêng liêng của linh mục. Qua việc dâng lễ
hiến tế, linh mục đem mầu nhiệm Thánh Thể vào trung tâm đời sống của
mình. Một cách tổng quát hơn, Chỉ Nam viết : “Bí tích Thánh Thể là
tâm điểm và cội rễ của của toàn bộ đời sống linh mục, và tinh thần
tư tế là cố lo sao để nội tâm hóa những gì được thực hiện trên bàn
thờ. Linh mục phải có một đời sống Thánh Thể tràn đầy và sốt
sắng, để từ đó tìm được đà tiến và sức lực cho đời sống thiêng
liêng của mình. Việc cử hành Thánh Lễ… cũng như việc hằng ngày
viếng Đức Kitô nơi Bí tích Thánh Thể không chỉ là những bổn phận
mục vụ, nhưng đây chính là những thời khắc đầy ý nghĩa, và là một
trợ lực không thể thay thế cho đời sống thiêng liêng.”[4]
Những lời của
Chỉ Nam không những nói lên tầm
quan trọng của Thánh Thể và cử hành Thánh Thể trong đời sống thiêng
liêng của linh mục, mà còn đặc biệt nhắc nhở linh mục phải làm sao
cho cử hành Thánh Thể thực sự sinh ích cho mình.
Chúng ta thử
suy nghĩ dựa vào lời khuyên rất có ý nghĩa mà Đức Giám mục nhắc
cho tân chức linh mục trong nghi thức trao bánh rượu : “Con hãy ý thức
việc con làm, noi theo điều con thực hiện, và rập đời sống con theo
khuôn mẫu mầu nhiệm Thập Giá Chúa.” Tức là linh mục phải biết gì,
làm gì và sống thế nào cho phù hợp với việc cử hành Thánh Thể.
Theo Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, linh đạo linh mục tự bản chất là
Thánh Thể, và lời khuyên của Đức Giám Mục chính là những hạt mầm
của linh đạo này[5].
Chúng ta đã có dịp đề cập lời khuyên này trong một bài thuyết trình
mấy năm trước[6].
Xin được nhấn mạnh lại và khai triển thêm.
I.
Ý THỨC ĐIỀU MÌNH LÀM
1. Ý thức tầm quan trọng
của Thánh Thể và Thánh Lễ
Lời của Chỉ Nam Linh Mục trên đây chỉ là
lặp lại những gì truyền thống và nhất là Công Đồng Vaticanô II đã
khẳng định. Đọc những văn kiện của Công Đồng, trong những chỗ liên hệ
tới Thánh Thể, ta thấy Công Đồng sử dụng – đúng ra là sử dụng lại –
những kiểu nói siêu cấp, có giá trị nền tảng, cho thấy Thánh Thể
và cử hành Thánh Thể trọng đại như thế nào, và đem lại kết quả
phong phú cho đời sống thiêng liêng ra sao. Thánh Thể là “nguồn mạch,
cội rễ, trọng tâm, tột đỉnh” của đời sống và hoạt động của Giáo
Hội (GH 11 ; GM 30), của phụng vụ và bí tích (PV 10 ; TG 9), của đời
sống thiêng liêng và đời sống linh mục (DT 6 ; LM 14) của công cuộc tông
đồ và rao giảng Phúc Âm (GH 26 ; LM 5)…
Ngay cả khi
không sử dụng những từ trên, thì cách trình bày của Công Đồng cũng
cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của Thánh Thể và cử hành Thánh
Thể : Thánh Thể làm cho Giáo Hội được sống và tăng trưởng không
ngừng (MK 26) ; Thánh Thể chứa đựng tất cả tài sản thiêng liêng của
Giáo Hội (LM 5), là bảo chứng vinh quang thiên quốc (PV 47)… Cử hành
Thánh Thể là nhiệm vụ chính của linh mục (LM 13), thừa tác vụ riêng
của linh mục (TG 39) ; linh mục thi hành thánh vụ của mình cách tuyệt
hảo nhất là trong Thánh Lễ (LM 5) ; linh mục xây dựng Thân Thể Đức
Kitô nhờ hy tế Thánh Thể, trong đó ngài chủ sự (LM 5), hành động in persona Christi (trong tư cách của
Đức Kitô) (GH 28 ; LM 13).[7]
Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II gọi “Thánh Thể là một mầu nhiệm vĩ đại.”[8].
Cha Thánh Gioan Maria Vianney có cách giải thích đơn sơ về sự vĩ đại
này như sau : “Mọi công việc tốt trên thế giới này cũng không bằng Hy
Tế Thánh Lễ, vì đó là công việc của con người, còn Thánh Lễ là
công việc của Thiên Chúa. Ngay cả sự tử đạo cũng không là gì so với
Thánh Lễ, vì đó là sự hy sinh của con người cho Thiên Chúa, còn
Thánh Lễ là sự hy sinh của Thiên Chúa cho con người.”[9].
Chính vì sự vĩ đại của Thánh Lễ, một công việc của Thiên Chúa, mà
cũng Thánh nhân còn nói : “Nếu người ta hiểu thế nào là Thánh Lễ,
hẳn người ta sẽ chết.”[10]
Dĩ nhiên,
những gì nói trên đây mới chỉ là những xác quyết tổng quát, những
nét phác họa, những hình thức tóm lược. Chúng ta còn phải học hỏi
suy niệm nhiều về Thánh Thể và Thánh Lễ, để có thể gây ý thức cho
mình, như một thứ chuẩn bị xa.
Để ý thức
điều mình làm, còn phải có sự chuẩn bị gần, như Chỉ Nam Linh Mục, số 24b, nhắc nhở. Sancta sancte tractanda (Những việc thánh phải được làm cách
thánh thiện). Thánh Gioan Kim Khẩu đã thốt lên lời đáng cho chúng ta
suy gẫm trước khi cử hành Thánh Lễ : “Ai có thể nói được những bàn
tay chu toàn một phận vụ thánh như vậy, miệng lưỡi đọc lên những lời
như vậy, phải như thế nào, và tinh thần đón nhận nơi mình hơi thở
mạnh mẽ của Thần Khí càng phải trong sạch và thánh thiện biết bao !”[11]
Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI cảnh báo : “Ngày nay có nguy cơ tục hóa đang lan tràn cả
trong Giáo Hội, khiến cho việc cử hành Thánh Lễ trở thành hình thức
trống rỗng, những cử hành trong đó không có sự tham dự đích thực
trong nội tâm, một sự tham dự được biểu lộ qua sự tôn kính và tôn
trọng phụng vụ. Luôn có một cám dỗ rất mạnh là biến kinh nguyện
thành những giờ phút hời hợt và vội vã, để cho mình bị những hoạt
động và lo lắng trần tục đè bẹp.”[12]
Những nguy cơ
như vậy đòi hỏi linh mục phải chuẩn bị thực sự trước khi cử hành
Thánh Lễ. Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây lời khuyên chung chung của Giáo Luật, điều 909 : “Linh mục
đừng quên cầu nguyện để dọn mình thích đáng hầu cử hành Hy Tế
Thánh Thể.”
Hãy xem gương
cha thánh Gioan Maria Vianney. Ngài đã từng nghiêm khắc mà bảo : “Linh
mục nào làm lễ mà làm như một công việc bình thường, thì thật đáng
phàn nàn. Lý do khiến linh mục sống buông thả là vì đã không quan tâm
tới Thánh Lễ.” Bản thân ngài, như các chứng nhân thuật lại, thì khi
làm lễ, ngài chuẩn bị bằng cách quỳ ở bậc thềm cung thánh, trong tư
thế bất động, chắp tay, mắt đăm đăm nhìn lên Nhà Tạm. Không gì có
thể làm ngài chia trí lúc ấy.[13]
2. Ý thức khi cử hành Thánh Lễ
Chỉ Nam Linh Mục, số 22c, nói :
“Linh mục phải có một đời sống Thánh Thể tràn đầy và sốt sắng, để
từ đó tìm được đà tiến và sức lực cho đời sống thiêng liêng của
mình.” Đời sống Thánh Thể tràn đầy và sốt sắng tiên vàn phải thể
hiện trong chính Thánh Lễ. Khi chịu chức linh mục, chúng ta đã hứa
trước mặt Đức Gám mục là “muốn cử hành cách đạo đức và trung tín
các mầu nhiệm của Đức Kitô… nhất là Bí tích Thánh Thể và Bí tích
Hòa Giải.”
Chúng ta cử hành
với tất cả lòng đạo đức, sốt sắng. Cho dù hiệu quả chính yếu của
bí tích mà người ta lãnh nhận không tùy thuộc vào lòng đạo đức cá
nhân của linh mục chủ sự, vì chính Chúa Kitô hành động qua lời nói
và cử chỉ của linh mục, nhưng không vì vậy mà không đòi linh mục
phải hòa hợp lòng trí với việc đang làm. Chúng ta không phải là
người máy, thuần túy làm theo chỉ thị, nhưng là những con người có
lý trí và tự do, được Chúa cho cộng tác vào hành động của Ngài.
Hơn nữa chúng ta không chỉ có nhiệm vụ thánh hóa người khác, mà còn
phải thánh hóa chính mình qua việc cử hành bí tích nữa.
Chúng ta cũng
cử hành với tinh thần đức tin. Mầu nhiệm đức tin phải được cử hành
với tất cả lòng tin, sao cho người khác nhìn ta như chính Đức Kitô
đang cử hành. Cha Jean-Jacques Olier, người sáng lập tu hội Xuân Bích,
đã nói như vậy.
Cử hành thiếu
đạo đức sốt sắng có thể vì lương tâm chưa trong sạch ; có thể vì coi
đó chỉ như một bổn phận phải làm cho người khác, nhất là khi phải
làm nhiều lễ một ngày, do nhu cầu mục vụ đòi hỏi ; có thể vì một
chuyện gì đó đang chi phối tâm trí ; có thể vì hay chia trí, nhất là
khi có chuyện xẩy ra trong cộng đoàn, mà vì làm lễ quay xuống nên dễ
bị ; có thể do thái độ giả hình.
Muốn cử hành
cho đạo đức, sốt sắng, không thể không lưu ý đến những khuyết điểm
đó.
Ngoài việc cử
hành cho đạo đức, Đức Giám Mục còn nhắc nhở phải cử hành cho trung
thành. Có lẽ khía cạnh trung thành đáng để ý là trung thành với
luật phụng vụ của Giáo Hội. Đừng quên lời hứa của linh mục được ghi
trong Sách Lễ Rôma, phần Phụ lục : “Ego
volo celebrare Missam… iuxta ritum Sanctae Romanae Ecclesiae.”[14]
Có rất nhiều văn kiện nhắc chúng ta phải trung thành với luật phụng
vụ. Gần đây hơn, trong Thông Điệp Ecclesia
de Eucharistia, Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II nói : “Tôi cảm thấy có nhiệm vụ phải lên tiếng một
cách cương quyết để trong cử hành Thánh Thể, những quy luật phụng vụ
được tuân giữ một cách trung thành”. Ngài cho biết ý nghĩa của những
quy luật này như sau : “Những quy luật này là một cách diễn tả tính
giáo hội đích thực của bí tích Thánh Thể. Đó là ý nghĩa sâu xa
nhất của chúng.” Ngài cũng ca ngợi những ai trung thành giữ : “Linh
mục nào trung thành cử hành Thánh Lễ theo những quy luật phụng vụ
và cộng đoàn nào tuân theo đó, chứng tỏ tình yêu của họ đối với
Giáo Hội một cách âm thầm nhưng rõ rệt.” Và cuối cùng ngài cảnh
báo : “Không ai được phép đánh giá thấp mầu nhiệm được trao trong tay
chúng ta : nó cao cả đến nỗi không ai có thể đối xử với nó theo ý
mình, không tôn trọng tính cách linh thánh và chiều kích phổ quát
của nó.”[15]
Chỉ Nam Linh Mục, số 24b cũng như Giáo Luật, đ. 909 còn nhắc : sau
Thánh Lễ, nhớ để một lúc cám ơn riêng, nối dài hành vi tạ ơn trong
Thánh Lễ.
Tất cả đều
nhằm giúp chúng ta ý thức việc mình làm, một việc làm trọng đại
giúp ích rất nhiều cho việc thánh hóa đời sống của chúng ta và của
dân Chúa.
II. NOI THEO ĐIỀU MÌNH THỰC HIỆN
Trong số
những việc chính mà linh mục thực hiện trong Thánh Lễ, chúng ta đề
cập ở đây việc chúc tụng tạ ơn, và loan báo làm chứng.
1. Chúc tụng, tạ ơn
Eucharistia có nghĩa là tạ ơn, nhưng
cũng nói lên việc ca ngợi, chúc tụng, vì Thánh Lễ được coi là hy tế
ca ngợi và tạ ơn (Sacrificium laudis
et gratiarum actionis)[16].
Khi cầm lấy chén cứu độ để thực hiện vai trò tư tế và tế vật,
Chúa Giêsu đã tạ ơn Chúa Cha.
Có thể dễ dàng
thấy chiều kích tạ ơn này trong mọi phần của Thánh Lễ, chẳng hạn :
Nghi thức
thống hối đầu lễ không những bày tỏ hành vi hối lỗi của cộng đoàn
tham dự, mà còn là một hành vi ca ngợi Thiên Chúa về lòng nhân từ
của Ngài. Chúng ta có thể nhớ đến lầm lỗi của mình mà không thất
vọng, vì biết có Đấng cứu chuộc ta, hòa giải ta.
Trong suốt
Thánh Lễ, chúng ta dâng lên những lời kinh, những lời khẩn nguyện cầu
xin, trong tinh thần tạ ơn (Pl 4,6), khi biết rằng đó là những kinh
nguyện kết hợp với kinh nguyện của Chúa Kitô và của các thần thánh.
Sau khi nghe
lời Chúa, mọi người tung hô : Tạ ơn Chúa (Lạy Chúa Kitô, ngợi khen
Chúa), vì không thể lãnh nhận hồng ân là lời Thiên Chúa được công bố
cho ta, mà không bày tỏ tâm tình biết ơn, chúc tụng.
Đặc biệt Kinh
Nguyện Tạ Ơn (Kinh Nguyện Thánh Thể) nói lên tâm tình tạ ơn vì toàn
thể công trình cứu độ. Tâm tình này được diễn tả ngay từ lúc khởi
đầu Kinh Tiền Tụng : Chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc…
Tuy việc tạ ơn
không rõ nét bằng việc ca ngợi, chúc tụng, nhưng thực ra luôn hàm
chứa trong lời ca ngợi chúc tụng, bàng bạc trong đó. Là vì, tạ ơn
phải đi đến tột đỉnh là ca ngợi, chúc tụng. Chúng ta dùng lời ca
ngợi chúc tụng để tạ ơn Thiên Chúa. Tạ ơn theo cách đó là thực sự
hướng tới Đấng ban tặng, chứ không chỉ hướng tới điều được ban tặng,
hướng tới Thiên Chúa là Đấng cứu độ, chứ không chỉ hướng tới ơn cứu
độ.
Việc tạ ơn
trên đây trong Thánh Lễ phải được chúng ta lặp lại trong đời sống
hằng ngày, và lặp lại không ngừng như lời thánh Phaolô nói : “Hãy tạ
ơn trong mọi dịp” (1Cr 1,4). Cụ thể, chúng ta sốt sắng tạ ơn hợp với
lời của hai bài ca vãn Benedictus
và Magnificat đọc mỗi ngày trong
Giờ Kinh Sáng và Giờ Kinh Chiều. Về kinh Magnificat, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bảo chúng ta hãy
đọc trong viễn tượng Thánh Thể[17].
Chúng ta không giống như dân ngoại mà cũng thánh Phaolô đã khiển trách
: “Họ đã biết Thiên Chúa, nhưng lại đã không tôn vinh Người như Thiên
Chúa, hay không tạ ơn Người.” (Rm 1,28)
Nếu trong đời
sống hằng ngày, cám ơn là hai tiếng phát ra dễ dàng trên vành môi
cửa miệng, khi nhận được một ân huệ nào của ai, thì càng phải tạ ơn
Thiên Chúa vì những ơn lành cao quý gấp bội Ngài ban cho ta, nhất là
việc Ngài cứu độ ta. Cách riêng chúng ta tạ ơn vì hồng ân chức linh
mục, qua đó chúng ta được thánh hiến hoàn toàn cho sứ vụ cứu độ.
Tạ ơn nói lên ý thức của ta về các hồng ân của Thiên Chúa. Nó phải
là là sự bộc phát chân thành của một tâm hồn kinh ngạc trước lòng
nhân từ và quảng đại của Thiên Chúa. Thậm chí phải kết hợp với Đức
Kitô tạ ơn cả trong những lúc đau khổ và giờ chết, vì chính Đức Kitô
đã dâng lời tạ ơn Chúa Cha lúc sắp chịu khổ và chịu chết để cứu
chuộc ta.
2. Loan báo, làm chứng
Trong mỗi
Thánh Lễ, sau phần truyền phép, cộng đoàn long trọng tung hô : “Lạy
Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống
lại, cho tới khi Chúa lại đến”. Thế nhưng, chúng ta không chỉ loan
truyền mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh. Chúng ta loan truyền chính Đức
Kitô và Tin Mừng của Ngài, mà trọng tâm là sự chết và sự sống lại
của Ngài.
Thế mà chính
Đức Kitô lại là Đấng được Chúa Cha sai đến thế gian để loan báo và
làm chứng về Chúa Cha, về tình yêu của Chúa Cha, làm chứng và thực
hiện công trình cứu độ của Thiên Chúa, đặc biệt bằng mầu nhiệm Tử
Nạn và Phục Sinh, là mầu nhiệm được cử hành trong Thánh Lễ.
Cho nên, Thánh
Lễ chính là hệ quả cuối cùng từ sứ mệnh của Đức Kitô, làm cho con
người và hành động của Chúa có ý nghĩa sâu sắc. Đồng thời Thánh
Lễ cũng trở thành một chứng từ loan báo tuyệt hảo : Loan báo lời
hứa cứu độ của Chúa Cha, chứa đựng ơn cứu độ này, và cho ta nếm
thử ơn cứu độ viên mãn.
Linh mục cử
hành Thánh Lễ đặc biệt tham dự và làm sống lại chứng từ loan báo
ấy. Mỗi khi lặp lại lời ‘Máu Giao Ước mới và vĩnh cửu đổ ra cho các
con và nhiều người được tha tội’, linh mục trở thành sứ giả ưu tuyển
của mầu nhiệm cứu độ.
Chúng ta vẫn
thường nghe một câu hát quen thuộc : “Đời ta là Thánh Lễ nối dài.”
Không chỉ nối dài trong đời sống cụ thể việc chúc tụng tạ ơn, mà
còn nối dài việc loan báo Tin Mừng cứu độ. Trong ba nhiệm vụ thuộc
thừa tác vụ linh mục mà sắc lệnh của Công Đồng Vaticanô II về linh
mục nêu ra, thì tiên vàn là nhiệm vụ rao giảng lời Chúa (LM 4)[18].
Loan báo còn
phải gắn liền với làm chứng. Khởi đầu thư I của thánh Gioan cho thấy
: những chứng nhân trực tiếp – các Tông Đồ – về thực tại mầu nhiệm
con người Đức Kitô, đã ý thức về sự làm chứng này như thế nào :
“Điều chúng tôi đã từng nghe, điều chúng tôi đã từng thấy tận mắt,
điều chúng tôi đã cung chiêm, và tay chúng tôi đã sờ thấy, về Lời Sự
Sống, chúng tôi làm chứng cho anh em.” (1Ga 1,1). Với những chứng nhân
này, loan báo không phải là công bố một giáo lý, tuy đây cũng là
điều cơ bản, cho bằng nói lên sự hiện diện vô hình của Đấng còn ở
mãi với Giáo Hội cho đến tận thế.
Linh mục hằng
ngày như thấy được, sờ được sự hiện diện bí tích của Chúa trong Thánh
Lễ, phải tiếp tục làm chứng sự hiện diện cứu độ này giữa lòng
đời. Đó cũng là một trong những cách làm gia tăng đời sống thiêng
liêng của chúng ta.
III. RẬP ĐỜI SỐNG MÌNH THEO KHUÔN MẪU
MẦU NHIỆM
THẬP GIÁ CHÚA
Đây là lời nhắc nhở có liên hệ nhất với đời sống thiêng liêng
của linh mục, “nội tâm hóa những gì được thực hiện trên bàn thờ”,
như Chỉ Nam Linh Mục nói (số
22c).
Chúng ta chỉ
ghi nhận ba điểm chủ yếu đòi linh mục phải làm gì và sống thế nào
để chứng tỏ là rập theo khuôn mẫu mầu nhiệm Thập Giá Chúa : việc
truyền phép nhắc cho linh mục bổn phận phải biến đổi mình nên giống
Chúa Kitô Linh Mục ; mầu nhiệm tế sát nhắc cho linh mục bổn phận
phải tế sát chính mình để phục vụ Chúa Kitô ; sự tự hiến của Chúa
Kitô trong việc ban mình cho ta nhắc cho linh mục bổn phận phải hiến
thân cho người khác.
Để có thể
làm những việc trên đây, linh mục dĩ nhiên phải có những tâm tình của
Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thập Giá. Những tâm tình này, đặc biệt
thánh sử Gioan trong Bữa Tiệc Ly, cũng như thánh Phaolô trong bài thánh
thi trong thư Philipphê (2,6-8), đã nêu bật. Đó là : yêu thương, khiêm
nhường, vâng phục, hy sinh,
phục vụ…
1. Biến đổi mình
Trong nghi thức
truyền phép, Đức Kitô nói qua môi miệng linh mục : Này là Mình Thày,
Này là Máu Thày. Lập tức, bánh biến thể thành Mình Chúa, rượu
thành Máu Chúa. Mầu nhiệm này gợi ý cho ta phải biến đổi mình
thành như Đức Kitô-Linh Mục.
Chắc hẳn mỗi
người kitô hữu, nhờ phép Rửa Tội, đều trở nên đồng hình đồng dạng
với Đức Kitô, nhưng linh mục phải đồng hình đồng dạng với Ngài cách
đặc biệt và hoàn hảo hơn, do ơn gọi cao cả của mình và do ấn tích
của chức linh mục thừa tác. Chúng ta được ghi ấn tích không phai mờ
của chức tư tế muôn đời của Đức Kitô. Và chính sự đồng hình hữu
thể học này (configuration
ontologique) với Chúa qua ấn tích của bí tích truyền chức thánh
đòi chúng ta phải không ngừng đồng hình với Ngài bằng chính đời
sống cụ thể của mình, nghĩa là
phải cố gắng biến đổi đời sống của mình nên giống
Chúa Giêsu.
Đương nhiên, so
với sự biến thể của bánh và rượu, sự biến đổi của ta có khác.
Trước hết,
bánh và rượu là những vật chất vô tri, còn ta là những con người tự
do. Không một lời nào, một quyền lực nào có thể buộc chúng ta biến
đổi. Thế nên phải bắt sự tự do của ta quy phục và đón nhận ơn Chúa
cũng như hoạt động của Thần Khí, vì chỉ có ơn Chúa mới giúp ta
biến đổi tư tưởng, ý muốn và tâm hồn của ta dần dần trở thành
giống như Chúa.
Tiếp đến, sự
biến thể của bánh rượu xẩy ra ngay lập tức sau lời truyền phép, còn
sự biến đổi của ta không như thế, nhưng được thực hiện dần dần, ngày
này qua ngày khác. Mỗi Thánh Lễ có thể được coi như một điểm
phát xuất cho sự biến đổi của ta, như một cột mốc nhắc nhở ta.
Cuối cùng, sự
biến đổi của bánh rượu được thực hiện đầy đủ, hoàn toàn, còn sự
biến đổi của ta lại không hoàn toàn như vậy. Nhân cách của ta vẫn
còn đó. Ta không cần phải hy sinh nó. Nhưng ngần nào có thể bắt nó
rập theo nhân cách của Đức Kitô, sao cho nói được như thánh Phaolô :
“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”
(Gl 2,20). Và nói được cho người khác, như cũng thánh Tông Đồ còn
viết : “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1Cr
11,1).
2. Tế sát mình
Cha J.B. Henri
Lacordaire định nghĩa ơn gọi linh mục là “một sự tế sát của con
người thêm vào sự tế sát của Thiên Chúa” (une immolation de l’homme ajoutée à celle de Dieu).
Trên Thánh
Giá, Đức Kitô là Linh Mục và Tế Vật trong nhân tính tự nhiên. Còn
trên bàn thờ, trong nhân tính vinh quang, Ngài là Linh Mục vô hình được
làm cho hữu hình nhờ thừa tác vụ của linh mục, đồng thời cũng là
Tế Vật được làm cho hiện diện cách bí tích.
Vậy chúng ta,
khi cử hành Thánh Lễ, không những là linh mục mà còn là tế vật,
cùng với Đức Kitô Linh Mục và Tế Vật. Linh mục phải kết hợp với
Đức Kitô Tế Vật thì mới làm cho Thánh Lễ có được tất cả ý nghĩa
và chiều sâu.
“Đức Kitô đã
chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5,7). Chúng ta
đã dấn thân vào cuộc Vượt Qua này. Trong cuộc Vượt Qua của Đức Kitô,
chúng ta đã vượt qua cách tiềm tàng về với Chúa Cha, trong Đức Kitô
chịu tế sát và sống lại. Trong cuộc Vượt Qua Thánh Thể, chúng ta về
với Chúa Cha, trong sự kết hợp với Đức Kitô chịu tế sát nhưng đã
được vinh quang. Còn trong cuộc vượt qua của đời sống kitô giáo, chúng
ta không ngừng về với Cha trên trời bằng một đời sống thánh thiện và
từ bỏ, một đời sống mà trọng tâm là
Đức Kitô.
Chính vì vậy,
thánh Phaolô đã có thể coi đời sống kitô giáo như một phụng vụ khi
viết : “Tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống
động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp
để anh em thờ phượng Người” (Rm 12,1). Chúng ta hãy coi lời khuyên trên
đây là dành đặc biệt cho linh mục. Linh mục phải tế sát cả cuộc đời
mình cho Đức Kitô, Linh Mục đời đời.
Ngày Gioan
Bosco chịu chức linh mục, mẹ ngài đã nói : “Nay con đã là linh mục.
Con hãy nhớ điều này : Bắt đầu dâng Thánh Lễ là bắt đầu chịu khổ.”
Mỗi lần cử
hành Thánh Lễ là mỗi lần nhắc cho ta rằng : “Tôi chết lên chết xuống
mỗi ngày” (1Cr 15,31), “Thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối
với tôi, và tôi đối với thế gian.” (Gl 6,14). Bàn tay ta được xức dầu
thánh không chỉ để làm các việc thánh, mà còn phải bị đâm thủng như
bàn tay của Chúa trên Thánh Giá. Hoặc nói
tắt : Đức Kitô phải tìm lại được các dấu thánh khổ nạn của Ngài
nơi ta.
Cũng như một
vài hình thức lây nhiễm chỉ có từ vết thương này sang vết thương
khác, chúng ta cũng cần có vết thương khổ nạn nơi ta, để Chúa Giêsu
có thể liên kết ta vào trong hy tế của Ngài. Thánh Paulin de Nole đã
diễn tả ý tưởng này rất hay khi viết : “Chính Chúa là lễ vật của
mọi linh mục… và đến lượt mình, các linh mục phải là lễ vật cho
Chúa.”[19]
3. Ban mình
Trong Bữa Tiệc
Ly, Chúa đã ban mình cho các môn đệ khi nói với họ : “Hãy nhận lấy
mà ăn. Này là Mình Thày” (Mt 26,16). Thánh Thể Ngài thiết lập vừa
là hy tế vừa là bữa ăn, là lương thực. Trên Thánh Giá, Ngài đã tôn
vinh Chúa Cha khi hiến mình làm giá cứu chuộc con người. Ngài còn
tiếp tục ban mình cho ta trong bí tích Thánh Thể, làm lương thực nuôi
ta cho tới tận thế. Chúng ta ăn uống chính Mình Máu Chúa.
Qua đó, Chúa
chờ đợi gì nơi các linh mục của Ngài ? “Không thể nào lặp lại những lời
truyền phép mà không cảm thấy chính
mình rúng động trong cử chỉ thiêng liêng này. Trong một nghĩa nào đó,
khi đọc những lời : ‘Hãy cầm lấy mà ăn’, linh mục phải học biết cách áp dụng
những lời này cho chính mình, và nói lên những lời này trong sự thật và lòng
quảng đại.”[20]
Chúa muốn linh
mục cũng bị ăn, muốn họ trở thành lương thực cho các linh hồn. Cha
Antoine Chevrier nói : “Linh mục là một con người bị ăn.” (Le prêtre est un homme mangé). Nói
‘bị ăn’ ở đây là theo nghĩa bóng, khác với trường hợp Thánh Thể
Chúa được người ta ăn. Nhưng ý nghĩa và kết quả thì như nhau : hiến
mình cho người khác. Thánh Thể được chúng ta nuốt vào lòng dạ, không
bị chúng ta tiêu hóa, nhưng tiêu hóa chính chúng ta. Trong việc rước
lễ, không phải ta làm biến đổi Đức Kitô trong ta, như khi ta dùng những
của ăn vật chất, nhưng chính Đức Kitô làm biến đổi ta trong Ngài.[21]
Như vậy là Ngài hiến mình phục vụ ta, trong một hành vi có ý nghĩa
sinh tử đối với ta. Linh mục cũng vậy, được người ta ăn tức là hiến
mình cho họ, phục vụ họ như người tôi tớ. Chúng ta phải sẵn sàng và
can đảm nói được như thánh Phaolô : “Phần tôi, tôi vui lòng… tiêu phí
cả sức lực lẫn con người của tôi vì linh hồn anh em” (2Cr 12,15). Linh
mục không còn là người thuộc về mình, nhưng thuộc về người khác.
Và cũng như
Chúa Kitô Thánh Thể ban cho ta không những nhân tính mà cả thần tính
của Ngài, linh mục cũng phải ban cho người khác không chỉ yếu tố nhân
loại, mà còn phải ban những gì thuộc Thiên Chúa nữa. Phải ban cho họ
tất cả Đức Kitô. Và chắc hẳn chính những gì thuộc Thiên Chúa là
những điều người ta mong đợi nhất nơi linh mục, đặc biệt tình yêu của
Thiên Chúa, sự sống của Thiên Chúa, chân lý của Thiên Chúa, lời Thiên
Chúa…
***
Để kết thúc,
xin mượn lời của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói với các linh mục
không lâu trước ngày khai mạc Năm Linh Mục :
“Các linh mục
thân mến, tôi đặc biệt ngỏ lời với anh em là những người được Chúa
Kitô tuyển chọn để, cùng với Chúa, anh em có thể sống cuộc đời của
mình như hy tế chúc tụng vì phần rỗi của thế giới.
“Chỉ từ sự
kết hợp với Chúa Giêsu, anh em mới có thể kín múc sự phong phú
thiêng liêng mang lại hy vọng trong công tác mục vụ của anh em. Thánh
Lêô Cả nhắc rằng “sự tham phần của chúng ta vào Mình và Máu Chúa
Kitô không hướng đến điều gì khác hơn là trở thành điều mà chúng ta
lãnh nhận” (Sermo 12, De Passione
3,7 ; PL 54). Nếu điều này đúng đối với mỗi kitô hữu thì càng đúng
đối với các linh mục chúng ta. Trở nên Thánh Thể, đó chính là ước
muốn liên lỉ và quyết tâm của chúng ta, để việc dâng hiến Mình và
Máu Chúa chúng ta cử hành trên bàn thờ có kèm theo sự hy sinh trong
cuộc sống chúng ta. Mỗi ngày chúng ta kín múc từ Mình Máu Chúa
tình yêu tự do và tinh tuyền làm cho chúng ta trở thành thừa tác viên
của Chúa Kitô và thành những chứng nhân về niềm vui của Chúa.”[22]
[1] ĐGH Bênêđictô XVI nói với các thành
viên tham dự phiên họp khoáng đại của Bộ Giáo Sĩ, 16/3/2009.
[2] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores dabo vobis, 25/3/ 1992, các
số 21-22 ; ĐGH Bênêđictô XVI, ibid.
[3] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, 17/4/2003, số
60.
[4] Bộ Phúc Âm hóa các dân tộc, Chỉ Nam Linh Mục, 01/10/1989, các số
24b ; 8d ; 22c.
[5] ĐGH Bênêđictô XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis, 13/3/ 2007, số
80
[6] Lắng nghe Thông Điệp Deus Caritas est, Tài
liệu thường huấn cho các linh mục Giáo Phận Đàlạt 2006, bài “Đôi
điều về bác ái mục vụ”
[7] Theo ĐGH Gioan Phaolô II, in persona Christi có nghĩa mạnh hơn
là nhân danh hay thay thế Đức Kitô. Nó có nghĩa là trong sự đồng nhất
đặc biệt, có tính bí tích, với vị Thượng Tế của Giao Ước vĩnh
cửu, Đấng là tác giả và chủ thể chính của hy tế, trong đó không ai
thay thế được (Thông Điệp Ecclesia de
Eucharistia, 17/4/ 2003, số 29). Điều này càng cho thấy vai trò quan
trọng của linh mục trong Thánh Lễ, và phải giúp linh mục ý thức hơn
về vai trò của mình.
[8] ĐGH Gioan Phaolô II, ibid., số 48
[9] trích lại trong Timothy M. Dolan, Priests for the Third Millennium, Indianna 2000, pp. 218-219.
[10] Georges Buraud, Le drame du Curé d’Ars, La Colombe, 1947, p.113. Dường như lời
nói chính thực của thánh Gioan Maria Vianney là : “Người ta sẽ chỉ
hiểu được linh mục ở trên trời… Nếu hiểu được linh mục ở trần gian,
người ta hẳn sẽ chết, không phải vì sợ hãi, nhưng vì yêu mến.” : x.
Francis Trochu, Le Curé d’Ars,
Emmanuel Vitte, 1927, p.110
[11] Thánh Gioan Kim Khẩu, De Sacerdotio, VI, 4.
[12] ĐGH Bênêđictô
XVI, Bài giảng lễ Mình Máu Thánh Chúa, 11/6/2009, tại Đền thờ Thánh
Gioan Latêranô.
[13] Bernard Nodet, Le curé d’Ars, sur la foi du serment, éd. Xavier Mappus, 1959,
p.124.
[14] Missale Romanum, ed. typica 1970, Appendix, Praeparatio ad Missam, Formula intentionis, p.905. Tiếc rằng không có trong bản dịch Sách Lễ tiếng Việt.
[15] ĐGH Gioan Phaolô II, ibid., số 52.
[16] Công Đồng Trentô, Sess. XXII, can. 3.
[17]
ĐGH Gioan Phaolô II, ibid., số 58
[18]
Chắc chắn Công Đồng không đánh giá thấp nhiệm vụ cử hành bí tích,
nhất là bí tích Thánh Thể. Vả lại, Công Đồng nói rõ cử hành Thánh
Thể là nhiệm vụ chính (munus
praecipuum) của linh mục (LM 13). Sở dĩ Công Đồng đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa là cốt để phục hồi nhiệm vụ này đã
từng bị coi nhẹ, và để cho hợp với tiến trình tự nhiên của việc mở
rộng và xây dựng nước Chúa : được nghe rao giảng → tin → tham dự lãnh
nhận bí tích.
[19] Paulin de Nole, Epist. XI ; P.L. 61, col. 196
[20] ĐGH
Gioan Phaolô II, Thư gửi các linh mục Thứ Năm Tuần Thánh 2005, số 3.
[21]
x. Thánh Augustinô, Confessions, I, 7, 10
[22] Bài giảng lễ Mình Máu Thánh Chúa, 11/6/2009, tại Đền thờ Thánh Gioan Latêranô.