KHÓA THƯỜNG
HUẤN IV
CÁC NHÀ
ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH MỤC
TẠI VIỆT
06 - 18/7/2014
Đà Lạt, Việt Nam
“Thế tục hóa và việc đào tạo linh mục tại Việt Nam”
"Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi
ác thần. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế
gian" (Ga 17,15.18). Chúa Giêsu đã ủy thác cho các môn đệ tiếp nối sứ
vụ của Ngài trong thế giới, và Giáo hội đã "đi khắp thế gian loan báo tin mừng
cho mọi loài thọ tạo" (Mc16,15). Trong hơn hai mươi thế kỷ qua, Giáo hội
đã ở trong thế giới, cùng đồng hành với con
người trong "vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu" (GS 1) để đem ánh
sáng Tin Mừng đến cho con người thuộc các nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên thế
giới mà Giáo hội được sai đến lại thường theo đuổi những giá trị đi ngược với
những giá trị của Tin Mừng, nhất là trong thế giới tục hóa hôm nay. Đứng trước
những khó khăn và thách đố như thế, các môn đệ của Đức Giêsu sẽ làm gì để loan
báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay?
Tiếp nối những thành quả của Khóa thường huấn III (2012), Ủy Ban Giáo Sĩ và
Chủng Sinh trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tổ chức Khóa thường huấn IV với
đề tài “Thế tục hóa và việc đào tạo linh
mục tại Việt Nam” từ ngày 06 - 18 tháng 7 năm 2014, tại Tòa Giám Mục Đà
Lạt, Việt Nam. Khóa thường huấn lần này tiếp tục nhận được sự tài trợ của Hội
Thừa sai Paris, và sự cộng tác đắc lực của các cha giáo sư đến từ Học viện Công
giáo Paris, Đức Giám mục Giuse Đinh Đức Đạo, cha Giuse Phan Tấn Thành. 91 nhà
đào tạo ứng sinh linh mục từ 10 Đại Chủng viện, một số Dòng tu và Tu hội, và
đại diện của 26 giáo phận tại Việt Nam đã tham dự Khóa Thường Huấn năm nay.
PHẦN MỘT
Tổng quát về Khóa Thường Huấn
Khóa Thường Huấn được thực hiện xoay quanh bốn chiều kích: nhân bản, thiêng liêng, trí thức,
mục vụ.
- Khóa Thường Huấn là thời
gian của tình huynh đệ linh mục. Tuy đến từ nhiều miền khác
nhau và ở nhiều cương vị khác nhau trong sứ vụ linh mục, quý cha tham dự khóa
thường huấn đã nhanh chóng hòa mình vào bầu khí thân tình cởi mở giữa những
người môn đệ cùng chia sẻ một sứ vụ. Tình huynh đệ nảy nở thật tự nhiên
giữa những người cùng chung một đức tin, một lòng mến,
một niềm hy vọng. Những thông tin, những kinh nghiệm, và những thao thức liên
quan đến sứ vụ đào tạo các ứng sinh linh mục mà quý cha chia sẻ với nhau trong
những giờ thảo luận, những bữa ăn, những giây phút giải lao giữa các giờ thuyết
trình, đã làm cho khóa thường huấn trở nên nhẹ nhàng và đầy
niềm vui.
Trong dịp này, Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, Đại Diện không thường trú
của Tòa Thánh tại Việt Nam, Đức Tổng Giám mục Phaolô Bùi
Văn Đọc, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức Tổng Giám mục Phêrô
Nguyễn Văn Nhơn, và Đức Giám mục Giuse Đặng
Đức Ngân đã đến thăm và chia sẻ với quý cha tham dự khóa thường huấn. Sự hiện diện của các ngài nói
lên sự quan tâm của Giáo hội đối với công việc đào tạo các ứng sinh linh mục, một
sứ vụ khó khăn trong bối cảnh xã hội thế tục hóa hôm nay.
- Những
ngày thường huấn không chỉ là cơ hội để các tham dự viên đào sâu kiến thức và chia
sẻ kinh nghiệm, nhưng còn là khoảng thời gian thuận tiện để quý cha chia sẻ đời
sống đức tin. Giờ kinh chung ban sáng và ban chiều, cũng như thánh lễ vào giữa
ngày, là những giây phút quý cha cùng nhau thờ phượng Chúa để kín múc nơi Chúa
sức mạnh cần thiết cho sứ vụ của mình. Qua những bài suy niệm được chuẩn bị kỹ
lưỡng và sâu sắc của Cha Claude Tassin, những bản văn Cựu Ước trở nên thật sống
động, góp phần làm cho các giờ cử hành phụng vụ thêm sốt sắng.
- Đời
sống đức tin của mỗi giáo phận, mỗi giáo xứ, đều mang những nét rất riêng. Do đó được chia sẻ đời
sống đức tin của các cộng đoàn tín hữu nơi mỗi địa phương là dịp để trải nghiệm
sự phong phú đa dạng của Giáo hội. Đức Tổng Giám mục Girelli, các Đức Tổng Giám
mục và Giám mục, cùng quý cha tham dự khóa thường huấn đã đến dâng thánh lễ tạ ơn
tại Đại chủng viện Minh Hòa Đà Lạt, và tham dự thánh lễ
cung hiến ngôi thánh đường mới của giáo xứ Kađơn thuộc giáo phận Dalat. Đây là
dịp để mọi người dâng lời tạ ơn Chúa và cảm nghiệm tình yêu quan phòng của
Thiên Chúa đối với những nhu cầu của Giáo hội.
- Trong tình hiệp thông, niềm vui của khóa thường huấn không được tròn vì thiếu
sự hiện diện của chính Đức Cha Antôn, chủ tịch ủy ban chủng sinh. Thế nhưng,
mọi người đều sung sướng khi nghe tin sức khỏe của ngài được bình phục ngày một
tốt đẹp hơn.
- Phần lớn thời gian của khóa thường huấn được dành cho việc học hỏi và đào
sâu về đề tài thế tục hóa và những ảnh hưởng
của nó đến việc đào tạo các ứng sinh linh mục. Các giáo sư của Học Viện Công
Giáo Paris cùng với Đức Giám mục Giuse và Cha Giuse Thành đã giúp các tham dự
viên nhận định về hiện tượng thế tục
hóa, giải thích nó dưới ánh sáng của
Tin Mừng và truyền thống đức tin của giáo hội, để có thể đề ra những định hướng
thích hợp cho việc đào tạo linh mục trong bối cảnh xã hội thế tục hóa hôm nay.
Bên cạnh đó, các giờ thảo luận tổ và đúc kết chung giúp soi sáng thêm cho các
đề tài nhờ những kinh nghiệm rất cụ thể và sống động mà các tham dự viên đã chia
sẻ.
PHẦN HAI
Nội dung tổng quát của các bài nói chuyện
Đáp lại hướng dẫn của cuốn
chỉ nam, Giáo hội tại VN qua Ủy ban chủng sinh-dòng tu tổ chức một khóa bồi
dưỡng cho những nhân viên đào tạo trong chủng viện về sự trần tục hóa. Khóa học
hỏi này có thể được coi như một sự giao lưu suy tư trong huấn luyện giữa những
giáo sư sống bên Tây phương, với uy tín học thuật không thể chối cãi với những
nhân viên lo về đào tạo trong các chủng viện và dòng tu.
Thoạt tiên như thể có gì không ổn lắm, vì hai
lối tiếp cận khác nhau: một bên là học thuật, một bên là mục vụ. Thế nhưng, những
ngày học hỏi lại đúng là những ngày trao đổi để biến những suy tư soi sáng và
hướng dẫn mục vụ và những thực hành mục vụ lại cho thấy những bổ túc đáng kể
vào những suy tư ấy. Theo ánh sáng đó, trong khóa học, cả trong suy tư lẫn chia
sẻ, phương pháp quy nạp gồm xem, xét và
làm hay lắng nghe, giải thích và bước
tới, được sử dụng. Sau đây là nội dung tóm lược của những bài nói chuyện
trong những ngày đó.
1. HIỆN TƯỢNG THẾ TỤC
HÓA - Cha Giuse Phan Tấn Thành.
Tác giả
cho thấy hiện tượng thế tục hóa thật phức tạp. Nó được phản ánh ngay cả trong chính hạn từ, vì
hạn từ này được sử dụng dưới những bối cảnh và lãnh vực khác nhau mang theo những
ý nghĩa khác nhau.
Bài viết khảo sát tổng quát
hiện tượng này, vốn có nguồn gốc từ phương Tây khi khoa học kỹ thuật nổi lên,
dưới tiến trình lịch sử, rồi dưới nhãn quan pháp luật, chính trị cũng như tìm
cách giải thích nó theo xã hội học. Từ đó, tác giả nói sơ lược
về hiện tượng đó dưới nhãn quan thần học dựa vào Kinh thánh, cũng như Vatican
II để cho thấy tiến trình thế giới đi tới tự quản. Dẫu
sao, tác giả cho thấy hiện tượng này chịu ảnh hưởng rất nhiều quan điểm của
Auguste Comte cho rằng đã chấm dứt thời của thần linh và siêu hình; nay là thời
của khoa học và kỹ thuật. Con người xua đuổi thần linh về chỗ của mình.
Nhưng
đặt cuộc tìm hiểu vào trong bối cảnh, tác giả cũng nói đến hiện tượng thế tục hóa
trên Á châu và Việt nam. Điều làm cho hiện tượng này mang dáng
dấp khác hẳn ở Việt nam và Á châu, chính là đa tôn giáo. Tại đây, chưa hề có một thứ quốc giáo đúng nghĩa, như đã là thế ở
Tây phương.
Sau khi khảo sát như thế,
tác giả mời gọi phải nhìn xa hơn trong hiện tượng tục hóa này: chính Thiên Chúa
muốn cho thế giới là chính nó, cách riêng trong mầu nhiệm nhập thể. Trong kinh thánh ta có thể thấy "tục hóa cái thiêng" cũng
như thánh hóa cái phàm. Từ đó, tác giả cho thấy cần phải
cảnh giác không ngừng trong thực hành đức tin để không biến Giáo hội thành một
tổ chức xã hội NGO.
2. KHÁI NIỆM THẾ TỤC HÓA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN - Cha Gilles Berceville
Ghi nhận tính cách phức
tạp của sự thế tục hóa, cha Berceville xác định ý nghĩa chung về thế tục hóa; hạn
từ chỉ tới "một chuyển biến từ một tình trạng gắn liền cách nào đó với Thiên
Chúa hoặc "cái thiêng", tức thần linh sang một tình trạng mà mối liên
hệ này bị lơi lỏng hoặc thậm chí bị cắt đứt". Chuyển biến này tăng tốc với
sự thành công gây choáng của khoa học và kỹ thuật, được hỗ trợ bởi những tư duy
vô thần. Sự thế tục hóa luôn mang hai chiều kích khách quan,
tức nỗ lực giải phóng xã hội khỏi tôn giáo và chiều kích chủ quan, tức nỗ lực
giải phóng tâm tình tôn giáo của cá nhân. Để khỏi rơi
vào hai thái cực, tác giả lưu ý rằng khi bàn về thế tục hóa, ta phải phân định
ra cách thức họ ghi nhận (constat), giải thích (interpretation) và dự phóng (projet) trong khi họ trình bày.
Tác giả cho thấy thần học Công giáo phân biệt rõ ràng chủ trương duy tục
(secularisme) và tiến trình thế tục hóa đúng đắn, để khám phá ra "cơn đói
khát" sâu thẳm của con người về Thiên Chúa và thế giới siêu việt. Cũng từ đó, Giáo hội phải liên tục cảnh giác để không lẫn lộn đức
tin với quyền lực chính trị cũng như không dành cho Thiên Chúa vị trí thứ hai
trong Giáo hội hay vị trí hoàn toàn riêng tư trong đời sống con người. Tác
giả ghi nhận rằng trong xã hội sự thế tục hóa khiến ta sùng bái lợi nhuận, còn
trong Giáo hội là cả một thái độ đi tìm vinh quang nhân loại và sự thỏa mãn bản
thân được ẩn dấu đằng sau mối quan tâm phô trương cả trong phụng vụ, giáo lý
hay uy tín Giáo hội hay mục vụ bề ngoài. Đó chính là sự thế
tục thiêng liêng vậy.
3.SÁNG THẾ 1 VÀ SỰ GIẢI THẦN THOẠI THIÊN NHIÊN VÀ GIAO ƯỚC SINAI VỚI
SỰ GIẢI THÁNH CÁC GIÁ TRỊ - Cha Vincent
Sénéchal
Sau khi
xác định ý nghĩa của sự thế tục hóa, khóa họp đi tìm hiểu thực tại đó dưới góc
cạnh kinh thánh. Chắc
chắn, chúng ta không thể tìm được hạn từ đó trong Kinh thánh, nhưng chúng ta có
thể thấy thực tại được sống thế nào trong kinh thánh. Theo cha Vincent Sénéchal,
Sáng thế 1 cho chúng ta thấy rằng Đấng Tạo Hóa muốn các tạo vật "được thiết
lập theo cách vững chắc, chân thực với trật tự và luật
đặc thù của chúng". Để làm rõ ý tưởng trên, tác giả đặt
mình đối thoại với Harvey Cox. Cox chủ trương rằng
Sáng thế giải thiêng tạo thành và trao cho con người thế giới thụ tạo. Như
thế con người chịu trách nhiệm trước thiên nhiên. Còn Thiên
Chúa thật riêng biệt và tách khỏi công trình tạo dựng của mình. Sénéchal không nghĩ thế. Nơi Sáng thế 1, ta khám phá ra
nhiều hơn: sự uy quyền của lời và sức mạnh của Thần khí Giavê trên hỗn mang,
thế giới tạo thành được gọi là tốt lành, nơi đó con người là tuyệt mức, tính
chất phụng vụ trong vận hành của ngày và đêm, tiến tới tột đỉnh trong ngày thứ
bảy, sabbat. Không chỉ thế. Tác giả còn cho thấy rằng
bằng cách so sánh đối chiếu những yếu tố trong St 1 với Xh 40, tác giả minh
chứng quan niệm rất mới mẻ khi dân Israel coi vũ trụ như thánh điện của Thiên
Chúa. Ở đây rõ ràng "việc tạo dựng không chỉ đơn thuần là một cái khung
cho sự sống, mà còn chính là nơi dành cho sự hiệp thông với Thiên Chúa".
Và như thế
Bài chia
sẻ thứ hai liên quan đến Giao ước Sinai và thập điều. Sénéchal
tiếp tục phê bình Cox bằng cách minh chứng mệnh lệnh cấm tạc và thờ lạy ngẫu tượng
không phải là tương đối hóa các giá trị. Đúng hơn, nó muốn khẳng định
chỗ đứng của đơn thần giáo (hénoteisme) giữa những dân tộc lân bang đi theo đa thần giáo (polytheisme).
Vậy, với
4. PHẢI CHĂNG THÁNH PHAOLÔ LÀ ÔNG TỔ CỦA TƯ TƯỞNG
"THẾ TỤC HÓA"? - Cha Claude Tassin
Tác giả trước tiên bàn luận
ý nghĩa kosmos theo
Thánh Phaolô. Đầu tiên, tác giả ghi nhận Thánh Phaolô sử dụng
rất linh động ba hạn từ thế gian (kosmos)
thế đại hay cõi đời (aion) và tạo
thành (ktisis). Từ đó tác giả
trình bày thế gian theo vũ trụ học. Theo tác giả, Phaolô sử dụng quan
điểm đương thời có sẵn về các sức mạnh vũ trụ mà không bàn đến thực tại của chúng.
Khi liệt lê các sức mạnh vô hình, Phaolô chỉ muốn giải thích
tại sao con người không phải luôn luôn làm được điều mình muốn. Bằng cách đó, ta có thể nhận ra rằng mỗi thời
đại có thể có những sức mạnh ma vương của mình, chẳng hạn ngày nay "thần
tin học", "thần phái tính"... Những sức mạnh
ấy làm cho chúng ta sợ hãi. Tuy nhiên, dưới khía cạnh nhân học, tác giả cho thấy Phaolô khẳng
định một sự chắc chắn. Chẳng có gì phải sợ vì chẳng
một sức mạnh nào có thể tách chúng ta ra khỏi Đức Kitô. Nếu các sức mạnh
đó có lớn lao thì ta lại chắc chắn hơn rằng "chỉ có một Thiên Chúa là Cha,
đấng tạo thành,... chỉ có một Chúa là Đức Kitô Giêsu
nhờ Người vạn vật được tạo thành." Trong Đức Giêsu Kitô
chịu đóng đinh, mọi sức mạnh thần linh đều bị lật nhào. Từ đó, tác giả đi đến lãnh vực đạo
đức học trong đó "tự do" chiếm chỗ ưu việt. Thiên Chúa
muốn ta được tự do khỏi bất cứ điều gì để chúng ta được tự do cho sự thiện, cho
hoa quả của đức ái. Với Phaolô, đức ái là tất cả, là sự hoàn thiện của lề luật.
Đức ái chân chính đối với Thiên Chúa và tha nhân hòa giải mọi
xung đột. Tuy nhiên, thực tại được trải nghiệm này
không phải đã xong. Tạo thành vẫn đang rên xiết cho
đến ngày Đức Kitô được hình thành nơi chúng.
Bằng cách đó, tác giả trở
lại câu hỏi của đề tài "Phaolô phải chăng là ông tổ của thế tục hóa?". Tác giả trả lời cho thấy rằng đức tin
chân thật không cho phép tín hữu sợ hãi trước bất kỳ sức mạnh nào. Họ đã được giải thoát nhờ chính sức mạnh của Đức Kitô. Như thế,
không phải thánh Phaolô mà chính là Thiên Chúa đi tiên phong trong sự thế tục
hóa khi trao phó cho con người xây dựng vũ trụ trong tự do và trách nhiệm theo
kế hoạch của ngài; và hành vi ngoại thường của việc thế tục hóa này chính là
việc Thiên Chúa nhập thể trong Đức Kitô. Thiên Chúa đi vào văn
hóa, đạo đức, tế tự, dân tộc, chính trị đặc thù để giải thoát con người khỏi
mọi hình thức tha hóa.
5.
"HỘI THÁNH ĐỐI NGHỊCH VỚI THẾ GIAN" HAY "NGƯỜI KITÔ HỮU TRONG
THẾ GIỚI?" - Cha Alain Riou
Trước tiên, bài thuyết trình
này đặt ra một vấn đề: Giáo hội ngày nay đang bị sa sút
trong mọi khía cạnh, không còn được hưởng những vinh quang như trước nữa, điều
đó là đáng buồn hay là cơ may?
Alain Riou khảo sát Lời
Nguyện Tế hiến, Gr 29:1-7 và Mc 16:9-15 để đi tới luận đề cơ bản cộng đoàn môn đệ
không được kêu gọi để đặt mình đối kháng hay cạnh tranh với thế gian, nhưng sống
trong thế gian. Chính bằng cách đi ra khỏi chính mình, vươn
tới thế giới với những vấn đề đau khổ, hy vọng, vui mừng của nó, mà Giáo hội
tìm gặp được chính mình một cách phong phú. Đúng thế,
vinh quang đích thực của Giáo hội hệ tại ở sự trung thành tuyệt đối với sứ mệnh
của mình chứ không phải ở số lượng tín đồ. Cho nên, thứ thế tục hóa tồi
tệ nhất đe dọa Giáo hội lại đến từ bên trong Giáo hội, là mối bận tâm đến mức
ám ảnh để làm cho mình được nhận biết, để bành trướng quyền lực, để chiêu mộ
tín đồ.
Đoạn tác giả nhắc đến
lá thư gởi Diognete trong thế kỷ thứ II; ớ đó, người Kitô
hữu được mời gọi sống trong thế gian không phải với những phong tục, áo quần,
tập tục lập di. Trái lại, họ sống y như mọi người một cách
khác hẳn. Họ sinh động thế giới y như linh hồn sinh
động thân xác.
Để cho
luận đề của mình nên mạnh mẽ hơn, tác giả dùng tư tưởng giáo hội học của thánh
Maxime le Confesseur. Trong bối cảnh Hồi giáo trỗi dậy và lan
tràn cũng như quyền lực hoàng đế Roma muốn thống lãnh Giáo hội, Maxime cho thấy
rằng Giáo hội là eikon và typos của Thiên Chúa. Giáo hội không
hiện hữu và sống cho
chính mình. Giáo hội phải vượt qua đi tới cái cánh chung. Hội thánh là chứng từ, là lời tuyên
xưng ngay thẳng vào Thiên Chúa hằng sống và cứu độ. Giáo
hội buộc phải trải qua những thử thách, buộc phải vượt qua để trở thành chính
mình. Nhiệm cục bí tích trong Giáo hội luôn thúc đẩy Giáo
hội, nói cụ thể, các tín hữu, đi ra chính mình, để được thanh tẩy bằng LỜI ĐỨC
GIÊSU VÀ LỬA THẦN KHÍ. Giáo hội đóng kín chính mình
chỉ tỏ lộ một Giáo hội vàng vọt, yếu ớt. Ta cần phải mơ đến một Giáo hội
đi ra bên ngoài tới tận những vùng ven, dẫu lấm láp, bụi bặm. Giáo hội phải
sống ơn gọi làm con cái Thiên Chúa trong sức năng động của sự hoàn tất cánh chung đã được ban cho họ rồi nhưng chưa viên mãn.
6. NHÂN ĐỨC TÔN GIÁO THEO THÁNH TOMA - Cha Gilles Berceville
Tiếp nối tư tưởng của Giáo
phụ trình bày một Giáo hội sinh động trong thế giới, Thánh Toma, dưới phân tích
của Berceville, tiếp tục hướng chiều đó trong một bối cảnh khác. Thật vậy, khi
thấy xã hội thay đổi, thánh Toma đã thao thức để trả lời những câu hỏi mới của
con người trong thời đó vốn nghĩ rằng tôn giáo là chuyện của tình cảm, không
hữu lý, vô bổ. Thánh Toma cho thấy tôn giáo là đỉnh cao của
hoạt động lý trí. Con người có lý trí cũng là con người có tôn giáo. Tôn
giáo làm cho con người trở thành người hơn. Một khóe nhìn rất nhân bản! Thế nên, Thánh Toma dứt khoát không nhìn tôn giáo như cơ chế cho bằng
nhìn tôn giáo như "thái độ nội tâm, vững vàng và bền lâu, cho phép con
người thực hiện đầy đủ những yêu sách của lý trí trong phượng tự và phong
hóa". Tôn giáo xét như nhân đức
giúp "con người thoát khỏi mê tín, không rơi vào chểnh mảng hay dửng dưng
hoặc khước từ Thiên Chúa cách ý thức và tự nguyện". Do đó, tôn giáo xét
như nhân đức liên hệ với công bằng để trả lại cho Thiên Chúa điều Ngài đáng
được; điều này làm nền tảng cho đức công bằng đối với những người khác, cách
riêng các bậc sinh thành. Tôn giáo trong viễn cảnh đó liên
kết với ý chí, đáp lại những đòi hỏi phát xuất từ việc nhìn nhận Thiên Chúa.
Từ nền tảng đó, tôn giáo xét như nhân đức
không chút nào nghịch lại với đức
tin, vì nó mở rộng con người ra trước sự hiện diện và trợ giúp của Thiên
Chúa, làm cho họ sốt sắng tìm kiếm và thực hiện thánh ý ngài. Bằng cách đó, tôn
giáo xét như nhân đức sẽ xây dựng nơi con người một sự kính trọng mà đây cũng
là một thiếu sót trầm trọng của các ứng sinh trẻ hôm nay. Như
vậy, trong đào tạo ta có thể phát huy một khoa tâm lý về sự tôn trọng đâm rễ
sâu xa trong cảm thức về Thiên Chúa.
7.
Theo lịch sử, không phải
ngay từ đầu, Vatican II đã rõ ràng muốn trình bày "Giáo hội trong thế giới".
Phải hơn, Vatican II lúc sơ khởi vẫn gắn bó hơn với một
"Giáo hội đối nghịch với thế giới". Đây đúng là cuộc rũ bỏ chiếc áo hoàng vương phủ trên Giáo hội suốt bao thế kỷ.
Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã muốn công đồng trình bày một
Giáo hội cho mọi dân tộc, chia sớt tất cả những thăng trầm của họ. Và các nghị phụ, qua đó, toàn thể Giáo hội đã tiếp nhận chiều hướng
đó cách quyết liệt, dẫu không ít khó khăn. Chính những
khó khăn trong tiến trình hình thành văn kiện phản ánh rõ điều này. Dẫu vậy, khi nhìn thế giới với con mắt của VỊ MỤC TỬ, Giáo hội được
hưởng lợi rất nhiều. Giáo hội phát huy phương pháp quy nạp trong suy tư và
nhìn ra tính nghịch lý hiện sinh của thế giới nhân loại hôm nay: giàu-nghèo, tiến
bộ-hàm hồ trong các giá trị, nhiều của cải-thiếu ý nghĩa đời sống. Nhưng đó
không phải là lý do để thất vọng. Giáo hội nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa: mang
đến ánh sáng của Đức Kitô và sức mạnh của Thánh Thần cho thế giới. Làm công việc này, Giáo hội không biến thế giới thành thánh thiêng,
song tôn trọng thế giới đúng như nó, trong kế hoạch của Thiên Chúa. Giáo hội xác quyết sự tự lập đúng mức của các thực tại trần thế.
Như thế, một cách biệt loại, Giáo hội thấy mối tương quan với nhà nước theo một
ánh sáng mới: độc lập với mọi chính trị đảng phái, song lại ở giữa nhân loại để
phục vụ hòa bình và hạnh phúc của họ, phục vụ sự tự do tôn giáo đích thực của con
người, tôn trọng lương tâm của con người. Song đồng thời Giáo
hội cũng nhận được rất nhiều từ thế giới trong công việc loan báo tin mừng và
diễn đạt sứ điệp của Đức Kitô. Giáo hội qua công đồng trải nghiệm cách
mới mẻ "Thiên Chúa vẫn ở gần chúng ta, giữa lòng lịch sử nhân loại mà chúng
ta dự phần, và như thế cho chúng ta cơ hội làm chứng cho một Tin mừng có khả
năng hội nhập và tạo ra biến đổi."
8. CHĂM SÓC SỰ SỐNG TRONG BỐI CẢNH THẾ TỤC HÓA - Cha Vincent Leclercq
Với Vatican II, sự sống
trở thành một vấn đề khẩn cấp cần được chiếu dọi ánh sáng tin mừng trước làn sóng
trần tục hóa. Làn sóng này muốn làm cho sự sống không còn là một tặng phẩm,
nhưng trở thành một cái gì mà con người có thể lèo lái, lạm dụng và thao túng theo ý riêng mình. Cha Leclercq trình bày suy tư về những
vấn đề trong sự sống: phá thai có chọn lựa, tế bào gốc phôi và trợ tử-an tử. Ta ghi
nhận rằng vấn đề tế bào gốc phôi và trợ tử hay an tử
dù rất phổ biến ở Tây phương song lại chưa phải là vấn đề lớn tại Việt nam. Dẫu
thế, tất cả suy tư này của tác giả dựa trên những hướng chiều nhân bản đích thực
mà Vatican II mang lại: phẩm giá con người,
công ích và tình liên đới. Bằng rất nhiều cách khác nhau,
điều này được khẳng định xuyên suốt trong tư duy của tác giả. Tất cả
nhắm đến một con người toàn diện, chứ không phải là một con người bị phân mảnh,
vốn là hệ quả tất yếu của chủ nghĩa duy tục. Để phù hợp với Viêt nam hơn, tác
giả trình bày nguyên nhân gần của việc phá thai thật
phức tạp: chính sách của chính quyền, áp lực gia đình và xã hội, thiếu hụt nguồn
lực kinh tế, khuynh hướng tìm khoái lạc vô trách nhiệm... Đằng
sau tất cả điều ấy, tức nguyên nhân xa của thực tại đó, chúng ta bắt gặp bộ mặt
của toàn cầu hóa kinh tế đang biến thành toàn cầu hóa tội phạm và luân lý.
Điều này làm cho người phụ nữ, dẫu không thể phủ nhận trách
nhiệm của mình, lại trở thành nạn nhân đáng thương hơn là những người chủ động
và tội nhân. Nó cho thấy sự thống trị của kẻ mạnh trên
kẻ yếu, sự nỗ lực của xã hội biến phụ nữ thành đồ vật chứ không phải là sự giải
phóng khỏi áp bức của đàn ông. Thực tại khủng khiếp
này, sự biểu hiện của thứ tội xã hội được làm thành cơ cấu, chỉ có thể được xoa
dịu bằng phương dược là tình liên đới, sự xót thương của toàn thể Giáo hội.
Chính
vì thế, cần thiết để trang bị cho các ứng sinh sự diễn giải đầy đủ về những chuẩn
mực luân lý của Giáo hội cũng như hiểu rõ bối cảnh xã hội chính trị trong đó
những chuẩn mực này được thực thi. Đồng thời giúp họ quan tâm đến một nền đạo đức
của sự mỏng dòn do giới hạn con người, chứ không rơi vào nỗ lực làm cho nền luân
lý thành mỏng dòn bằng sự thỏa hiệp với sự xấu. Nhờ đó, họ
biết lưu tâm đến tính mỏng dòn và dễ bị thương của chủ thể nhờ sự quan tâm săn
sóc cho con người.
9. VIỆC HUẤN LUYỆN CHỦNG SINH TẠI VIỆT
Sau khi trình bày ý nghĩa,
biểu hiện hiện tượng thế tục hóa như một thái độ đối nghịch với tôn giáo trên
thế giới, với những dẫn chứng cụ thể và đa dạng, tác giả cho thấy nguồn gốc của
hiện tượng này trong các trào lưu triết học khởi đi với Pierre-Joseph Proudhon, trong văn hóa, trong cách mạng giới tính
như sự thỏa mãn không biên giới, trong biến chuyển đô thị hóa và kỹ nghệ hóa. Tất cả điều đó chỉ để làm nền dẫn đến vấn nạn hiện sinh là làm thế
nào đào tạo người chủng sinh cách tốt đẹp và hiệu quả trong bối cảnh như thế.
Dựa trên kinh nghiệm, tác giả trình bày một nền đào tạo tập
trung vào "niềm say mến" Đức Giêsu Kitô. Từ cội nguồn và trung
tâm này, việc huấn luyện phải đưa đến sự thanh thoát theo
các lời khuyên phúc âm như biểu hiện tất yếu của niềm đam mê Đức Giêsu. Niềm
đam mê ấy chuyển thành lòng yêu thương những con người, cách riêng người nghèo
và bệnh tật, như những bạn hữu của Chúa Kitô, hay hơn nữa, như chính Đức Kitô.
Để làm được điều này việc huấn luyện phải liên kết được nhiềuu yếu tố: cá nhân,
linh hướng, bầu khí chủng viện, phương pháp của lòng thương mến tạo nên sự tín
nhiệm...
10. BÀI TỔNG KẾT - Cha Thierry Marie Courau
Dựa vào những chia sẻ của
các nhóm, trong cả một tuần chung sống và trao đổi với
những nhà đào tạo, cha Thierry Marie Courau đề xướng một hướng đi cho việc đào
tạo chủng sinh. Ngài nhấn mạnh đến những giá trị vững bền của văn hóa Việt nam,
rất độc sáng và cần phải được phát triển thêm trong cuộc đối thoại với những
vấn đề hiện đại. Không thể nào chối bỏ hay lãng quên bối cảnh này. Thế nhưng, đào tạo cũng không thể chối bỏ bước tiến triển của một thế
giới đang bị tục hóa. Nó ảnh hưởng trên tất cả chúng
ta, chủng sinh lẫn những nhà đào tạo.
Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn
luôn hiện diện và cứu độ và dùng Giáo hội để mang đến ơn cứu độ đó, tức là niềm
vui của Tin mừng Đức Kitô được hình thành trong đối thoại và hòa giải. Giáo hội tại Việt nam sẽ cống hiến cho quê hương một kho tàng quí báu
có một không hai là chính Đức Giêsu là Tin mừng, nếu các linh mục tương lai trở
thành những người đối thoại và hòa giải. Điều này sẽ
trở thành có thể được, nếu chính các chủng sinh và các nhà đào tạo trải nghiệm
ơn cứu độ cách hiện thực như niềm vui của đối thoại và giao hòa. Bằng
cách đó, Giáo hội tại Việt nam sẽ nổi bật lên như dấu chỉ và phương thế của sự
hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người và giữa con người với nhau (x. LG 1):
Giáo hội như sự hiệp thông.
Quả là một công việc lâu
dài, nhưng đáng cho chúng ta đầu tư công sức, tiền của và tâm tư, vì lẽ sai lầm
trong các lãnh vực khác như xây cất, học hành, và thậm chí cả tông đồ nữa còn
có thể chấp nhận; nhưng không thể chấp nhận sai lầm trong việc đào tạo, vì lẽ
sai lầm này sẽ tác hại khôn lường trên toàn Giáo hội trong tương lai.
Kết luận:
Tóm lại, với
mầu nhiệm Nhập Thể, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đi vào trần thế, đón nhận, tôn
trọng những giá trị, những tổ chức trần thế và hướng con người đang sống trong đó
về Thiên Chúa, là giá trị tuyệt đối. Khi phải trả lời cho câu hỏi có phải nộp thuế cho Xê-da hay không, Đức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc rất rõ ràng
: “Những gì của Xê-da, hãy trả về cho
Xê-da; những gì của Thiên Chúa, hãy trả về cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Và
Ngài đã có thái độ thật cương quyết khi đánh đuổi quân buôn bán ra khỏi đền
thờ, khi những người này muốn biến “nhà của Thiên Chúa” thành nơi buôn bán trần
tục : "Đem
tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán"
(Ga 2,16).
Ngày hôm nay, trước những làn sóng mãnh liệt của phong trào “thế tục hóa”,
cụ thể là những “ác thần dối trá”, đang tấn công các môn đệ của Ngài, Đức Giêsu
vẫn đang dâng lên Chúa Cha hy tế của Ngài để tha thiết cầu nguyện cho các môn đệ:
“15 Con không
xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. 16 Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc
về thế gian. 17 Xin Cha lấy sự thật mà
thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. 18 Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến
thế gian. 19 Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ
sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,15-19). Nói cách khác, hiến tế Thập
giá của Đức Giêsu chính là nguồn sức mạnh bảo vệ người môn đệ khỏi những “ác
thần của trần thế”, để luôn thuộc về Thiên
Chúa là Đấng Thánh, luôn thuộc về Đức Giêsu, là Sự Thật (x. Ga 14,16).
Với xác tín
này, những nhà đào tạo các ứng sinh linh mục, trong bối cảnh thế tục hóa tại Việt
Nam hôm nay, phải luôn gắn bó với Thập giá của Đức Giêsu. Và Đức Maria sẽ giúp
các nhà đào tạo luôn đứng vững dưới chân Thập giá của Đức Giêsu, để đón nhận
sức mạnh hầu có thể chu toàn nhiệm vụ khó khăn là đào tạo cho Giáo Hội Việt Nam
những linh mục thánh thiện, luôn trung tín thuộc trọn về Thiên Chúa.
Đà Lạt ngày 18-7-2014
Ban Thư ký Khóa Thường Huấn 2014