Văn kiện đúc kết Thượng Hội Đồng
Giám Mục ngoại thường lần thứ ba về Gia Đình (Phần III)
PHẦN III
SỰ QUAN TÂM:
NHỮNG VIỄN TƯỢNG MỤC VỤ
Công bố Tin Mừng về gia đình hôm nay trong các bối cảnh khác nhau
của cuộc sống
29.Cuộc đối thoại của Thượng Hội Đồng Giám Mục đã bận tâm
tới một số mong muốn khẩn thiết về mục vụ mà nó phải được trao phó riêng cho
các Giáo hội Đông Phuơng trong sự hiệp thông được cụ thể hóa „cum Petro et sub
Petro“ (cùng với Phê-rô và trong Phê-rô). Việc công bố Tin Mừng về gia đình thể
hiện tính cấp bách đối với việc tái rao giảng Tin Mừng. Giáo hội được kêu gọi
thực thi việc tái rao giảng Tin Mừng ấy với sự trìu mến của một người Mẹ, và
với tính cách rõ ràng của một nữ giáo viên (xc. Eph. 4, 15),
trong sự trung tín với Kenosis (sự tự hủy) đầy khoan hậu của Chúa Ki-tô.
Chân lý tiếp nhận xác thể trong sự yếu đuối của con người, không phải để kết án nó, nhưng để cứu độ nó (xc.
30.Việc rao giảng Tin Mừng là một
trách nhiệm của toàn dân Chúa, và của bất cứ ai, theo nhiệm vụ và đoàn sủng
riêng. Không có chứng tá vui mừng của các cặp vợ chồng và của các gia đình, tức
của các Giáo hội tại gia, thì việc loan báo Tin Mừng - ngay cả khi nó được thực
hiện một cách hợp lý – cũng vẫn sẽ có nguy cơ ở lỳ mãi trong sự mơ hồ, hay có
nguy cơ rơi xuống đại dương của những lời nói mà nó là dấu hiệu đặc trưng của
cộng đồng chúng ta (xc. Novo Millennio Ineunte, 50). Các Nghị Phụ đã nhiều
lần nhấn mạnh rằng, thông qua hiệu năng của ân sủng nơi Bí Tích Hôn Phối, các
gia đình Ki-tô giáo được kêu gọi để trở nên chính chủ thể năng động của công
cuộc mục vụ chăm sóc gia đình.
31.Điều qua trọng nhất là việc nhấn mạnh đến tính ưu việt
của ân sủng và những khả năng mà Chúa Thánh Thần ban
tặng trong Bí Tích. Vấn đề nằm ở chỗ là, làm sao để hiểu được rằng, Tin Mừng về
Gia Đình là một niềm vui mà nó „lấp đầy con tim và toàn bộ cuộc sống“, vì trong
Chúa Ki-tô, chúng ta đã được giải thoát „khỏi tội lỗi, khỏi sự buồn rầu, khỏi
sự trống vắng nội tâm và khỏi cảnh cô đơn“ (Evangelii
Gaudium, 1). Trong ánh sáng của dụ ngôn người đi gieo giống (xc.
Mt. 13, 3), nhiệm vụ của chúng ta chính là việc cộng tác với hạt giống: Việc
còn lại là công việc của Thiên Chúa. Người ta cũng không được
phép quên rằng, Giáo hội, tức người rao giảng về gia đình, chính là dấu chỉ của
sự chống đối.
32.Vì thế, một cuộc trở về với sứ
vụ truyền giáo cũng đang được đòi hỏi từ toàn thể Giáo hội. Người ta không được
đứng lỳ ra mãi trong một việc loan báo thuần lý thuyết, mà nó đang bị tách rời
khỏi những vấn đề thực tế của nhân loại. Không bao giờ được phép quên rằng,
cuộc khủng hoảng Đức Tin đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng về hôn nhân và gia
đình, và như là hệ quả, việc tiếp tục truyền giao Đức Tin từ các bậc cha mẹ
sang con cái, thậm chí còn thường xuyên bị gián đoạn. Khi
chứng kiến một Đức Tin mạnh mẽ, những quan điểm văn hóa mà chúng làm yếu nhược
gia đình và hôn nhân, sẽ không thể chiến thắng.
33.Điều ngược lại cũng liên
quan đến cả cách nói, để chúng thực sự đạt tới được sức mạnh của ý nghĩa. Việc loan báo Tin Mừng phải được thực hiện làm sao để người ta có
thể hiểu được rằng, Tin Mừng về gia đình chính là câu trả lời cho những trông
chờ sâu kín nhất của con người: trên phẩm giá của họ cũng như trong việc hiện
thực hóa các mối quan hệ hỗ tương, trong sự hiệp thông và trong sự phong nhiêu.
Không đơn thuần chỉ là việc đưa ra một khuôn mẫu có tính chuẩn mực, nhưng còn
là việc giới thiệu các giá trị mà chúng đáp lại sự khát mong tương ứng về những
điều vừa nêu; đây là một sự khát mong mà trong thời đại hôm nay người ta đang
bắt gặp trong chính những quốc gia đã bị tục hóa nhất.
34.Lời Chúa là nguồn mạch của đời
sống cũng như của linh đạo gia đình. Toàn bộ công cuộc mục vụ gia đình sẽ được
tạo hình từ bên trong và phải cho phép các thành viên của Giáo hội tại gia được
phát triển nhờ vào việc đọc Lời Chúa theo cách thức
chiêm ngưỡng và thuộc về Giáo hội. Lời Chúa không chỉ là Tin Mừng đối với cuộc
sống riêng tư của con người, nhưng cũng còn là một tiêu chuẩn của sự phán đoán,
cũng như là ánh sáng giúp phân định những thách đố khác nhau, mà với chúng, các
đôi vợ chồng và các gia đình đang phải bận tâm.
35. Đồng thời, nhiều Nghị Phụ đã nhấn mạnh đến một sự tiếp
cận tích cực trước sự phong phú của những kinh nghiệm tôn giáo khác nhau mà
không hề giấu giếm những khó khăn. Trong những thực tại tôn giáo khác biệt ấy,
và trong sự khác biệt to lớn về văn hóa mà chúng để lại dấu ấn nơi các quốc
gia, việc coi trọng trước hết là đối với những khả năng tính cực cũng như việc
định giá trong ánh sáng của Tin Mừng, về những giới hạn và những khuyết phạm,
là điều hợp lý.
36.Đời sống hôn nhân Ki-tô giáo là một ơn gọi mà người ta
đón nhận thông qua một sự chuẩn bị hợp lý trên con đường Đức Tin, và với một
khả năng đánh giá chín chắn. Đời sống ấy không chỉ được hiểu như là truyền
thống văn hóa hay là một sự đòi hỏi mang tính xã hội hoặc luật pháp. Vì thế,
người ta phải phát triển những con đường để đồng hành với con người và đồng
hành với các cặp vợ chồng, đến độ sự dàn xếp giữa nội dung của Đức Tin với kinh
nghiệm về cuộc sống sẽ được gắn kết, mà sự dàn xếp ấy sẽ giới thiệu toàn bộ sự
hiệp thông của Giáo hội.
37. Sự cần thiết trong việc khôi phục một cách triệt để các
thực hành mục vụ trong ánh sáng của Tin Mừng về gia đình, vẫn luôn được nhấn
mạnh, hầu thắng vượt những cách nhìn theo chủ nghĩa cá nhân, mà hiện tại chúng
vẫn đang còn thể hiện các đặc tính của chúng. Vì thế, cần phải kiên trì hơn nữa
trước một cuộc canh tân đối với việc đào tạo các các Linh Mục, Phó tế, và các
Giáo Lý viên cũng như các cộng tác viên khác trong việc mục vụ, thông qua một
sự liên hệ mạnh mẽ hơn nữa đối với các gia đình.
38.Cũng trong một cách thế giống như vậy, sự cần thiết của
một cuộc loan báo Tin Mừng cũng phải được nhấn mạnh, mà cuộc loan báo Tin Mừng
ấy công khai tố giác những lệ thuộc đối với nền văn hóa, xã hội, chính trị và
kinh tế, mà sự ảnh hưởng một cách mãnh liệt của chúng trên cách lý luận manh
tính thị trường đang ngăn cản một đời sống gia đình đích thực, cũng như đang dẫn
đưa tới với những sự phân biệt đối xử, sự nghèo túng, việc bị đẩy ra bên lề
cuộc sống và bạo lực như thế nào. Vì thế, một cuộc đối thoại và một sự cộng tác
với những cấu trúc xã hội cần phải được phát triển, và nó có giá trị trong việc
khuyến khích các Giáo dân cũng như hỗ trợ họ tham gia với tư cách là các Ki-tô
hữu vào trong những lãnh vực thuộc văn hóa và chính trị xã hội.
Hướng dẫn cặp uyên ương trên con đường chuẩn bị cho cuộc sống hôn
nhân
39.Thực tại mang tính giai tầng xã hội và những thách đố mà
các gia đình ngày nay đang phải đối diện, thúc đẩy một sự tham gia lớn hơn nữa
cho toàn thể cộng đoàn Ki-tô hữu, hầu chuẩn bị cho những đôi uyên ương trước
đời sống hôn nhân. Điều đó có giá trị trong việc nhắc nhớ đến
tầm quan trọng của các phẩm hạnh. Trong số những phẩm
hạnh đó, sự trinh bạch tỏ ra như là điều kiện tiên quyết đầy giá trị đối với
một sự phát triển đích thực của tình yêu giữa những con người. Với cái
nhìn về sự cần thiết ấy, các Nghị Phụ đã tán thành về việc đưa ra lời kêu gọi
hãy liên kết với toàn thể cồng đồng một cách mạnh mẽ hơn nữa và hãy ưu tiên cho
việc làm chứng của chính các gia đình. Hơn nữa, sự chuẩn bị cho đời sống hôn
nhân nên được bén rễ trên con đường tiến tới việc gia nhập Ki-tô giáo, trong
đó, mối liên hệ giữa đời sống hôn nhân và Bí Tích Thánh Tẩy cũng như các Bí
Tích khác được nhấn mạnh. Đồng thời, sự cần thiết của những khóa học đặc biệt
nhằm chuẩn bị cho sự kết hôn đang chờ để được hoàn tất, cũng phải được nhấn
mạnh, mà những khóa học ấy tạo điều kiện để có được một kinh nghiệm thực sự về
việc tham dự vào với đời sống Giáo hội, cũng như đào sâu hơn các khía cạnh khác
biệt của đời sống gia đình.
Đồng hành với những năm đầu tiên của đời sống hôn nhân
40.Những năm đầu tiên của đời sống
hôn nhân là một giai đoạn quan trọng và khó khăn, mà trong thời gian này đôi vợ
chồng sẽ lớn lên trong sự ý thức về những thách đố và về ý nghĩa của đời sống
hôn nhân. Điều này sẽ dẫn tới sự đòi hỏi đối với một cuộc
đồng hành mục vụ, mà cuộc đồng hành này được tiếp tục thực hiện sau việc cử hành
Bí Tích (vgl. Familiaris Consortio, phần III). Sự
hiện diện của những cặp vợ chồng có kinh nghiệm trong công tác mục vụ này sẽ
chứng tỏ tầm quan trọng to lớn. Giáo xứ được hiểu như là nơi mà các cặp
vợ chồng có kinh nghiệm có thể để cho những đôi vợ chồng trẻ hơn tùy nghi tham
khảo ý kiến, có thể dưới sự giúp đỡ của những hiệp hội, của các phong trào trực
thuộc Giáo hội và của những cộng đồng mới. Các cặp vợ chồng phải được khích lệ
để có thái độ đúng đắn trong việc đón nhận con cái như là một hồng ân lớn. Đồng thời cũng có ý nghĩa trong việc nhấn mạnh đến
tầm quan trọng của linh đạo về gia đình, nhấn mạnh đến việc cầu nguyện và việc
tham dự hy tế Thánh Thể vào mỗi Chúa Nhật. Các đôi vợ chồng nên được khích lệ
để gặp gỡ nhau thường xuyên, hầu thúc đẩy sự phát triển đời sống tinh thần cũng
như tình liên đới trong những thách đố cụ thể của cuộc sống. Phụng Vụ, đời sống
cầu nguyện và Bí Tích Thánh Thể đối với các gia đình, đặc biệt là vào ngày Lễ
Hôn Phối, được đề cập đến như là một sự quan trọng nhằm thúc đẩy việc loan báo
Tin Mừng.
Công tác mục vụ cho những người chung sống
trong một cuộc hôn nhân dân sự hay không có hôn thú
41.Trong lúc Thượng Hội Đồng Giám Mục vẫn đang tiếp tục công
bố và khuyến khích đời sống hôn nhân Ki-tô giáo, Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng
khích lệ một sự biện phân mục vụ trước những tình huống khác nhau của nhiều
người không còn sống thực tại này nữa. Việc bước vào trong một cuộc đối thoại
mục vụ với những con người ấy hầu có thể nhấn mạnh đến các yếu tố trong cuộc
sống của họ, là điều thật quan trọng. Những yếu tố được nhắc
tới ở đây có thể dẫn tới một sự mở ra lớn hơn đối Tin Mừng về hôn nhân trong sự
viên mãn của nó. Các mục tử phải nhận ra được các yếu tố mà chúng có thể
thôi thúc việc loan báo Tin Mừng cũng như có thể thôi thúc sự phát triển cả về
nhân bản lẫn tâm linh. Một sự nhạy cảm mới của công tác mục vụ ngày nay hàm
chứa trong việc nhận thức được bất cứ yếu tố tích cực nào mà chúng có sẵn trong
những cuộc hôn nhân theo dân sự, và – với sự biện phân
thích đáng – trong cuộc sống chung không có hôn thú. Ngay cả khi chúng ta đề
cao sứ điệp Ki-tô giáo với tất cả sự rõ ràng, thì chúng ta, qua việc giới thiệu
về Giáo hội, cũng phải chỉ ra những yếu tố mang tính xây dựng trong bất cứ tình
huống nào mà chúng chưa tương ứng hay không còn tương ứng với Giáo hội nữa.
42.Được chỉ cho thấy rằng, tại nhiều quốc gia, „con số những
cặp đôi chung sống để ‚ad experimentum‘ (sống thử)
nhưng không có việc tổ chức cưới xin, cả về phương diện Giáo hội lẫn phương
diện dân sự, đang tăng lên“ (Instrumentum Laboris, 81). Nơi
một số quốc gia, sự kiện ấy đang diễn ra trước hết là trong những cuộc hôn nhân
truyền thống mà chúng được tán thành giữa các gia đình và thường được thực hiện
trong nhiều chặng khác nhau. Trái lại, tại những quốc gia khác, con số
những cặp hôn nhân, sau một cuộc chung sống lâu dài,
muốn xin tổ chức một cuộc lễ cưới về phương diện Giáo hội, lại đang phát triển.
Cuộc sống chung đơn giản thường được chọn lựa vì tâm
lý chung là muốn chống lại những thể chế cũng như những cam kết dứt khoát, nhưng
cũng vì một sự chờ mong trước một sự an toàn có tính sinh tồn (công việc và
khoản thu nhập chắc chắn). Sau cùng, những cuộc phối hợp thực tế tại nhiều quốc
gia khác lại nhiều vô kể, không phải chỉ vì những giá trị của gia đình và của
đời sống hôn nhân bị từ chối, nhưng trước hết, còn vì việc thành hôn được coi
như là một sự xa xỉ, đến độ sự nghèo túng vật chất đẩy người ta tới với những
cuộc hôn phối thực tế ấy.
43.Tất cả những tình huống đó đều
phải được giải quyết trong những phương thế mang tính xây dựng, bằng cách cố
gắng biến chúng thành những cơ hội cho một con đường dẫn tới sự viên mãn của
đời sống hôn nhân và gia đình, trong ánh sáng của Tin Mừng. Vấn đề ở đây là đón
nhận và đi theo chúng với sự kiên nhẫn và tinh tế. Trong vấn đề này, chứng tá có
tính hấp dẫn của các gia đình Ki-tô giáo thực sự, với tư cách là những chủ thể
trong công cuộc loan báo Tin Mừng về gia đình, là điều rất quan trọng.
Chữa lành những gia đình bị tổn thương (những người đang sống trong
sự chia ly, những người ly dị không tái kết hôn, những người ly dị tái kết hôn,
những cha mẹ đơn thân)
44.Khi những cặp vợ chồng trải qua
những khó khăn trong các mối tương quan của họ, họ phải có thể đặt lòng tin vào
sự giúp đỡ cũng như sự đồng hành của Giáo hội. Sự mục vụ của
tình bác ái tha nhân và của lòng nhân hậu được thực hiện nhằm tái cổ vũ các cá
nhân, cũng như tái khôi phục các mối quan hệ. Kinh nghiệm chỉ cho thấy
rằng, một tỷ lệ lớn các cuộc khủng hoảng hôn nhân đã được vượt qua nhờ vào một
sự giúp đỡ hợp lý cũng như nhờ vào sức mạnh hòa giải của ân
sủng trong một cách thế thỏa mãn. Việc có thể tha thứ và kinh
nghiệm về sự tha thứ chính là một kinh nghiệm có tính chất cơ bản trong cuộc
sống gia đình. Sự tha thứ lẫn cho nhau của các đôi vợ chồng cho phép họ
kinh qua một tình yêu mà nó hiện hữu luôn luôn và không bao giờ tan biến (xc. 1
Cor. 13, 8). Nhưng thỉnh thoảng cũng có chuyện một người đã
đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa lại cảm thấy rất khó trong việc cố gắng để
mình có được sức mạnh hầu có thể tha thứ một cách chân thành, mà sự tha thứ ấy
canh tân con người.
45.Từ Thượng Hội Đồng Giám Mục, sự
cần thiết của những quyết định can đảm về mục vụ đã trở nên rõ ràng. Các Nghị
Phụ đã khẳng định một cách mạnh mẽ về sự trung tín đối với Tin Mừng gia đình,
và đã nhận thức được rằng, sự chia tách và ly dị bao giờ cũng là một nỗi đớn
đau, nó gây ra một sự đau khổ thẳm sâu đối với những cặp vợ chồng và những đứa
con có liên quan. Do đó, các Nghị Phụ nhìn thấy tính cấp thiết của những con
đường mục vụ mới mà chúng xuất phát từ hiện thực thực tế, nơi tính mỏng giòn
của các gia đình, trong sự hiểu biết rằng, sự ly thân và sự ly dị thường „bị
gánh chịu“ bởi sự đớn đau hơn là được chọn lựa một
cách tự do. Đó là những tình huống khác nhau do những nhân tố vừa mang tính cá
nhân lại cũng vừa mang tính văn hóa và kinh tế xã hội. Nó đòi hỏi một cái nhìn
có tính biện phân như Đức Tân Hiển Thánh Gio-an
Phao-lô II Giáo Hoàng đã từng giới thiệu (xc. Familiaris Consortio, 84).
46.Bất cứ gia đình nào cũng phải
được lắng nghe, trước tiên là với sự kính trọng và với tình yêu, bằng cách
người ta biến mình thành những người bạn đường, như Chúa Ki-tô đã thực hiện như
thế với các môn đệ trên đường đến Emmaus. Đối với những tình huống ấy, những
lời sau đây của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô có một ý nghĩa đặc biệt: „Giáo hội cần
phải hướng dẫn các thành viên của mình – Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân – đi vào
trong ´nghệ thuật của sự đồng hành` ấy, để tất cả thường xuyên học hỏi, hầu tự
mình cúi xuống để chạm đến những đôi dép dưới những bàn chân, trước thánh địa
của người khác (xc. Xh. 3, 5). Chúng ta phải mang đến
cho lối sống của chúng ta nhịp điệu thuận lợi của sự quan tâm, với một cái nhìn
đầy kính trọng từ lòng trắc ẩn, nhưng đồng thời cái nhìn đó cũng mang đến sự
chữa lành, sự giải phóng, cũng như khích lệ sự trưởng thành trong đời sống
Ki-tô giáo“ (Evangelii Gaudium, 169).
47.Một khả năng phán đoán đặc biệt
là điều cần thiết để đồng hành mục vụ với những người đang ly thân, với những
người ly dị và với những người đang bị bỏ mặc. Trước hết, sự đau khổ của những
người mà họ đã phải chịu đựng trước sự ly thân hay ly dị một cách bất công,
hoặc đang bị bỏ mặc, hay đang gượng gạo vì sự ngược đãi của người bạn đời, để
từ bỏ cuộc sống chung, cần phải được ghi nhận và chú ý. Sự tha thứ cho sự bất
công đã phải chịu đựng là điều không đơn giản, nhưng đó là một con đường mà nó
được mở ra bởi ân sủng. Điều đó dẫn đến một sự cần thiết đối với một sự chăm
sóc mục vụ hòa giải và kiến tạo bình an, thông qua những
hoạt động đặc biệt để lắng nghe, mà những hoạt động đó được tổ chức nơi các
Giáo phận. Trong một cách thế tương tự, phải được thường xuyên nhấn mạnh rằng,
việc quan tâm đến những hậu quả của sự ly thân hay ly dị đối với con cái, mà
trong bất cứ trường hợp nào, chúng vẫn đều là những nạn nhân vô tội của tình
trạng này, bằng một cách thế chân thành và xây dựng, là điều thực sự cần thiết.
Con cái không được phép trở thành „chủ thể của các cuộc tranh cãi“, thay vào
đó, những con đường tốt nhất phải được tìm kiếm hầu thắng vượt những điều gây
chấn thương từ sự chia rẽ trong gia đình, và tạo điều kiện cho con cái có được
một sự phát triển một cách hồn nhiên trong mức độ tối đa có thể. Trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, Giáo hội cũng sẽ phải luôn luôn
nêu ra sự bất công mà nó rất thường nảy sinh từ tình trạng ly dị. Một sự
quan tâm đặc biệt cũng được coi là sự đồng hành với những người cha hoặc những
người mẹ đơn thân, mà trước hết, phải có sự hỗ trợ đối với những phụ nữ đang
một mình gánh vác cả trách nhiệm nội trợ lẫn việc giáo dục con cái.
48.Một số lớn các Nghị Phụ đã nhấn mạnh tới sự cần thiết
trong việc trình bày những cách thức mang tính dễ tiếp cận hơn, cũng như dễ
thích ứng hơn với việc công nhận sự vô hiệu của hôn nhân, và khước từ hoàn toàn
mọi cước phí có thể. Do đó, những đề nghị sau đây đã được đưa ra: hủy bỏ tính
cần thiết của hai bản án tương đồng; khả năng ấn định một cơ quan hành chính
dưới sự phụ trách của Giám mục Giáo phận; thủ tục tố tụng khẩn cấp trong những
vụ bất thành sự một cách rõ ràng. Tuy nhiên, một số Nghị Phụ đã tỏ quan điểm chống lại những đề nghị vừa nêu, vì
chúng sẽ không bảo đảm cho một bản án đáng tin cậy. Điều này
được nhấn mạnh rằng, trong tất cả những trường hợp ấy, vấn đề nằm ở chỗ phải
xác định được tính chân thật về sự hợp pháp của khế ước hôn nhân. Theo
những đề nghị khác, phương án giải quyết nên được tính đến việc tạo thêm trọng
lượng cho vai trò của Đức Tin mà các cặp hôn nhân đang có, với cái nhìn về tính
hiệu lực của Bí Tích, mà qua đó không hề gây ra sự nguy hiểm, bởi trong số
những người đã được lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, tất cả các cuộc hôn nhân thành
sự đều là một Bí Tích.
49.Với cái nhìn về một sự nghiêm
minh trong quá trình hôn nhân, được đòi hỏi từ nhiều người, bên cạnh việc đào
tạo đầy đủ cho các cộng tác viên – các Giáo sĩ cũng như những người Giáo dân -,
mà họ ưu tiên dấn thân cho sứ vụ này, trách nhiệm của Giám mục Giáo phận cần
phải được nhấn mạnh. Ngài có thể trao phó cho các tư vấn viên
đã được chuẩn bị một cách thích đáng, họ sẽ tư vấn cho các bên về tính hợp pháp
trong hôn nhân của họ một cách miễn phí. Những nhiệm vụ ấy có thể được
trao cho một cơ quan hay cho những người có chuyên môn (xc. Dignitas
Connubii, Art. 113, 1).
50.Những người ly dị nhưng không tái kết hôn, mà họ thường
thực hiện những chứng tá đối với sự chung thủy của hôn nhân, nên được khích lệ
để tìm thấy sự nuôi dưỡng trong Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích này sẽ nâng đỡ họ
trong hoàn cảnh của họ. Các cộng đoàn địa phương và các vị mục tử cần phải đồng
hành với những con người ấy một cách ân cần, đặc biệt
là khi họ có con cái hay khi họ đang phải chịu đựng một sự túng thiếu nặng nề.
51.Ngay cả tình trạng của những
người đã ly dị nhưng lại tái kết hôn cũng cần tới một sự nhận biết đầy ân cần
và một sự đồng hành với sự kính trọng to lớn. Trong vấn đề
này, bất cứ cách thức diễn đạt hay bất cứ thái độ nào khác cũng đều phải được
ngăn ngừa. Đối với đời sống của cộng đoàn Ki-tô giáo,
sự chăm sóc mục vụ này không có nghĩa là làm giảm sút Đức Tin của họ, hay làm
giảm sút những chứng tá của họ về tính bất khả phân ly của hôn nhân. Trái lại, nó diễn tả đức ái của họ đối với tha nhân ngay trong sự
chăm sóc mục vụ này.
52.Các Nghị Phụ đã suy tư về khả năng cho phép những người
đã ly dị nhưng tái kết hôn, được lãnh nhận Bí Tích Thống Hối và Bí Tích Thánh
Thể. Nhiều nghị Phụ đã kiên trì với quy luật hiện hành, và thực ra là, một mặt
vì mối tương quan có tính cơ bản giữa sự tham dự vào Bí Tích Thánh Thể cũng như
tham dự vào trong mối hiệp thông với Giáo hội, và mặt khác, vì giáo huấn của
Giáo hội về tính bất khả phân ly của hôn nhân. Các Nghị Phụ khác đã tỏ ý bênh
vực cho một sự tiếp nhận vào bàn tiệc Thánh Thể nhưng không quá tổng quát hóa –
và cụ thể là, trong một số tình huống đặc biệt, và dưới những điều kiện đã được
ấn định, trước hết, khi đó là những trường hợp không thể đảo ngược, với những
trách nhiệm luân lý đối với con cái, mà chúng đã phải chịu đựng một cách bất
công. Một con đường thống hối, dưới trách nhiệm của Giám mục Giáo phận, phải
xuất hiện trước khi có sự tiếp cận có thể đối với các Bí Tích. Nhưng vấn nạn
còn phải được đào sâu, trong khi đó, sự phân biệt giữa một hoàn cảnh mang tính
khách quan của tội lỗi và những tình tiết giảm nhẹ là điều cần phải cân
nhắc kỹ lưỡng, vì „sự đủ điều kiện của một hành động trách nhiệm đối với hành
động đó (…) có thể được giảm bớt nhờ vào (…) những yếu tố tâm lý hay xã hội, và
thậm chí còn có thể bị thủ tiêu“ (sách GLHTCG, số 1735).
53.Một số Nghị Phụ đã xác tín rằng,
những người ly dị tái kết , hay cùng sống chung với một người bạn đời, vẫn có
thể tham dự vào việc hiệp Lễ thiêng liêng trong một cách thế phong phú. Về điều
đó, một số Nghị Phụ lại đặt ra câu hỏi, tại sao họ không thể đón nhận Bí Tích
Thánh Thể theo nghĩa thực tế. Và như
thế, một sự đào sâu thêm của chủ đề này đã được đề ra nhằm nhấn mạnh đặc tính
riêng của cả hai hình thức và mối quan hệ của chúng với Thần Học về đời sống
hôn nhân.
54.Các vấn đề liên quan đến hôn
nhân hỗn hợp tôn giáo vẫn luôn được đề cập đến trong những đóng góp của các
Nghị Phụ. Sự khác biệt về luật hôn nhân của Giáo hội Chính thống giáo đang đưa
tới những vấn đề trong một số mối liên hệ, mà chúng phải được suy tư trong công
cuộc đại kết. Tương tự, sự hợp tác trong công cuộc đối thoại
liên tôn cũng sẽ có nhiều ý nghĩa đối với hôn nhân liên tôn.
Sự quan tâm mục vụ đối với những người có xu hướng đồng tính
55.Một số gia đình đã trải qua kinh
nghiệm rằng, một số người giữa họ đang sống với xu hướng đồng tính. Trong mối
liên hệ đến điều đó, người ta đã tự hỏi, sự quan tậm mục vụ nào sẽ phù hợp
trong những trường hợp ấy, trong khi người ta liên hệ tới điều mà Giáo hội dậy:
„Tuyệt nhiên không hề có cơ sở nền tảng đối với chuyện thiết lập nên những điều
tương tự giữa cuộc sống chung đồng giới và kế hoạch của Thiên Chúa về hôn nhân
và gia đình, cũng không hề có như vậy ngay cả trong một ý nghĩa rộng hơn“. Tuy nhiên, những người nam và những người nữ mang khuynh hướng đồng
giới, cần phải được đón nhận với sự kính trọng và với sự tinh tế. „Người
ta hãy canh chừng trước việc đối xử bất công với họ bằng bất cứ cách nào“ (Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Những cân nhắc đối với những dự
án của một áp dụng hợp lý trước sự chung sống giữa những người đồng tính, 4).
56.Hoàn toàn không thể chấp nhận
được rằng, áp lực sẽ bị tác động trên các vị mục tử của Giáo hội trong vấn nạn
này, và cũng không thể chấp nhận được rằng, các tổ chức quốc tế trợ giúp cho
các quốc gia nghèo sẽ bị phụ thuộc vào việc họ giới thiệu một cuộc „hôn nhân“
giữa những người cùng giới tính trong sự ban hành luật pháp của mình.
Truyền sinh và thách thức của việc giảm sinh
57.Thật dễ dàng để nhận ra rằng,
đang có sự lan rộng của một tâm lý muốn cắt giảm việc truyền sinh bằng một sự
thay đổi trong kế hoạch của một cá nhân hay của một cặp vợ chồng. Các điều kiện
kinh tế đôi khi tác động như một trọng lực mang tính quyết định và góp phần
mạnh mẽ trong việc làm sút giảm những ca sinh nở, và sự giảm sút sinh nở này sẽ
làm kiệt lực mạng lưới xã hội, gây hại cho mối tương quan giữa các thế hệ, và
làm mất đi sự tự tin trong cái nhìn về tương lai. Việc mở ra
đối với sự sống là một đòi hỏi thuộc về bản chất của tình yêu hôn nhân.
Trong ánh sáng ấy, Giáo hội ủng hộ những gia đình đón nhận những đứa con bị tàn
tật để làm con nuôi, giáo dục và bao bọc chúng bằng tình yêu của mình.
58.Ngay cả trên lĩnh vực này, người
ta cũng phải bắt đầu từ những gì mà con người nói và tạo điều kiện cho vẻ đẹp
cũng như chân lý của một sự mở ra vô điều kiện đối với sự sống theo quyền lợi
của nó, cũng như cái mà tình yêu nhân loại cần có để được sống trong sự viên
mãn của mình. Trên nền tảng đó, một giáo huấn hợp lý về những
phương pháp tự nhiên cũng có thể hỗ trợ cho một sự sinh sản có trách nhiệm.
Giáo huấn ấy sẽ tạo điều kiện để sống một cách hài hòa và ý
thức về sự hiệp thông giữa những cặp vợ chồng trong tất cả mọi chiều kích của
nó và với trách nhiệm mô phỏng. Thật hữu ích trong
việc tái khám phá ra sứ điệp của Thông Điệp Humanae Vitae (Sự Sống Con Người)
mà Đức Phao-lô VI đã ban hành, sứ điệp ấy nhấn mạnh rằng, phẩm giá con người
phải được kính trọng trong sự đánh giá mang tính luân lý của những biện pháp
hạn chế sinh sản. Việc đón nhận những em bé mồ côi hay bị ruồng rẫy để
làm con nuôi là một hình thức đặc biệt của công cuộc chăm sóc mục vụ gia đình (xc. Apostolicam Actuositatem, III, 11). Quyền
giáo huấn đã nhiều lần đưa ra sự chỉ dẫn cũng như khích lệ về điều đó (xc. Familiaris Consortio, III, II;Evangelium
Vitae, IV, 93). Việc quyết định nhận con nuôi hay trở thành
người giám hộ diễn tả kinh nghiệm về sự phong nhiêu của tình yêu hôn nhân trong
một cách thế đặc biệt; và điều đó sẽ không chỉ như thế nếu quyết định ấy bị dán
mác bởi sự vô sinh. Một quyết định như thế là một chỉ
dấu có sức diễn cảm của tình yêu gia đình. Nó cho phép
làm chứng cho Đức Tin riêng và trao lại phẩm giá của một em nhỏ cho những em đã
bị đánh mất phẩm giá ấy.
59.Điều đó cũng có giá trị để sống tình yêu ngay cả trong
khế ước hôn nhân như là con đường của sự chín muồi, trong sự đón nhận càng ngày
càng sâu xa với người khác cũng như trong sự trao hiến càng ngày càng trọn vẹn.
Trong mối tương quan ấy, vấn đề phải được khẳng định rằng, những phương pháp
giáo dục mà chúng củng cố đời sống hôn nhân, cần phải được giới thiệu; hơn nữa,
cũng cần phải khẳng định rằng, điều đó cần tới những người giáo dân biết giới
thiệu một sự đồng hành thông qua chứng tá sống động của họ. Gương sáng của một
tình yêu chung thủy và thẳm sâu là một sự trợ giúp to lớn; nó được khắc ghi bởi
sự dịu hiền và sự kính trọng, nó liên tục phát triển với thời gian, và trong sự
cởi mở cụ thể của nó với sự truyền sinh, tình yêu ấy mở ra kinh nghiệm về một
mầu nhiệm vượt quá chúng ta.
Thách đố trong việc giáo dục và vai trò của gia đình trong việc
loan báo Tin Mừng
60.Một trong những thách đố có tính
nền tảng đối với các gia đình ngày nay, tất nhiên hàm chứa trong sự giáo dục. Thậm chí thách đố này càng ngày càng khắt khe và phức tạp hơn bởi
thực tế văn hóa hiện tại cũng như tác động lớn của các phương tiện truyền
thông. Mặc dù thế, nó có giá trị hầu lưu ý một cách thích đáng tới những
đòi hỏi cũng như những trông chờ của các gia đình mà họ đang ở trong tình trạng
để hiện diện trong những nơi phát triển và tiếp tục trao đi một cách hoàn toàn
bất cứ nhân đức nào trong cuộc sống hằng ngày, mà các nhân đức ấy tạo nên kiểu
dáng cho sự hiện hữu. Điều đó có nghĩa là, cha mẹ phải có sự tự do trong việc
tìm kiếm những cách thức giáo dục dành cho con cái mình, mà cách thức ấy tương
ứng với những điều xác tín của họ.
61.Căn cứ trên việc kết nạp vào
Ki-tô giáo thông qua những cộng đoàn sẵn sàng đón nhận, Giáo hội đóng một va
trò quý giá trong việc hỗ trợ các gia đình. Vì thế, Giáo hội được đòi hỏi nhiều
hơn nữa trong việc hỗ trợ các gia đình trong sứ mạng giáo dục, kể cả trong
những tình huống bình thường lẫn trong những tình huống dị biệt, và đồng hành
với các em nhỏ cũng như với giới thanh thiếu niên, trong sự phát triển của
chúng. Điều này diễn ra thông qua những con đường mà chúng được làm cho thích
hợp với từng nhân vị, hầu hướng dẫn chúng đi vào một ý nghĩa toàn diện về cuộc
sống, cũng như giúp chúng đưa ra những quyết định và tiếp nhận tinh thần
trách nhiệm, mà tinh thần trách nhiệm ấy được sống trong ánh sáng của Tin Mừng.
Trong sự dịu hiền, cũng như trong lòng nhân hậu và tình thương từ mẫu của
Người, Đức Maria sẽ có thể làm thỏa mãn cơn đói khái về nhân tính và sự sống. Công cuộc mục vụ và sự tôn kính Đức Maria sẽ là những điểm khởi
phát tốt đẹp nhằm công bố Tin Mừng về gia đình.
KẾT LUẬN
62.Những suy tư được trình bày trên
đây chính là kết quả từ các buổi làm việc của Thượng Hội Đồng Giám mục, mà các
buổi làm việc ấy đã diễn ra trong sự tự do to lớn cũng như trong một thái độ
lắng nghe lẫn nhau. Các suy tư này muốn đặt ra những vấn nạn
cũng như muốn vạch ra những viễn tượng. Trong năm, tức thời gian kể từ
lúc kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường về gia đình tới khi có phiên
họp khoáng đại của Thượng Hội Đồng Giám Mục thường kỳ lần tới, những suy
tư này sẽ phải trở nên chín muồi cũng như phải được giải thích rõ ràng thông
qua những suy tư của các Giáo hội địa phương; và cứ sự thường, Thượng Hội Đồng
Giám Mục sẽ diễn ra vào tháng 10 năm 2015, và sẽ được dành để nghiên cứu về ơn
gọi và sứ vụ của gia đình trong Giáo hội và trong thế giới hôm nay. Nó sẽ không
phải là những quyết định đã được đưa ra cũng chẳng phải là những viễn tượng đơn
giản. Nhưng con đường tập thể tính của các Giám mục và sự bao hàm của toàn thể
dân Chúa dưới tác động của Chúa Thánh Thần và việc hướng nhìn lên mẫu gương gia
đình Thánh Gia sẽ có thể hướng dẫn chúng ta trong việc tìm thấy được con đường
của chân lý và lòng khoan hậu đối với tất cả. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã hướng
đến chúng tôi niềm mong muốn ấy ngay từ khi bắt đầu những công việc của chúng
tôi, và Ngài đã mời gọi chúng tôi hãy có sự can đảm của Đức Tin,
và hãy đón nhận chân lý trong Đức Ái một cách khiêm nhượng và chân thành.
Lm. Đa-minh Thiệu O.Cist – Chuyển ngữ