THÁNH BASILIÔ,

TIN VÀO CHÚA THÁNH THẦN

 

1. Đức tin dừng lại ở sự vật

Triết gia Edmund Husserl tóm tắt chương trình hiện tượng luận của ông bằng một câu châm ngôn: Zu den Sachen selbst! Đi đến với sự vật, sự vật như ta thấy trên thực tế, trước khi chúng được khái niệm hóa và công thức hóa. Một triết gia khác sau ông, J.P. Sartre, nói rằng "những chữ, và cùng với chúng là ý nghĩa những sự vật và cách sử dụng chúng" chỉ là "các dấu để dò nhỏ bé mà người ta đã vạch trên bề mặt của chúng" : phải vượt qua chúng để có được sự mạc khải bất ngờ về “sự tồn tại" của sự vật, khiến người ta phải nín thở.

Lâu trước đó thánh Tôma Aquinô đã đưa ra một nguyên tắc tương tự liên quan đến những sự vật hay đối tượng của đức tin: "Fides non terminatur ad enunciabile, sed ad rem” (đức tin không dừng lại ở lời tuyên bố, nhưng ở sự vật). Các Giáo Phụ là những kiểu mẫu bất hủ của đức tin này, không dừng lại ở công thức, nhưng đi đến thực tại. Sau thời hoàng kim của các Đại Giáo Phụ và Tiến Sĩ, hầu như ngay lập tức chúng ta chứng kiến điều mà một trong những chuyên viên về tư tưởng Giáo phụ đã định nghĩa là "sự thành công của chủ nghĩa hình thức". Các khái niệm và thuật ngữ, chẳng hạn như "bản thể", "ngôi vị", "hypostasis" được phân tích và nghiên cứu cho chính chúng, không đưa về thực tại mà các người đặt ra tín điều đã tìm cách dùng chúng để diễn tả.

Athanasiô có lẽ là trường hợp điển hình nhất của một đức tin quan tâm đến sự vật hơn là tuyên bố nó. Trong một thời gian sau Công đồng Nicêa, người ta có cảm tưởng ngài bỏ qua từ "homoousios" (đồng bản thể), khi mạnh mẽ bảo vệ nội dung của nó, tức thần tính đầy đủ của Chúa Con và sự ngang hàng của Chúa Con với Chúa Cha. Ngài cũng sẵn sàng chấp nhận những thuật ngữ mà ngài nghĩ là tương đương, với điều kiện là chúng không làm phương hại đến đức tin Nicêa. Chỉ khi ngài nhận ra rằng thuật ngữ này cuối cùng là thuật ngữ duy nhất không mở lối cho lạc giáo xâm nhập, ngài sẽ sử dụng chúng ngày càng nhiều hơn.

Sự kiện này đáng lưu ý, vì chúng ta biết rằng coi việc đồng thuận về các thuật ngữ quan trọng hơn nội dung đức tin, thì sẽ ra sao : đó là điều đã gây ra những thiệt hại cho sự hiệp thông Giáo hội. Cách đây vài năm, người ta đã có thể khôi phục lại sự hiệp thông với một số Giáo Hội Đông phương, gọi là Giáo Hội theo thuyết nhất tính hay Giáo Hội phái Nestoriô, sau khi nhận ra rằng sự chống đối của họ đối với đức tin Calcêđonia dựa trên sự khác biệt về ý nghĩa của những hạn từ ousiahypostasis, chứ không phải về bản chất của giáo thuyết. Thỏa thuận giữa Giáo Hội Công giáo và Liên hiệp thế giới các Giáo Hội Luthêrô về đề tài công chính hóa bởi đức tin, ký năm 1998, cho thấy rằng cuộc tranh cãi hàng thế kỷ về vấn đề này nằm ở thuật ngữ hơn là ở thực tại cụ thể. Các công thức, một khi được sáng chế, có khuynh hướng hóa thạch, trở thành biểu ngữ và dấu hiệu thành viên của một giáo phái hơn là biểu hiện của một đức tin sống động.

2. Thánh Basiliô và thần tính của Chúa Thánh Thần

Hôm nay chúng ta ngồi trên vai một vị khổng lồ khác, Thánh Basiliô Cả (329-379), để cùng với ngài xem xét lại một thực tại khác của đức tin, tức Chúa Thánh Thần. Chúng ta sẽ thấy rằng ngài cũng là một kiểu mẫu đức tin không dừng lại ở công thức nhưng đi tới thực tại.

Về thần tính của Chúa Thánh Thần, Basiliô không nói lời đầu tiên cũng không nói lời cuối cùng, nghĩa là, ngài không phải là người khai mào cuộc tranh luận cũng không phải là người kết thúc nó. Người đầu tiên nói về Chúa Thánh Thần trong khía cạnh hữu thể học là thánh Athanasiô. Trước Athanasiô, giáo thuyết về Chúa Thánh Thần vẫn còn trong bóng tối, và người ta cũng hiểu lý do tại sao : người ta không thể xác định vị trí của Chúa Thánh Thần trong thần tính trước khi thần tính của Chúa Con được định tín. Vì vậy, người ta chỉ biết lặp đi lặp lại trong kinh tin kính: "Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần", không thêm điều gì khác.

Trong những lá thư gửi Sêrapion, Athanasiô mở đầu cuộc tranh luận sẽ dẫn đến việc định tín thần tính Chúa Thánh Thần trong Công đồng Constantinopoli năm 381. Công đồng dạy rằng Chúa Thánh Thần hoàn toàn là Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Con, Người không thuộc về thế giới thụ tạo, nhưng thuộc thế giới sáng tạo, bằng chứng là sự tiếp xúc của Người thánh hóa chúng ta, thần hóa chúng ta, và Người không thể làm thế nếu Người không là Thiên Chúa.

Tôi đã bảo là Basiliô không nói lời cuối cùng. Ngài tránh áp dụng cho Chúa Thánh Thần tước hiệu "Thiên Chúa", "đồng bản thể". Ngài khẳng định rõ ràng đức tin của mình vào thần tính đầy đủ của Chúa Thánh Thần bằng cách sử dụng những kiểu nói tương đương, chẳng hạn được tôn thờ (isotimia) ngang với Chúa Cha và Chúa Con, đồng chất (homogénéité), chứ không dị chất (hétérogénéité), với Chúa Cha và Chúa Con. Công đồng Constantinopoli năm 381 đã dùng những thuật ngữ này xác định đặc tính thần linh của Chúa Thánh Thần. Tín khoản về Chúa Thánh Thần dựa trên những thuật ngữ ấy mà ngày nay chúng ta vẫn còn tuyên xưng trong Kinh Credo (Kinh Tin Kính) của chúng ta :

Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần, là Thiên Chúa và Đấng ban sự sống ; Người bởi Đức Chúa và Đức Chúa Con mà ra ; Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con ; Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy.

Thái độ khôn ngoan này của Basiliô, không muốn xa cách thêm với phe chống đối Macêđonia, khiến ngài bị Grêgoriô Nadian chỉ trích. Grêgoriô liệt bạn mình vào số những người có can đảm nghĩ rằng Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa, nhưng lại không đủ can đảm để tuyên bố điều ấy cách minh nhiên. Ngài đã viết không do dự: "Chúa Thánh Thần có phải là Thiên Chúa không? Chắc chắn rồi ! Người có đồng bản thể không? Có, nếu thật sự Người là Thiên Chúa".

Nếu Basiliô không nói lời đầu tiên và cũng không nói lời cuối cùng khi đề cập thần học về Chúa Thánh Thần, vậy tại sao lại chọn ngài làm thầy dạy tin vào Chúa Thánh Thần? Basiliô, giống như Athanasiô, quan tâm đến "sự vật" hơn là công thức hóa sự vật, thì cũng quan tâm đến thần tính đầy đủ của Thần Khí hơn là đến những thuật ngữ diễn tả đức tin đó. Ngài đưa chúng ta tới trọng tâm của ngôi vị và hành động của Chúa Thánh Thần.

Thánh thần học của Basiliô là một Thánh thần học cụ thể, được sống, không phải "kinh viện", nhưng "chức năng" theo nghĩa khá tích cực của thuật ngữ. Chính ở điểm đó mà nó vẫn còn mang tính thời sự và giúp ích nhiều cho chúng ta hôm nay. Qua nhiều thế kỷ, Thánh thần học, mang dấu vết vụ Filioque, cuối cùng đã tập trung nhiều hơn vào vấn đề xem liệu Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha mà thôi, như các người Đông phương nói, hay từ cả Chúa Con nữa, như người La Tinh tuyên xưng. Một vài điểm trong Thánh thần học cụ thể của các Giáo Phụ được chuyển qua các khảo luận về "bảy ơn Chúa Thánh Thần", nhưng chỉ giới hạn trong lãnh vực thánh hóa bản thân và trong đời sống chiêm niệm.

Công đồng Vatican II đã mở ra một trang mới trong lãnh vực này, chẳng hạn đưa những đặc sủng trong cuộc đời các thánh vào Giáo hội học, hay đời sống của Giáo Hội, nói về các đặc sủng đó trong Hiến chế Lumen Gentium. Nhưng đó chỉ là khởi đầu ; vẫn còn một chặng đường dài để làm sáng tỏ hành động của Chúa Thánh Thần trong toàn bộ kinh nghiệm của Dân Chúa. Vào năm 1981, nhân dịp kỷ niệm 1600 năm Công đồng chung Constantinopoli năm 381, Đức Gioan Phaolô II đã viết một tông thư, trong đó ngài nói: "Tất cả công việc đổi mới của Giáo Hội mà Công đồng Vaticanô, được Thiên Chúa quan phòng, đã đề ra và khởi sự... chỉ có thể được thực hiện trong Chúa Thánh Thần, tức là được ánh sáng và quyền năng của Người trợ giúp". Như chúng ta sẽ thấy, chính Basiliô dẫn dắt chúng ta vào đường lối này.

3. Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu độ và trong Giáo Hội

Điều thú vị là biết nguồn gốc của khảo luận về Chúa Thánh Thần. Thật kỳ lạ, nguồn gốc ấy là kinh Gloria Patri (Kinh Sáng Danh). Trong một phụng vụ, Basiliô đã xướng lên vinh tụng ca bằng cách dùng xen lẫn hai công thức: "Vinh danh Chúa Cha, nhờ Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần", và: "Vinh danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. So với công thức trước, công thức sau cho thấy rõ hơn sự ngang hàng của Ba Ngôi, Ba Ngôi phối hợp với nhau thay vì phụ thuộc vào nhau. Trong bầu khí nóng bỏng của các cuộc thảo luận về bản tính của Chúa Thánh Thần, điều này đã gây ra các vụ phản đối, và Basiliô bắt đầu viết tác phẩm của mình để biện minh cho hành động của mình ; một cách cụ thể, để bảo vệ thần tính đầy đủ của Chúa Thánh Thần, chống lại những người theo lạc giáo Macêđonia.

Tuy nhiên chúng ta hãy đi ngay đến chỗ, như tôi đã nói, giáo thuyết của Basiliô mang tính thời sự quan trọng, tức là khả năng làm sáng tỏ sự can thiệp của Thần Khí trong từng giai đoạn của lịch sử cứu độ và trong mọi lãnh vực của đời sống Giáo Hội, bắt đầu bằng hoạt động của Thần Khí trong công cuộc sáng tạo.

"Trong cuộc tạo dựng mọi loài, Chúa Cha là nguyên nhân đầu tiên của mọi loài được dựng nên trong thế gian, Chúa Con là nguyên nhân dụng cụ và Chúa Thánh Thần là nguyên nhân hoàn hảo. Theo ý muốn của Chúa Cha mà các thần trí thụ tạo hiện hữu ; nhờ quyền năng hành động của Chúa Con mà chúng trở thành "hữu thể" ; nhờ sự hiện diện của Thần Khí mà chúng đạt tới chỗ hoàn hảo... Nếu bạn cố gắng loại bỏ Thần Khí ra khỏi cuộc sáng tạo, tất cả hòa lẫn với nhau và cuộc sống của chúng không có luật lệ, không có trật tự, không có bất kỳ xác định nào".

Thánh Ambrosiô sẽ lấy lại ý tưởng này của Basiliô và rút ra một kết luận thú vị. Đây là những gì ngài nói khi nhắc đến hai câu đầu tiên của sách Sáng thế ("đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm"):

"Khi Thần Khí bắt đầu thổi vào tạo thành, tạo thành chưa có vẻ đẹp nào. Nhưng khi nhận được hoạt động của Thần Khí, tạo thành có được tất cả nét đẹp huy hoàng làm nó tỏa sáng như 'thế giới'”.

Nói cách khác, Chúa Thánh Thần là Đấng làm cho tạo thành từ chỗ hỗn mang thành cosmos, một cái gì đó  đẹp đẽ, trật tự, sạch sẽ : một "thế giới" (mundus), theo ý nghĩa đầu tiên của từ Hy lạp cosmos. Bây giờ chúng ta biết rằng hành động sáng tạo của Thiên Chúa không giới hạn ở thời điểm ban đầu, theo sự suy nghĩ của viễn tượng tự nhiên thần giáo hay cơ học về vũ trụ. Thiên Chúa không chỉ sáng tạo một lần, nhưng luôn luôn sáng tạo. Điều này có nghĩa là Chúa Thánh Thần liên tục đưa vũ trụ, Giáo Hội và mọi người từ hỗn mang đến cosmos, nghĩa là từ rối loạn đến trật tự, từ lộn xộn đến hài hòa, từ không hình dạng đến đẹp đẽ, từ cũ kỹ đến mới mẻ. Điều này không xẩy ra cách máy móc và thình lình, nhưng theo nghĩa Người hoạt động trong tạo thành và hướng sự tiến triển của nó tới một mục đích. Người là Đấng luôn "dựng nên và đổi mới mặt đất" (x. Tv 104,30).

Theo Basiliô giải thích trong cùng một bản văn, điều này không có nghĩa là Chúa Cha đã tạo ra một cái gì đó bất toàn và "hỗn mang" cần được chỉnh sửa ; nhưng đó chỉ đơn giản tùy thuộc vào dự định và ý muốn của Chúa Cha, là tạo dựng qua Con của Người và đưa mọi loài tới chỗ hoàn hảo qua trung gian của Thần Khí.

Từ sáng tạo, thánh tiến sĩ đi đến cứu chuộc, nơi Thần Khí cũng đang hoạt động:

"Liên quan đến kế hoạch cứu độ (oikonomia) con người, công trình của Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ vĩ đại của chúng ta, Đức Giêsu Kitô, được thiết lập theo ý muốn của Thiên Chúa, ai có thể phản đối là kế hoạch ấy được hoàn thành nhờ ân sủng của Thần Khí?"

Ở điểm này, Basiliô để hết tâm chiêm niệm sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời của Đức Giêsu. Đây là một trong những đoạn văn đẹp đẽ nhất của tác phẩm này và mở ra một lãnh vực nghiên cứu cho khoa Thánh thần học chỉ cách đây ít lâu. Chúa Thánh Thần đã hành động trong lời loan báo của các tiên tri và trong việc chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến ; chính nhờ quyền năng của Người mà Đức Giêsu nhập thể trong lòng Đức Maria ; Người là dầu được Thiên Chúa dùng để xức cho Đức Giêsu lúc Đức Giêsu chịu phép rửa. Mỗi công trình của Đức Giêsu đều được thực hiện có Chúa Thánh Thần hiện diện. Chúa Thánh Thần đã hiện diện khi Đức Giêsu bị ma quỷ cám dỗ, khi Ngài làm phép lạ, không bỏ Ngài khi Ngài sống lại từ trong kẻ chết, và trong ngày Phục Sinh, Ngài thổi hơi trên các môn đồ (x. Ga 20,22 tt). Đấng Bảo Trợ là "bạn đồng hành không thể tách rời" của Đức Giêsu trong suốt cuộc đời của Ngài.

Từ cuộc đời của Đức Giêsu, thánh Basiliô chuyển qua sự hiện diện của Thần Khí trong Giáo Hội:

"Và tổ chức của Giáo hội, phải chăng rõ ràng người ta không thể phủ nhận đó là công trình của Thần Khí? Theo Phaolô, chính Thần Khí đã ban cho Giáo hội "trước hết là các tông đồ, rồi đến các tiên tri, các thầy dạy... thứ tự này được xếp đặt theo sự đa dạng của các ân huệ của Thánh Thần".

Trong kinh Anaphora mang tên thánh Basiliô, mà Kinh Nguyện Thánh Thể IV hiện nay của chúng ta đã theo sát, Chúa Thánh Thần chiếm vị trí trung tâm.

Hình ảnh cuối cùng liên quan đến sự hiện diện của Đấng Bảo Trợ trong cánh chung học. Basiliô viết: "Cũng vào lúc Chúa trên trời tỏ hiện như được mong đợi, Chúa Thánh Thần sẽ không vắng mặt". Đối với các người được tuyển chọn, đây là lúc từ chỗ "hoa quả đầu tiên" đến chỗ chiếm hữu trọn vẹn Thần Khí", còn đối với những người bị loại bỏ, đây là lúc tách lìa vĩnh viễn, cắt đứt rõ ràng, giữa linh hồn và Thần Khí.

4. Linh hồn và Thần Khí

Nhưng thánh Basiliô không dừng lại ở hành động của Thần Khí trong lịch sử cứu độ và trong Giáo Hội. Là một người khổ hạnh và tâm linh, ngài rất quan tâm đến hành động của Thần Khí trong đời sống cá nhân của mỗi người được rửa tội. Ngài chưa đặt ra sự phân biệt và thứ tự của ba con đường mà sau này sẽ trở thành những con đường cổ điển, nhưng đặc biệt nhấn mạnh đến hành động của Thần Khí trong việc thanh tẩy tâm hồn bị tội lỗi làm cho ô uế, trong sự chiếu sáng của Người và trong việc thần hóa còn được ngài gọi là "thân mật với Thiên Chúa".

Làm sao có thể không đọc trang này, trong đó thánh nhân liên tục tham khảo Kinh Thánh để mô tả hành động này và làm chúng ta cảm kích bằng sự nhiệt tình của mình:

"Mối liên hệ mật thiết với Chúa Thánh Thần không ở chỗ gần gũi trong không gian. Làm sao có thể tiếp cận bằng thân xác với Đấng không có thân xác? Nhưng bao gồm việc loại bỏ những đam mê làm tổn thương linh hồn, không cho linh hồn làm bạn với Thiên Chúa. Thanh tẩy bản thân cho hết những vẻ xấu xa vì nết xấu, trở lại với vẻ đẹp tự nhiên do Thiên Chúa tạo ra, và như thể trở lại với hình ảnh đế vương, nhờ sự trong sạch khôi phục lại hình hài ban sơ, chính đó là cách duy nhất đến gần Chúa Thánh Thần. Người sẽ cho bạn thấy hình ảnh của Chúa Cha vô hình nơi chính Người. Và khi được diễm phúc chiêm ngưỡng hình ảnh này, bạn sẽ thấy vẻ đẹp khôn tả của Đấng là Tiên Mẫu và nguồn mạch. Nhờ Thần Khí, những tâm hồn được nâng lên, nhũng người yếu đuối được bàn tay nắm lấy, những người đang tiến bộ trở nên hoàn hảo. Chính Thần Khí sáng ngời nơi những người đã được thanh tẩy, biến họ thành thần thiêng nhờ hiệp thông với Người. Cũng như những thân thể sáng ngời và trong suốt, khi một tia sáng chiếu vào chúng, chính chúng trở nên lấp lánh và phản chiếu một tia sáng khác, cũng vậy những linh hồn mang Thần Khí, được Thần Khí chiếu sáng, cũng trở nên thần thiêng, và dội lại ân sủng trên những người khác. Từ đó người ta nhìn thấy trước tương lai, hiểu biết những mầu nhiệm, thấu hiểu những điều ẩn giấu, phân phát các ân sủng, tư cách công dân của thiên quốc, nhảy múa với các thiên thần, niềm vui bất tận, thường trực trong Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa, và đỉnh điểm những gì chúng ta có thể mong muốn là trở nên Thiên Chúa".

Việc khám phá ra đàng sau bản văn này của Basiliô những hình ảnh và khái niệm phát xuất từ tác phẩm Ennéades của Plotinô và nhân tiện nói về một sự xâm nhập ngoại lai vào cơ thể Kitô giáo, những việc đó không gây khó khăn cho các nhà nghiên cứu. Trên thực tế, đây là một chủ đề điển hình về Kinh Thánh và thánh Phaolô, được diễn đạt bằng những thuật ngữ quen thuộc và có ý nghĩa, liên quan đến văn hoá thời đó. Ở nền tảng mọi sự, Basiliô không đặt hành động của con người – tức chiêm ngắm - nhưng hành động của Thiên Chúa và việc bắt chước Đức Kitô. Chúng ta đi ngược với viễn tượng của Plotinô và bất kỳ triết gia nào. Đối với ngài, mọi sự bắt đầu bằng phép Rửa Tội, là một đản sinh mới. Hành vi quyết định không phải ở lúc cuối, nhưng ở lúc đầu cuộc hành trình:

"Cũng giống như trong cuộc đua có lượt đi lượt về ở sân vận động, một lúc dừng chân và nghỉ ngơi tách cuộc chạy theo hướng ngược chiều, cũng vậy, trong sự thay đổi đời sống, cần có một cái chết giữa hai cuộc sống, để chấm dứt những điều đi trước và thực hiện những điều đến sau. Làm thế nào để xuống tận địa ngục? Hãy bắt chước sự mai táng của Đức Kitô bằng phép Rửa Tội".

Các lược đồ cơ bản cũng giống như của Phaolô. Trong chương 6 thư Rôma, thánh Tông Đồ nói đến việc triệt để thanh tẩy tội lỗi qua phép Rửa Tội, và trong chương 8, ngài mô tả cuộc đấu tranh mà Kitô hữu, được Thần Khí nâng đỡ, phải duy trì đến chết, chống lại những ham muốn của xác thịt, để tiến tới trong cuộc sống mới:

"Những người sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt ; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí. Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an. Thật vậy hướng đi của tính xác thịt là sự phản nghịch cùng Thiên Chúa, vì tính xác thịt không phục tùng luật của Thiên Chúa, mà cũng không thể phục tùng được. Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa [...]. Vậy thưa anh em, chúng ta mang nợ, không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để phải sống theo tính xác thịt. Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết. Nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống" (Rm 8,5-13).

Không có gì ngạc nhiên khi Basiliô muốn minh họa cho nhiệm vụ được Thánh Phaolô mô tả, nên đã sử dụng một hình ảnh của Plotinô. Hình ảnh này là nguồn gốc của một trong những ẩn dụ phổ quát nhất của đời sống thiêng liêng và cũng nói cho chúng ta hôm nay như đã nói cho các Kitô hữu ngày xưa:

"Hãy trở về với chính bạn và tra xét bản thân bạn. Nếu chưa thấy nó đẹp, hãy làm như nghệ sĩ tạc tượng : đục chỗ này, bỏ chỗ kia, rồi đánh bóng, tẩy sạch, cho đến khi ông tô điểm cho bức tượng của mình hoàn toàn đẹp đẽ. Cũng vậy, hãy cắt bỏ khỏi linh hồn bạn tất cả những gì không cần thiết, sửa chữa những chỗ không được chỉnh, tẩy rửa và thắp sáng những gì tối tăm, và luôn hoàn thiện bức tượng của bạn cho đến khi nhân đức tỏa chiếu trong mắt bạn bằng ánh sáng thần linh của nó».

Như Leonardo da Vinci nói, nếu điêu khắc là “nghệ thuật bỏ đi", thì triết gia có lý khi so sánh sự thanh tẩy và thánh thiện với điêu khắc. Nhưng đối với người Kitô hữu, vấn đề không phải là đạt tới một vẻ đẹp trừu tượng, tạo ra một bức tượng đẹp, nhưng là đưa ra ánh sáng và làm cho hình ảnh của Thiên Chúa được sáng láng hơn, một hình ảnh bị tội lỗi luôn có xu hướng che phủ.

Người ta kể có một hôm Michelangelo đang đi bộ trong sân ở Firenze thì nhìn thấy một khối đá cẩm thạch còn thô ráp, đầy bụi bậm và bùn đất. Ông đột nhiên dừng lại và nhìn nó, rồi, như được một tia sáng soi chiếu, ông nói với những người xung quanh: "Khối đá này có giấu một thiên thần, tôi muốn đưa thiên thần đó ra!". Và ông bắt đầu công việc, dùng dao khoét để hình thành thiên thần mà ông đã thoáng thấy. Cũng chính là vấn đề của chúng ta. Chúng ta vẫn còn là những khối đá thô ráp, với bao nhiêu "đất cát" và rất nhiều mảnh vụn vô ích phủ đầy trên chúng ta. Thiên Chúa là Cha nhìn chúng ta và nói: "Hình ảnh Con Ta ẩn giấu trong khối đá này ; Ta muốn đưa hình ảnh đó ra, để nó tỏa sáng mãi mãi bên cạnh Ta trên Thiên Đàng!” Và để làm điều này, Người sử dụng chiếc dao khoét của thập giá, Người “cắt tỉa” chúng ta (x. Ga 15,2).

Những người quảng đại nhất không chỉ chịu những cú đục khoét, cắt gọt từ bên ngoài, nhưng còn cộng tác vào đó, càng nhiều càng tốt, bằng những hy sinh hãm mình lớn nhỏ, và đập tan ý muốn cũ kỹ của mình. Một Giáo Phụ sa mạc nói:

"Nếu chúng ta muốn được giải thoát hoàn toàn, hãy học cách đập tan ý muốn của chúng ta, và dần dần, cùng với ơn Chúa trợ giúp, chúng ta sẽ tấn tới và đi đến chỗ hoàn toàn thoát khỏi những đam mê. Có thể đập tan mười lần ý muốn của bạn trong một thời gian rất ngắn và tôi cho bạn biết cách làm thế nào. Một người đang đi dạo và nhìn thấy một cái gì đó : ý nghĩ của anh ta nói với anh ta: "Nhìn kìa!". Nhưng anh ta trả lời ý nghĩ của mình: "Không, tôi không nhìn!" Và anh ta đập tan ý muốn của anh ta".

Vị Giáo Phụ này của thời xa xưa đưa ra những ví dụ khác từ đời sống đan viện. Người ta nói xấu về ai đó, có lẽ về bề trên của chúng ta; con người cũ nơi bạn nói với bạn: "Hãy tham gia đi, nói những gì bạn biết. Nhưng bạn trả lời: ‘Không!’". Và bạn hy sinh con người cũ... Không khó để nối dài danh sách bằng những hành vi từ bỏ khác, tùy theo điều kiện sống của chúng ta và chức vụ chúng ta đang nắm giữ.

5. Một sự hãm mình "thiêng liêng"

Có một điểm trong đó sự biến đổi lý tưởng của Plotinô thành lý tưởng Kitô giáo vẫn còn chưa đầy đủ, hoặc ít ra không rõ ràng mấy. Chúng ta đã nghe thánh Phaolô nói: "Nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống". Vậy Thần Khí không chỉ là kết quả của sự hãm mình, mà còn giúp cho người ta có thể hãm mình ; không chỉ ở cuối đường, mà còn ở đầu đường. Các Tông Đồ đã không nhận được Thần Khí vào ngày lễ Ngũ Tuần vì trước đó họ đã hăng say ; họ trở nên hăng say vì đã nhận được Thần Khí.

Tự cơ bản, ba Giáo Phụ vùng Cappađocia là những nhà khổ hạnh và đan sĩ ; đặc biệt Basiliô, với Quy luật đan viện của mình (Asceticon!), là một trong những người sáng lập ra chế độ khổ hạnh Kitô giáo. Điều đó sẽ giúp ngài nhấn mạnh vào tầm quan trọng của nỗ lực nơi con người. Người em ruột và cũng là môn đệ của ngài, Grêgoriô Nyssê, sẽ đi theo cùng một hướng, khi viết: "Những nỗ lực của bạn để bảo vệ lòng mộ đạo càng phát triển, thì sự vĩ đại của linh hồn bạn cũng sẽ phát triển, nhờ năng lực mà bạn đặt vào đó”.

Trong thế hệ tiếp theo, viễn tượng này về khổ hạnh sẽ được tiếp tục và phát triển nơi các tác giả tu đức, như Gioan Cassianô, nhưng tách ra khỏi nền tảng thần học vững chắc của Basiliô và Grêgoriô Nyssê. Louis Bouyer nhận xét rằng chính từ điểm này mà chủ thuyết Pêlagiô bắt đầu phát triển, là chủ thuyết đặt nỗ lực của con người trước ân sủng". Nhưng chắc chắn chúng ta không đổ lỗi cho Basiliô và các nhà thần học vùng Cappađocia kết quả tiêu cực này.

Để kết luận, chúng ta hãy trở lại với lý do khiến giáo thuyết của thánh Basiliô về Chúa Thánh Thần vẫn còn có giá trị luôn mãi, và ngày nay, tôi dám nói là mang tính thời sự và cần thiết hơn bao giờ hết : thực tại cụ thể của nó và sự gắn bó của nó với đời sống Giáo Hội. Những người La Tinh chúng ta có một phương tiện ưu đãi để coi Thánh thần học ấy là của chúng ta, và biến giáo thuyết ấy thành lời cầu nguyện, đó là bài thánh ca Veni Creator.

Từ đầu đến cuối bài ca này là một lời cầu nguyện chiêm niệm về những gì Thần Khí làm cách cụ thể : như Thần Khi sáng tạo trên toàn trái đất và nhân loại ; trong Giáo Hội, như Thần Khí thánh hóa (ơn Thiên Chúa, nước hằng sống, lửa, tình yêu và sự xức dầu thiêng liêng) và như Thần Khí đặc sủng (đa dạng trong các ân huệ, ngón tay ở bàn tay phải của Thiên Chúa, Đấng đặt lời nói trên môi) ; trong cuộc sống của mỗi tín hữu, như ánh sáng cho thần trí, tình yêu đối với trái tim, chữa lành cho cơ thể ; như đồng minh của chúng ta trong cuộc chiến chống lại sự dữ và như một hướng dẫn viên trong việc biện phân sự lành.

Chúng ta hãy cầu khẩn Thánh Thần bằng những câu của đoạn đầu tiên. Hãy nài xin Người cũng đưa thế giới và linh hồn chúng ta từ chỗ hỗn mang đến cosmos, từ phân tán đến hiệp nhất, từ sự xấu xí của tội lỗi đến vẻ đẹp của ân sủng.

Veni, Creator Spiritus,

mentes tuorum visita

imple superna gratia

quae tu creasti pectora

Lạy Thần Khi Sáng Tạo, xin ngự đến,

xin viếng thăm tâm trí các tín hữu của Ngài,

xin đổ đầy bằng ân sủng từ trên

những trái tim mà Ngài đã tác tạo.

 

(lấy ý trong Raniero Cantalamessa, Bài giảng thứ ba Mùa Chay 2012, tại Phủ Giáo hoàng)

Lm Micae Trần Đình Quảng

 


Mục Lục Tĩnh Tâm Giáo Triều