KINH NGHIỆM VỀ

ƠN CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC KITÔ

 

1. Đấng Cứu Độ nào cho con người ?

Khi hiện ra với các mục đồng trong ngày Chúa Giáng sinh, thiên thần nói với họ: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân : Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,10-12). Luca muốn vẽ ra một cảnh tượng nghịch lý. Vào lúc này, hoàng đế Rôma có binh hùng tướng mạnh, tự cho mình là người cứu thế giới. Trong khi đó, cũng tước hiệu này lại được gán cho một con trẻ yếu đuối nhất, nghèo hèn nhất, vừa sinh ra, được quấn tã và đặt nằm trong máng cỏ.

Tước hiệu Đấng Cứu Độ không được gán cho Đức Giêsu trong cuộc đời rao giảng của Ngài. Thực sự, điều này không cần thiết, vì đối với người Do thái, nôi dung của nó được diễn tả bằng tước hiệu Mêsia. Nhưng kể từ khi đức tin Kitô giáo tiếp xúc với thế giới ngoại giáo, tước hiệu này có tầm quan trọng quyết định, một phần vì để chống lại thói quen gọi như thế đối với các hoàng đế, hoặc một số thần linh tự coi mình là Đấng Cứu Thế.

Người ta gặp lại điều này trong Tân ước, lúc các Tông đồ còn sống. Matthêu ghi nhận rằng danh xưng “Giêsu” có nghĩa là “Thiên Chúa cứu” (Mt 1,21). Phaolô gọi Đức Giêsu là “Đấng Cứu Độ” (Pl 3,20), Phêrô sau này sẽ xác định rõ Ngài là “Đấng Cứu Độ duy nhất”, “vì dưới gầm trời này không có một danh nào khác đã được loan báo cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12). Còn Gioan thì đặt trên môi miệng người xứ Samari lời tuyên xưng long trọng: “Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4,12).

Nội dung của ơn cứu độ này trước hết là ở việc tha thứ tội lỗi. Nhưng không chỉ có vậy. Với Phaolô, nội dung này cũng bao gồm việc cứu chuộc thân xác ta trong ngày sau hết (Pl 3,21). Ơn cứu độ do Đức Kitô thực hiện có một khía cạnh tiêu cực : giải thoát khỏi tội và quyền lực của ác thần ; và một khía cạnh tích cực : ban sự sống mới, sự tự do của các con cái Thiên Chúa, ban Chúa Thánh Thần, và niềm hy vọng về đời sống vĩnh cửu.

Tuy nhiên, ơn cứu độ không chỉ dành cho các thế hệ Kitô hữu đầu tiên, như một chân lý đức tin được mạc khải. Nó còn, và đặc biệt còn, là một thực tại được kinh nghiệm trong đời sống, và được công bố trong phụng vụ. Nhờ lời Chúa và đời sống bí tích, các tín hữu sống mầu nhiệm cứu độ được thực hiện trong Đức Kitô, một ơn cứu độ được trình bầy dần dần như một sự giải thoát, một sự chiếu sáng, một sự chuộc lại, một sự thần hóa, v.v. Đó là một dữ kiện tiên khởi mà các tác giả hầu như không bao giờ thấy cần phải chứng minh.

Trong hai chiều kích này – chân lý mạc khải và kinh nghiệm sống – ý tưởng về ơn cứu độ có một vai trò quyết định giúp cho Giáo hội theo đuổi chân lý toàn vẹn về Đức Kitô. Cứu thế học là lưỡi cầy vạch luống cho Kitô học. Nó giống như chong chóng đưa máy bay lên cao hay đẩy con tầu tiến tới. Những định tín thần học quan trọng của các Công đồng có được là dựa vào kinh nghiệm của các Kitô hữu về ơn cứu độ của Đức Kitô. Theo họ, sự tiếp xúc ấy thần hóa con người, nên Đức Kitô phải là Thiên Chúa. Thánh Athanasiô viết: “Chúng ta hẳn sẽ không được giải thoát khỏi tội và lời chúc dữ, nếu bản tính mà Ngôi Lời đảm nhận không phải là xác thịt nhân loại, và con người sẽ không được thần hóa, nếu Ngôi Lời làm người đã không đồng bản tính với Chúa Cha”.

Mối liên hệ giữa Kitô học và cứu thế học, xuyên qua nhân học, có từ thời các Giáo phụ, đến độ nếu có một cách hiểu biết khác của con người, thì cũng có một cách trình bầy khác về việc cứu độ của Đức Kitô. Có ba câu hỏi lớn được đặt ra : Con người là gì, và sự dữ của nó ở tại đâu ? Kiểu mẫu cứu độ nào cần thiết cho con người ấy? Đấng Cứu Độ phải như thế nào để có thể thực hiện được việc cứu độ ấy ? Những câu trả lời khác nhau cho thấy những cách hiểu khác nhau về con người Đức Kitô và việc cứu độ của Ngài.

Chẳng hạn theo trường phái Alexanđria, chịu ảnh hưởng của Platô, sự dữ của con người chính là xác thịt, là phần cần được cứu độ nhất. Người ta nhấn mạnh việc nhập thể, lúc mà Ngôi Lời Thiên Chúa, khi làm người, giải thoát xác thịt cho khỏi hư nát và thần hóa nó. Theo chủ trương này, Apollinariô Laođikê còn đi tới chỗ khẳng định rằng Ngôi Lời không đảm nhận một linh hồn nhân loại. Linh hồn không cần được cứu, vì nó đã là một tia sáng của Logos vĩnh cửu. Nơi Đức Kitô, linh hồn thuần lý được thay thế bằng Logos. Nếu có một tia của Logos ở một nơi mà Logos đã hoàn toàn hiện diện, thì quả là chuyện vô ích.

Còn theo trường phái Antiokia, chịu ảnh hưởng của Aristot, thì ngược lại, sự dữ của con người ở trong linh hồn người đó, đặc biệt trong ý muốn nổi loạn của nó. Vì vậy, người ta nhấn mạnh nhân tính đầy đủ của Đức Kitô và Mầu nhiệm Vượt qua. Chính trong nhân tính này mà Đức Kitô, nhờ vâng phục Chúa Cha cho đến chết, đã cứu nhân loại.

Công đồng Calcêđonia tổng hợp hai trường phái trên, để đi đến một ý tưởng đầy đủ về Đức Kitô và về công trình cứu độ của Ngài.

Tuy nhiên, đức tin Kitô giáo không chỉ đáp lại sự chờ mong ơn cứu độ của môi trường trong đó Giáo Hội hoạt động, Giáo Hội còn tạo ra môi trường, và đáp ứng mọi chờ mong của nó. Như thế chúng ta thấy Giáo Hội chống lại học thuyết của Platô và của phái ngộ đạo về ơn cứu độ “khởi đi từ xác thịt”, bằng tín điều về ơn cứu độ “xác thịt”, khi Giáo Hội rao giảng sự sống lại của những người đã chết. Giáo Hội cũng chống lại chủ trương cho rằng cuộc sống sau khi chết thì vô cùng yếu ớt so với cuộc sống hiện tại, chỉ biết hoài niệm về cuộc sống đời này, thay vào đó, đức tin cho hay có một đời sống vô cùng viên mãn và trường tồn, theo ý định của Thiên Chúa.

2. Người ta còn cần một Đấng Cứu Độ nữa chăng ?

Liên hệ tới niềm tin vào Đức Kitô, chúng ta ngày hôm nay, dưới nhiều khía cạnh, gần gũi với tình trạng của Kitô giáo lúc khởi đầu. Chúng ta có thể học với thời kỳ này cách tái Phúc âm hóa một thế giới mà phần lớn đã trở thành ngoại giáo. Có ba câu hỏi cần được đặt ra : Ngày hôm nay người ta nghĩ gì về con người và sự dữ của nó ? Kiểu mẫu cứu độ nào cần thiết cho con người như thế ? Loan báo Đức Kitô theo cách nào để đáp lại sự chờ mong của con người về ơn cứu độ ?

Để đơn giản hóa tối đa, ngoài đức tin Kitô giáo, chúng  ta có thể rút ra hai quan điểm lớn về sự cứu độ từ tôn giáo và từ khoa học.

Theo các “tôn giáo” mới có nguồn gốc nơi phong trào “New Age” (Thời đại mới), ơn cứu độ không đến từ bên ngoài, nhưng tiềm ẩn bên trong con người. Nó hệ tại ở chỗ hài hòa hoặc rung cùng một nhịp với năng lực và sự sống của tất cả vũ trụ. Bởi vậy, không cần một Đấng cứu thế nào cả, bất quá là cần những bậc thầy dạy ta biết cách tự thực hiện. Chúng ta không đề cập quan điểm này, vì nó đã bị thánh Phaolô vĩnh viễn phản bác khi ngài quả quyết: “Mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính, do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 3,23-25).

Bù lại, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sự thách đố cho niềm tin nói chung, và cho đức tin Kitô giáo nói riêng, do khoa học không có niềm tin tạo ra. Hình thức vô thần thịnh hành nhất bây giờ là vô thần “khoa học” của nhà sinh vật học người Pháp, Jacques Monod, với tác phẩm được rất nhiều người biết đến “Le Hasard et la Nécessité” (Tình cờ và Bắt buộc). Tác giả kết luận: “Liên minh cũ đã bị cắt đứt. Cuối cùng thì con người biết rằng nó chỉ có một mình trong sự bao la thờ ơ của vũ trụ, mà từ đó nó tình cờ trồi lên. Bổn phận của nó, cũng như vận mệnh của nó, không được viết ra ở bất cứ chỗ nào. Con số của chúng ta thoát thai từ vòng quay số.

Trong viễn tượng này, vấn đề cứu độ thậm chí còn không được đặt ra. Nó chỉ là cặn bã của não trạng “vật linh”, như tác giả nói. Não trạng này cho là mình thấy những mục tiêu và cứu cánh trong vũ trụ tiến đi trong đêm đen, một vũ trụ chỉ chuyển động do tình cờ và bắt buộc. Sự cứu độ duy nhất là sự cứu độ do khoa học đem lại, ở chỗ biết các sự việc xẩy ra thế nào, chứ không phải là những ảo tưởng để tự an ủi mình. Theo tác giả, các xã hội hiện đại được xây dựng trên khoa học. Nhờ khoa học mà chúng được giầu có, quyền lực. Khoa học cũng bảo đảm rằng chúng sẽ còn giầu có và quyền lực hơn nhiều, nếu chúng muốn. Được khoa học ban cho mọi quyền hành và của cải, những xã hội này vẫn còn cố sống và dạy những hệ thống giá trị đã bị chính khoa học bào mòn ở tận nền móng.

Chúng ta không muốn tranh luận về những lý thuyết này, vì điều chúng ta muốn, là có một ý tưởng về bối cảnh văn hóa, trong đó chúng ta được mời gọi loan báo ơn cứu độ của Đức Kitô. Dầu vậy thì cũng phải đưa ra một vài nhận xét. Cứ cho rằng chúng ta giống như những con số xuất hiện trong vòng quay số, và sự sống là do các yếu tố bất động phối hợp với nhau, nhưng để có thể lấy ra những con số từ vòng quay số, phải có ai đặt chúng vào đó chứ! Cho dù mọi sự xẩy ra đều do tình cờ, thì cũng phải có người cung cấp những yếu tố để tình cờ có thể làm việc. Đây là một nhận xét đã có từ xa xưa, cho đến nay vẫn chưa có một ai trả lời, trừ những người cho rằng không nên đặt ra câu hỏi này.

Có một điều chắc chắn không thể chối cãi : người ta không cắt nghĩa sự hiện hữu của vũ trụ và của con người chỉ mình nó mà thôi. Không thể tự phụ cắt nghĩa mọi sự mà không cần giả thiết về Thiên Chúa. Bất quá sự tình cờ giải thích vũ trụ là như thế nào, chứ không giải thích sự kiện nó hiện hữu. Khoa học không có niềm tin không loại trừ mầu nhiệm, mà chỉ làm thay đổi tên gọi : thay vì gọi nó là Thiên Chúa thì gọi nó là sự tình cờ.

Nói cho cùng, chính các nhà khoa học ngày nay đều thừa nhận rằng chỉ một mình khoa học thì không thể trả lời cho mọi vấn nạn và nhu cầu của con người. Phải tìm cách đối thoại với triết học, với tôn giáo, với các “hệ thống giá trị” mà Monod coi là triệt để đối kháng với khoa học. Vả lại, như chúng ta chứng kiến tận mắt : những thành tựu của khoa học và kỹ thuật không nhất thiết giúp cho con người sống chung với nhau trên địa cầu này được tự do hơn, bình an hơn.

Cuốn sách của Monod cho thấy : những kết luận triết học mà một nhà khoa học muốn rút ra từ những phân tích khoa học của mình, không khá hơn những kết luận khoa học mà một nhà triết học tự phụ rút ra từ những phân tích triết học của mình.

3. Đức Kitô cứu chúng ta khỏi không gian

Làm thế nào có thể loan báo ơn cứu độ của Đức Kitô cho có ý nghĩa trong bối cảnh văn hóa mới hôm nay ?  Dựa vào không gian và thời gian, hai yếu tố phối hợp với nhau làm nền cho cuộc sống con người, hai yêu tố tăng trưởng và gia tốc đột ngột đến nỗi ngay cả người tín hữu cũng cảm thấy chóng mặt.

Bẩy tầng trời theo quan niệm của người xưa, tầng này chồng lên tầng nọ, trở thành 100 tỉ thiên hà, mỗi thiên hà có cả 100 tỉ tinh tú, cách xa nhau hàng tỉ năm ánh sáng. Bốn ngàn năm tạo dựng của thế giới Kinh thánh trở thành 14 tỉ năm…

Niềm tin vào Đức Kitô tiên vàn cứu chúng ta khỏi không gian bao la. Chúng ta sống trong một vũ trụ mà chúng ta không hình dung nổi sự lớn lao và giãn nở liên tục của nó. Một vũ trụ, như khoa học nói, hết sức vô thức và vô tâm với những gì diễn ra trên trái đất. Nhưng đó chưa phải là cái ghi đậm dấu nhất trên ý thức của con người bình thường. Với sự lên ngôi của truyền thông đại chúng, không gian bất chợt lớn lên quanh con người, khiến họ cảm thấy mình nhỏ bé và vô nghĩa hơn, như một diễn viên mất hút trên sân khấu bất tận.

Điện ảnh, truyền hình, internet lúc nào cũng bầy ra trước mắt chúng ta cái mà chúng ta hẳn có thể là và cái mà chúng ta không là, cái người khác làm và chúng ta không làm. Điều này gợi lên một trong hai tình huống : hoặc thấy mình bị tước đoạt mà phải cam chịu và thụ động chấp nhận số phận, hoặc, ngược lại, không muốn sống tình trạng vô danh, nhưng muốn người khác chú ý đến mình. Trong trường hợp trước, cuộc sống của mình chỉ là phản ánh cuộc sống của người khác, và mình trở thành người thán phục và cổ võ người khác ; còn trong trường hợp sau, người ta cuối cùng biến cuộc sống của mình thành một nghề nghiệp.

Niềm tin vào Đức Kitô giải thoát chúng ta khỏi nhu cầu muốn tạo một con đường riêng, muốn vượt qua giới hạn bằng bất cứ giá nào, để trở thành một nhân vật nào đó. Nó cũng giúp ta không thèm muốn những gì lớn lao. Nó hòa giải ta với chính ta, với chỗ đứng của ta trong cuộc đời. Nó giúp ta có thể sống hạnh phúc, triển nở hoàn toàn ở bất cứ nơi nào chúng ta sống, phần nào như “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Thiên Chúa, Đấng vô biên đã đến. Đức Kitô đã đến qua việc nhập thể, và tiếp tục đến với ta đặc biệt qua Thánh Thể, làm cho nơi nào cũng có thể trở thành nơi quan trọng. Có Ngài trong tâm hồn, người ta cảm thấy mình ở trung tâm thế giới, dù đang sông trong một ngôi làng heo hút nào đó trên trái đất.

Do đó chúng ta hiểu vì sao có biết bao nhiêu tín hữu, nam cũng như nữ, có thể sống mà không được ai biết đến, làm những nghề hèn mọn nhất, ẩn thân trong một đan viện kín cổng cao tường. Dầu vậy, họ vẫn cảm thấy mình là những người hạnh phúc và triển nở nhất.

Sự kiện Đức Kitô đã không đến trong huy hoàng, quyền năng và uy nghi, nhưng đến trong âm thầm, nghèo nàn, chọn một “tôi tớ hèn mọn” làm mẹ, không sống trong kinh thành lớn như Rôma, Giêrusalem.. nhưng trong một ngôi làng heo hút ở Galilê, chỉ làm nghề thợ mộc, sự kiện đó ngày nay đem lại cho chúng ta một ý nghĩa mới. Vào lúc đó, trung tâm thực sự của thế giới không phải là Rôma, cũng không phải là Giêrusalem, nhưng là Belem, ngôi làng nhỏ miền Giuđa, và sau nó là Nadaret, làng mà người ta nói là “không có gì hay đến từ đó”.

Điều chúng ta nói về xã hội nói chung, càng  có giá trị cho chúng ta, những người của Giáo hội. Sự bảo đảm là Đức Kitô ở với ta nơi chúng ta sống, giúp ta không còn bị ám ảnh phải đi lên, phải có sự nghiệp, phải có địa vị cao…Thực sự, không ai dám tự phụ hoàn toàn thoát khỏi những tình cảm và ước muốn tự nhiên này, nhưng nhờ Đức Kitô, ít nhất chúng ta nhận ra và chống lại chúng, để chúng không bao giờ trở thành động lực chính thúc đẩy hành động của chúng ta. Hoa quả kỳ diệu của điều đó là sự bình an.

4. Đức Kitô cứu chúng ta khỏi thời gian

Lãnh vực thứ hai trong đó người ta có kinh nghiệm về ơn cứu độ của Đức Kitô, là lãnh vực thời gian. Về điểm này, tình trạng của chúng ta không có nhiều thay đổi so với tình trạng của những con người thời các Tông đồ. Vấn đề luôn hiện ra trước mắt là sự chết. Phêrô so sánh việc cứu độ của Đức Kitô với lịch sử ông Noe được cứu thoát khỏi nạn hồng thủy, trong khi tất cả mọi người đều chết đuối hết (x. 1Pr 3,20tt). Thế nhưng trên thế giới lúc nào cũng có một trận lụt, đó là trận lụt của thời gian, vì, cũng như nước, thời gian nhấn chìm mọi sự, quét sạch tất cả chúng ta, hết thế hệ này đến thế hệ khác.

Ngày nay có những nhà tâm lý học nổi tiếng cho rằng, trong việc không chấp nhận cái chết, có một động cơ thúc đẩy mọi hành động. Trong động cơ này, có bản năng tính dục, được Freud coi là nền tảng mọi sự, thực ra chỉ là một trong những cách bày tỏ nó. Con người của Kinh thánh cảm thấy được an ủi, vì nghĩ rằng mình sẽ chắc chắn tồn tại nơi con cháu của mình. Người ngoại giáo thì tồn tại qua tiếng tăm của mình. Thi sĩ Horatiô viết: “Non omnis moriar”, Tôi sẽ không hoàn toàn chết đâu. “Exegi monumentum aere perennius”, Tôi đã dựng lên (qua thi phú) một công trình tồn tại lâu hơn đồng.

Ngày nay, người ta hay nói hơn về sự tồn tại của chủng loại. Jacques Monod cho rằng sự tồn tại của cá nhân không quan trọng, quan trọng là sự tồn tại của chủng loại. Chủng loại sinh ra một dòng giống đông đảo khác, dòng giống này tồn tại và tiếp tục sản sinh…Nhưng theo một quan niệm khác của trường phái mác xít, dựa trên sinh học chứ không trên duy vật biện chứng, sự hy vọng tồn tại trong chủng loại được coi là không đủ để con người bớt lo âu trước cái chết của mình.

Thế còn đức tin Kitô giáo thì nói gì ? Có sự chết, và đây là vấn đề lớn nhất của chúng ta. Nhưng Đức Kitô đã chiến thắng nó. Cái chết của con người không còn giống như trước đây. Một sự kiện có tính quyết định đã xẩy ra. Sự chết đã mất nọc độc của nó, cũng như con rắn đã mất nọc độc nên không còn làm hại được ai cả. Sự chết không còn là bức tường làm đổ vỡ mọi sự, nhưng là một lối đi qua, một sự vượt qua. Và như thánh Augustinô nói, là “vượt qua cái không qua đi”.

Quả thực, Đức Giêsu không chỉ chết cho mình. Ngài không chỉ để lại cho ta tấm gương về một cái chết oai hùng, như nhà hiền triết Socrat. Ngài đã làm một điều khác: “Một người duy nhất chết cho mọi người” (2Cr 5,14). Ngài “đã phải nếm sự chết để cho mọi người được cứu độ” (Dt 2,9), và “Ai tin vào Ngài thì dù có chết cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Những lời xác quyết tuyệt vời trên đây không làm chúng ta kêu lên vì vui sướng, chỉ vì chúng ta chưa coi trọng chúng cho đủ.

Kitô giáo không thâm nhập vào ý thức với tâm trạng sợ chết, nhưng thâm nhập bằng sự chết của Đức Kitô. Thay vì làm cho con người càng sợ chết, Đức Kitô đã giải thoát họ khỏi nỗi sợ này. Con Thiên Chúa đã mang lấy huyết nhục như ta “để tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ” (Dt 2,14-15).

Tất cả những điều đó không phải là một “ảo tưởng nhằm tự an ủi”. Minh chứng cho nó, ngoài sự sống lại của Đức Kitô, chính là sự kiện này : vào lúc tin, người tín hữu đã có một chút kinh nghiệm về cuộc chiến thắng trước cái chết.

Có một dạo nhiều người lo cho sức khỏe của Đức Gioan Phaolô II, nên đã có đôi lời phiền trách ngài. Để đáp lại, ngài dùng câu thơ của Horatiô đã nói trên, mạnh dạn tuyên bố làm người ta ngạc nhiên : Non omnis moriar, Tôi không hoàn toàn chết đâu. Nhưng trên môi miệng  ngài, câu thơ này từ đây mang một ý nghỉa khác.

5. Đức Kitô, “Đấng Cứu Độ của tôi”

Công nhận Đức Kitô là Đấng Cứu Độ trần gian thì chưa đủ. Tôi còn phải công nhận Ngài là Đấng Cứu Độ của tôi. Thời điểm khám phá ra điều này và nhận được ánh sáng này, không một ai có thể quên. Khi ấy, chúng ta hiểu được điều Thánh Tông đồ muốn nói: “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi” (1Tm 1,15).

Câu chuyện Phêrô suýt chìm ở biển hồ Galilê là một thí dụ tuyệt vời cho thấy kinh nghiệm về ơn cứu độ của Đức Kitô, Hàng ngày chúng ta cũng có kinh nghiệm chìm đắm trong tội lỗi, trong tình trạng hâm hẩm, trong sự chán nản, không tin tưởng, nghi ngờ, thói quen… Chính đức tin cũng là một bước đi bên bờ vực thẳm, với cảm giác thường xuyên là có thể mất thăng bằng và rơi xuống vực.

Trong điều kiện như vậy, chúng ta sẽ cảm thấy được an ủi rất nhiều, khi biết rằng lúc nào cũng có bàn tay sẵn sàng nâng đỡ, chỉ cần chúng ta tìm kiếm và nắm lấy bàn tay ấy. Thậm chí chúng ta còn có thể có niềm vui sâu xa nào đó khi thấy mình lại là người yếu đuối, tội lỗi, như niềm vui được phụng vụ ca lên trong Đêm Vọng Phục sinh qua bài Exsultet : O felix culpa quae talem ac tantum meruit habere Redemptorem! (Ôi tội hồng phúc, vì cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc rất cao sang). Cũng thật hạnh phúc cho ta được có một Đấng Cứu Độ như thế.

Khi chống lại lạc giáo phủ nhận sự nhập thể và nhân tính của Ngôi Lời, Tertullianô đã kêu lên: “Đừng đụng tới Đấng là niềm hy vọng độc nhất của toàn thể địa cầu”. Chính là tiếng kêu tự thâm tâm mà chúng ta phải lặp lại cho con người thời nay, những người có khuynh hướng sống không cần Đức Kitô. Ngài vẫn còn là niềm hy vọng duy nhất của thế giới. Khi khuyên chúng ta “luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta” (1Pr 3,5), thánh Phêrô muốn chúng ta nói cho mọi người về Đức Kitô, vì Ngài là lý do khiến chúng ta hy vọng.

Chúng ta phải tái tạo những điều kiện giúp cho người ta tìm lại được niềm tin vào Đức Kitô, tái tạo đà tiến đức tin đã làm phát sinh Kinh Tin kính Nicêa. Công đồng này đã có một nỗ lực rất lớn khi vượt qua mọi phản kháng của lý trí. Và Kinh Tin kính, kết quả của nỗ lực này, vẫn còn tồn tại cho tới hôm nay. Thủy triều có lần đã lên tới mức cao nhất, và đã ghi dấu nơi bờ đá tảng.

Tuy vậy, đà tiến ấy cần được chúng ta lặp lại. Dấu vết để lại không đủ. Lặp lại Kinh Tin kính Nicêa cũng không đủ. Phải làm mới lại đà tiến đức tin đã có vào lúc ấy, tin vào thần tính của Đức Kitô, mà nhiều thế kỷ đã qua chưa bao giờ có được cái tương đương.

Chúng ta hãy cùng nhau lặp lại phần tuyên xưng về Đức Kitô trong Kinh này : Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô…

(lấy ý trong Raniero Cantalamessa, Bài giảng Mùa Vọng năm 2005 tại Phủ Giáo hoàng)

 

Lm Micae Trần Đình Quảng

 

 


Mục Lục Tĩnh Tâm Giáo Triều