Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng
NIỀM VUI YÊU THƯƠNG
(AMORIS LAETITIA)
về tình yêu trong Gia đình của Đức
Thánh Cha PHANXICÔ
gửi các giám mục, linh mục, phó tế, những
người thánh hiến, các đôi vợ chồng Kitô hữu và tất cả các tín hữu
*************************
1.
Niềm Vui Yêu Thương được các gia đình
kinh nghiệm cũng là niềm vui của Giáo Hội. Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi
nhận, giữa bao dấu hiệu khủng hoảng trong cơ chế hôn nhân, “khát vọng kết hôn
và xây dựng gia đình vẫn sống động, nhất là nơi người trẻ, và đây là một nguồn
cảm hứng cho Giáo Hội”.[1] Như sự đáp ứng khát vọng đó, “lời loan
báo của Kitô giáo về gia đình quả thực là tin vui”.[2]
2.
Tiến trình Thượng Hội Đồng đã cho
phép có một sự khảo sát về hoàn cảnh các gia đình trong thế giới hôm nay, và
nhờ đó có một cái nhìn rộng hơn và một ý thức đổi mới về tầm quan trọng của hôn
nhân và gia đình. Tính phức tạp của các vấn đề nổi lên cho thấy cần phải tiếp
tục thảo luận công khai về một số vấn nạn giáo thuyết, luân lý, linh đạo và mục
vụ. Suy nghĩ của các mục tử và các nhà thần học, nếu trung thành với Giáo Hội,
nếu chân thật, thực tiễn và sáng tạo, sẽ giúp chúng ta đạt được sự sáng tỏ
nhiều hơn. Những tranh luận diễn ra trên các phương tiện truyền thông, trong
một số sách báo, và ngay giữa các thừa tác viên của Giáo Hội, từ sự hăm hở quá
đáng trông đợi một sự thay đổi hoàn toàn mà không suy ngẫm hay đặt nền cho đủ
kỹ, cho tới thái độ muốn giải quyết mọi sự bằng cách áp dụng các qui tắc chung
chung hay bằng cách rút ra những kết luận không thích đáng từ những quan điểm
thần học cá biệt.
3.
Vì “thời gian quan trọng hơn không
gian”, nên tôi muốn nêu rõ rằng không phải mọi bàn cãi về các vấn đề giáo
thuyết, luân lý hay mục vụ đều cần phải được giải quyết bởi những can thiệp của
huấn quyền. Sự thống nhất về giáo huấn và thực hành hẳn nhiên là cần thiết
trong Giáo Hội, nhưng điều đó không loại trừ những cách thức khác nhau để diễn
dịch một số khía cạnh của giáo huấn hay để rút ra một số hệ quả từ giáo huấn
ấy. Điều này sẽ luôn đúng, bởi Chúa Thánh Thần luôn dẫn dắt chúng ta đến sự
thật trọn vẹn (x. Ga 16,13), cho tới khi Ngài đưa chúng ta đi vào hoàn toàn
trong mầu nhiệm Chúa Kitô và cho phép ta nhìn thấy mọi sự như chính Ngài nhìn
thấy. Hơn nữa, mỗi quốc gia hay tôn giáo có thể tìm ra những giải pháp tốt hơn,
phù hợp với nền văn hóa của mình, và nhạy bén hơn với các truyền thống và các
nhu cầu địa phương. Vì “quả thực các nền văn hóa rất đa dạng và mọi nguyên tắc
tổng quát … đều cần phải được hội nhập văn hóa, nếu muốn các nguyên tắc ấy được
tôn trọng và áp dụng”.[3]
4.
Tôi cũng phải nói rằng tiến trình
Thượng Hội Đồng tỏ ra vừa rất ấn tượng vừa đầy khai sáng. Tôi biết ơn về nhiều
sự đóng góp đã giúp tôi trân trọng đầy đủ hơn đối với những vấn đề mà các gia
đình trên khắp thế giới phải đương đầu. Các tham luận khác nhau của các Nghị
Phụ, mà tôi đã chăm chú lắng nghe, quả thực làm nên một viên ngọc đa diện phản
ảnh nhiều mối quan tâm chính đáng và nhiều vấn nạn chân thực. Vì thế, thiết
tưởng là thích đáng việc soạn thảo một Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng để thâu
nạp những đóng góp của hai Thượng Hội Đồng về gia đình vừa qua, với sự bổ sung
những lưu ý khác nữa, để hỗ trợ cho việc suy tư, đối thoại và thực hành mục vụ,
đồng thời để trợ giúp và khích lệ các gia đình trong những sự dấn thân và những
thách đố hằng ngày của họ.
5.
Tông Huấn này đặc biệt hợp thời trong
bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót. Trước hết, bởi vì đây là một lời mời gọi
các gia đình Kitô hữu biết trân trọng các quà tặng hôn nhân và gia đình, và
biết kiên trung trong một tình yêu được củng cố nhờ các nhân đức quảng đại, dấn
thân, trung thành và kiên nhẫn. Thứ hai, vì Tông Huấn muốn khích lệ mọi người
trở nên một dấu hiệu của lòng thương xót và sự gần gũi, ở bất cứ đâu mà đời
sống gia đình còn bất toàn hay còn thiếu vắng sự bình an và niềm vui.
6.
Tôi sẽ bắt đầu với một chương nhập đề
được cảm hứng từ Thánh Kinh, để lấy qui chuẩn đúng đắn. Rồi tôi sẽ khảo sát
hoàn cảnh thực tế của các gia đình, nhằm bám chặt vào thực tại. Tiếp theo, tôi
sẽ nhắc lại một số khía cạnh thiết yếu của giáo huấn Giáo Hội về hôn nhân và
gia đình, nhằm sửa soạn cho hai chương nòng cốt nói về tình yêu. Sau đó tôi sẽ
nhấn mạnh một số cách tiếp cận mục vụ có thể hướng dẫn chúng ta trong việc kiến
tạo những gia đình vững mạnh và đầy hoa trái, phù hợp với kế hoạch của Thiên
Chúa, với một chương trọn vẹn dành cho việc nuôi dạy con cái. Cuối cùng, tôi sẽ
đưa ra lời mời gọi thực thi lòng thương xót và phân định mục vụ đối với những
hoàn cảnh bất cập chiếu theo những gì Chúa đòi hỏi chúng ta, và sẽ kết thúc
bằng một đề cập vắn tắt về linh đạo gia đình.
7.
Dựa vào những hoa trái phong phú của
tiến trình hai năm Thượng Hội Đồng, Tông Huấn này sẽ đề cập đến nhiều vấn đề
khác nhau, trong những cách khác nhau. Điều này giải thích độ dài không tránh
được của nó. Do đó, tôi không khích lệ việc đọc bản văn cách vội vàng. Đối với
chính các gia đình cũng như những ai can dự vào việc tông đồ gia đình, ích lợi
lớn nhất sẽ nhận được nếu đọc mỗi phần một cách nhẫn nại và kỹ lưỡng, hay nếu
chú ý đến những phần nói về các nhu cầu chuyên biệt của mình. Chẳng hạn, có thể
các đôi vợ chồng sẽ quan tâm nhiều hơn đến các Chương IV và V, các tác viên mục
vụ sẽ quan tâm nhiều đến Chương VI, trong khi mọi người có thể cảm thấy được
thách đố bởi Chương VIII. Tôi hy vọng rằng khi đọc bản văn này, mọi người sẽ
cảm thấy được mời gọi yêu quí đời sống gia đình, vì “gia đình không phải là một
vấn đề; tiên vàn nó là một cơ hội”.[4]
CHƯƠNG MỘT:
TRONG ÁNH SÁNG CỦA LỜI CHÚA
8.
Thánh Kinh chứa đầy những gia đình,
những cuộc sinh hạ, những câu chuyện tình, và những khủng hoảng của các gia
đình. Quả đúng như vậy, ngay từ trang đầu Sách Thánh, với sự xuất hiện của gia
đình Ađam và Eva với tất cả gánh nặng và bạo lực của nó, cùng với sự kiên vững
của nó (x. St 4), cho tới trang cuối cùng của Thánh Kinh, trong đó chúng ta
thấy lễ cưới của Tân Nương và Con Chiên (Kh 21,2.9). Đức Giêsu mô tả hai ngôi
nhà, một xây trên đá và một trên cát (x. Mt 7,24-27), tượng trưng cho mọi tình
huống gia đình hình thành bởi cách mà mỗi thành viên sử dụng tự do của mình, vì
như thi sĩ nọ đã nói: “Mỗi gia đình là một chân đèn”.[5] Giờ đây chúng ta hãy bước vào một
trong những ngôi nhà ấy, theo sự dẫn dắt của tác giả Thánh Vịnh qua một bài ca
mà ngày nay vẫn vang lên trong phụng vụ lễ cưới của cả Do Thái và Kitô giáo:
“Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa,
bước đi trong đường lối của Ngài.
Công khó tay bạn làm ra, bạn được hưởng;
bạn sẽ hạnh phúc và may mắn.
Hiền thê bạn trong nhà sẽ như cây nho đầy trái;
con cái bạn như những chồi ô-liu xúm quanh bàn ăn của bạn.
Đó là phúc lành dành cho người kính sợ Chúa.
Nguyện Chúa từ Xi-on chúc phúc cho bạn!
Nguyện chúc bạn nhìn thấy sự thịnh vượng của Giêrusalem
suốt mọi ngày trong đời bạn!
Nguyện chúc bạn sống lâu bên đàn con cháu!
Nguyện chúc Ít-ra-en được an bình!” (Tv 128,1-6).
NGƯƠI VÀ VỢ NGƯƠI
9.
Chúng ta hãy bước qua ngưỡng cửa của
mái gia đình yên hàn này, với cả nhà ngồi quanh bàn tiệc. Ở vị trí trung tâm ta
thấy người cha và người mẹ, một đôi vợ chồng với câu chuyện tình riêng của họ.
Họ thực hiện kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa được Đức Kitô nhắc lại rõ ràng:
“Các ông không đọc thấy điều này sao: ‘Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã dựng nên
con người có nam có nữ’?” (Mt 19,4). Chúng ta nghe thấy một âm vọng của lệnh
truyền được ghi trong sách Sáng Thế: “Bởi thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà
gắn bó với vợ mình, và cả hai trở thành một xương một thịt” (St 2,24).
10.
Các chương đầu tiên rất hùng tráng
của sách Sáng Thế trình bày đôi bạn con người trong thực tại sâu xa nhất. Những
trang Thánh Kinh đầu tiên cung ứng nhiều tuyên bố rất rõ ràng. Trước hết, đó là
tuyên bố mà Đức Giêsu đã nhắc lại: “Thiên Chúa đã sáng tạo nên con người theo
hình ảnh Ngài. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa; Ngài
sáng tạo họ có nam có nữ” (1,27). Thật cảm kích biết bao khi “hình ảnh Thiên
Chúa” ở đây qui chiếu đến đôi vợ chồng, “nam và nữ”. Phải chăng điều này có
nghĩa rằng giới tính là một đặc tính của chính Thiên Chúa, hoặc có nghĩa rằng
Thiên Chúa có một bạn đường thần linh thuộc phái nữ, như một số tôn giáo cổ chủ
trương? Câu trả lời hẳn nhiên là không. Chúng ta biết rõ rằng Thánh Kinh bác bỏ
những niềm tin có tính thờ ngẫu tượng như thế, vốn được gặp thấy nơi những
người
11.
Không phải là một ngẫu tượng kiểu như
những ngẫu tượng bằng đá hay bằng vàng mà Thập Giới ngăn cấm, đôi vợ chồng yêu
thương và sinh ra sự sống là một hình tượng sống động đích thực, có khả năng
mạc khải Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và Đấng Cứu Độ. Vì vậy, tình yêu đầy hoa
trái trở thành một biểu tượng cho đời sống nội tại của Thiên Chúa (x. St 1,28;
9,7; 17,2-5.16; 28,3; 35,11; 48,3-4). Đó là lý do tại sao trình thuật Sáng Thế
này, theo “truyền thống tư tế”, được đan kết bằng nhiều trình thuật phả hệ khác
nhau (x. 4,17-22.25-26; 5; 10; 11,10-32; 25,1-4.12-17.19-26; 36). Khả năng sinh
ra sự sống của các đôi vợ chồng nhân loại là nẻo đường theo đó lịch sử cứu độ
diễn tiến. Nhìn theo cách này, mối tương quan đầy hoa trái của đôi vợ chồng trở
thành một hình ảnh giúp nhận hiểu và mô tả mầu nhiệm của chính Thiên Chúa, vì
trong cái nhìn của Kitô giáo về Ba Ngôi, Thiên Chúa được chiêm ngắm như là Cha,
Con và Thánh Thần yêu thương. Thiên Chúa Ba Ngôi là một sự hiệp thông yêu
thương, và gia đình là phản ảnh sống động của mối hiệp thông ấy. Thánh Giáo hoàng
Gioan Phaolô II đã soi sáng cho điều này khi nói: “Trong mầu nhiệm sâu thẳm
nhất của Ngài, Thiên Chúa của chúng ta không cô độc, nhưng là một gia đình, vì
Ngài có trong chính Ngài cương vị cha, phận làm con, và yếu tính của gia đình,
tức tình yêu. Tình yêu ấy, trong gia đình Thiên Chúa, chính là Thánh Thần”.[6] Gia đình, vì thế, không tách biệt khỏi
chính hiện hữu của Thiên Chúa.[7] Chiều kích Ba Ngôi này được diễn tả
trong thần học của Phaolô, thánh nhân đã nối kết đôi vợ chồng với “mầu nhiệm”
kết hợp giữa Đức Kitô và Giáo Hội (x. Ep 5,21-33).
12.
Khi nói về hôn nhân, Đức Giêsu nhắc
chúng ta một trang khác nữa của sách Sáng Thế, thuộc chương thứ hai, trong đó
bản văn vẽ một chân dung chi tiết tuyệt đẹp của đôi vợ chồng. Trước hết, chúng
ta thấy người đàn ông đang khắc khoải tìm “một trợ tá xứng hợp” (câu 18 và 20),
có thể xoa dịu nỗi cô đơn mà người đàn ông đang cảm nghiệm ở giữa các loài vật
và thế giới xung quanh mình. Bản gốc tiếng Híp-ri gợi cho thấy một cuộc gặp gỡ
trực tiếp, mặt đối mặt, mắt nhìn vào mắt, bằng một thứ đối thoại trong thinh
lặng, vì ở đâu có tình yêu thì sự thinh lặng luôn luôn hùng hồn hơn lời nói. Đó
là cuộc gặp gỡ với một khuôn mặt, một “chủ thể” phản chiếu tình yêu của chính
Thiên Chúa và là “gia tài quí nhất, một trợ lực xứng hợp, và một cột trụ để tựa
nương” của người đàn ông, theo ngôn ngữ khôn ngoan của Thánh Kinh (Hc 36,24).
Thêm nữa, như người phụ nữ trong Bài Ca của Sa-lô-môn sẽ ca lên lời tuyên xưng
tuyệt diễm về tình yêu và về sự tự hiến cho nhau: “Người tôi yêu thuộc trọn về tôi,
và tôi trọn vẹn thuộc về chàng… Tôi thuộc trọn về người tôi yêu, người tôi yêu
thuộc về tôi trọn vẹn” (2,16; 6,3).
13.
Cuộc gặp gỡ này, giúp xoa dịu nỗi cô
đơn của người đàn ông, làm phát sinh sự sống mới và gia đình. Thật ý nghĩa,
Ađam, cũng là người đàn ông của mọi nơi mọi thời, cùng với vợ mình khởi lập một
gia đình mới. Đức Giêsu nói về điều này khi dẫn lại bản văn sách Sáng Thế:
“Người ta sẽ gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt
19,5; x. St 2,24). Từ ngữ “gắn bó” này, trong nguyên ngữ Híp-ri, nói về một sự
hòa điệu sâu xa, một sự gần gũi cả thể lý lẫn nội tâm, đến mức chính từ ngữ ấy
được dùng để mô tả sự kết hợp của chúng ta với Thiên Chúa: “Hồn con bám chặt
vào Chúa” (Tv 63,8). Sự kết hợp vợ chồng, vì thế, gợi lên không chỉ chiều kích
thân xác và tính dục, mà cả việc tự nguyện tự hiến trong tình yêu. Kết quả của
sự kết hợp này, đó là “cả hai trở thành một xương một thịt”, cả về thể lý lẫn
theo nghĩa kết hợp trong trái tim và đời sống, và cuối cùng là nơi một người
con, với sự chia sẻ “cốt nhục” của cả cha lẫn mẹ – không chỉ về di truyền học
mà còn về mặt tâm linh nữa.
CON CÁI BẠN NHƯ NHỮNG CHỒI Ô-LIU
14.
Một lần nữa, chúng ta hãy quay lại
với tác giả Thánh Vịnh. Trong mái nhà ấy, nơi mà chồng và vợ đang ngồi tại bàn
ăn, con cái xuất hiện bên cạnh họ “như những chồi ô-liu” (Tv 128,3), nghĩa là,
với tràn đầy sinh lực. Nếu cha mẹ, theo nghĩa nào đó, là nền móng của ngôi nhà,
thì con cái được ví như những “viên đá sống động” của gia đình (x. 1Pr 2,5).
Thật ý nghĩa, trong Cựu Ước từ ngữ thường xuyên xuất hiện nhất sau tên gọi
Thiên Chúa (YHWH, “Đức Chúa”), đó là từ “con” (ben,
“con trai”), vốn có liên hệ với động từ “xây dựng” (banah). Như vậy,
khi nói về quà tặng con cái, Thánh Vịnh 128 sử dụng hình ảnh rút từ việc xây
dựng một ngôi nhà và đời sống xã hội tại các thành phố: “Nếu như Chúa chẳng xây
nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công… Này con cái là hồng ân của Chúa, con mình
sinh hạ là phần thuởng Chúa ban. Bầy con sinh hạ thời son trẻ, tựa nắm tên
người dũng sĩ cầm tay. Hạnh phúc thay người nào đeo ống đầy loại tên như thế!
Họ sẽ không nhục nhã khi phải đến cửa công tranh tụng với địch thù” (Tv
127,1.3-5). Những hình ảnh này phản ánh nền văn hóa của một xã hội cổ xưa, tuy
nhiên sự hiện diện của con cái là một dấu hiệu thường tồn của gia đình xuyên
suốt lịch sử cứu độ, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
15.
Ở đây chúng ta cũng thấy một khía
cạnh khác của gia đình. Chúng ta biết rằng Tân Ước nhắc đến “các Hội Thánh họp
tại nhà” (x. 1Cr 16,19; Rm 16,5; Cl 4,15; Plm 2). Một không gian sống động của
gia đình có thể chuyển thành một Hội Thánh tại gia, một khung cảnh cho Bí tích
Thánh Thể, tức sự hiện diện của Đức Kitô tại bàn ăn. Chúng ta không thể nào
quên hình ảnh trong sách Khải Huyền, trong đó Chúa nói: “Này, Ta đứng trước cửa
và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy và dùng bữa với
người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Ở đây chúng ta thấy một
gia đình đầy ắp sự hiện diện của Thiên Chúa, của kinh nguyện chung và của mọi
ơn phúc. Đây là ý nghĩa đoạn kết Thánh Vịnh 128 được trích dẫn ở trên: “Đó là
phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài. Nguyện Chúa từ Xi-on chúc phúc cho
bạn!” (Tv 128,4-5).
16.
Thánh Kinh cũng trình bày gia đình
như là nơi con cái được nuôi dưỡng lớn lên trong đức tin. Điều này thật rõ
trong mô tả về cử hành lễ Vượt Qua (x. Xh 12,26-27; Đnl 6,20-25) và về sau thấy
xuất hiện rõ rệt trong haggadah Do Thái, tức mẩu đối thoại gắn liền
với nghi thức bữa ăn Vượt Qua. Một trong các Thánh Vịnh nói về lời công bố đức
tin trong các gia đình: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết do cha ông kể lại,
chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự
nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm. Ngài đã ban
huấn lệnh cho nhà Gia-cóp, đặt ra lề luật cho Ít-ra-en, dạy tổ tiên chúng tôi
truyền lại cho con cháu các cụ được tường, hầu kẻ hậu sinh trong thế hệ tương
lai cũng biết, rồi mai ngày đến lượt chúng kể cho con cháu mình” (Tv 78,3-6).
Như vậy, gia đình là nơi mà cha mẹ trở thành những thầy dạy đức tin đầu tiên
cho con cái. Họ học “nghề” này, và truyền lại cho đời sau từ người này sang
người khác: “Khi đến lúc con ngươi hỏi… Ngươi sẽ trả lời…” (Xh 13,14). Nhờ đó
các thế hệ nối tiếp nhau có thể lên lời ca ngợi Chúa: “Ai là nam thanh, ai là
nữ tú, khắp mặt bô lão, khắp mặt nhi đồng” (Tv 148,12).
17.
Cha mẹ có trách nhiệm lớn lao đối với
công cuộc giáo dục này, như các bậc hiền đức trong Thánh Kinh thường nhắc chúng
ta (x. Cn 3,11-12; 6,20-22; 13,1; 22,15; 23,13-14; 29,17). Về phần mình, con
cái được mời gọi đón nhận và thực hành điều răn: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ”
(Xh 20,12). Ở đây động từ “thờ kính” có liên quan tới việc chu toàn các nghĩa
vụ gia đình và xã hội; không được phép coi thường những nghĩa vụ này bằng cách
viện dẫn các lý do tôn giáo (x. Mc 7,11-13). “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai
kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,3-4).
18.
Tin Mừng tiếp tục nhắc chúng ta rằng
con cái không phải là tài sản của một gia đình, nhưng chúng có cuộc đời riêng
để sống. Đức Giêsu là gương mẫu vâng phục cha mẹ trần thế của Người, Người đặt
mình dưới sự hữu trách của cha mẹ (x. Lc 2,51), nhưng Người cũng cho thấy rằng
các quyết định về cuộc đời của con cái và về ơn gọi Kitô hữu của chúng có thể
đòi hỏi một sự dứt khoát nào đó vì Nước Thiên Chúa (x. Mt 10,34-37; Lc
9,59-62). Chính Đức Giêsu, năm mười hai tuổi, đã nói với Đức Maria và Thánh
Giuse rằng Người có một sứ mạng lớn hơn phải chu toàn ở bên ngoài phạm vi gia
đình trần thế của Người (x. Lc 2,48-50). Theo hướng này, Người cho thấy cần có
những mối ràng buộc khác sâu xa hơn, thậm chí ngay trong gia đình: “Mẹ và anh
em Ta là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21). Cũng vậy,
trong mối quan tâm đối với trẻ em – là thành phần mà các xã hội Cận Đông cổ xưa
coi là những kẻ lệ thuộc, không có quyền riêng nào, thậm chí chúng được coi như
tài sản của gia đình – Đức Giêsu đã đi xa đến độ giới thiệu chúng như những
thầy dạy, bởi đặc tính đơn sơ tin tưởng và hồn nhiên của chúng đối với người
khác. “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì
sẽ chẳng được vào Nước Trời. Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là
người lớn nhất trong Nước Trời” (Mt 18,3-4).
MỘT NẺO ĐƯỜNG ĐAU KHỔ VÀ ĐẪM MÁU
19.
Bức tranh đẹp tuyệt được trình bày
trong Thánh Vịnh 128 không hề loại trừ một sự thật cay đắng gặp thấy trong khắp
các trang Thánh Kinh, đó là, sự hiện diện của đau khổ, sự dữ và bạo lực có sức
phá vỡ các gia đình, phá vỡ mối hiệp thông sự sống và tình yêu. Thật ý nghĩa sự
kiện rằng giáo huấn của Đức Kitô về hôn nhân (x. Mt 19,3-9) được đưa vào trong
bối cảnh một cuộc tranh luận về ly dị. Lời Chúa không ngừng chứng thực cái
chiều kích u ám vốn đã có mặt ngay từ đầu, lúc mà – do tội lỗi – mối tương quan
yêu thương và trong sáng giữa người nam và người nữ biến thành sự thống trị:
“Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi” (St 3,16).
20.
Sợi chỉ đau khổ và đẫm máu này được
thấy xuyên suốt qua rất nhiều trang Thánh Kinh, bắt đầu với việc Cain sát hại
em mình là Aben. Chúng ta đọc thấy những xung đột giữa những người con và những
người vợ của các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp, những bi kịch và bạo lực đánh
dấu trên gia đình của Đavít, những vấn đề gia đình được phản ảnh trong câu
chuyện Tôbia, và lời phàn nàn cay đắng của Gióp: “Anh em tôi, Người đẩy xa tôi…
người quen biết muốn làm mặt lạ… Thân bằng đã biến sạch, quyến thuộc đã quên
tôi. Hơi thở tôi làm vợ tôi lợm giọng, và tôi trở thành ghê tởm trước con cái
của chính lòng dạ mẹ tôi” (G 19,13-14.17).
21.
Chính Đức Giêsu đã sinh ra trong một
gia đình đơn nghèo, sớm phải trốn chạy ra nước ngoài. Người đã ghé thăm nhà
Phêrô, có nhạc mẫu của ông đang đau ốm (x. Mc 1,30-31) và Người chạnh lòng
thương khi nghe về những cái chết trong gia đình của Giairô và Ladarô (x. Mc
5,22-24.35-43; Ga 11,1-44). Người nghe tiếng khóc than vô vọng của bà góa ở
Nain trước cái chết của con trai mình (x. Lc 7,11-15), và Người động lòng trước
lời khẩn cầu của người cha có đứa con bị kinh phong tại một làng kia (x. Mc
9,17-27). Người đến nhà của những người thu thuế như Matthêu và Giakêu (x. Mt
9,9-13; Lc 19,1-10), và nói chuyện với những người tội lỗi như người phụ nữ
trong nhà của ông Biệt phái Simon (x. Lc 7,36-50). Đức Giêsu biết những lo âu
và căng thẳng mà các gia đình phải chịu đựng, và Người đan kết chúng vào các dụ
ngôn của Người: con cái bỏ nhà đi hoang (x. Lc 15,11-32), hay tỏ ra ương bướng
(Mt 21,28-31) hoặc làm mồi cho bạo lực (Mc 12,1-9). Người cũng nhạy cảm trước
nỗi lúng túng do thiếu rượu tại một tiệc cưới (Ga 2,1-10), do các khách mời
không đến dự tiệc (Mt 22,1-10), và nỗi lo của một gia đình nghèo lỡ đánh mất một
đồng xu (Lc 15,8-10).
22.
Trong cái nhìn lướt qua này, chúng ta
có thể thấy rằng Lời Chúa không phải là một mớ ý tưởng trừu tượng, nhưng đúng
hơn đó là một nguồn an ủi và đồng hành cho các gia đình đang kinh nghiệm những
khó khăn và đau khổ. Vì Lời Chúa cho thấy mục tiêu cuộc hành trình của các gia
đình, khi Thiên Chúa “lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng
còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa” (Kh 21,4).
CÔNG KHÓ
23.
Ở đầu Thánh Vịnh 128, người cha xuất
hiện như một người lao công, dùng lao động của đôi tay để nâng đỡ cho gia đình
được êm ấm: “Công khó tay bạn làm ra, bạn được hưởng; bạn sẽ hạnh phúc và may
mắn” (Tv 128,2). Ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh, thật rõ rằng lao động
là một phần thiết yếu của phẩm giá con người; chúng ta đọc thấy: “Đức Chúa là
Thiên Chúa đem con người đặt vào trong vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất
đai” (St 2,15). Con người được trình bày như một người lao công canh tác đất
đai, khai thác những sức mạnh của thiên nhiên và sản xuất ra “lương thực do lao
động nhọc nhằn” (Tv 127,2), cùng với việc phát huy những ơn huệ và những tài
năng của mình.
24.
Lao động cũng giúp cho xã hội có thể
phát triển, và cung ứng cho sự sống, sự ổn định cũng như sự sinh hoa kết quả
của gia đình: “Nguyện chúc bạn nhìn thấy sự thịnh vượng của Giêrusalem suốt mọi
ngày trong đời bạn! Nguyện chúc bạn sống lâu bên đàn con cháu!” (Tv 128,5-6).
Sách Châm Ngôn cũng nói về lao động của những người mẹ trong gia đình; công
việc hằng ngày của họ được mô tả chi tiết, nhận được sự khen ngợi của chồng và
con cái họ (x. 31,10-31). Tông đồ Phaolô tự hào vì đã không ăn bám người khác,
vì ngài đã làm việc bằng đôi tay mình và bảo đảm cho việc sinh sống của chính
mình (x. Cv 18,3; 1Cr 4,12; 9,12). Phaolô rất xác tín về sự cần thiết phải làm
việc đến nỗi ngài đưa ra một qui định nghiêm khắc cho các cộng đoàn của ngài:
“Ai không làm việc, thì đừng ăn” (2Tx 3,10; x. 1Tx 4,11).
25.
Mặt khác, chúng ta có thể hiểu nỗi
khổ do thất nghiệp và do thiếu công việc làm ổn định, như được phản ảnh trong sách
Rút, trong dụ ngôn của Đức Giêsu về những người thợ đành phải đứng ì ra đó
ngoài chợ (Mt 20,1-16), và kinh nghiệm của chính Đức Giêsu khi gặp những người
nghèo khổ và đói khát. Đáng buồn là những thực tế này vẫn còn đó tại nhiều quốc
gia ngày nay, những nơi mà tình trạng thiếu cơ hội làm việc đang ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự yên ổn của đời sống gia đình.
26.
Chúng ta cũng không thể không nhận
thấy sự suy thoái xã hội do tội lỗi gây ra, chẳng hạn, khi con người áp chế
thiên nhiên, phá hại thiên nhiên một cách ích kỷ và thậm chí một cách tàn nhẫn.
Điều này dẫn tới tình trạng sa mạc hóa trái đất (x. St 3,17-19) cùng những sự
mất quân bình kinh tế và xã hội từng bị tố cáo bởi các ngôn sứ, bắt đầu với
Êlia (x. 1V 21) và lên đến đỉnh điểm nơi những lời của Đức Giêsu chống lại tình
trạng bất công (x. Lc 12,13; 16,1-31).
SỰ DỊU DÀNG CỦA VÒNG
27.
Đức Kitô đề ra dấu hiệu để nhận diện
các môn đệ Người, đó là luật yêu thương và sự trao hiến chính mình cho người
khác (x. Mt 22,39; Ga 13,34). Người làm thế khi tuyên bố một nguyên tắc mà các
bậc cha mẹ thường thể hiện trong đời sống của mình: “Không ai có tình yêu lớn
hơn tình yêu của người sẵn sàng hiến mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13).
Tình yêu cũng sinh hoa trái nơi lòng thương xót và sự thứ tha. Một cách đặc
biệt, chúng ta thấy điều này trong câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang
phạm tội ngoại tình; ở trước Đền Thờ, chị bị bao vây bởi những người tố cáo
chị, nhưng sau đó, khi còn lại một mình với Đức Giêsu, chị gặp thấy không phải
sự lên án mà là lời nhắc nhở chị phải sống xứng đáng hơn (x. Ga 8,1-11).
28.
Với bức phông tình yêu này, vốn là
trung tâm của kinh nghiệm Kitô giáo về hôn nhân và gia đình, một nhân đức khác
hiện lên nổi bật, mà người ta thường không chú ý trong thế giới của những tương
quan cuồng nhiệt và hời hợt của chúng ta. Đó là sự dịu dàng. Chúng ta hãy xem
những lời đầy cảm kích của Thánh Vịnh 131. Cũng như trong các bản văn khác của
Thánh Kinh (chẳng hạn, Xh 4,22; Is 49,15; Tv 27,10), sự kết hợp giữa Chúa và
những ai trung thành với Ngài được diễn tả bằng những từ ngữ nói về tình yêu
của cha mẹ. Ở đây ta thấy một sự mật thiết dịu dàng và tinh tế giữa mẹ và con:
hình ảnh một trẻ thơ ngủ yên trong vòng tay của mẹ sau khi đã bú sữa mẹ no nê.
Như ý nghĩa của từ gamûl trong tiếng Híp-ri, đứa trẻ bấy giờ
được cho bú và bám chặt vào mẹ, mẹ nó ôm nó vào lòng. Có một sự gần gũi trong ý
thức chứ không chỉ có tính sinh vật học. Cảm hứng từ hình ảnh này, tác giả
Thánh Vịnh thốt lên: “Hồn con, con vẫn trước sau, giữ cho thinh lặng, giữ sao
thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv
131,2). Chúng ta cũng có thể liên tưởng đến những lời đầy cảm kích mà ngôn sứ
Hôsê đặt vào môi miệng Thiên Chúa: “Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu
thương nó… Ta đã đỡ cánh tay của nó… Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà
lôi kéo nó, Ta xử với nó như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má; Ta cúi
xuống gần nó và đút cho nó ăn” (Hs 11,1.3-4).
29.
Với một sự chú nhìn của đức tin và
tình yêu, của ân sủng và trung thành, chúng ta đã chiêm ngắm mối tương quan
giữa các gia đình nhân loại và Ba Ngôi thần linh. Lời Chúa bảo chúng ta rằng
gia đình được ký thác cho một người đàn ông, một người đàn bà, và con cái họ,
để gia đình trở thành một sự hiệp thông nhân vị theo hình ảnh sự kết hợp giữa Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Việc sinh sản và nuôi dạy con cái, về phần
nó, phản ảnh công việc sáng tạo của Thiên Chúa. Gia đình được mời gọi liên kết
trong kinh nguyện hằng ngày, đọc Lời Chúa và chia sẻ tiệc Thánh Thể, nhờ đó lớn
lên trong tình yêu và trở nên – ngày càng đúng nghĩa hơn – là một đền thờ cho
Chúa Thánh Thần cư ngụ.
30.
Mọi gia đình cần phải hướng mắt nhìn
hình tượng Gia đình Thánh ở Nadarét. Đời sống hằng ngày của gia đình ấy không
thiếu những gánh nặng và ngay cả những cơn ác mộng, như khi phải đương đầu với
bạo lực điên cuồng của Hêrôđê. Thật buồn biết bao để nói rằng thứ bạo lực điên
cuồng ấy cũng là một kinh nghiệm còn tiếp tục gây khổ sở cho nhiều gia đình tị
nạn trong thời của chúng ta, họ cảm thấy bị xua đuổi và không nơi nương tựa.
Giống như các nhà đạo sĩ, các gia đình chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Hài Nhi
và Mẹ Người, bái lạy tôn thờ Người (x. Mt 2,11). Giống như Đức Maria, các gia
đình được mời gọi đương đầu với những thách thức của gia đình mình với lòng can
đảm và bình tĩnh, xuyên qua các hoàn cảnh thăng trầm, ghi nhớ và suy niệm trong
lòng những điều kỳ diệu Chúa đã làm (x. Lc 2,19.51). Kho tàng trong đáy lòng
của Đức Maria cũng chứa đựng những kinh nghiệm của mọi gia đình, những kinh
nghiệm mà Mẹ nâng niu ấp ủ. Vì thế, Mẹ có thể giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của
những kinh nghiệm ấy và nghe được thông điệp mà Thiên Chúa muốn trao gửi xuyên
qua đời sống của gia đình chúng ta.
CHƯƠNG HAI:
NHỮNG KINH NGHIỆM VÀ
NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA GIA ĐÌNH
31.
Thiện ích của gia đình là điều có tầm
quyết định cho tương lai của thế giới và của Giáo Hội. Người ta đã làm vô số
nghiên cứu về hôn nhân và gia đình, về những vấn đề và những thách đố hiện nay
của nó. Chúng ta nên tập chú vào những thực tế cụ thể, vì “tiếng gọi và những
đòi hỏi của Chúa Thánh Thần vang lên trong các biến cố lịch sử”, và qua các
biến cố ấy “Giáo Hội cũng có thể được hướng dẫn tới một nhận hiểu thâm sâu hơn
đối với mầu nhiệm khôn dò là hôn nhân và gia đình”.[8] Ở đây tôi sẽ không cố trình bày tất cả
những gì có thể được nói về gia đình hôm nay. Tuy nhiên, vì các Nghị Phụ Thượng
Hội Đồng đã khảo sát hoàn cảnh của các gia đình trên khắp thế giới, tôi thấy
thích hợp việc nêu một số nhận thức mục vụ của các Nghị Phụ, cùng với những
quan tâm rút ra từ chính kinh nghiệm của tôi.
THỰC TẾ HIỆN NAY CỦA GIA ĐÌNH
32.
“Trung thành với giáo huấn của Đức
Kitô, chúng ta hướng nhìn thực tế của gia đình ngày nay trong tất cả tính phức
tạp của nó, với cả ánh sáng và bóng tối… Những thay đổi về nhân học và văn hóa
trong thời chúng ta đang ảnh hưởng lên mọi khía cạnh của đời sống, và mời gọi
một sự tiếp cận có tính phân tích và đa dạng”.[9] Cách đây vài thập niên, các giám mục
Tây Ban Nha ghi nhận rằng các gia đình đã có được sự tự do nhiều hơn “nhờ một
sự phân phối hợp tình hợp lý các bổn phận, trách nhiệm và công việc”; thật vậy,
“sự nhấn mạnh nhiều hơn về mối liên lạc cá vị giữa vợ chồng giúp làm cho đời
sống gia đình có tính nhân văn hơn”, trong khi “cả xã hội ngày nay lẫn xã hội
mà chúng ta đang tiến tới đều không cho phép một sự tiếp tục tồn tại mà không
thẩm xét của những dạng thức trước đây”.[10] Cũng thật rõ rằng “các khuynh hướng
chính trong những thay đổi nhân học và văn hóa” đang đưa “các cá nhân, trong
đời sống riêng và đời sống gia đình, đến chỗ ngày càng ít nhận được sự hỗ trợ
hơn từ các cấu trúc xã hội so với trong quá khứ”.[11]
33.
Đàng khác, “cần phải dành sự lưu tâm
không kém đối với mối nguy ngày càng tăng của một chủ nghĩa cá nhân cực đoan
đang làm suy yếu các mối gắn kết gia đình và rốt cục coi mỗi thành viên gia
đình như một đơn vị rời rạc, nhiều khi dẫn đến ý tưởng rằng nhân cách của một
người được định hình bởi những khao khát của người ấy, những khao khát được xem
là tuyệt đối”.[12] “Những căng thẳng tạo nên bởi một nền
văn hóa cá nhân chủ nghĩa quá mức, cộng với những chiếm hữu và lạc thú, dẫn đến
tình trạng bất bao dung và xung đột trong các gia đình”.[13] Ở đây tôi cũng muốn bao gồm cả nhịp
sống hối hả ngày nay, những áp lực, cách tổ chức xã hội và công việc, vì tất cả
đều là những yếu tố văn hóa chống lại những quyết định có tầm vĩnh viễn. Chúng
ta cũng đối mặt với sự bất định và mập mờ ở khắp nơi. Chẳng hạn, chúng ta đề
cao cách đúng đắn một tư tưởng nhân vị thượng tôn tính chân thực xét như là đối
lập với sự rập khuôn thuần túy. Trong khi điều này có thể hỗ trợ cho tính cách tự
nhiên, không gò bó, và giúp người ta sử dụng các tài năng cách tốt hơn, thì nếu
đi lạc hướng, nó có thể thúc đẩy những thái độ thường xuyên nghi ngờ, sợ dấn
thân, loay hoay với mình, và trịch thượng. Sự tự do chọn lựa giúp ta có thể
vạch kế hoạch cho đời sống của mình và phát huy chính mình nhiều nhất có thể.
Nhưng nếu sự tự do này thiếu những mục tiêu cao thượng hay thiếu kỷ luật cá
nhân, nó sẽ suy thoái thành một sự bất lực, không thể quảng đại hiến thân cho
người khác. Thật vậy, tại nhiều nước nơi mà con số các trường hợp kết hôn đang
giảm, thì ngày càng có nhiều người chọn sống một mình hay chỉ đơn thuần chung
chạ mà không sống chung. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến một cảm thức tích cực về
sự công bằng; nhưng nếu hiểu nhầm, cảm thức ấy có thể biến dân chúng thành
những khách hàng chỉ quan tâm tới sự cung ứng các dịch vụ.
34.
Khi những yếu tố này ảnh hưởng đến
cách nhận hiểu về gia đình, thì người ta có thể xem gia đình như một trạm trên
đường đi, chỉ có ích khi thuận tiện, hay như một cảnh vực trong đó các quyền
được khẳng định, còn các mối tương quan thì bị bỏ mặc cho sự thay đổi thất
thường của những ước muốn riêng và của các hoàn cảnh. Cuối cùng, ngày nay thật
dễ lẫn lộn giữa sự tự do đích thực và ý tưởng rằng mỗi cá nhân có thể làm gì
tùy ý; dường như không có những sự thật, những giá trị và những nguyên tắc cung
cấp sự hướng dẫn, và mọi sự đều có thể và được phép. Lý tưởng của hôn nhân,
được đánh dấu bằng một cam kết độc nhất và bền vững, bị gạt qua một bên bất cứ
khi nào nó tỏ ra bất tiện hay gây chán ngán. Nỗi sợ cô đơn và nỗi khát khao sự
bền vững và sự trung thành tồn tại ngay bên cạnh một nỗi sợ ngày càng tăng về
khả năng mắc kẹt trong một mối tương quan có thể cản trở người ta tranh thủ các
mục tiêu riêng của mình.
35.
Là Kitô hữu, chúng ta không được phép
ngừng bảo vệ hôn nhân chỉ để tránh lội ngược dòng cảm thức của người đương
thời, hay chỉ vì muốn hợp thời, hoặc vì mặc cảm bất lực trước tình trạng suy
thoái đạo đức và nhân bản. Chúng ta sẽ tước mất khỏi thế giới các giá trị mà
chúng ta có thể và cần phải biểu dương. Thực là vô nghĩa việc duy chỉ ngồi
nguyền rủa bóng tối sự dữ của thời đại, cơ hồ làm như vậy thì sẽ thay đổi được
mọi sự. Cũng không ích gì việc cố dùng quyền để áp đặt các qui tắc. Điều chúng
ta cần là một nỗ lực với sự quảng đại và trách nhiệm nhiều hơn để trình bày các
lý do và các động cơ cho việc chọn lựa hôn nhân và gia đình, và bằng cách này
giúp người ta đáp trả tốt hơn hồng ân mà Thiên Chúa ban cho họ.
36.
Chúng ta cũng cần khiêm tốn và thực
tiễn, nhìn nhận rằng nhiều khi cách mà chúng ta trình bày niềm tin Kitô giáo
của mình, và cách ta cư xử với người khác, đã góp phần làm nên tình trạng ngổn
ngang của hôm nay. Chúng ta cần biết phê phán chính mình cách thích đáng. Cũng
vậy, chúng ta thường trình bày hôn nhân theo cách nào đó mà ý nghĩa kết hợp của
hôn nhân, tiếng gọi của hôn nhân thúc đẩy người ta lớn lên trong tình yêu, và
lý tưởng trợ giúp lẫn nhau của hôn nhân bị mờ nhòa, do sự đề cập hầu như chỉ
tập trung vào bổn phận sinh sản. Chúng ta cũng không luôn luôn cung cấp những
hướng dẫn vững chắc cho các đôi vợ chồng trẻ, có xét đến thời khóa biểu của họ,
cách nghĩ và những ưu tư cụ thể của họ. Nhiều khi chúng ta cũng đề ra một lý
tưởng thần học về hôn nhân quá đỗi trừu tượng và hầu như nhân tạo, quá xa rời
các hoàn cảnh cụ thể và các khả năng thực tiễn của các gia đình. Tình trạng lý
tưởng hóa quá mức như vậy, nhất là khi chúng ta không thúc đẩy niềm tín thác
vào ơn Chúa, đã không giúp làm cho hôn nhân trở thành hấp dẫn hơn và đáng khao
khát hơn, mà hoàn toàn đi ngược lại.
37.
Từ khá lâu, chúng ta vẫn lầm tưởng
rằng chỉ cần nhấn mạnh những điểm giáo thuyết, đạo đức sinh học và luân lý, mà
không cần khích lệ việc mở lòng đón nhận ơn sủng, thì đó là mình đang cung cấp
đủ sự nâng đỡ cho các gia đình, đang giúp củng cố mối dây hôn nhân, và đang
trao ý nghĩa cho đời sống vợ chồng. Chúng ta thấy khó trình bày hôn nhân như
một con đường năng động để phát triển và hoàn thành nhân vị, thế là chúng ta
trình bày nó như một gánh nặng phải vác suốt đời. Chúng ta cũng thấy khó dành
chỗ cho lương tâm của các tín hữu, những người rất thường đáp trả tiếng gọi của
Tin Mừng cách tốt nhất, ngay giữa các giới hạn của họ, và đó là những người
thường có khả năng làm công việc phân định của mình trong những hoàn cảnh phức
tạp. Chúng ta được gọi để đào tạo lương tâm người ta chứ không phải để thay thế
lương tâm của họ.
38.
Chúng ta phải biết ơn vì đa số người
ta vẫn trân trọng giá trị các mối tương quan gia đình vốn có đặc tính bền vững
và được đánh dấu bởi sự kính trọng lẫn nhau. Họ trân trọng các cố gắng của Giáo
Hội trong việc cung cấp sự hướng dẫn và các lời khuyên trong những lãnh vực
liên quan đến sự trưởng thành trong tình yêu, việc giải quyết xung đột và việc
nuôi dạy con cái. Nhiều người như đụng chạm được sức mạnh của ơn sủng mà họ
kinh nghiệm trong Bí tích Hòa Giải và Thánh Thể, ơn sủng giúp họ đương đầu với
những thách đố của hôn nhân và gia đình. Tại một số nước, nhất là tại nhiều
vùng ở Phi Châu, chủ nghĩa thế tục đã không làm suy yếu một số giá trị truyền
thống, và các cuộc hôn nhân tạo nên một mối dây vững chắc nối kết hai gia đình
rộng lớn, với những cơ cấu được định rõ để giải quyết các vấn đề và các xung
đột. Ngày nay chúng ta cũng biết ơn về chứng tá của các cuộc hôn nhân không chỉ
chứng tỏ là bền vững, mà còn đầy hoa trái và yêu thương. Tất cả những yếu tố
này có thể thúc đẩy một phương thức mục vụ tích cực và ân cần, có khả năng giúp
các đôi bạn tăng cường lòng trân trọng đối với các đòi hỏi của Tin Mừng. Tuy
nhiên, chúng ta thường lo chống đỡ, phung phí năng lực mục vụ vào việc lên án
một thế giới suy đồi mà không chủ động đề ra những cách thế mưu cầu hạnh phúc
đích thực. Nhiều người cảm thấy rằng sứ điệp của Giáo Hội về hôn nhân và gia
đình không phản ảnh rõ ràng lời rao giảng và thái độ của Đức Giêsu, Đấng đã nêu
rõ một lý tưởng đầy đòi hỏi nhưng cũng không bao giờ bỏ qua cơ hội bày tỏ lòng
trắc ẩn và sự gần gũi với những yếu đuối của con người, như câu chuyện người
phụ nữ Samaria hay người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
39.
Điều nói trên không hề có ý rằng
chúng ta nên dừng việc cảnh báo tình trạng suy đồi văn hóa vốn không khích lệ
được tình yêu và sự tự hiến. Cuộc tham vấn diễn ra trước hai Thượng Hội Đồng
vừa qua cho thấy rất nhiều triệu chứng của một thứ “văn hóa tạm bợ”. Ở đây tôi
nghĩ đến, chẳng hạn, cái tốc độ mà người ta chuyển từ quan hệ tình cảm này đến
một quan hệ tình cảm khác. Họ tin rằng, cũng như các mạng lưới xã hội, tình yêu
có thể được nối mạch hay ngắt mạch, tùy theo ngẫu hứng của khách hàng, và mối
tương quan nhanh chóng bị “chặn”. Tôi cũng nghĩ đến những nỗi sợ gắn liền với
việc cam kết vĩnh viễn, nỗi lo không còn thời gian rảnh, và những mối tương
quan tính toán hơn thiệt nhằm xoa dịu cô đơn, nhằm tìm sự che chở, hay nhằm có
được sự phục dịch nào đó. Chúng ta ứng xử với các tương quan tình cảm theo cách
mà chúng ta ứng xử với các đồ vật và môi trường: mọi thứ đều có sẵn; ai cũng sử
dụng và vứt bỏ, mua sắm và phá hỏng, khai thác và vắt kiệt. Rồi thì chia tay.
Chứng tự yêu (narcissism) làm cho người ta không thể nhìn ra bên ngoài mình,
nhìn quá những khao khát và nhu cầu của chính mình. Nhưng sớm hay muộn, những
kẻ dùng người khác rốt cục sẽ thấy chính mình bị dùng, bị lừa và bị vứt bỏ bởi
cùng một thứ não trạng đó. Cũng đáng ghi nhận rằng những sự đổ vỡ thường xảy ra
nơi những người hơi đứng tuổi, những người tìm kiếm một loại “độc lập” và vứt
bỏ cái lý tưởng chung thủy cho đến răng long đầu bạc với nhau, chăm sóc và nâng
đỡ nhau.
40.
“Nghe có vẻ hồ đồ, nhưng có thể nói
rằng chúng ta sống trong một nền văn hóa ép buộc người trẻ không lập gia đình,
bởi vì họ thiếu những triển vọng cho tương lai. Nhưng cũng chính nền văn hóa
này đang cung ứng cho những người khác quá nhiều sự chọn lựa đến nỗi họ cũng
ngần ngại không lập gia đình.[14] Tại một số nước, nhiều người trẻ “hoãn
kết hôn vì những lý do kinh tế, vì công việc hay vì học tập. Một số hoãn vì
những lý do khác, như do ảnh hưởng của những ý thức hệ xem thường hôn nhân và
gia đình, do muốn tránh những thất bại của các đôi vợ chồng khác, do nỗi sợ một
cái gì đó mà họ coi là quá quan trọng và thánh thiêng, do những cơ hội xã hội
và những mối lợi kinh tế gắn liền với việc chỉ đơn thuần sống chung, do một
quan niệm về tình yêu thuần túy có tính cảm xúc và lãng mạn, do sợ mất sự tự do
và độc lập của mình, và do sự tẩy chay một cái gì đó được nghĩ là chỉ có tính
thiết chế và thủ tục”.[15] Chúng ta cần tìm ra ngôn ngữ thích
hợp, những lập luận và những hình thức làm chứng có thể giúp ta chạm tới trái
tim của các bạn trẻ, khích lệ họ phát huy lòng quảng đại, sự dấn thân, tình yêu
và thậm chí phẩm cách anh hùng, và bằng cách đó mời gọi họ đảm nhận thách đố
của hôn nhân với nhiệt tâm và can đảm.
41.
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận
rằng “những xu thế văn hóa trong thế giới ngày nay dường như không đặt một giới
hạn nào cho tâm cảm của người ta”; thật vậy, “một tâm cảm qui ngã, bất ổn, thay
đổi thất thường sẽ không cho phép người ta đạt tới trưởng thành chín chắn”. Các
Nghị Phụ cũng bày tỏ quan ngại về “sự lan tràn của các sản phẩm khiêu dâm và
việc thương mại hóa thân xác, được thúc đẩy bởi sự lạm dụng internet”, và về
“những tình huống thật đáng bức xúc trong đó người ta bị buộc đi vào hoạt động
mại dâm”. Trong bối cảnh này, “các đôi bạn thường bất quyết, lưỡng lự và trăn
trở để tìm những cách thế lớn lên. Nhiều người có xu hướng ở lại nơi những giai
đoạn phôi thai của đời sống tình cảm và tính dục. Khủng hoảng trong một mối
tương quan vợ chồng sẽ làm rúng chuyển cả gia đình và – qua việc ly thân và ly
dị – có thể dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng cho người lớn, trẻ em và toàn xã
hội, làm suy yếu các mối liên kết cá nhân và xã hội”.[16] Những vấn đề của hôn nhân “thường được
đương đầu một cách nông nổi, và không có can đảm để biết kiên nhẫn suy nghĩ, để
chấp nhận hy sinh và tha thứ cho nhau. Và những thất bại sẽ làm nảy sinh các
quan hệ mới, các đôi bạn mới, các kết hợp dân sự mới, và các hôn phối mới, tạo
nên những hoàn cảnh gia đình phức tạp và bất ổn cho đời sống đạo”.[17]
42.
Hơn nữa, “sự sụt giảm dân số, do một
não trạng chống lại việc có con, được hậu thuẫn bởi những chủ trương của thế
giới về sức khỏe sinh sản, tạo ra không chỉ một tình trạng trong đó mối tương
quan giữa các thế hệ không còn được bảo đảm, mà còn có mối nguy rằng, dần dà,
sự tụt giảm này sẽ dẫn đến kiệt quệ về kinh tế và mất hết hy vọng về tương lai.
Sự phát triển của công nghệ sinh học cũng có một tác động lớn trên tỉ lệ sinh sản”.[18] Thêm vào đó là những yếu tố khác như
“công nghiệp hóa, cách mạng tình dục, nỗi sợ lạm phát dân số và những vấn đề về
kinh tế… Chủ nghĩa tiêu thụ cũng ngăn cản người ta sinh con, đơn giản vì họ
muốn duy trì một sự tự do và một lối sống nào đó”.[19] Lương tâm ngay thẳng của các vợ chồng
vốn quảng đại trong việc chuyển thông sự sống vẫn có thể đưa họ đến chỗ hạn chế
số con của mình, vì những lý do chính đáng, tuy nhiên, cũng chính “vì phẩm giá
của lương tâm mà Giáo Hội mạnh mẽ phản bác sự can thiệp có tính áp đặt của nhà
nước trong việc thúc đẩy ngừa thai, triệt sản và ngay cả phá thai”.[20] Những biện pháp như thế không thể chấp
nhận được ngay cả tại những nơi có tỉ lệ sinh sản cao, thế nhưng tại những nước
có tỉ lệ sinh sản thấp một cách đáng ngại người ta cũng thấy các chính trị gia
hô hào điều này. Như các giám mục Hàn Quốc đã nói, đó là “hành động tự mâu
thuẫn và chối bỏ bổn phận của mình”.[21]
43.
Tại một số xã hội, sự suy yếu về đức
tin và thực hành tôn giáo có một hệ lụy trên các gia đình, bỏ mặc các gia đình
càng chơ vơ giữa bao khó khăn. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “một
triệu chứng của sự nghèo nàn khủng khiếp trong nền văn hóa thời nay, đó là sự
cô đơn, phát xuất từ sự vắng mặt Thiên Chúa trong đời sống con người, và từ
tình trạng mong manh của các mối tương quan. Cũng có phổ biến một mặc cảm bất
lực khi đứng trước những thực trạng xã hội-văn hóa thường làm tan nát các gia
đình… Các gia đình thường cảm thấy bị bỏ rơi do thiếu sự quan tâm của các cơ
chế. Tác động tiêu cực trên trật tự xã hội thật rõ ràng, như thấy trong vấn đề
khủng hoảng dân số, trong nỗi khó khăn của việc nuôi dạy con cái, trong thái độ
ngần ngại không muốn đón nhận sự sống mới, trong xu hướng xem người già như
gánh nặng, và trong sự gia tăng các vấn đề về cảm xúc và những bùng nổ của bạo
lực. Nhà nước có trách nhiệm thông qua những đạo luật và tạo ra công ăn việc
làm để bảo đảm tương lai của giới trẻ và giúp họ thực hiện kế hoạch xây dựng
gia đình của họ”.[22]
44.
Tình trạng thiếu nhà ở tương xứng
hoặc vừa túi tiền thường dẫn đến việc trì hoãn các mối tương quan chính thức.
Cần lưu ý rằng “gia đình có quyền có chỗ ở xứng đáng, phù hợp với đời sống gia
đình và có đủ chỗ cho các thành viên, trong một môi trường tự nhiên cung ứng
các dịch vụ căn bản cho đời sống của gia đình và cộng đồng”.[23] Gia đình và nhà ở luôn đi đôi với
nhau. Điều này giúp ta nhận ra rằng cần phải nhấn mạnh các quyền của gia đình
chứ không chỉ của các cá nhân. Gia đình là thiện ích thiết yếu của xã hội,và nó
phải được bảo vệ.[24] “Giáo Hội luôn luôn xem một phần sứ
mạng của mình là thăng tiến hôn nhân và gia đình, bảo vệ nó và chống lại những
gì tấn công nó”,[25] đặc biệt ngày nay, khi hôn nhân và gia
đình không nhận được mấy quan tâm trong các đề cương chính sách. Các gia đình
có quyền “được kỳ vọng một chính sách đúng đắn về gia đình từ giới hữu trách
trong các lãnh vực tư pháp, kinh tế, xã hội và tài chánh”.[26] Có những lúc gia đình khốn khổ khủng
khiếp khi đương đầu với bệnh tật của một người thân trong tình trạng thiếu sự
chăm sóc y tế thích đáng, hay phải vất vả loay hoay để tìm được công việc làm
thích hợp. “Những khó khăn kinh tế không cho phép gia đình được tiếp cận giáo dục,
các hoạt động văn hóa, và sự tham dự vào đời sống xã hội. Cách này hay cách
khác, tình hình kinh tế hiện nay đang không cho phép người ta hòa nhập vào xã
hội. Đặc biệt, các gia đình phải hứng chịu những vấn đề liên quan đến việc làm,
trong đó người trẻ chẳng có mấy cơ hội, và sự cung ứng việc làm thì rất kén
chọn và không vững chắc. Ngày làm việc kéo dài và nhiều khi càng trở nên nặng
nề hơn bởi những quãng thời gian xa nhà ngày càng lâu hơn. Tình hình này không
giúp cho các thành viên gia đình sum họp với nhau, không giúp cho cha mẹ gần
gũi con cái bằng một cách thế khả dĩ vun xới các mối quan hệ mỗi ngày”.[27]
45.
Nhiều trẻ em sinh ngoài hôn nhân, vì
thế nhiều em lớn lên với chỉ cha hoặc mẹ, hay trong một gia đình hỗn hợp hoặc
chắp vá… Một thực tế thảm hại và gây phẫn nộ khác nữa trong xã hội ngày nay, đó
là tình trạng bóc lột tình dục trẻ em. Các xã hội hứng chịu bạo lực do chiến tranh,
khủng bố, hay do sự tồn tại của tội ác có tổ chức… đang chứng kiến sự suy vong
của gia đình, nhất là tại các thành phố lớn, nơi mà, ở các vùng ngoại ô, hiện
tượng ‘trẻ em đường phố’ đang ngày càng gia tăng”.[28] Sự lạm dụng tình dục trẻ em càng gây
bức xúc hơn khi nó xảy ra ở những nơi mà đáng lẽ trẻ em được an toàn nhất, như
gia đình, trường học, các cộng đoàn và các cơ chế Kitô giáo.[29]
46.
“Di dân, một dấu chỉ khác nữa của
thời đại, phải được đối mặt và nhận hiểu các hệ quả tiêu cực của nó trên đời sống
gia đình”.[30] Thượng Hội Đồng Giám Mục vừa qua đã
lưu ý đến vấn đề này, ghi nhận rằng “bằng nhiều cách, hiện tượng di dân ảnh
hưởng đến toàn thể cư dân ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Giáo Hội đã
đóng một vai trò đáng kể trong lãnh vực này. Gìn giữ và phát huy chứng tá này
cho Tin Mừng (x. Mt 25,35) là điều rất cần thiết hôm nay, hơn bất cứ thời nào
trước đây… Tính di động của con người, như được thấy trong sự thiên di tự nhiên
của các dân tộc trong lịch sử, có thể có ý nghĩa phong phú thực sự cho cả các
gia đình di dân lẫn những quốc gia đón nhận họ. Còn sự di cư bắt buộc của các
gia đình – do hoàn cảnh chiến tranh, bách hại, nghèo đói, bất công, và gắn liền
với những truân chuyên của một hành trình thường phải liều cả mạng sống – thì
khiến người ta hoảng loạn và gây mất ổn định cho các gia đình. Trong việc đồng
hành với những người nhập cư, Giáo Hội cần một chương trình mục vụ đặc biệt,
nhắm đến không chỉ các gia đình nhập cư mà cả những thành viên vẫn còn ở lại
đằng sau. Hoạt động mục vụ này phải được tiến hành với sự tôn trọng thích đáng
văn hóa của họ, việc đào tạo nhân bản và tôn giáo tại bản quán của họ, cũng như
gia sản tâm linh phong phú của các nghi lễ và truyền thống của họ, kể cả bằng
một phương thức mục vụ đặc biệt… Cách riêng, di cư là thảm kịch và là sự tàn
phá đối với các gia đình và các cá nhân khi nó xảy ra một cách bất hợp pháp và
được hỗ trợ bởi những mạng lưới buôn người quốc tế. Cũng là thảm kịch như vậy
khi tình hình liên quan đến các phụ nữ hay các trẻ em bơ vơ bị buộc phải chịu
đựng những thời gian dài trong các điều kiện tạm bợ và các trại tị nạn, nơi mà
người ta không thể bắt đầu một tiến trình hội nhập. Sự nghèo túng cùng cực và
những hoàn cảnh gia đình phân cách đôi khi thậm chí dẫn đến việc bán con cái
cho mại dâm hay cho con buôn cơ phận người”.[31] “Sự bách hại các Kitô hữu và các nhóm
thiểu số tôn giáo và sắc tộc ở nhiều khu vực trên thế giới, nhất là ở Trung
Đông, là một thử thách lớn lao không chỉ cho Giáo Hội mà còn cho toàn thể cộng
đồng quốc tế. Cần phải khích lệ mọi cố gắng, ngay cả bằng một cách thế thực
tiễn, để hỗ trợ các gia đình và các cộng đoàn Kitô hữu tiếp tục ở lại nơi bản
quán của họ”.[32]
47.
Các Nghị Phụ cũng đặc biệt mời gọi
lưu tâm đến “gia đình của những người có các nhu cầu đặc biệt, trong đó cái
thách đố bất ngờ phải đương đầu với một khuyết tật có thể làm xáo trộn sự quân
bình, xáo trộn các mong ước và kỳ vọng của một gia đình… Thật đáng khâm phục
những gia đình đầy yêu thương đón nhận cái thử thách cam go của một đứa con với
những nhu cầu đặc biệt. Họ trao cho Giáo Hội và xã hội một chứng tá vô giá về
sự trung thành đối với hồng ân sự sống. Trong những hoàn cảnh này, gia đình có
thể khám phá, cùng với cộng đoàn Kitô hữu, những phương thức mới, những cách
hành động mới, một cách khác để đồng cảm và liên đới với người khác, bằng việc
đón nhận và nâng niu mầu nhiệm về tính mong manh của sự sống con người. Những
người mang khuyết tật là một quà tặng cho gia đình và là một cơ hội để lớn lên
trong tình yêu, trong sự trợ giúp nhau và hiệp nhất… Trong ánh sáng đức tin,
nếu gia đình chấp nhận sự hiện diện của những người có các nhu cầu đặc biệt,
thì họ sẽ có thể nhận ra và bảo đảm tôn trọng phẩm chất và giá trị của mọi sự
sống con người, với những nhu cầu, những quyền và cơ hội riêng của nó. Cách
tiếp cận này sẽ thúc đẩy sự săn sóc và phục vụ những người chịu thiệt thòi ấy,
cũng như sẽ khích lệ sự gần gũi và cảm thông với họ ở mọi giai đoạn cuộc đời
của họ”.[33] Ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng sự dấn
thân và quan tâm dành cho những người di cư cũng như những người có các nhu cầu
đặc biệt là một dấu chỉ của Chúa Thánh Thần. Cả hai trường hợp đều có tính kiểu
thức: cả hai đều phục vụ như một trắc nghiệm về sự dấn thân của chúng ta để bày
tỏ lòng thương xót bằng cách đón nhận người khác và giúp những người yếu ớt hòa
nhập đầy đủ vào các cộng đồng của mình.
48.
“Đa số các gia đình có lòng tôn kính
đặc biệt dành cho những người cao tuổi, vây quanh họ với đầy ắp tình cảm và xem
họ như một ân phúc. Cần phải tuyên dương cách riêng các hiệp hội và các phong
trào gia đình dấn thân phục vụ những người cao tuổi, cả về tâm linh lẫn xã hội…
Tại các xã hội công nghiệp hóa cao, nơi mà con số người cao tuổi gia tăng ngay
cả khi tỉ lệ sinh sản sụt giảm, họ có thể bị xem như một gánh nặng. Đàng khác,
sự săn sóc mà họ cần thường tạo nên một căng thẳng cho những người thân của
họ”.[34] “Sự săn sóc và quan tâm dành cho những
giai đoạn cuối cùng của đời sống là điều càng cần thiết hôm nay, khi mà xã hội
hiện đại cố tháo gỡ mọi dấu vết của sự chết và sự hấp hối. Những người cao tuổi
yếu ớt và phải lệ thuộc đôi khi bị khai thác một cách bất công để chỉ nhắm đến
mối lợi kinh tế. Nhiều gia đình cho thấy rằng có thể tiếp cận những giai đoạn
cuối cùng của cuộc sống bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm thức hoàn
thành một đời người và sự tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa. Nhiều người
cao tuổi được chăm sóc tại các cơ sở của Giáo Hội, ở đó, về vật chất và tinh
thần, họ có thể sống trong một bầu khí gia đình êm ấm. Cái chết êm dịu và việc
tự tử được hỗ trợ là những đe dọa nghiêm trọng cho các gia đình trên khắp thế
giới; tại nhiều nước, những thực hành ấy đã được hợp pháp hóa. Giáo Hội, trong
khi kiên quyết chống lại những thực hành ấy, cảm thấy cần phải hỗ trợ các gia
đình đang chăm sóc cho các thành viên cao tuổi và yếu ớt của mình”.[35]
49.
Ở đây tôi cũng muốn đề cập hoàn cảnh
của các gia đình sống trong cái nghèo tận cùng và những hạn chế chồng chất. Các
vấn đề mà những gia đình nghèo phải đối mặt thường gay go hơn rất nhiều.[36] Ví dụ, nếu một người mẹ đơn thân phải
tự chăm sóc đứa con, và chị cần để đứa bé ở nhà một mình trong khi chị đi làm,
đứa trẻ sẽ lớn lên trong tình trạng phó mặc cho mọi loại nguy cơ và mọi ngáng
trở đối với sự trưởng thành nhân vị. Trong những hoàn cảnh khó khăn ngặt nghèo
như thế, Giáo Hội phải quan tâm cách riêng để cung ứng sự thông cảm, an ủi và
đón nhận, hơn là bất nhẫn áp đặt một mớ qui tắc chỉ làm cho người ta cảm thấy
bị xét đoán và bỏ rơi bởi chính người Mẹ được mời gọi bày tỏ cho họ thấy lòng
thương xót của Thiên Chúa. Thay vì cung ứng năng lực chữa trị của ân sủng và
ánh sáng của sứ điệp Tin Mừng, một số người sẽ “giáo điều hóa” sứ điệp ấy, biến
nó thành “những viên đá để ném vào người khác”.[37]
MỘT SỐ THÁCH ĐỐ
50.
Những phúc đáp cho hai cuộc tham vấn
tiền Thượng Hội Đồng đã đề cập đến nhiều hoàn cảnh và những thách đố mới mà các
hoàn cảnh ấy đặt ra. Ngoài tất cả những gì đã được nhắc đến, nhiều phúc đáp đã
chỉ ra những vấn đề mà các gia đình phải đối mặt trong việc nuôi dạy con cái.
Trong nhiều trường hợp, cha mẹ (từ sở làm) về nhà mệt lả, không muốn nói
chuyện, và nhiều gia đình thậm chí không còn dùng bữa chung với nhau. Bao nhiêu
thứ làm phân tán tâm trí, kể cả chứng nghiện ti-vi. Điều này làm cho cha mẹ
càng khó hơn trong việc chuyển thông đức tin cho con cái. Có những câu trả lời
lưu ý tác dụng của tình trạng áp lực đè nặng trên các gia đình, trong đó người
ta thường lo toan cho tương lai hơn là cảm nếm hiện tại. Đây là một vấn đề văn
hóa rộng lớn, càng trở nên tệ hại hơn nữa bởi những nỗi lo lắng về việc làm ổn
định, về tài chánh và về tương lai của con cái.
51.
Ma túy cũng được đề cập như một trong
những hiểm họa của thời đại chúng ta, gây bao nỗi khổ lớn lao và thậm chí phá
vỡ nhiều gia đình. Tình hình cũng như thế đối với nạn nhậu nhẹt, cờ bạc và các
thứ nghiện khác. Gia đình có thể là nơi đề phòng và khắc phục những vấn đề này,
nhưng xã hội và chính trị không nhìn thấy rằng các gia đình đang có nguy cơ
“mất khả năng hành động trong việc giúp các thành viên của mình… Chúng ta thấy
những hậu quả nghiêm trọng của thất bại này nơi các gia đình bị phân rã, nơi
những người trẻ bị trốc rễ và những người già bị hất hủi, nơi những con cái ‘mồ
côi’ dù cha mẹ vẫn đang còn sống, nơi các bạn thanh niên và những người mới
bước vào tuổi trưởng thành gặp hoang mang và không được ai nâng đỡ.”[38] Như các giám mục Mêhicô đã chỉ ra, bạo
lực trong các gia đình sinh ra những dạng mới của xung đột xã hội, vì “các mối
tương quan gia đình cũng có thể là nguyên nhân của một tính cách ưa bạo lực.
Điều này thường xảy ra với các gia đình trong đó thiếu sự liên lạc cách trầm
trọng, thái độ phòng thủ được thấy tràn lan, các thành viên không nâng đỡ nhau,
không có những hoạt động gia đình khích lệ sự nối kết, mối tương quan giữa cha
mẹ thường đầy xung đột và bạo lực, còn tương quan giữa cha mẹ và con cái thì
đầy dấu vết xung khắc. Bạo lực bên trong gia đình sản sinh ra sự phẫn uất và
căm thù ngay trong những mối tương quan nhân văn nền tảng nhất”.[39]
52.
Không ai nghĩ rằng sự suy yếu của gia
đình – trong tư cách là dạng xã hội tự nhiên đặt nền trên hôn nhân ấy – sẽ đem
lại ích lợi cho xã hội xét như một toàn thể. Điều ngược lại mới đúng: nó là mối
đe dọa cho sự trưởng thành của các cá nhân, sự vun xới các giá trị cộng đồng,
và sự thăng tiến đạo đức của các đô thị và các quốc gia. Người ta không nhận ra
rằng duy chỉ mối kết hợp độc nhất và bất khả phân ly giữa một người nam và một
người nữ mới đảm nhận vai trò đầy đủ trong xã hội xét như một mối ràng buộc
vững chắc đem lại hoa trái sự sống mới. Ta cần nhìn nhận rằng có nhiều hoàn
cảnh gia đình khác nhau có thể cung ứng một sự ổn định nào đó, nhưng những sự
kết hợp de facto hay đồng giới, chẳng hạn, thì không
thể đơn giản đánh đồng với hôn nhân. Không sự kết hợp nào chỉ có tính tạm bợ
hoặc đóng cửa đối với việc truyền sinh lại có thể bảo đảm cho tương lai của xã
hội. Nhưng hiện nay, ai là những người đang cố gắng củng cố hôn nhân, giúp các
đôi vợ chồng vượt qua những vấn đề của họ, hỗ trợ họ trong việc nuôi dạy con
cái và, nói chung, khích lệ sự ổn định của mối dây hôn phối?
53.
“Một số xã hội vẫn duy trì chế độ đa
thê; tại những nơi khác, dạng hôn phối được dàn xếp vẫn còn tiếp tục… Tại nhiều
nơi, không chỉ ở phương Tây, việc sống chung trước hôn nhân đang lan rộng, cũng
như có một kiểu chung sống mà hoàn toàn không có ý định kết hôn”.[40] Tại nhiều nước, pháp luật hậu thuẫn
cho rất nhiều dạng thức thay thế hôn nhân, mà hậu quả là hôn nhân – với những
đặc tính đơn nhất, bất khả phân ly và mở ra đón nhận sự sống – hóa ra bị coi
như là một sự chọn lựa ngổ ngáo và lỗi thời. Nhiều quốc gia đang chứng kiến một
sự phân rã hợp pháp của gia đình, hướng tới vận dụng những kiểu thức hầu như
duy chỉ đặt nền trên sự tự trị của ý chí cá nhân. Đành rằng thật là hợp lẽ và
đúng đắn việc loại bỏ những dạng thức cũ của gia đình truyền thống mang dấu ấn
của chủ nghĩa độc đoán và thậm chí bạo lực, nhưng điều này không được phép dẫn
tới việc bôi bác chính hôn nhân, mà đúng hơn phải dẫn tới việc khám phá lại ý
nghĩa đích thực của nó và canh tân nó. Sức mạnh của gia đình “nằm ở khả năng
yêu thương và dạy cách yêu thương. Bất chấp tất cả các vấn đề xảy ra cho gia
đình, nó luôn luôn có thể lớn lên, khởi đi từ tình yêu.”[41]
54.
Trong cái nhìn toát lược này, tôi
muốn nhấn mạnh rằng cho dù đã có những bước tiến quan trọng trong việc nhìn
nhận các quyền của phụ nữ và sự tham dự của họ vào đời sống công cộng, tại một
số nước vẫn còn rất nhiều việc phải làm để thăng tiến những quyền này. Những
tập tục không thể chấp nhận vẫn cần được loại bỏ. Tôi nghĩ cách riêng đến sự
bạc đãi đáng xấu hổ mà đôi khi phụ nữ phải chịu, những bạo lực trong gia đình
và rất nhiều hình thức nô dịch hóa, trong đó không hề cho thấy sức mạnh của đàn
ông mà đúng hơn chỉ là những hành động nhu nhược nhát đảm. Bạo lực trong lời
nói, trên thân thể và trong tình dục mà phụ nữ phải chịu đựng trong một số cuộc
hôn nhân là điều mâu thuẫn với chính bản chất của sự kết hợp vợ chồng. Tôi nghĩ
đến việc cắt xẻo rất đáng khiển trách trên cơ quan truyền sinh của phụ nữ, vẫn
được thực hành trong một số nền văn hóa, cũng như tình trạng phụ nữ thiếu cơ
hội bình đẳng để có được việc làm xứng đáng và có những vai trò đưa ra quyết
định. Lịch sử đã bị đè nặng bởi những thái quá của các nền văn hóa gia trưởng
vốn xem phụ nữ là thấp kém, nhưng trong thời của chúng ta, không thể bỏ qua
việc sử dụng các bà mẹ đẻ thay cũng như “việc khai thác và thương mại hóa thân
xác phụ nữ trong văn hóa truyền thông hiện nay”.[42] Có những người cho rằng nhiều vấn đề
của ngày nay đã xuất hiện là do sự giải phóng phụ nữ. Tuy nhiên, lập luận ấy
không có căn cứ, “nó sai lạc, không đúng,và nó là một hình thức của chủ nghĩa
đàn ông trị”.[43] Phẩm giá bình đẳng của nam và nữ làm
cho chúng ta vui mừng khi nhìn thấy những dạng kỳ thị của thời trước biến mất,
và trong các gia đình đang có sự tương nhượng ngày càng tăng. Trong khi một số
hình thức dấy lên của phong trào nữ quyền phải được xem là không phù hợp, thì
ta cũng phải nhìn phong trào phụ nữ như là hoạt động của Chúa Thánh Thần, để
phẩm giá và các quyền của phụ nữ được nhìn nhận rõ hơn.
55.
Người đàn ông “đóng một vai trò có
tính quyết định không kém trong đời sống gia đình, nhất là liên quan đến việc
bảo vệ và nâng đỡ vợ con… Nhiều người đàn ông ý thức tầm quan trọng của vai trò
mình đảm nhận trong gia đình, và họ sống tính cách đàn ông của mình một cách
thích đáng. Sự vắng mặt của người cha sẽ ảnh hưởng nặng nề đến đời sống gia
đình, việc nuôi dạy con cái và việc hội nhập chúng vào xã hội. Sự vắng mặt này
– có thể là vắng mặt về thể lý, tình cảm, tâm lý hay tâm linh – sẽ tước mất
khỏi con cái một hình ảnh người cha thích hợp”.[44]
56.
Một thách đố nữa được đặt ra bởi các
dạng khác nhau của một ý thức hệ về phái tính chủ trương “phủ nhận sự khác biệt
và tính hỗ tương vốn thuộc bản chất của người nam và người nữ, và hình dung một
xã hội không có những khác biệt về tình dục, từ đó loại trừ cả nền tảng nhân
học của gia đình. Ý thức hệ này dẫn đến những chương trình giáo dục và sự ban
hành các đạo luật cổ xúy một căn tính cá nhân và sự mật thiết tình cảm tách rời
hẳn khỏi những khác biệt sinh học giữa nam và nữ. Hệ quả là căn tính con người
trở thành một sự chọn lựa của cá nhân, là điều có thể thay đổi qua thời gian”.[45] Thật rất đáng ưu tư khi một số ý thức
hệ loại này – vốn nhằm đáp ứng những cảm hứng đôi khi là chính đáng – có thể tự
khẳng định như một cái gì tuyệt đối và không thể chất vấn, thậm chí chúng qui
định cả cách mà người ta phải nuôi dạy con cái nữa. Cần nhấn mạnh rằng “giới
tính sinh học và vai trò văn hóa xã hội của giới tính là những thứ có thể phân
biệt nhau nhưng không tách rời nhau”.[46] Đàng khác, “cuộc cách mạng công nghệ
trong lãnh vực sinh sản của con người đã dẫn đến khả năng bóp méo hành động
truyền sinh, làm cho nó độc lập đối với mối tương quan tính dục giữa một người
nam và một người nữ. Theo đó, sự sống con người và tư cách cha mẹ đã trở thành
những chi tiết rời và những thực tại có thể bóc tách được, chủ yếu tùy vào ước
muốn của các cá nhân hay của các đôi bạn”.[47] Việc thông cảm sự yếu đuối của con
người và những phức tạp của cuộc sống, đó là một chuyện; còn việc chấp nhận
những ý thức hệ nhắm làm phân rã những khía cạnh bất khả phân ly của thực tại,
thì đó lại là chuyện khác. Chúng ta đừng rơi vào tội cả gan thay thế Đấng Tạo
Hóa. Chúng ta là những thụ tạo, và chúng ta không toàn năng. Công trình sáng
tạo có trước chúng ta và phải được đón nhận như một quà tặng. Đồng thời, chúng
ta được mời gọi bảo vệ nhân tính của mình, và điều này trước hết có nghĩa là đón
nhận nhân tính ấy và tôn trọng nó như nó đã được sáng tạo nên.
57.
Tôi tạ ơn Thiên Chúa về nhiều gia
đình, dù họ không hề dám tự nghĩ mình hoàn hảo, nhưng đang sống trong yêu
thương, đang chu toàn tiếng gọi của mình và tiếp tục bước tới, cho dẫu họ vấp ngã
nhiều lần trên đường đi. Những suy tư của Thượng Hội Đồng cho chúng ta thấy
rằng không có nguyên mẫu cho gia đình lý tưởng, mà đúng hơn đó là một bức khảm
đầy thách đố hình thành từ nhiều thực tại khác nhau, với tất cả những niềm vui,
hy vọng, và những vấn đề. Các hoàn cảnh liên quan tới chúng ta quả là những
thách đố. Chúng ta không nên mắc kẹt trong việc phung phí năng lực vào những
than thở ai oán, thay vào đó hãy tìm kiếm những hình thức mới cho tính sáng tạo
trong sứ mạng. Bất luận tình huống nào, “Giáo Hội vẫn ý thức rằng cần phải cung
ứng một lời của sự thật và hy vọng… Các giá trị lớn lao của hôn nhân và của gia
đình Kitô giáo tương ứng với một khát vọng gắn không rời với hiện sinh con
người”.[48] Dù chúng ta nhìn thấy bao nhiêu vấn đề
đi nữa, thì – theo cách nói của các giám mục Colombia – những vấn đề ấy nên là
một lời hiệu triệu chúng ta “khôi phục niềm hy vọng của mình, biến chúng thành
nguồn của những tầm nhìn ngôn sứ, những hành động chuyển hóa, và những dạng
thức đầy sáng tạo của đức ái”.[49]
CHƯƠNG BA:
HƯỚNG NHÌN ĐỨC GIÊSU:
ƠN GỌI CỦA GIA ĐÌNH
58.
Trong và giữa các gia đình, sứ điệp
Tin Mừng cần phải luôn vang vọng; cốt lõi của sứ điệp ấy, tức lời rao giảng
tiên khởi (kerygma), là phần “đẹp nhất, trỗi vượt nhất, đánh động nhất và đồng
thời cần thiết nhất”.[50] Sứ điệp này “phải chiếm chỗ trung tâm
trong tất cả hoạt động Phúc Âm hóa”.[51] Đó là lời rao giảng đầu tiên và quan
trọng nhất, “mà chúng ta phải nghe đi nghe lại bằng nhiều cách khác nhau, và
phải luôn luôn loan báo bằng cách này hay cách khác”.[52] Thật vậy, “không có gì vững chắc, thâm
sâu, bảo đảm, súc tích và khôn ngoan hơn sứ điệp ấy”. Do đó, “mọi sự đào tạo
Kitô giáo đều bao hàm việc đi sâu hơn vào trong lời rao giảng tiên khởi”.[53]
59.
Giáo huấn của chúng ta về hôn nhân và
gia đình nhất thiết phải được gợi hứng và chuyển hóa bởi sứ điệp yêu thương và
dịu dàng này; nếu không, nó chẳng là gì ngoài sự bảo vệ cho một giáo điều khô
khan và thiếu sinh khí. Mầu nhiệm gia đình Kitô giáo chỉ có thể được nhận hiểu
đầy đủ trong ánh sáng tình yêu vô hạn của Chúa Cha, được mạc khải nơi Đức Kitô,
Đấng đã hiến mình vì chúng ta và vẫn tiếp tục cư ngụ giữa chúng ta. Giờ đây tôi
muốn hướng ánh nhìn đến Đức Kitô hằng sống, Đấng nằm ở trung tâm của biết bao
câu chuyện tình yêu, và khẩn cầu ngọn lửa Thánh Thần xuống trên mọi gia đình
của thế giới này.
60.
Chương ngắn này, vì thế, sẽ toát lược
giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình. Ở đây tôi cũng sẽ đề cập những
gì các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nói về ánh sáng nhận được từ đức tin của
chúng ta. Các Nghị Phụ bắt đầu với ánh nhìn của Đức Giêsu, các ngài nói về cách
mà Đức Giêsu “nhìn những con người, nam và nữ, mà Người gặp gỡ, với tình yêu và
sự dịu dàng, đồng hành với những bước chân của họ trong sự thật, kiên nhẫn và
thương xót, như những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa mà Người đã công bố”.[54] Chúa cũng ở với chúng ta hôm nay, khi
chúng ta tìm cách thực hành và chuyển đạt Tin Mừng về gia đình.
ĐỨC GIÊSU KHÔI PHỤC VÀ HOÀN THÀNH
CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA
61.
Đối ngược với những kẻ tẩy chay hôn
nhân vì coi đó là sự dữ, Tân Ước dạy rằng “mọi sự Thiên Chúa dựng nên đều tốt
và không được loại bỏ bất cứ gì” (1Tm 4,4). Hôn nhân là “một quà tặng” của Chúa
(1Cr 7,7). Đồng thời, chính do ý nghĩa tích cực này mà Tân Ước mạnh mẽ nêu bật
sự cần thiết phải giữ gìn quà tặng của Thiên Chúa: “Ai nấy phải tôn trọng hôn
nhân, chớ làm cho loan phòng ra ô uế” (Dt 13,4). Quà tặng thần linh này có bao
gồm tính dục: “Đừng từ chối nhau” (1Cr 7,5).
62.
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận
rằng Đức Giêsu, “khi nói về kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa cho người nam
và người nữ, đã tái khẳng định mối kết hợp bất khả phân ly giữa họ, thậm chí
Người tuyên bố rằng ‘vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các
ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu’ (Mt 19,8). Tính bất khả phân ly
của hôn nhân – tức “điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly’
(Mt 19,6) – không nên được nhìn như một ‘cái ách’ áp đặt lên con người, nhưng
như một ‘quà tặng’ được ban cho những ai gắn kết với nhau trong hôn nhân… Tình
thương khoan dung của Thiên Chúa luôn luôn đi theo hành trình cuộc đời chúng
ta; qua ân sủng, tình thương ấy chữa trị và biến đổi những trái tim chai cứng,
dẫn chúng về lại từ đầu xuyên qua con đường thập giá. Tin Mừng trình bày rất rõ
mẫu gương của Đức Giêsu, Đấng công bố ý nghĩa của hôn nhân như sự tròn đầy của
mạc khải có sức vãn hồi kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa (x. Mt 19,3)”.[55]
63.
“Đức Giêsu, Đấng hòa giải mọi sự nơi
chính Người, đã phục hồi hôn nhân và gia đình theo dạng thức nguyên thủy (x. Mt
10,1-12). Hôn nhân và gia đình đã được cứu chuộc bởi Đức Kitô (x. Ep 5,21-32)
và được khôi phục theo hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi, là mầu nhiệm mà từ đó mọi
tình yêu đích thực tuôn trào ra. Giao ước vợ chồng, bắt nguồn trong sáng tạo và
được mạc khải trong lịch sử cứu độ, đạt được ý nghĩa đầy đủ của nó trong Đức
Kitô và Giáo Hội của Người. Qua Giáo Hội, Đức Kitô ban cho hôn nhân và gia đình
ơn sủng cần thiết để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa và để sống hiệp
thông. Tin Mừng về gia đình trải suốt dòng lịch sử thế giới, từ việc sáng tạo
người nam và người nữ theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa (x. St
1,26-27), cho tới sự hoàn thành mầu nhiệm giao ước trong Đức Kitô ở cuối thời
gian với hôn lễ Chiên Con (x. Kh 19,9)”.[56]
64.
“Mẫu gương của Đức Giêsu là một kiểu
thức cho Giáo Hội… Người bắt đầu sứ vụ công khai của Người với phép lạ tại tiệc
cưới
65.
Cuộc nhập thể của Lời trong một gia
đình nhân loại, ở Nadarét, bằng chính tính mới mẻ của nó đã thay đổi lịch sử
thế giới. Chúng ta cần đi vào trong mầu nhiệm Giáng Sinh của Đức Giêsu, đi vào
trong tiếng “xin vâng” của Maria đáp lại sứ điệp của thiên thần, khi Lời được
thành thai trong cung lòng Mẹ, cũng như tiếng “xin vâng” của Giuse, người đã
đặt tên cho Giêsu và đã chăm sóc Maria. Chúng ta cần chiêm ngắm niềm vui của
các mục đồng trước máng cỏ, sự tôn thờ của các nhà chiêm tinh và cuộc trốn chạy
sang Ai Cập, trong đó Đức Giêsu chia sẻ kinh nghiệm lưu đày, tình trạng bị bách
hại và nhục nhã của dân Người. Chúng ta cần chiêm ngắm mối kỳ vọng đầy lòng mộ
đạo của Dacaria và niềm vui của ông khi Gioan Tẩy Giả chào đời, sự ứng nghiệm
của lời hứa được ban cho Simêon và Anna trong Đền Thờ, và thái độ sửng sốt của
các kinh sư khi lắng nghe sự khôn ngoan của trẻ Giêsu. Rồi chúng ta cần nhìn
chăm chú vào ba mươi năm ròng rã ấy, trong đó Đức Giêsu sinh sống bằng chính
lao động của đôi tay mình, khi Người đọc các kinh nguyện truyền thống, các diễn
tả đức tin của dân tộc mình, và nhận biết đức tin của cha ông, cho tới khi
Người làm cho đức tin ấy sinh hoa trái trong mầu nhiệm về Nước Trời. Đó là mầu
nhiệm Giáng Sinh và bí mật Nadarét, tỏa ra vẻ đẹp của đời sống gia đình! Chính
mầu nhiệm này đã cuốn hút Phanxicô Assisi, Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Charles de
Foucauld, và vẫn tiếp tục đổ đầy hy vọng và niềm vui cho các gia đình Kitô hữu.
66.
“Giao ước yêu thương và trung thành
được sống bởi Thánh Gia Nadarét soi sáng cho nguyên tắc giúp định hình mọi gia
đình, và giúp gia đình có thể đương đầu tốt hơn với những thăng trầm của cuộc
sống và của lịch sử. Trên nền tảng này, mọi gia đình, bất chấp những yếu kém,
có thể trở thành một ánh sáng trong đêm tối của thế giới. ‘Nadarét dạy chúng ta
ý nghĩa của đời sống gia đình, mối hiệp thông yêu thương của nó, vẻ đẹp đơn sơ
và giản dị của nó, đặc tính thánh thiêng và bất khả xâm phạm của nó. Ước gì nó
dạy ta nhận hiểu trường đào tạo của nó ngọt ngào và bất khả thay thế như thế
nào, nhận hiểu vai trò của nó đối với trật tự xã hội có tính nền tảng và độc
đáo như thế nào’ (Phaolô VI, Diễn từ
tại Nadarét, 5.1.1964)”.[58]
GIA ĐÌNH TRONG
CÁC VĂN KIỆN CỦA GIÁO HỘI
67.
Công đồng Vatican II, trong Hiến chế
Mục vụ Gaudium
et Spes, bày tỏ ưu tư về sự “thăng tiến phẩm giá của hôn nhân và
gia đình (x. các số 47-52)”. Hiến chế này “định nghĩa hôn nhân là một cộng đồng
sự sống và tình yêu (x. 48), đặt tình yêu ở trung tâm gia đình… ‘Tình yêu đích
thực giữa vợ và chồng (49) gắn liền với việc tự hiến cho nhau, bao gồm và hội
nhập những chiều kích tính dục và tình cảm, phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa
(x. 48-49)”. Văn kiện này của Công đồng cũng nhấn mạnh “việc đôi vợ chồng cắm
rễ trong Đức Kitô. Đức Kitô ‘đích thân hiện diện với đôi vợ chồng Kitô hữu
trong Bí tích Hôn phối’ (48) và vẫn ở lại với họ. Trong cuộc nhập thể, Người
đảm nhận tình yêu nhân loại, thanh luyện nó và đem nó đến chỗ viên mãn. Nhờ
Thánh Thần của Người, Người trao cho đôi vợ chồng khả năng sống tình yêu ấy,
làm thấm nhuần mọi khía cạnh của đời sống họ bằng đức tin, đức cậy và đức ái.
Nhờ đó, đôi vợ chồng được thánh hiến, và nhờ một ân sủng đặc biệt họ xây dựng
Thân Mình Đức Kitô và làm nên Hội Thánh tại gia (x. Lumen Gentium, 11), để cho Giáo Hội,
nếu muốn hiểu biết đầy đủ mầu nhiệm của mình, sẽ hướng nhìn gia đình Kitô hữu,
là sự thể hiện của Giáo Hội một cách thực tiễn”.[59]
68.
“Chân Phước Phaolô VI, ngay sau Công
đồng Vatican II, đã phát triển thêm giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia
đình. Đặc biệt, với Thông điệp Humanae
Vitae, ngài chỉ ra mối gắn kết nội tại giữa tình yêu vợ chồng và
việc sinh sản: ‘Tình yêu hôn nhân đòi hỏi người chồng và người vợ ý thức đầy đủ
về các nghĩa vụ của mình trong vấn đề làm cha mẹ có trách nhiệm, điều mà ngày
nay người ta có lý để nhấn mạnh rất nhiều, nhưng đồng thời đó cũng là điều cần
phải được hiểu đúng… Việc thực thi vai trò làm cha mẹ có trách nhiệm đòi hỏi
rằng người chồng và vợ, giữ một thứ tự đúng đắn các mối ưu tiên, phải nhận ra
các bổn phận của mình đối với Thiên Chúa, với chính mình, với gia đình mình và
với xã hội con người’ (số 10). Trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi, Đức Phaolô VI đã
nhấn mạnh mối tương quan giữa gia đình và Giáo Hội”.[60]
69.
“Thánh Gioan Phaolô II dành quan tâm
đặc biệt cho gia đình trong những bài giáo lý của ngài về tình yêu nhân loại,
trong Thư của ngài gửi các gia đình, Gratissimam
Sane, và nhất là trong Tông huấnFamiliaris Consortio. Trong những văn
kiện này, vị Giáo hoàng đã định nghĩa gia đình là ‘con đường của Giáo Hội’.
Ngài cũng đưa ra một tầm nhìn chung về ơn gọi của những người nam và nữ, đó là
yêu thương, và ngài đề ra những hướng dẫn căn bản cho sự săn sóc mục vụ đối với
gia đình, cũng như cho vai trò của gia đình trong xã hội. Cách riêng, khi nói
về tình yêu vợ chồng (x. số 13), ngài mô tả cách mà các đôi vợ chồng, trong
tình yêu thương nhau, nhận được quà tặng bởi Thánh Thần của Đức Kitô và đáp trả
tiếng gọi nên thánh dành cho mình”.[61]
70.
“Giáo hoàng Bênêđictô XVI, trong
Thông điệp Deus
Caritas Est, đã trở lại với chủ đề về sự thật của tình yêu nam nữ,
vốn chỉ được soi sáng đầy đủ trong tình yêu của Đức Kitô chịu đóng đinh (x. số
2). Ngài nhấn mạnh rằng ‘hôn nhân, dựa trên một tình yêu dứt khoát và độc hữu,
trở thành một biểu tượng của mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và
ngược lại. Cung cách yêu thương của Thiên Chúa trở thành thước đo cho tình yêu
nhân loại’ (11). Hơn nữa, trong Thông điệp Caritas
in Veritate, ngài nêu bật tầm quan trọng của tình yêu như một
nguyên tắc cho đời sống trong xã hội (x. 44), nơi mà ở đó chúng ta học kinh
nghiệm về thiện ích chung”.[62]
BÍ TÍCH HÔN PHỐI
71.
“Thánh Kinh và Truyền Thống trao cho
chúng ta nẻo đường tiếp cận để nhận thức về Chúa Ba Ngôi, được mạc khải với
những nét của một gia đình. Gia đình là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng là sự
hiệp thông của các ngôi vị. Khi Đức Kitô chịu Phép Rửa, tiếng Chúa Cha vang
lên, gọi Đức Giêsu là Con yêu dấu, và trong tình yêu này chúng ta có thể nhận
ra Chúa Thánh Thần (x. Mc 1,10-11). Đức Giêsu, Đấng hòa giải mọi sự nơi chính
Người và đã cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi, không chỉ trả hôn nhân và gia đình
về dạng thức nguyên thủy của nó, mà còn nâng hôn nhân lên thành dấu hiệu bí
tích của tình yêu mà Người dành cho Giáo Hội (x. Mt 19,1-12; Mc 10,1-12; Ep
5,21-32). Trong gia đình nhân loại, được qui tụ bởi Đức Kitô, “hình ảnh và sự
giống với” Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh (x. St 1,26) đã được phục hồi, đó là mầu
nhiệm mà từ đó mọi tình yêu đích thực tuôn tràn ra. Xuyên qua Giáo Hội, hôn
nhân và gia đình đón nhận ân sủng Chúa Thánh Thần từ Đức Kitô, để làm chứng cho
Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa”.[63]
72.
Bí tích Hôn Phối không phải là một
qui ước xã hội, một nghi thức trống rỗng, hay duy chỉ là dấu hiệu bên ngoài của
một cam kết. Bí tích này là một quà tặng nhắm đến sự thánh hóa và ơn cứu độ của
đôi vợ chồng, vì “việc họ thuộc về nhau là một diễn tả thực sự, qua dấu chỉ bí
tích, về chính mối tương quan giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Vì thế đôi bạn kết
hôn là một sự nhắc nhớ thường hằng cho Giáo Hội về điều đã xảy ra trên thập
giá; đối với nhau và đối với con cái, họ là những chứng nhân của ơn cứu độ mà
họ tham dự nhờ bí tích này”.[64] Hôn nhân là một ơn gọi, xét như đó là
sự đáp trả trước một tiếng gọi đặc biệt đưa người ta vào kinh nghiệm tình yêu
vợ chồng, như một dấu hiệu không hoàn hảo của tình yêu giữa Đức Kitô và Hội
Thánh. Vì thế, quyết định kết hôn và xây dựng gia đình phải là kết quả của một
tiến trình phân định ơn gọi.
73.
“Việc tự hiến cho nhau trong Bí tích
Hôn Phối cắm rễ trong ơn Phép Rửa, ở đó giao ước nền tảng được thiết lập giữa
mỗi người với Đức Kitô, trong Giáo Hội. Khi đón nhận nhau, và với ơn sủng của
Đức Kitô, đôi bạn hứa với nhau sẽ hoàn toàn tự hiến cho nhau, trung thành với
nhau và sẵn sàng cởi mở đón nhận sự sống mới. Đôi bạn nhìn nhận đó là những yếu
tố thiết yếu của hôn nhân, những quà tặng được Thiên Chúa ban cho mình, và
nghiêm túc cam kết thuộc về nhau, nhân danh Thiên Chúa và trước sự hiện diện
của Giáo Hội. Như vậy đức tin làm cho họ có thể đảm nhận những thiện ích của
hôn nhân, như những sự cam kết dấn thân, những cam kết mà họ có thể giữ tốt hơn
nhờ sự hỗ trợ của ơn sủng bí tích… Vì thế, Giáo Hội nhìn đôi bạn như trái tim
của toàn thể gia đình, và đến lượt mình, đôi bạn hướng nhìn Đức Giêsu”.[65] Bí tích Hôn Phối không phải là một
“vật” hay một “quyền lực” gì đó, vì trong bí tích này chính Đức Kitô “giờ đây
gặp gỡ đôi vợ chồng Kitô hữu… Người cư ngụ với họ, trao cho họ sức mạnh để vác
thập giá của họ và đi theo Người, để đứng lên mỗi khi vấp ngã, để tha thứ cho
nhau, và để mang lấy gánh nặng của nhau”.[66] Hôn nhân Kitô giáo là một dấu hiệu cho
thấy Đức Kitô yêu Giáo Hội của Người biết bao trong giao ước được đóng ấn trên
thập giá, nhưng nó cũng làm cho tình yêu ấy hiện diện trong mối hiệp thông của
đôi vợ chồng. Bằng cách trở nên một xương một thịt, họ diễn tả việc Con Thiên
Chúa đón lấy bản tính nhân loại của chúng ta. Vì thế “trong niềm vui của tình
yêu và của đời sống gia đình, ngay trong đời sống dương thế này họ được Đức
Kitô cho cảm nếm trước tiệc cưới của Chiên Con”.[67] Mặc dù sự so sánh loại suy giữa đôi vợ
chồng nhân loại và mối tương quan giữa Đức Kitô và Hội Thánh của Người thì
“không hoàn toàn tương ứng”,[68] nó cũng thúc đẩy chúng ta nài xin Chúa
ban cho mọi đôi vợ chồng dồi dào tình yêu thần linh của Người.
74.
Sự kết hợp tính dục, được cảm nghiệm
với đầy yêu thương và được thánh hóa bởi Bí tích Hôn Phối, đến lượt nó trở
thành một nẻo đường để lớn lên trong đời sống ân sủng cho đôi vợ chồng. Đó là
“mầu nhiệm kết hợp phu phụ”.[69] Ý nghĩa và giá trị của sự kết hợp thể
lý được diễn tả trong những lời ưng thuận, trong đó người này chấp nhận và trao
hiến chính mình cho người kia, để chia sẻ toàn thể cuộc sống với nhau. Những
lời ấy trao ý nghĩa cho mối tương quan tính dục và giải phóng nó khỏi sự hàm
hồ. Nói cách khái quát hơn, đời sống chung của vợ chồng, toàn thể mạng lưới các
mối quan hệ mà họ xây dựng với con cái và với thế giới xung quanh, sẽ được nhận
chìm trong ân sủng của bí tích và được củng cố bởi ân sủng ấy. Vì Bí tích Hôn
Phối phát nguồn từ cuộc nhập thể và từ mầu nhiệm Vượt Qua, ở đó Thiên Chúa cho
thấy sự viên mãn của tình yêu mà Ngài dành cho con người qua việc trở thành một
người giữa chúng ta. Không có người vợ hay người chồng nào sẽ đơn độc khi đối
diện với bất luận thách đố nào xuất hiện trên đường mình đi. Cả hai được mời
gọi đáp lại quà tặng của Thiên Chúa với thái độ dấn thân, sáng tạo, kiên trung,
và với sự cố gắng mỗi ngày. Họ luôn luôn có thể khẩn cầu sự trợ giúp của Chúa
Thánh Thần, Đấng đã thánh hiến mối kết hợp của họ, để họ cảm nghiệm được ân
sủng của Ngài trong mọi hoàn cảnh mới mà họ gặp.
75.
Trong truyền thống Giáo Hội La tinh,
các thừa tác viên của Bí tích Hôn Phối là chính người nam và người nữ đang kết
hôn;[70] qua việc bày tỏ sự ưng thuận và diễn
tả nó một cách cụ thể, họ nhận được một quà tặng lớn lao. Sự ưng thuận của họ
và sự kết hợp thân xác là phương tiện được Thiên Chúa đặt định nhờ đó họ trở
nên “một xương một thịt”. Nhờ sự thánh hiến trong Phép Rửa, họ được trao khả
năng bước vào hôn nhân trong tư cách những thừa tác viên của Chúa, và do đó có
thể đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. Vì thế, khi đôi bạn ngoài Kitô giáo lãnh
Phép Rửa, họ không cần lặp lại những lời hứa kết hôn; chỉ cần họ đừng loại bỏ
các lời hứa ấy, vì do việc lãnh Phép Rửa, sự kết hợp của họ trở nên bí tích một
cách tự động. Giáo Luật cũng nhìn nhận tính hữu hiệu của một số sự kết hợp được
cử hành mà không có sự hiện diện của một thừa tác viên chức thánh.[71] Trật tự tự nhiên đã được thấm đẫm ơn
cứu chuộc của Đức Giêsu đến nỗi “một khế ước hôn nhân hữu hiệu không thể tồn
tại giữa những người đã nhận Phép Rửa nếu khế ước ấy không phải là một bí
tích”.[72] Giáo Hội có thể đòi hỏi rằng lễ cưới
phải được cử hành công khai, với sự hiện diện của những người làm chứng, và
những điều kiện khác nữa vốn thay đổi qua thời gian, nhưng điều này không hề
làm sút giảm sự thật rằng chính đôi bạn kết hôn là những thừa tác viên của bí
tích. Nó cũng không ảnh hưởng đến tính cốt lõi của sự ưng thuận được diễn tả bởi
người nam và người nữ, tự nó sự ưng thuận này thiết lập mối dây bí tích. Với
tất cả những gì đã đề cập như thế, vẫn cần phải suy tư thêm về hành động của
Thiên Chúa trong nghi thức hôn phối; điều này được thể hiện rõ ràng trong các
Giáo Hội Đông phương với tầm quan trọng của việc chúc phúc cho đôi bạn như dấu
chỉ của ân huệ Thánh Thần.
HẠT GIỐNG CỦA LỜI VÀ
NHỮNG HOÀN CẢNH BẤT TOÀN
76.
“Tin Mừng về gia đình cũng nuôi dưỡng
những hạt giống vẫn còn đang đợi phát triển, và phục vụ như cơ sở cho việc chăm
sóc những cây đang héo rủ mà ta không được dửng dưng.”[73] Như thế, được xây dựng trên ân ban của
Đức Kitô trong bí tích, đôi vợ chồng “có thể được hướng dẫn bền bỉ tiến tới, để
đạt được một sự nắm hiểu sâu xa hơn và một sự hội nhập đầy đủ hơn mầu nhiệm này
trong đời sống của họ”.[74]
77.
Dựa vào giáo huấn của Thánh Kinh rằng
mọi sự đã được tạo dựng nhờ Đức Kitô và cho Đức Kitô (x. Cl 1,16), các Nghị Phụ
Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “trật tự cứu chuộc soi sáng và hoàn thành trật tự
sáng tạo. Vì thế, hôn nhân tự nhiên được nhận hiểu đầy đủ trong ánh sáng sự
hoàn thành của nó trong Bí tích Hôn Phối: chỉ bằng cách chiêm ngắm Đức Kitô
người ta mới có thể đạt đến hiểu biết sự thật sâu xa nhất về các mối tương quan
nhân loại. ‘Chỉ trong mầu nhiệm Lời Nhập Thể mầu nhiệm con người mới được soi
sáng… Qua mạc khải mầu nhiệm của Chúa Cha và tình yêu của Ngài, Đức Kitô, Ađam
mới, cho con người thấy đầy đủ về chính mình và làm cho ơn gọi nền tảng nhất
của con người nên rõ ràng’ (Gaudium et Spes, 22). Thật rất hữu ích
việc nhận hiểu thiện ích của đôi vợ chồng qua chìa khóa qui Kitô (bonum
coniugum)”,[75] những thiện ích ấy bao gồm sự hiệp
nhất, sự mở ra đón nhận sự sống, lòng chung thủy, tính bất khả phân ly, và –
trong hôn nhân Kitô giáo – sự nâng đỡ nhau trên con đường hướng đến tình thân
hữu trọn vẹn với Chúa. “Việc phân định sự hiện diện của ‘các hạt giống Lời’
trong các nền văn hóa khác (x. Ad Gentes 11) cũng có thể áp dụng cho thực tại
hôn nhân và gia đình. Bên cạnh hôn nhân tự nhiên đích thực, các yếu tố tích cực
cũng tồn tại trong những dạng hôn nhân được gặp thấy trong các truyền thống tôn
giáo khác”,[76] dù cho đôi khi chỉ thấy rất mờ nhạt.
Chúng ta có thể mạnh dạn nói rằng “bất cứ ai muốn đem lại cho thế giới này một
gia đình mà ở đó con cái được dạy biết vui thích mọi hành động nhắm thắng vượt
sự dữ – một gia đình cho thấy rằng Thánh Thần đang sống hoạt và hành động – thì
sẽ nhận được lòng biết ơn và sự trân trọng của chúng ta. Cho dẫu họ thuộc dân
tộc, tôn giáo hay vùng miền nào đi nữa!”[77]
78.
“Ánh sáng Đức Kitô chiếu soi mọi
người (x. Ga 1,9; Gaudium
et Spes, 22). Việc nhìn mọi sự với đôi mắt của Đức Kitô sẽ gợi cảm
hứng cho Giáo Hội trong việc chăm sóc mục vụ các tín hữu đang sống với nhau,
hay chỉ kết hôn dân sự, hay đã ly dị và tái hôn. Đi theo khoa sư phạm thần linh
này, Giáo Hội ân cần hướng đến những ai tham dự vào đời sống của mình trong một
cách thế không hoàn hảo: Giáo Hội tìm kiếm ơn hoán cải cho họ; Giáo Hội khích
lệ họ làm điều thiện, ân cần chăm sóc lẫn nhau và phục vụ cộng đồng nơi họ sống
và làm việc… Khi một đôi bạn trong mối kết hợp bất thường đạt được một sự ổn
định đáng ghi nhận xuyên qua một mối ràng buộc công khai – và được đặc trưng
bởi tình cảm sâu xa, trách nhiệm đối với con cái và khả năng vượt qua các thử
thách – thì điều này có thể được coi như một cơ hội, để nếu có thể, dẫn họ tới
việc cử hành Bí tích Hôn Phối”.[78]
79.
“Khi đứng trước những hoàn cảnh khó
khăn và những gia đình bị thương tích, luôn luôn cần phải nhớ lại nguyên tắc
chung này: ‘Các mục tử phải biết rằng, vì sự thật, họ buộc phải cẩn thận phân
định các hoàn cảnh’ (Familiaris Consortio, 84). Mức trách
nhiệm không ngang nhau trong mọi trường hợp, và có thể tồn tại các yếu tố làm
hạn chế khả năng quyết định. Vì thế, trong khi nêu rõ ràng giáo huấn của Giáo
Hội, các mục tử phải tránh những phán đoán không xét đến sự phức tạp của các
hoàn cảnh khác nhau, và các ngài cần lưu tâm đến nỗi khổ mà người ta đang chịu
do tình trạng của họ”.[79]
THÔNG TRUYỀN SỰ SỐNG
VÀ NUÔI DẠY CON CÁI
80.
Hôn nhân trước hết là một “liên kết
mật thiết của sự sống và tình yêu”[80] vốn là một thiện ích cho chính đôi vợ
chồng,[81] trong khi tính dục được “sắp xếp cho
tình yêu phu phụ giữa người nam và người nữ”.[82] Theo đó thì “những vợ chồng mà Thiên
Chúa không ban con cái vẫn có thể có một đời sống phu phụ đầy ý nghĩa, xét cả
về nhân bản lẫn Kitô giáo”.[83] Tuy nhiên, mối kết hợp vợ chồng “tự
bản tính của nó” được sắp xếp để sinh sản.[84] Đứa con được sinh ra không đến từ bên
ngoài như thể một cái gì được đính thêm vào tình yêu thương nhau giữa vợ chồng,
nhưng đứa con phát xuất từ chính trung tâm của việc trao hiến cho nhau, như hoa
trái và sự hoàn thành của việc trao hiến ấy”.[85] Đứa con không xuất hiện ở cuối một
tiến trình, nhưng hiện diện từ đầu của tình yêu như nét thiết yếu, và nó không
thể bị phủ nhận nếu không muốn làm méo mó chính tình yêu ấy. Ngay từ đầu, tình
yêu từ khước mọi sức ép đóng kín với chính mình; nó mở ra cho khả năng sinh hoa
trái có sức thúc đẩy tình yêu vượt quá chính nó. Vì thế không một hành vi giao
hợp vợ chồng nào có thể khước từ ý nghĩa này,[86] ngay cả dù, vì nhiều lý do, nó có thể
không luôn luôn thực sự đem lại một sự sống mới.
81.
Đứa con xứng đáng được sinh ra từ
tình yêu như thế, chứ không phải bằng bất cứ phương tiện nào khác, vì “đứa con
không phải là một món nợ trả cho người ta, nhưng là một quà tặng”,[87] đứa con là “hoa trái của hành vi
chuyên biệt của tình yêu phu phụ giữa cha mẹ”.[88] Đó là sự thật, bởi vì “theo trật tự
sáng tạo, tình yêu phu phụ giữa một người nam và một người nữ, và sự thông
truyền sự sống, hai thực tại này được sắp xếp cho nhau (x. St 1,27-28). Vì thế
Đấng Sáng Tạo đã làm cho người nam và người nữ tham dự vào công trình sáng tạo
của Ngài, và đồng thời làm cho họ thành những dụng cụ diễn tả tình yêu của
Ngài, ủy thác cho họ trách nhiệm đối với tương lai của loài người xuyên qua
việc thông truyền sự sống con người”.[89]
82.
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng tuyên bố
rằng “sự lan tràn của một não trạng muốn giảm trừ việc thông truyền sự sống con
người đến chỉ còn là một ý muốn thất thường của những kế hoạch cá nhân hay của
đôi bạn, đó là điều quá rõ ràng”.[90] Giáo huấn của Giáo Hội nhằm “giúp các
vợ chồng kinh nghiệm, một cách trọn vẹn, hòa điệu và ý thức, về mối hiệp thông
vợ chồng của họ, cũng như về trách nhiệm của họ đối với việc sinh sản. Chúng ta
cần trở lại với Thông điệp Humanae Vitae của Chân Phước Phaolô VI, trong đó
nhấn mạnh sự cần thiết phải tôn trọng phẩm giá của nhân vị khi đánh giá về mặt
đạo đức những phương pháp điều hòa sinh sản… Việc chọn lựa con nuôi cũng có thể
diễn tả hoa trái vốn là đặc trưng của đời sống vợ chồng”.[91] Với lòng biết ơn đặc biệt, Giáo Hội
“ủng hộ các gia đình đón nhận, nuôi dưỡng và bao bọc bằng tình thương những con
cái bị các khuyết tật khác nhau”.[92]
83.
Ở đây tôi thấy thật khẩn thiết phải
tuyên bố rằng nếu gia đình là cung thánh của sự sống, là nơi mà sự sống được
thai nghén và chăm sóc, thì quả là mâu thuẫn khủng khiếp khi nó trở thành một
nơi mà sự sống bị loại bỏ và hủy diệt. Giá trị của sự sống con người cao cả
biết bao, và quyền được sống của một trẻ thơ vô tội lớn lên trong cung lòng
người mẹ là quyền bất khả nhượng, đến nỗi không ai có thể viện lẽ rằng mình có
quyền trên thân thể mình để biện minh cho quyết định chấm dứt sự sống ấy, vốn
là cứu cánh nơi chính nó, và không bao giờ có thể bị xem như “tài sản” của một
con người khác. Gia đình bảo vệ sự sống con người trong mọi giai đoạn của nó,
kể cả giai đoạn cuối cùng. Do đó, “những ai làm việc trong các cơ sở y tế được
nhắc nhớ về bổn phận luân lý phải biết phản đối theo lương tâm. Cũng vậy, Giáo
Hội không chỉ cảm thấy cần phải khẳng định quyền được chết tự nhiên, không chấp
nhận sự can thiệp thô bạo và cái chết êm dịu (euthanasia)”, mà Giáo Hội còn
“mạnh mẽ phản đối án tử hình” nữa.[93]
84.
Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng
muốn nhấn mạnh rằng “một trong những thách đố nền tảng mà các gia đình hôm nay
phải đối mặt, đó hẳn là việc nuôi dạy con cái, việc này càng khó khăn và phức
tạp hơn nữa do thực tế văn hóa thời nay và do ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền
thông”.[94] “Giáo Hội đảm nhận một vai trò đầy ý
nghĩa trong việc nâng đỡ các gia đình, bắt đầu với việc khai tâm Kitô giáo,
xuyên qua các cộng đoàn luôn sẵn sàng đón tiếp”.[95] Đồng thời tôi cảm thấy thật quan trọng
việc lặp lại rằng toàn bộ việc giáo dục con cái là một “bổn phận hệ trọng nhất”
và đồng thời là một “quyền bậc nhất” của cha mẹ.[96] Đây không chỉ là một công tác hay một
gánh nặng, nhưng còn là một quyền thiết yếu và bất khả nhượng mà cha mẹ được
mời gọi để bảo vệ và không ai có thể tước nó khỏi cha mẹ. Nhà nước cung ứng các
chương trình giáo dục một cách bổ trợ, hỗ trợ các cha mẹ trong vai trò không
thể phủ nhận này của họ; cha mẹ giữ quyền tự do chọn lựa loại giáo dục – có
phẩm chất tốt và tiếp cận được – mà họ muốn trao cho con cái mình, phù hợp với
những xác tín của họ. Trường học không thay thế cha mẹ, nhưng chỉ bổ sung thôi.
Đây là một nguyên tắc căn bản: “tất cả những người tham dự vào tiến trình giáo
dục chỉ có thể thi hành trách nhiệm của mình nhân danh các phụ huynh, với sự
đồng thuận của phụ huynh và, trong mức độ nào đó, với sự ủy quyền của các phụ
huynh”.[97] Thế nhưng, “một kẽ nứt đã lộ ra giữa
gia đình và xã hội, giữa gia đình và học đường; khế ước giáo dục ngày nay đã bị
phá vỡ, và vì thế sự liên kết có tính giáo dục giữa xã hội và gia đình đang lâm
vào khủng hoảng”.[98]
85.
Giáo Hội được mời gọi cộng tác với
các bậc cha mẹ xuyên qua những sáng kiến mục vụ thích hợp, hỗ trợ họ trong việc
chu toàn sứ mạng giáo dục của họ. Giáo Hội phải luôn luôn làm việc này bằng
cách giúp các bậc cha mẹ trân trọng vai trò riêng của mình và nhận ra rằng với
việc lãnh Bí tích Hôn Phối, họ trở thành những thừa tác viên của công cuộc giáo
dục con cái mình. Trong việc giáo dục con cái, họ xây dựng Giáo Hội,[99] và khi làm thế, họ chấp nhận một ơn
gọi do Thiên Chúa ban.[100]
GIA ĐÌNH VÀ GIÁO HỘI
86.
“Với niềm vui bên trong và niềm an ủi
thâm sâu, Giáo Hội hướng nhìn đến các gia đình kiên trung với các giáo huấn của
Tin Mừng, khích lệ họ và cám ơn họ về chứng từ mà họ trao. Vì họ làm chứng, một
cách đáng tin, về vẻ đẹp của hôn nhân trong đặc tính bất khả phân ly và chung
thủy. Trong gia đình, ‘vốn có thể gọi là Giáo Hội tại gia’ (Lumen
Gentium, 11), các cá nhân đi vào một kinh nghiệm Giáo Hội về mối
hiệp thông giữa các nhân vị mà, nhờ ân sủng, vốn có sức phản ảnh chính mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi. ‘Ở đây người ta học về sự nhẫn nại và niềm vui làm việc, về
tình huynh đệ, sự quảng đại tha thứ (ngay cả tha thứ hết lần này đến lần khác),
và trên hết là học thờ phượng Thiên Chúa trong cầu nguyện và hiến dâng chính
mình’ (Giáo lý của Hội Thánh Công giáo, 1657)”.[101]
87.
Giáo Hội là một gia đình của các gia
đình, thường xuyên được làm phong phú bởi đời sống của tất cả các Giáo Hội tại
gia ấy. “Với Bí tích Hôn Phối, mọi gia đình thực sự trở thành một thiện ích cho
toàn Giáo Hội. Từ quan điểm này, việc suy tư về mối tương tác giữa gia đình và
Giáo Hội sẽ là một ân ban quí giá cho Giáo Hội trong thời chúng ta. Giáo Hội
rất tốt cho gia đình, và gia đình rất tốt cho Giáo Hội. Việc gìn giữ ân ban của
Chúa trong Bí tích Hôn Phối là một mối quan tâm không chỉ của các gia đình
riêng lẻ, nhưng là của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu”.[102]
88.
Kinh nghiệm yêu thương trong các gia
đình là một nguồn sức mạnh bất tận cho đời sống của Giáo Hội. “Cứu cánh kết hợp
của hôn nhân là một lời kêu gọi không ngừng làm sao cho tình yêu này được lớn
lên và đào sâu. Xuyên qua sự kết hợp trong tình yêu của mình, đôi bạn kinh
nghiệm vẻ đẹp của vai trò làm cha làm mẹ, và họ chia sẻ những kế hoạch, những
thử thách, những kỳ vọng và những ưu tư; họ học biết chăm sóc nhau và tha thứ
cho nhau. Trong tình yêu này, họ cử hành những khoảnh khắc hạnh phúc của mình
và nâng đỡ nhau trong những thời khắc khó khăn của đời sống chung… Vẻ đẹp của
món quà nhưng không và hỗ tương này, niềm vui đến từ một sự sống được sinh ra
và sự săn sóc ân cần của mọi thành viên gia đình – từ thơ bé cho đến tuổi già –
chỉ là một số trong rất nhiều hoa trái làm cho việc đáp trả đối với ơn gọi của
gia đình trở nên độc đáo và không thể thay thế được”,[103] cả về phần Giáo Hội lẫn về phần xã hội
xét như một toàn thể.
CHƯƠNG BỐN:
TÌNH YÊU TRONG HÔN NHÂN
89.
Tất cả những gì đã đề cập cho tới đây
vẫn là chưa đủ để diễn tả Tin Mừng về hôn nhân và gia đình, nếu chúng ta không
nói về tình yêu. Bởi vì chúng ta không thể thúc đẩy một nẻo đường trung thành
và tự hiến cho nhau nếu không khích lệ sự lớn lên, sự củng cố và đào sâu tình
yêu phu phụ và gia đình. Thật vậy, ơn sủng của Bí tích Hôn Phối được nhắm trước
hết là “để làm cho tình yêu của đôi bạn nên trọn hảo”.[104] Ở đây chúng ta cũng có thể nói rằng
“ngay cả dù tôi có đức tin có thể chuyển núi dời non, nhưng nếu tôi không có
tình yêu, thì tôi cũng chẳng là gì. Nếu tôi trao tặng tất cả những gì tôi có,
nếu tôi nộp mình chịu thiêu đốt, nhưng không có tình yêu, thì tôi cũng chẳng
được gì” (1Cr 13,2-3). Tuy nhiên, nếu từ “tình yêu” rất hay được dùng thì nó
cũng rất hay bị lạm dụng.[105]
TÌNH YÊU HẰNG NGÀY CỦA CHÚNG TA
90.
Trong một bản văn tuyệt đẹp của Thánh
Phaolô, chúng ta gặp thấy một số nét của tình yêu đích thực:
“Yêu thì nhẫn nhục,
nhân hậu,
yêu thì không ghen tương,
không vênh vang,
không tự đắc hay thô lỗ.
Yêu thì không cố chấp theo cách của mình,
không nóng giận,
không nuôi hận thù,
yêu thì không mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Tình yêu bao dung tất cả,
tin tưởng tất cả,
hy vọng tất cả,
chịu đựng tất cả (1Cr 13,4-7).
Tình yêu được kinh nghiệm và được nuôi dưỡng trong đời
sống hằng ngày của đôi vợ chồng và con cái họ. Thiết tưởng ở đây cần suy nghĩ
sâu hơn về ý nghĩa bản văn của Thánh Phaolô, và tính phù hợp của nó đối với
hoàn cảnh cụ thể của mỗi gia đình.
Yêu thì nhẫn nhục
91.
Từ ngữ đầu tiên được dùng là makrothyméi. Ở đây không duy chỉ liên
quan tới ý nghĩa “chịu đựng tất cả”, vì chúng ta gặp thấy ý tưởng ấy ở cuối câu
7. Ý nghĩa của từ này được làm sáng tỏ nhờ bản dịch tiếng Hy lạp của Cựu Ước, ở
đó chúng ta đọc thấy rằng Thiên Chúa “chậm giận” (Xh 34,6; Ds 14,18). Như vậy,
nó qui chiếu đến phẩm chất của một người không hành động khi bức xúc và tránh
gây tổn thương. Chúng ta tìm thấy phẩm chất này nơi vị Thiên Chúa của Giao ước,
Đấng kêu gọi chúng ta bắt chước Ngài cả trong đời sống gia đình. Từ ngữ này
trong bản văn của Thánh Phaolô cần phải được đọc trong ánh sáng của sách Khôn
Ngoan (x. 11,23; 12,2.15-18), ở đó ca ngợi sự kiềm chế của Thiên Chúa, như để
ngỏ cho khả năng thống hối, nhưng vẫn khẳng định quyền lực của Ngài, như được
mạc khải trong những hành động thương xót của Ngài. “Sự nhẫn nhục “ của Thiên
Chúa, được thấy nơi lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân, là một dấu hiệu
cho thấy quyền năng thực sự của Ngài.
92.
Nhẫn nhục không có nghĩa là cho phép
mình thường xuyên bị xử tệ, nhận chịu sự bạo hành trên thân xác, hay cho phép
người khác sử dụng mình. Chúng ta gặp vấn đề bất cứ khi nào chúng ta đòi rằng
các mối tương quan hay thiên hạ chung quanh mình phải hoàn hảo, hay khi chúng
ta đặt mình ở trung tâm và kỳ vọng mọi thứ đi theo đường của mình. Rồi mọi sự
làm chúng ta mất kiên nhẫn, mọi sự làm chúng ta phản ứng cách bức xúc. Trừ phi
chúng ta vun xới thái độ nhẫn nhục, chúng ta sẽ luôn luôn phải hối tiếc vì cư
xử giận dữ. Rốt cục chúng ta sẽ không thể sống với nhau, ta chống lại xã hội,
ta không có khả năng kiểm soát các xung năng của mình, và gia đình chúng ta sẽ
trở thành bãi chiến trường. Vì thế Lời Chúa nói với chúng ta: “Đừng bao giờ
chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi
hành vi gian ác” (Ep 4,31). Sự nhẫn nhục sẽ bắt rễ khi tôi nhận ra rằng người
khác cũng có quyền sống trong thế giới này, như sự thật quá hiển nhiên. Không
thành vấn đề việc họ ngáng trở tôi, làm xáo trộn các kế hoạch của tôi, hay họ
làm tôi bực mình do cách suy nghĩ và hành động của họ, hoặc họ không sống theo
cách mà tôi muốn họ sống. Tình yêu luôn luôn có một khía cạnh thương cảm sâu xa
dẫn tới việc chấp nhận người khác như một phần của thế giới này, ngay cả khi
người ấy hành động khác với kỳ vọng của tôi.
Yêu là phục vụ người khác
93.
Từ ngữ kế tiếp mà Thánh Phaolô dùng
là chrestéuetai.
Trong toàn bộ Thánh Kinh, từ này chỉ được dùng ở đây mà thôi. Nó có gốc ở từ chrestós, có nghĩa: một người tốt, một
người cho thấy lòng tốt qua các việc làm của mình. Ở đây, trong quan hệ song
song chặt chẽ với động từ đi trước, nó phục vụ như một sự bổ sung. Phaolô muốn
nêu rõ rằng “nhẫn nhục” không phải là một thái độ hoàn toàn thụ động, nhưng là
một thái độ gắn liền với hoạt động, với một tương tác năng động và đầy sáng tạo
với người khác. Từ ngữ này cho thấy rằng tình yêu giúp ích cho người khác. Vì
vậy nó được dịch là “nhân hậu”, yêu thì luôn sẵn sàng giúp đỡ.
94.
Xuyên suốt bản văn, rõ ràng Thánh
Phaolô muốn nhấn mạnh rằng tình yêu không phải là một cảm xúc thuần túy. Đúng
hơn, nó phải được hiểu theo động từ “yêu” của tiếng Híp-ri; nghĩa là “làm điều
tốt”. Như Thánh Inhaxiô Loyola nói: “Tình yêu được thể hiện bằng việc làm nhiều
hơn bằng lời nói”.[106] Như vậy nó cho thấy hoa quả của nó và
cho phép chúng ta cảm nghiệm niềm hạnh phúc của việc trao ban, sự cao quí và vĩ
đại của việc dâng hiến chính mình một cách hào phóng, mà không yêu cầu được đền
đáp, nhưng chỉ thuần túy vì niềm vui của việc trao ban và phục vụ.
Yêu thì không ghen tương
95.
Thánh Phaolô tiếp tục loại bỏ một
thái độ đối ngược với tình yêu được diễn tả trong động từ zelói –
tức ghen tương hay đố kị. Điều này có nghĩa là tình yêu không có chỗ cho sự khó
chịu trước điều may mắn tốt lành của kẻ khác (x. Cv 7,9; 17,5). Ghen tị là một
dạng buồn bực trước sự thành đạt của người khác; nó cho thấy rằng chúng ta
không quan tâm đến hạnh phúc của người khác mà chỉ lo cho lợi ích của chính
mình. Trong khi tình yêu nâng chúng ta lên trên chính mình, thì sự ghen tị đóng
kín chúng ta nơi chính mình. Tình yêu đích thực thì trân trọng sự thành công
của người khác. Nó không xem người ấy như sự đe dọa đối với mình. Nó giải phóng
chúng ta khỏi sự chua chát của ghen tị. Nó nhìn nhận rằng mỗi người có những ân
ban khác nhau và có một lối đi độc đáo trong cuộc sống. Vì thế nó cố gắng khám
phá con đường hạnh phúc của mình, trong khi cho phép người khác tìm thấy con
đường của họ.
96.
Nói tắt, tình yêu có nghĩa là chu
toàn hai mệnh lệnh cuối cùng của Luật Chúa: “Ngươi sẽ không thèm muốn nhà của
người hàng xóm; ngươi sẽ không thèm muốn vợ của anh ta, tôi trai tớ gái của anh
ta, con bò con lừa của anh ta, hay bất cứ gì của anh ta” (Xh 20,17). Tình yêu
khơi lên một niềm quí trọng chân thành đối với mọi người và nhìn nhận quyền
được hạnh phúc của người ta. Tôi yêu con người này, và tôi nhìn người ấy với
ánh nhìn của Thiên Chúa, Đấng trao ban mọi sự “cho chúng ta hưởng dùng” (1Tm
6,17). Và nhờ đó, tôi cảm nhận một niềm hạnh phúc và an bình sâu xa. Chính tình
yêu cắm rễ sâu xa này cũng sẽ hướng dẫn tôi loại trừ sự bất công trong đó một
số người chiếm hữu quá nhiều và những người khác thì sở hữu quá ít. Nó thúc đẩy
tôi tìm ra các cách thế để giúp những người bị loại bỏ của xã hội tìm được một
chút niềm vui. Đó không phải là ghen tị, nhưng là khát khao sự bình đẳng.
Yêu thì không vênh vang
97.
Từ perpereúetai hàm nghĩa sự tự đắc, xu hướng
ngạo mạn, kệch cỡm và có vẻ huênh hoang. Những người yêu thương thì không chỉ
biết kiềm chế để không nói quá nhiều về chính mình, nhưng tập trung vào người
khác; họ không cần làm trung tâm thu hút sự chú ý. Từ physioútai tiếp theo sau cũng có nghĩa tương tự,
cho thấy rằng tình yêu thì không cao ngạo. Theo sát nghĩa thì nó muốn nói rằng
chúng ta không “lên mặt” trước người khác. Nó cũng có ý chỉ một cái gì đó tế
nhị hơn: một thói khoe mẽ và sự mất cảm thức về thực tế. Những người như thế
nghĩ rằng, vì họ “đạo đức” hay “khôn ngoan” hơn, nên họ quan trọng hơn. Phaolô
dùng động từ này trong những trường hợp khác nữa, như khi ngài nói rằng “sự
hiểu biết sinh lòng kiêu ngạo”, trong khi “tình yêu thì xây dựng” (1Cr 8,1).
Một số người nghĩ rằng họ quan trọng vì họ hiểu biết hơn những người khác; họ
muốn khống chế những người khác. Tuy nhiên, điều thực sự làm chúng ta quan
trọng chính là một tình yêu có sức cảm thông, bày tỏ quan tâm, và bênh vực
những người yếu đuối. Ở chỗ khác, từ này được dùng để phê bình những người “phô
trương” tầm quan trọng của họ (x. 1Cr 4,18) nhưng thực sự nơi họ chất đầy những
lời trống rỗng hơn là “sức mạnh” thật sự của Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 4,19).
98.
Thật quan trọng việc người Kitô hữu
biết bày tỏ tình yêu của mình theo cách họ cư xử với những thành viên trong gia
đình ít hiểu biết hơn mình về đức tin, những người yếu hay không chắc chắn
trong những niềm xác tín của họ. Có những lúc xảy ra điều ngược lại: những tín
hữu được cho là trưởng thành, trong gia đình, lại trở thành cao ngạo một cách
không thể chấp nhận được. Tình yêu, đàng khác, được đánh dấu bằng sự khiêm
nhường; để có thể thông cảm, tha thứ và phục vụ người khác từ tận đáy lòng, thì
thói kiêu ngạo của chúng ta phải được chữa trị và lòng khiêm nhường phải tăng
triển. Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng trong một thế giới mà quyền lực thống
trị, mỗi người cố thống trị kẻ khác, nhưng “giữa anh em thì không như thế” (Mt
20,26). Tự căn bản của nó, tình yêu Kitô giáo không hướng đến tầm quan trọng
hay quyền lực; đúng hơn, “ai đứng đầu anh em thì phải làm tôi tớ” (Mt 20,27).
Trong đời sống gia đình, lối thống trị và cạnh tranh để khẳng định ai là người
thông minh nhất hay quyền lực nhất sẽ hủy diệt tình yêu. Sự khiển trách của
Thánh Phêrô cũng áp dụng cho gia đình: “Tất cả anh em hãy mặc lấy đức khiêm
nhường đối với nhau, vì ‘Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ
khiêm nhường’” (1Pr 5,5).
Yêu thì không thô lỗ
99.
Yêu cũng có nghĩa là dịu dàng và quan
tâm, ý nghĩa này được chứa đựng trong từ aschemonéi.
Từ này cho thấy rằng tình yêu thì không thô lỗ hay cục mịch; tình yêu không
khắc nghiệt. Các hành động, lời nói và cử chỉ của nó đem lại sự dễ chịu và
không gai góc hay cứng cỏi. Tình yêu tối kỵ làm cho người khác đau khổ. Nhã
nhặn “là một trường học dạy sự nhạy cảm và tinh thần vô vụ lợi”, nó đòi người
ta “phải phát triển tâm trí và các cảm nghĩ của mình, học biết cách lắng nghe,
cách ăn nói, và có những lúc cũng biết cách thinh lặng”.[107] Nó không phải là một cái gì mà một
Kitô hữu có thể chấp nhận hay từ khước. Xét như một đòi hỏi thiết yếu của tình
yêu, “mọi người đều phải vui sống thuận thảo với những người xung quanh mình”.[108] Hằng ngày, “việc đi vào đời sống của
một người khác, ngay cả khi người ấy vốn đã tham dự vào đời sống mình, đòi hỏi
sự nhạy cảm và sự thận trọng, là những yếu tố có sức làm mới mẻ lòng tin tưởng
và kính trọng. Thật vậy, tình yêu càng sâu xa, nó càng mời gọi tôn trọng tự do
của người khác, và mời gọi khả năng chờ đợi cho đến khi người ấy cởi mở lòng
họ”.[109]
100. Để cởi mở đón nhận một cuộc gặp gỡ đích thực với người
khác, thiết yếu phải có “một cái nhìn nhân hậu”. Điều này trái ngược với một
thái độ tiêu cực luôn muốn vạch ra những khuyết điểm của người khác trong khi
bỏ qua những khuyết điểm của chính mình. Một cái nhìn nhân hậu giúp chúng ta
nhìn thấy xa hơn những giới hạn của chúng ta, để biết nhẫn nhục và cộng tác với
người khác, bất chấp những khác biệt. Lòng nhân hậu yêu thương sẽ xây dựng các
mối dây gắn kết, vun xới các tương quan, kiến tạo các mạng lưới hội nhập mới và
đan kết một cơ cấu xã hội vững chắc. Bằng cách này, nó càng trở nên mạnh mẽ
hơn, vì nếu không có một cảm thức thuộc về, thì chúng ta không thể bền bỉ dấn
thân cho người khác; chúng ta rốt cục sẽ chỉ tìm kiếm lợi ích của mình, và đời
sống chung sẽ trở thành bất khả. Những người dị ứng với xã hội nghĩ rằng những
người khác tồn tại chỉ để thỏa mãn các nhu cầu của mình. Do đó, không có chỗ
cho sự dịu dàng của tình yêu và những diễn tả của nó. Những người biết yêu
thương thì có khả năng nói những lời vấn an, động viên, thông cảm và khích lệ.
Đó là những lời mà chính Đức Giêsu đã nói: “Này con, cứ yên tâm!” (Mt 9,2);
“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật!” (Mt 15,28); “Hãy trỗi dậy đi!” (Mc 5,41);
“Chị hãy đi bình an” (Lc 7,50); “Đừng sợ” (Mt 14,27). Đó không phải là những
lời hạ thấp chính mình, gây buồn phiền, chọc tức hay khinh mạn. Trong các gia
đình chúng ta, chúng ta phải học bắt chước sự dịu dàng của chính Đức Giêsu
trong cách ta ăn nói với nhau.
Yêu thì quảng đại
101. Chúng ta đã lặp đi lặp lại rằng để yêu thương nhau, trước
hết chúng ta phải yêu thương chính mình. Tuy nhiên, bài ca của Thánh Phaolô nêu
rõ rằng tình yêu “không tìm ích lợi riêng mình”, cũng không “tìm kiếm chính
mình”. Ý tưởng tương tự được diễn tả trong một bản văn khác: “Mỗi người đừng
tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,4).
Thánh Kinh cho thấy rõ rằng việc quảng đại phục vụ người khác thì cao quí hơn là
yêu thương chính mình. Việc yêu thương chính mình chỉ quan trọng như một điều
kiện tâm lý để có thể yêu thương người khác: “Nếu một người bần tiện với chính
mình, thì người ấy sẽ quảng đại với ai? Không ai ác hơn là người ác với chính
mình” (Hc 14,5-6).
102. Thánh Tôma Aquinô giải thích rằng “đức ái được đặc trưng ở
khát vọng yêu hơn là ở khát vọng được yêu”;[110] thật vậy, “những người mẹ, là những
người yêu nhiều nhất, luôn tìm cách để yêu hơn là để được yêu”.[111] Vì thế, tình yêu có thể siêu vượt và
tràn lấp những đòi hỏi của công bằng, “không chờ mong được đáp trả gì” (Lc
6,35), và tình yêu lớn nhất có thể dẫn đến “việc hiến mạng sống mình” cho người
khác (x. Ga 15,13). Sự quảng đại như thế, điều làm ta có thể trao đi cách tự do
và trọn vẹn, phải chăng là điều thực sự có thể? Vâng, nó có thể, bởi vì nó được
đòi hỏi bởi Tin Mừng: “Anh em đã nhận cách nhưng không, thì hãy trao đi cách
nhưng không” (Mt 10,8).
Yêu thì không nóng giận, không nuôi hận thù
103. Nếu từ đầu tiên trong bài ca của Thánh Phaolô nói về sự cần
thiết của một lòng nhẫn nhục giúp người ta không lập tức phản ứng một cách khắc
nghiệt trước những yếu đuối và sai lỗi của người khác, thì từ kế tiếp mà ngài
sử dụng, là paroxýnetai,
có liên hệ nhiều hơn tới một sự bức xúc bên trong do một cái gì đó từ bên ngoài
khơi lên. Nó qui chiếu đến một phản ứng bạo lực ở bên trong, một sự tức tối ẩn
kín làm cho ta bực bội về người khác, như thể họ gây phiền hà hay đe dọa và do
đó ta phải tránh xa họ. Việc nuôi dưỡng thái độ gây hấn trong lòng như thế sẽ
không giúp ích gì cho ai. Nó chỉ gây tổn thương và làm người ta xa lánh. Bức
xúc chỉ lành mạnh khi nó làm cho ta phản ứng trước một bất công nghiêm trọng;
còn khi bức xúc ướp đẫm trong thái độ của chúng ta đối với người khác thì nó
chỉ gây tai hại.
104. 104.
Tin Mừng bảo chúng ta hãy nhìn cái xà trong mắt mình (x. Mt 7,5). Kitô hữu
không thể phớt lơ sự cảnh cáo thường xuyên của Lời Chúa rằng đừng nuôi cơn
giận: “Đừng để cho sự ác thắng được mình” (Rm 12,21). “Khi làm điều thiện,
chúng ta đừng nản chí” (Gl 6,9). Việc đột nhiên cảm thấy một nỗi oán hận trào
lên, đó là một chuyện; còn việc dung dưỡng nó, cho phép nó bắt rễ trong tâm hồn
mình, thì đó là một chuyện khác: “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội; chớ để mặt
trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Tôi muốn khuyên rằng đừng bao giờ để
ngày trôi qua mà không làm hòa trong gia đình. “Nhưng tôi sẽ làm hòa bằng cách
nào? Tôi sẽ quì xuống chăng? Không! Chỉ cần một cử chỉ nhỏ, một cái gì đó rất
đơn sơ thôi, và sự hòa điệu trong gia đình sẽ được vãn hồi. Chỉ cần một chút âu
yếm, chẳng cần lời lẽ gì. Nhưng bạn đừng để ngày trôi qua mà không làm hòa
trong gia đình”.[112] Phản ứng đầu tiên của chúng ta khi bị
gây phiền nhiễu nên là một phản ứng chân thành chúc phúc, xin Thiên Chúa chúc
phúc, giải phóng và chữa trị người đó. “Nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh
chị em được kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc” (1Pr 3,9). Nếu chúng
ta phải chiến đấu chống lại sự dữ, thì hãy chiến đấu; nhưng chúng ta phải luôn
luôn nói “không” với bạo lực trong gia đình.
Tình yêu tha thứ
105. 105.
Một khi chúng ta cho phép ác ý bắt rễ trong lòng mình, nó sẽ dẫn đến sự oán hận
sâu xa. Cụm từou logízetai to kakón có
nghĩa rằng tình yêu “không chấp sự dữ”; “nó không oán hận”. Đối ngược với oán
hận là tha thứ, xuất phát từ một thái độ tích cực muốn tìm cách thông cảm sự
yếu đuối của người khác và bỏ qua cho họ. Như Đức Giêsu nói: “Cha ơi, xin tha
cho họ, vì họ không biết điều họ làm” (Lc 23,24). Thế nhưng chúng ta cứ mải tìm
kiếm thêm những điều sai lỗi, tưởng tượng những điều xấu xa hơn, giả định mọi
loại ác ý, và vì thế sự oán hận tăng lên và ăn sâu. Do đó mà mọi lỗi lầm hay
sai sót từ người vợ (hay chồng) đều có thể làm hại đến mối dây yêu thương và sự
ổn định của gia đình. Có gì đó sai lạc khi chúng ta xem mọi vấn đề đều hệ trọng
như nhau; bằng cách ấy, chúng ta liều tỏ ra khắc nghiệt một cách quá đáng đối
với những thiếu sót của người khác. Khát vọng chính đáng muốn thấy các quyền
của mình được tôn trọng sẽ biến thành một khao khát trả thù thay vì là một sự
bảo vệ chính đáng phẩm giá của mình.
106. Khi chúng ta bị làm tổn thương hay bị coi thường, thì sự
tha thứ là điều có thể và đáng mong ước, nhưng không ai có thể nói rằng đó là
điều dễ. Sự thật là “mối hiệp thông gia đình chỉ có thể được gìn giữ và được
hoàn thiện xuyên qua một tinh thần hy sinh. Thật vậy, nó đòi sự cởi mở quảng
đại và sẵn lòng, của từng người và mọi người, để cảm thông, nhịn nhục, tha thứ
và hòa giải. Không có gia đình nào mà không kinh nghiệm cách mà sự ích kỷ, bất
hòa, căng thẳng và xung đột tấn công thô bạo mối hiệp thông của mình, và có
những lúc gây thương tích nặng nề cho mối hiệp thông ấy: do đó mới xảy ra biết
bao hình thức chia rẽ trong đời sống gia đình”.[113]
107. Ngày nay chúng ta nhận ra rằng khả năng tha thứ người khác
bao hàm kinh nghiệm giải phóng chính mình qua việc cảm thông và tha thứ cho
chính mình. Thường các lỗi lầm của chúng ta, hay những gì mà người thân yêu phê
bình ta, có thể dẫn đến sự mất lòng tự trọng. Chúng ta trở nên xa lánh người
khác, tránh né tình cảm và tỏ ra sợ hãi các mối tương quan liên vị của mình.
Việc đổ lỗi cho người khác trở thành cách sai trái để trấn an mình. Chúng ta
cần học biết đưa quá khứ đời mình vào lời cầu nguyện, để biết chấp nhận chính
mình, biết cách sống với những hạn chế của mình, và thậm chí biết tha thứ cho
chính mình, để có thể có cùng thái độ như vậy đối với người khác.
108. Tất cả những điều này giả thiết rằng chính chúng ta đã có
kinh nghiệm được Thiên Chúa tha thứ, được công chính hóa bởi ân sủng của Ngài
chứ không bởi công trạng của chúng ta. Chúng ta đã kinh nghiệm một tình yêu đi
trước mọi cố gắng của chính mình, một tình yêu luôn luôn mở cửa, thúc đẩy và
khích lệ. Nếu chúng ta chấp nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa thì vô điều kiện,
rằng tình yêu của Chúa Cha không thể được mua hay bán, thì chúng ta sẽ có khả
năng bày tỏ tình yêu vô hạn và tha thứ cho người khác ngay cả khi họ cư xử tệ
hại với chúng ta. Nếu chẳng vậy, đời sống gia đình chúng ta sẽ không còn là một
nơi của thông cảm, nâng đỡ và khích lệ nữa, mà thay vào đó sẽ là một nơi thường
xuyên căng thẳng và chỉ trích lẫn nhau.
Yêu thì vui với người khác
109. Thành ngữ chaírei
epì te adikía có liên
quan tới một tính tiêu cực ẩn sâu trong lòng người ta. Đó là thái độ độc ác của
những người vui mừng khi thấy người khác phải chịu đựng sự bất công. Cụm từsygchaírei
te aletheía diễn tả
điều ngược lại, có nghĩa là “vui mừng khi thấy điều chân thật”. Nói cách khác,
chúng ta vui mừng về điều tốt lành của người khác khi chúng ta thấy phẩm giá
của họ và trân trọng các khả năng và các việc tốt của họ. Điều này là không thể
đối với những ai luôn luôn so kè và ganh đua, ngay cả với vợ hay chồng mình, để
rồi vui mừng trong lòng trước những thất bại của người ấy.
110. Khi một người, với tình yêu thương, có thể làm điều tốt
cho người khác, hay nhìn thấy rằng người khác đang hạnh phúc, thì chính họ cũng
cảm thấy hạnh phúc, và bằng cách này họ tôn vinh Thiên Chúa, vì “ai vui vẻ dâng
hiến thì được Thiên Chúa yêu thương” (2Cr 9,7). Chúa chúng ta đặc biệt trân
trọng những ai tìm thấy niềm vui trong hạnh phúc của người khác. Nếu chúng ta
không học biết vui mừng trước những điều tốt lành của người khác, và chủ yếu
tập trung vào các nhu cầu của mình, thì chúng ta đang tự đày đọa mình trong một
cuộc sống vắng bóng niềm vui, như Đức Giêsu dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận”
(Cv 20,35). Gia đình phải luôn luôn là một nơi mà khi một điều gì tốt lành xảy
ra với một thành viên, thì người ấy biết rằng những thành viên khác cũng sẽ ở
đó để mừng với mình.
Tình yêu bao dung tất cả
111. Bảng liệt kê của Phaolô kết thúc với bốn cụm từ chứa những
từ “tất cả”. Tình yêu bao dung tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu
đựng tất cả. Ở đây chúng ta thấy rõ sức mạnh lội ngược dòng văn hóa của một
tình yêu có sức đương đầu với bất cứ gì có thể đe dọa nó.
112. Trước hết, Phaolô nói rằng tình yêu “bao dung tất cả” (panta stégei).
Điều này không đơn thuần là chịu đựng sự dữ; nó có liên quan tới việc sử dụng
cái lưỡi. Động từ này có nghĩa là “giữ sự bình tâm” đối với điều có thể là sai
lỗi nơi người khác. Nó hàm nghĩa sự hạn chế xét đoán, kiểm soát nỗi bức xúc vốn
có thể làm bật ra một sự lên án nghiệt ngã và bất nhẫn: “Đừng xét đoán và anh
em sẽ không bị xét đoán” (Lc 6,37). Đi ngược lại cách mà chúng ta vẫn thường sử
dụng cái lưỡi của mình, Lời Thiên Chúa bảo chúng ta: “Đừng nói xấu nhau, thưa
anh chị em” (Gc 4,11). Thói nói xấu người khác là một cách để chúng ta khẳng
định chính mình, trút sự oán hận và ghen tị, mà không quan tâm đến tai hại mà
mình có thể gây ra. Chúng ta thường quên rằng vu khống có thể là tội; nó xúc
phạm nặng nề đến Thiên Chúa khi nó làm thiệt hại nghiêm trọng thanh danh của
người khác và gây ra những tổn thất khó sửa chữa được. Vì thế Lời Chúa tuyên bố
thẳng thắn rằng cái lưỡi “là cả một thế giới của sự ác”, nó “làm cho toàn thân
bị ô nhiễm” (Gc 3,6); nó là một “sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc
độc giết người” (3,8). Trong khi cái lưỡi có thể được dùng để “nguyền rủa những
con người đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa” (3,9), thì tình yêu trân
trọng thanh danh của người khác, ngay cả của kẻ thù. Trong khi tìm cách biểu
dương luật Chúa, chúng ta không bao giờ được phép quên đòi hỏi đặc biệt này của
tình yêu.
113. Những vợ chồng được liên kết bởi tình yêu sẽ nói tốt về
nhau; họ cố gắng nêu khía cạnh tốt nơi người bạn đời của mình, chứ không phải
điểm yếu hay những khuyết điểm. Trong bất luận trường hợp nào, họ giữ thinh
lặng thay vì nói điều không tốt về người kia. Đây không phải là đóng kịch trước
mặt người khác; đúng hơn nó phát xuất từ một thái độ nội tâm. Đây hoàn toàn
không phải là việc ngớ ngẩn bảo rằng mình không thấy những vấn đề và những điểm
yếu của người kia, mà đúng hơn mình nhìn những điểm yếu và khiếm khuyết ấy
trong một bối cảnh rộng lớn hơn. Chúng ta nhận ra rằng những khuyết điểm ấy là
một phần của bức tranh lớn hơn. Chúng ta phải ý thức rằng tất cả chúng ta đều
là một hỗn hợp phức tạp của ánh sáng và bóng tối. Nơi người kia còn có nhiều
điều khác nữa chứ không chỉ là tổng số những điều vặt vãnh làm phiền lòng tôi.
Tình yêu không cần phải hoàn hảo thì mới được chúng ta trân trọng. Người kia
yêu tôi hết mức trong khả năng của người ấy, với tất cả những giới hạn của
người ấy, nhưng sự kiện rằng tình yêu không hoàn hảo không có nghĩa rằng nó
không chân thực. Nó vẫn thực đó, dù cho nó giới hạn và phàm trần. Nếu tôi kỳ
vọng nhiều quá, người kia sẽ cho tôi biết, vì người ấy không thể sắm vai Thiên
Chúa, cũng không thể đáp ứng mọi nhu cầu của tôi. Tình yêu cùng tồn tại với sự
bất toàn. Nó “bao dung tất cả” và có thể giữ bình tâm trước những giới hạn của
người mình yêu.
Tình yêu tin tưởng tất cả
114. Panta pisteúei.
Tình yêu tin tưởng tất cả. Ở đây “tin” không được hiểu theo nghĩa thần học chặt
chẽ, nhưng đúng hơn theo nghĩa “tin tưởng” mà chúng ta vẫn dùng. Điều này vượt
quá sự giả định đơn thuần rằng người kia không đang dối lừa chúng ta. Sự tin
tưởng căn bản ấy nhìn nhận ánh sáng của Thiên Chúa soi chiếu vượt quá bóng tối,
giống như một cục than hồng rực sáng bên dưới đống tro.
115. Sự tin tưởng này giúp cho một mối tương quan được tự do.
Nó có nghĩa rằng chúng ta không cần phải kiểm soát người kia, bám theo từng
bước chân của người ấy để không cho người ấy thoát khỏi sự kìm kẹp của mình.
Tình yêu thì tin tưởng, nó giải phóng, nó không cố kiểm soát, chiếm hữu hay
thống trị mọi sự. Sự tự do này – vốn có sức củng cố sự độc lập, và là một sự
cởi mở đón nhận thế giới xung quanh chúng ta và đón nhận những kinh nghiệm mới
mẻ – luôn giúp làm phong phú và mở rộng các mối tương quan. Theo đó những người
vợ chồng sẽ san sẻ cho nhau niềm vui về tất cả những gì họ nhận được hay biết
được bên ngoài phạm vi gia đình. Đồng thời, sự tự do này sẽ giúp người ta có
được sự chân thành và minh bạch, vì những ai biết rằng mình được tin tưởng và
trân trọng thì sẽ có thể cởi mở mà không che giấu điều gì. Những ai biết rằng
người bạn đời của mình luôn nghi ngờ, hay xét nét và thiếu một tình yêu vô điều
kiện, thì sẽ có khuynh hướng giữ bí mật, che giấu những khiếm khuyết và những
điểm yếu của mình, và giả vờ làm một ai đó khác với con người thật của mình.
Đàng khác, một gia đình được đánh dấu bởi sự tin tưởng đầy yêu thương, thì dẫu
điều gì xảy ra, gia đình ấy cũng giúp các thành viên trở thành chính mình, và
một cách tự nhiên loại trừ sự lừa gạt, giả tạo, và dối trá.
Tình yêu hy vọng tất cả
116. Panta elpízei.
Tình yêu không thất vọng về tương lai. Tiếp theo những gì đã được đề cập, cụm
từ này nói về niềm hy vọng của người biết rằng người khác có thể thay đổi,
trưởng thành và tỏa ra vẻ đẹp không ngờ cũng như những tiềm năng chưa từng được
biết. Điều này không có nghĩa là mọi sự sẽ thay đổi trong đời sống này. Nó liên
quan đến việc nhận thức rằng – dù mọi sự có thể không luôn xảy ra như ta mong
ước – Thiên Chúa vẫn hoàn toàn có thể uốn thẳng những đường cong và rút ra điều
tốt lành nào đó từ sự dữ mà chúng ta chịu đựng trong thế giới này.
117. Ở đây niềm hy vọng đạt mức trọn vẹn nhất của nó, vì nó
đoan chắc về sự sống sau cái chết. Mỗi người, với tất cả những khiếm khuyết của
mình, được mời gọi đạt đến sự sống viên mãn trên thiên quốc. Ở đó, được biến
đổi hoàn toàn bởi sự phục sinh của Đức Kitô, mọi yếu nhược và bóng tối sẽ không
còn. Ở đó, hiện hữu đích thực của mỗi người sẽ chiếu sáng trong tất cả sự tốt
lành và vẻ đẹp của nó. Nhận thức này giúp chúng ta, giữa những phiền muộn chồng
chất của cuộc đời này, biết nhìn mỗi người bằng một cái nhìn siêu nhiên, trong
ánh sáng của đức cậy, và chờ đợi sự viên mãn mà người ấy sẽ nhận được trong
Nước Trời, mặc dù hiện nay chưa nhìn thấy được.
Tình yêu chịu đựng tất cả
118. Panta hypoménei.
Cụm từ này có nghĩa là tình yêu chấp nhận mọi gian nan thử thách với một thái
độ tích cực. Nó đứng vững trong môi trường đối nghịch lại nó. Sự “chịu đựng”
này không chỉ liên quan đến khả năng đón nhận một số phiền phức, mà còn hơn
thế: một thái độ luôn sẵn sàng để đương đầu với mọi thách đố. Đó là một tình
yêu không bao giờ đầu hàng, ngay cả trong những giờ phút tăm tối nhất. Nó cho
thấy một thái độ anh hùng can trường nào đó, một sức mạnh đề kháng lại mọi trào
lưu tiêu cực, một dấn thân bất khuất cho sự thiện. Ở đây tôi nghĩ đến những lời
của Martin Luther King, người đã đương đầu với mọi loại thử thách và gian khổ
bằng tình yêu huynh đệ: “Nơi người ghét bạn nhất cũng có điều tốt nào đó; ngay
cả nơi dân tộc ghét bạn nhất cũng có điều tốt nào đó; thậm chí nơi chủng tộc
ghét bạn nhất cũng có điều tốt nào đó. Và khi bạn bắt đầu nhìn vào mặt mỗi
người và thấy rõ trong sâu xa con người ấy điều mà tôn giáo gọi là “hình ảnh
của Thiên Chúa”, thì bạn bắt đầu yêu người ấy bất kể [mọi sự]. Dù người ấy làm
gì đi nữa, bạn vẫn thấy hình ảnh của Thiên Chúa ở đó. Có một yếu tố của sự
thiện mà người ấy không bao giờ có thể vứt bỏ được… Đây là một cách khác để bạn
yêu kẻ thù: khi có cơ hội để bạn đánh bại kẻ thù, thì đó chính là lúc bạn đừng
làm thế… Khi bạn vươn lên tới bình diện tình yêu, tới bình diện của vẻ đẹp và
sức mạnh lớn lao của tình yêu, thì bạn chỉ tìm cách đánh bại những hệ thống sự
dữ. Đối với những cá nhân bị mắc kẹt trong hệ thống ấy, bạn yêu họ, và bạn chỉ
tìm cách đánh bại hệ thống đó thôi… Lấy oán báo oán thì chỉ gia cố thêm sự tồn
tại của oán hận và sự dữ trên đời này. Nếu tôi đánh bạn và bạn đánh tôi, rồi
tôi đánh trả lại bạn, và bạn đánh trả lại tôi, cứ thế, thì bạn thấy đó, sẽ tiếp
tục mãi không cùng. Nó sẽ không bao giờ chấm dứt. Một ai đó, ở đâu đó, phải
biết điều một chút, và đó là người mạnh. Người mạnh là người có thể chặt đứt
dây xích oán hận, dây xích của sự dữ… Một ai đó phải có ‘đạo’ và có ‘đức’ cho
đủ để chặt đứt dây xích ấy và đưa vào trong chính cấu trúc của đời sống này yếu
tố tình yêu đầy sức mạnh”.[114]
119. Trong đời sống gia đình, chúng ta cần vun xới sức mạnh của
tình yêu, là điều có thể giúp chúng ta chiến đấu chống lại mọi sự dữ đe dọa nó.
Tình yêu không chịu thua lòng oán giận, sự khinh bỉ đối với người khác hay ước
muốn gây tổn thương hoặc lấn lướt người khác. Lý tưởng Kitô giáo, đặc biệt
trong các gia đình, là một tình yêu không bao giờ đầu hàng. Đôi khi tôi ngạc
nhiên thấy những người, nam hay nữ, vốn đã phải chia tay với người bạn đời để
tự bảo vệ mình, tuy nhiên, vì tình nghĩa vợ chồng vẫn bền vững, họ vẫn cố gắng
giúp đỡ người bạn đời, thậm chí qua việc thuê mướn người khác, trong những khi
người bạn đời đau ốm, gặp khổ sở hay hoạn nạn. Ở đây chúng ta cũng thấy một
tình yêu không bao giờ đầu hàng.
LỚN LÊN TRONG TÌNH YÊU PHU PHỤ
120. Suy tư của chúng ta về bài ca yêu thương của Thánh Phaolô
giúp chúng ta sẵn sàng thảo luận về tình yêu phu phụ. Đây là tình yêu giữa vợ
và chồng,[115] một tình yêu được thánh hóa, được làm
cho phong phú và được chiếu sáng bởi ân sủng của Bí tích Hôn Phối. Đó là một
“sự kết hợp tình cảm”,[116] có tính thiêng liêng và hy sinh, trong
đó kết tụ sự ấm áp của tình bạn và niềm đam mê tình ái, nó vẫn kéo dài sau khi
các cảm xúc và đam mê lụi tàn. Đức Giáo hoàng Piô XI dạy rằng tình yêu này thấm
đẫm các bổn phận của đời sống hôn nhân và được nhìn nhận là tình yêu ưu việt
nhất.[117] Được thông truyền bởi Chúa Thánh Thần,
tình yêu mãnh liệt này là một phản ảnh của giao ước kiên vững giữa Đức Kitô và
nhân loại, đạt đỉnh điểm nơi sự tự hiến của Người trên thập giá. “Thánh Thần mà
Chúa tuôn đổ sẽ trao ban một quả tim mới và làm cho người nam và người nữ có
thể yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta. Tình yêu phu phụ đạt
tới sự viên mãn vốn được đặt định cho nó, đó là, đức ái giữa vợ chồng.”[118]
121. Hôn nhân là một dấu chỉ quí giá, vì “khi một người nam và
một người nữ cử hành Bí tích Hôn Phối, thì quả nhiên Thiên Chúa được “phản
chiếu” trong họ; Ngài ghi khắc trong họ những đặc nét của Ngài và dấu ấn tình
yêu không thể xóa nhòa được của Ngài. Hôn nhân là biểu tượng của tình yêu Thiên
Chúa dành cho chúng ta. Quả thật, Thiên Chúa cũng là hiệp thông: Ba Ngôi Vị –
Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần – hằng sống trong mối hiệp nhất hoàn hảo.
Và đây chính là mầu nhiệm hôn nhân: Thiên Chúa làm cho hai vợ chồng trở thành
một hiện sinh độc nhất”.[119] Điều này có những hệ quả cụ thể trong
đời sống hằng ngày, vì những người vợ và chồng, “do bí tích, được ủy trao một
sứ mạng riêng và đích thực, để bắt đầu từ những việc đơn giản thông thường của
đời sống, họ có thể cho thấy cụ thể tình yêu mà Đức Kitô dành cho Hội Thánh và
Người vẫn tiếp tục hiến mạng sống mình vì Hội Thánh”.[120]
122. Tuy nhiên chúng ta không được lẫn lộn các cấp độ khác
nhau: không cần phải đặt lên vai hai con người đầy giới hạn cái gánh nặng sừng
sững của việc phải trình bày cách hoàn hảo mối kết hợp giữa Đức Kitô và Hội
Thánh, vì hôn nhân – xét như một dấu hiệu – là “một tiến trình năng động…, một
tiến trình tiến tới dần dần với sự hội nhập ngày càng hơn các ân ban của Thiên
Chúa”.[121]
Chia sẻ suốt đời
123. Sau tình yêu kết hợp chúng ta với Thiên Chúa, tình yêu phu
phụ là “dạng thức cao cả nhất của tình bạn”.[122] Đó là một sự kết hợp có bao hàm mọi
đặc nét của một tình bạn tốt đẹp: sự quan tâm tới thiện ích của người kia, tính
hỗ tương, sự mật thiết, sự ấm áp, sự ổn định và nét giống nhau phát xuất từ một
đời sống chung. Hôn nhân gắn kết vào tất cả những điều này một tính độc quyền
bất khả phân ly được diễn tả trong sự cam kết kiên trung chia sẻ và cùng nhau
gầy dựng toàn thể đời sống. Chúng ta hãy thành thực và nhìn nhận những dấu hiệu
ở đây. Những người yêu nhau không nhìn mối tương quan của mình như cái gì chỉ
có tính tạm bợ. Những người kết hôn không kỳ vọng niềm vui thú của họ sẽ phai
nhạt. Những người làm chứng cho cuộc cử hành một mối kết hợp đầy yêu thương, dù
mong manh đến mấy, cũng tin tưởng rằng nó sẽ đứng vững qua thử thách của thời
gian. Con cái không chỉ muốn cha mẹ chúng yêu nhau, mà còn trung thành và gắn
bó với nhau. Những dấu hiệu này và những dấu tương tự khác cho thấy rằng chính
trong bản chất của nó, tình yêu phu phụ có tính dứt khoát. Mối kết hợp bền vững
được diễn tả bởi các lời đoan hứa kết hôn không chỉ là một thể thức hay một
công thức có tính truyền thống; nó cắm rễ trong những khuynh hướng tự nhiên của
nhân vị. Đối với những người tin, nó cũng là một giao ước trước mặt Thiên Chúa
đòi người ta trung thành: “Chúa là chứng nhân giữa ngươi và người vợ của tuổi
xuân ngươi. Ngươi đã phản bội nó, mà nó đã phối ngẫu với ngươi, là vợ thuộc
giao ước của ngươi, … Ngươi đừng phản bội người vợ tuổi xuân xanh ngươi. Vì chưng
Ta ghét việc ly dị – Chúa phán” (Ml 2,14-16).
124. Một tình yêu yếu nhược, không có khả năng chấp nhận hôn
nhân như thách đố để đảm nhận và chiến đấu, để được sinh lại, được đổi mới và
kiến tạo cho tới chết, thì không thể nâng đỡ nổi một cam kết có tầm lớn lao. Nó
sẽ đầu hàng trước nền văn hóa tạm bợ không dung nạp được một tiến trình không
ngừng trưởng thành. Nhưng “việc hứa yêu thương suốt đời sẽ là điều có thể, khi
chúng ta nhận hiểu một kế hoạch to lớn hơn các ý tưởng và dự phóng của chính
mình, một kế hoạch nâng đỡ chúng ta và làm chúng ta có thể hoàn toàn phó thác
tương lai của mình cho người mình yêu thương”.[123] Nếu tình yêu này phải vượt thắng mọi
thử thách và giữ được sự trung thành trước mọi hoàn cảnh, thì nó cần ơn sủng để
củng cố và nâng cao nó. Theo cách diễn tả của Thánh Robert Bellarmine, “sự kiện
rằng một người nam kết hợp với một người nữ trong một mối ràng buộc bất khả
phân ly, và rằng họ trung thành gắn kết với nhau bất chấp mọi khó khăn, ngay cả
khi không còn hy vọng có con cái, chỉ có thể là dấu hiệu của một mầu nhiệm cao
cả”.[124]
125. Hôn nhân có thể ví như một tình bạn được đánh dấu bởi đam
mê, nhưng đó là đam mê luôn được dẫn dắt tới một sự kết hợp ngày càng ổn định
và mãnh liệt hơn. Đấy bởi vì “hôn nhân không được thiết lập duy chỉ nhắm đến
việc sinh sản con cái”, mà còn nhắm đến tình yêu thương nhau “được diễn tả cách
xác đáng, để nó có thể tăng triển và chín muồi”.[125] Tình bạn độc đáo này giữa một người
nam và một người nữ chỉ đạt được tính bao hàm toàn thể trong mối kết hợp phu
phụ. Chính vì nó bao hàm toàn thể, nên mối kết hợp này cũng có tính độc hữu,
trung thành và mở ra sẵn sàng đón nhận sự sống mới. Nó chia sẻ mọi sự trong
niềm kính trọng thường hằng dành cho nhau. Công đồng Vatican II làm âm vang
điều này qua tuyên bố rằng “một tình yêu như thế, kết tụ tính nhân loại và tính
thần linh, dẫn đưa các người phối ngẫu tới một sự tự hiến tự nguyện cho nhau, được
kinh nghiệm trong cử chỉ âu yếm và trong hành động, và thấm đẫm toàn thể đời
sống của họ”.[126]
Niềm vui và vẻ đẹp
126. Trong hôn nhân, niềm vui của tình yêu cần được vun xới.
Khi sự tìm kiếm lạc thú trở thành điều ám ảnh người ta, nó sẽ giữ người ta
trong tình trạng nô lệ và không cho phép họ kinh nghiệm những sự thỏa mãn khác.
Niềm vui, đàng khác, tăng cường niềm hoan lạc của chúng ta và giúp chúng ta tìm
thấy sự mãn nguyện trong bất cứ việc gì, ngay cả vào những giai đoạn của đời
sống khi mà khoái lạc thể lý đã suy giảm. Thánh Tôma Aquinô nói rằng từ “niềm
vui” qui chiếu đến một sự mở rộng của trái tim.[127]Niềm
vui hôn nhân có thể được kinh nghiệm ngay cả giữa những buồn phiền; nó liên
quan đến việc chấp nhận rằng hôn nhân là một hỗn hợp đương nhiên của thưởng
ngoạn và chiến đấu, của căng thẳng và nghỉ ngơi, đau đớn và xoa dịu, thỏa mãn
và khát khao, phiền muộn và khoan khoái, nhưng luôn luôn ở trên nẻo đường của
tình bạn, trong đó đôi bạn được thúc đẩy chăm sóc cho nhau: “Họ giúp đỡ và phục
vụ nhau”.[128]
127. Lòng yêu thương trong tình bạn được gọi là “bác ái” khi nó
nhận hiểu và trân trọng “giá trị lớn” của người kia.[129] Vẻ đẹp – tức “giá trị lớn” ấy, khác
với dáng vẻ thể lý hay tâm lý – giúp chúng ta có thể trân trọng tính thánh
thiêng của một nhân vị, mà không cảm thấy nhu cầu chiếm hữu người ấy. Trong một
xã hội tiêu thụ, cảm thức về cái đẹp bị làm cho nghèo kiệt đi, và do đó niềm
vui cũng hời hợt. Mọi thứ có đó, kể cả con người, để cho người ta mua sắm, sở
hữu hay tiêu xài. Sự âu yếm dịu dàng, đàng khác, là dấu hiệu của một tình yêu
không nhuốm màu chiếm hữu ích kỷ. Nó giúp ta tiếp cận một con người với lòng
kính trọng sâu xa và sự ý tứ tinh tế để không gây hại gì cho người ấy hoặc làm
người ấy mất tự do. Yêu thương một người sẽ gắn liền với niềm vui chiêm ngắm và
trân trọng vẻ đẹp và sự thánh thiêng tự nhiên của người ấy, những điều này thì
lớn lao hơn các nhu cầu của tôi. Điều này giúp tôi có thể tìm kiếm thiện ích
cho người ấy ngay cả khi người ấy không thể thuộc về tôi, hay khi họ không còn
nét duyên dáng ở ngoại hình nữa, mà chỉ là gánh nặng và sự phiền toái. Vì “tình
yêu mà nhờ đó người này làm vui lòng người kia tùy thuộc vào việc người ấy trao
ban một cái gì đó hoàn toàn nhưng không”.[130]
128. Mỹ cảm của tình yêu được diễn tả trong “cái nhìn” quan
chiêm người khác xét như là cứu cánh nơi chính họ, ngay cả dù họ yếu ớt, già
nua hay có ngoại hình không hấp dẫn. Một cái nhìn trân trọng có tầm quan trọng
rất lớn lao, còn thái độ miễn cưỡng thường gây tổn thương cho người ta. Biết
bao điều mà đôi khi những người vợ, chồng hay con cái làm để kêu gọi sự quan
tâm! Nhiều sự tổn thương và nhiều vấn đề xảy ra khi chúng ta không còn nhìn
nhau. Điều này nằm đàng sau những lời than phiền và trách cứ mà chúng ta thường
nghe trong các gia đình: “Chồng tôi không quan tâm tới tôi; anh ta làm như thể
tôi không có mặt trên đời”. “Xin vui lòng nhìn em khi em nói chuyện với anh!”
“Vợ tôi chẳng còn nhìn đến tôi, cô ấy chỉ quan tâm đến con cái thôi”. “Trong
nhà này chẳng ai đoái hoài đến tôi; mọi người thậm chí không nhìn tôi, như thể
tôi không tồn tại”. Tình yêu mở đôi mắt chúng ta và giúp chúng ta nhìn thấy,
vượt quá mọi điều khác, giá trị cao quí của một con người.
129. Niềm vui của tình yêu biết chiêm ngắm này cần phải được
vun xới. Vì chúng ta được dựng nên cho tình yêu, chúng ta biết rằng không có
niềm vui nào lớn hơn niềm vui của việc san sẻ những điều tốt lành: “Hãy lấy,
hãy cho, và hãy chăm sóc chính mình” (Hc 14,16). Niềm vui thâm sâu nhất trong
đời sống trào dâng khi chúng ta có thể khơi lên niềm vui nơi người khác, như
một cảm nếm trước thiên đàng. Chúng ta có thể nghĩ đến cảnh đáng yêu trong phim Bữa Tiệc của Babette, khi cô đầu bếp từ
tâm nhận được cái ôm nồng nhiệt lòng biết ơn với lời khen ngợi: “Ôi, cô thắp
lên niềm vui cho cả các thiên thần!” Thật là một niềm vui và niềm an ủi lớn lao
khi ta đem lại niềm vui cho người khác, nhìn thấy họ hoan hỉ. Niềm vui này, là
hoa trái của tình huynh đệ, không phải là niềm vui của kẻ tự phụ và vị kỷ,
nhưng là niềm vui của người yêu thương biết vui mừng trước điều tốt lành của
những người mình yêu, niềm vui của người tự nguyện trao ban cho họ và nhờ đó
sinh hoa trái tốt lành.
130. Mặt khác, niềm vui cũng lớn lên xuyên qua khổ đau. Như
Thánh Augustinô diễn tả, “hiểm nguy của chiến trận càng lớn thì niềm vui chiến
thắng càng cao”.[131] Sau khi cùng chịu khổ và cùng chiến
đấu sát cánh nhau, những người vợ chồng có thể kinh nghiệm rằng đó là điều đáng
giá, vì họ đạt được điều gì đó tốt lành, họ cùng nhau học được một điều gì đó,
hoặc họ bắt đầu trân trọng những gì mình có. Ít có niềm vui nhân loại nào sâu
xa và cảm kích bằng niềm vui được kinh nghiệm bởi hai người yêu nhau và cùng
nhau đạt được một cái gì đó như kết quả của một cố gắng lớn lao của cả hai
người.
Kết hôn vì tình yêu
131. Tôi muốn nói với những người trẻ rằng không có gì nguy hại
khi tình yêu của họ tìm thấy sự diễn tả trong hôn nhân. Sự kết hợp của họ gặp
thấy trong cơ chế này phương tiện để bảo đảm rằng tình yêu của họ sẽ thực sự
bền vững và triển nở. Hẳn nhiên, tình yêu thì lớn hơn nhiều chứ không chỉ là
một biểu lộ ưng thuận bên ngoài hay một khế ước, tuy nhiên quả thật là việc
chọn trao cho hôn nhân một hình thức cụ thể trong xã hội bằng việc đưa ra một
số lời cam kết cho thấy rằng nó quan trọng biết bao. Nó biểu hiện sự nghiêm túc
của việc người này đồng hóa với người kia, và việc họ quyết định dứt khoát bỏ
lại đằng sau mình xu hướng cá nhân chủ nghĩa của tuổi thanh niên để thuộc về
nhau. Hôn nhân là một phương tiện để nói lên rằng chúng ta đã thực sự rời khỏi
sự an toàn của ngôi nhà trong đó chúng ta đã lớn lên, để xây dựng những mối
ràng buộc chặt chẽ khác và đảm nhận trách nhiệm mới đối với một người khác.
Điều này có ý nghĩa hơn nhiều so với một sự liên kết đơn thuần tự phát nhắm đến
sự thỏa mãn cho nhau, điều sẽ biến hôn nhân thành một công việc thuần túy riêng
tư. Trong tư cách một cơ chế xã hội, hôn nhân bảo vệ và định hình cho một cam
kết chung nhắm đến sự trưởng thành sâu xa hơn trong tình yêu và sự dấn thân cho
nhau, vì lợi ích của xã hội xét như một toàn thể. Vì thế hôn nhân không phải là
một trào lưu chóng lụi tàn; nó có tầm quan trọng bền vững. Yếu tính của nó rút
ra từ bản tính con người và đặc tính xã hội của chúng ta. Nó liên quan tới một
loạt những bổn phận phát sinh từ chính tình yêu, một tình yêu nghiêm túc và
quảng đại đến mức sẵn sàng đương đầu với mọi nguy hiểm.
132. Việc chọn kết hôn theo cách này diễn tả một quyết định
thực sự và dứt khoát muốn đi chung nẻo đường, cho dù bất cứ điều gì sẽ xảy ra.
Do tính nghiêm túc của nó, sự cam kết công khai này của tình yêu không thể là
kết quả của một quyết định bồng bột, nhưng nó cũng không thể bị trì hoãn vô hạn
định. Việc dấn thân chính mình một cách độc hữu và dứt khoát cho một người khác
luôn luôn bao hàm một nguy cơ và một sự dũng cảm đánh cuộc. Việc không sẵn lòng
đưa ra một cam kết như vậy cho thấy tính cách ích kỷ, tính toán và nhỏ nhen. Nó
không nhìn nhận quyền của một người khác và không giới thiệu người ấy cho xã
hội như một con người đáng được yêu thương vô điều kiện. Nếu hai người thực sự
yêu nhau, đương nhiên họ sẽ cho mọi người thấy như vậy. Khi tình yêu được diễn
tả trước những người khác trong khế ước hôn nhân, với tất cả những cam kết công
khai của nó, nó xác nhận rõ và bảo vệ sự ưng thuận mà hai người nói lên một
cách tự do và dứt khoát với nhau. Lời ưng thuận này nhằm bảo rằng họ có thể
luôn luôn tin tưởng nhau, và rằng họ sẽ không bao giờ bị bỏ rơi khi khó khăn
xảy đến, hay khi những lôi cuốn mới hoặc những mối quan tâm ích kỷ chợt xuất
hiện.
Một tình yêu tự biểu lộ và tăng trưởng
133. Lòng yêu thương của tình bạn hợp nhất mọi khía cạnh của
đời sống hôn nhân và giúp các thành viên gia đình không ngừng lớn lên. Tình yêu
này phải được diễn tả cách tự do và quảng đại bằng lời nói và hành động. Trong
gia đình, “có ba từ rất cần được dùng. Tôi muốn lặp lại, ba từ đó là: ‘Làm ơn’,
‘Cám ơn’, và ‘Xin lỗi’. Những tiếng thật thiết yếu!”[132] “Trong gia đình của mình, khi chúng ta
không cường quyền và biết nói: ‘Xin cho phép…’; trong gia đình của mình, khi
chúng ta không ích kỷ và có thể nói ‘Cám ơn!’; và trong gia đình của mình, khi
ai đó nhận ra rằng mình đã làm điều gì đó sai trái và có thể nói ‘Xin lỗi!’,
thì gia đình chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự bình an và niềm vui”.[133] Chúng ta đừng ngần ngại nói những
tiếng ấy, nhưng hãy lặp đi lặp lại chúng, ngày này qua ngày khác. Vì “một số sự
thinh lặng sẽ gây ngột ngạt, đôi khi ngay cả trong gia đình, giữa vợ và chồng,
giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em”.[134] Những lời phù hợp, nói lên vào những
lúc phù hợp, sẽ bảo vệ và nuôi dưỡng tình yêu hằng ngày.
134. Tất cả những điều này xảy ra xuyên qua một tiến trình lớn
lên. Hình thức rất đặc biệt của tình yêu, tức hôn nhân, được mời gọi để biểu
hiện điều mà Thánh Tôma Aquinô nói về đức ái cách chung. Theo ngài, “đức ái, do
chính bản chất của nó, không có giới hạn trong sự tăng trưởng, vì đó là một sự
tham dự vào đức ái vô hạn là chính Chúa Thánh Thần… Về phần chủ thể, cũng không
thể đặt giới hạn cho đức ái, vì khi đức ái tăng trưởng, thì khả năng tăng
trưởng của nó càng nhiều hơn”.[135] Thánh Phaolô cầu nguyện: “Xin Chúa cho
tình thương của anh em đối với nhau ngày càng thêm đậm đà thắm thiết” (1Tx
3,12), và một lần nữa: “còn về tình huynh đệ… chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy
tiến tới ngày càng nhiều hơn nữa” (1Tx 4,9-10). Ngày càng nhiều hơn nữa! Tình
yêu hôn nhân không được bảo vệ chủ yếu bằng việc trình bày tính bất khả phân ly
của nó như một bổn phận, hay bằng việc lặp đi lặp lại giáo thuyết, nhưng bằng
cách giúp cho nó lớn lên ngày càng mạnh mẽ hơn dưới sự thúc đẩy của ơn sủng.
Một tình yêu không lớn lên được là một tình yêu đang lâm nguy. Sự lớn lên chỉ
có thể xảy ra khi chúng ta đáp lại ơn sủng của Thiên Chúa xuyên qua các hành
động yêu thương không ngừng, những hành động của lòng từ tâm trở nên ngày càng
thường xuyên hơn, nồng nhiệt, quảng đại, dịu dàng và vui tươi hơn. Những người
chồng và vợ “trở nên ý thức về sự hợp nhất của mình và kinh nghiệm nó cách sâu
sắc hơn từ ngày này qua ngày khác”.[136] Ân ban của tình yêu Thiên Chúa tuôn tràn
trên đôi bạn cũng là một lời mời gọi không ngừng lớn lên trong ơn sủng.
135. Thật ngớ ngẩn việc mơ một tình yêu lý tưởng và hoàn hảo
theo nghĩa nó không cần được tác động để lớn lên. Một ý niệm hão huyền về tình
yêu trên thế gian quên rằng điều tốt nhất còn chưa xảy đến, quên rằng rượu càng
để lâu năm càng ngon. Như các Giám mục Chi-lê đã chỉ ra, “mẫu gia đình hoàn hảo
mà sự tuyên truyền bịp bợm của chủ nghĩa tiêu thụ đề ra thì không hề tồn tại.
Trong những gia đình ấy, không có ai già đi, không có đau ốm, buồn phiền hay
tang tóc… Sự tuyên truyền của chủ nghĩa tiêu thụ trình bày một ảo tưởng không
liên quan gì với thực tế mà mỗi ngày những người đứng đầu các gia đình phải đối
diện”.[137] Sẽ lành mạnh hơn nhiều nếu ta nhìn
nhận thực tế những giới hạn, những khiếm khuyết và những bất toàn của chúng ta,
và đáp lại tiếng gọi lớn lên cùng với nhau, đưa tình yêu đến mức trưởng thành
và củng cố mối kết hợp, cho dẫu điều gì xảy ra đi nữa.
Đối thoại
136. Đối thoại là điều thiết yếu để kinh nghiệm, bày tỏ và củng
cố tình yêu trong đời sống hôn nhân và gia đình. Nhưng người ta chỉ có thể đạt
được nó sau quá trình thực tập lâu dài và cam go. Người ta, nam và nữ, trẻ và
già, giao tiếp một cách khác nhau. Họ nói ngôn ngữ khác nhau và hành động theo
cách khác nhau. Cách chúng ta hỏi và trả lời, cung giọng của chúng ta, sự lựa
chọn thời điểm của chúng ta, và nhiều yếu tố khác nữa sẽ ấn định chúng ta giao
tiếp tốt mức nào. Chúng ta cần phát triển một số thái độ diễn tả tình yêu
thương và thúc đẩy sự đối thoại đích thực.
137. Hãy dành thời gian, thời gian chất lượng. Điều này có
nghĩa là sẵn sàng lắng nghe một cách kiên nhẫn và chú ý tới mọi điều mà người kia
muốn nói. Nó đòi phải có kỷ luật bản thân để không lên tiếng khi chưa phải lúc.
Thay vì đưa ra một ý kiến hay một lời khuyên, chúng ta cần bảo đảm rằng mình đã
nghe mọi điều người kia muốn trình bày. Điều này giả thiết việc vun xới một sự
thinh lặng nội tâm giúp ta lắng nghe người khác mà không bị chia trí do tư
tưởng hay do cảm xúc. Đừng hấp tấp, hãy đặt qua một bên tất cả các nhu cầu và
bận tâm riêng của bạn, và hãy dành chỗ để lắng nghe. Thường thì người bạn đời
không cần một giải pháp cho vấn đề của người ấy, mà chỉ cần được nghe, người ấy
cần cảm nhận rằng có người hiểu nỗi đau của mình, hiểu sự chán nản, nỗi sợ, cơn
giận, những hy vọng và những ước mơ của mình. Biết bao lần chúng ta nghe những
lời phàn nàn như: “Anh ấy không lắng nghe tôi.” “Ngay cả khi dường như anh có
vẻ lắng nghe em, thì thực sự anh cũng đang làm một việc gì đó khác.” “Tôi nói
với cô ấy và tôi cảm thấy như cô ấy không thể đợi tôi nói hết ý của mình.” “Khi
tôi nói với cô ấy, cô ấy cố đánh trống lảng, hoặc cô ấy chỉ trả lời cộc lốc để
chấm dứt cuộc trò chuyện”.
138. Hãy phát triển thói quen trao tầm quan trọng thực sự cho
người kia. Điều này có nghĩa là biết trân trọng họ và nhìn nhận quyền tồn tại,
quyền suy nghĩ theo cách riêng và quyền hạnh phúc của họ. Đừng bao giờ chế giễu
những gì họ nói hay nghĩ, ngay cả khi bạn cần diễn tả quan điểm riêng của mình.
Ai cũng có cái gì đó để đóng góp, bởi vì người ta có kinh nghiệm sống, họ nhìn
sự vật từ một góc nhìn khác, và họ có những mối quan tâm, những khả năng và
những tri thức riêng. Chúng ta phải nhận ra được sự thật của người kia, giá trị
của những quan tâm sâu xa nhất của người ấy, và những gì mà người ấy đang muốn
chuyển đạt, dù một cách bức xúc đến mấy đi nữa. Chúng ta phải đặt mình vào chỗ
của người ấy, cố gắng nhìn vào trái tim của người ấy, nhận hiểu những bận tâm
sâu xa nhất của người ấy, và lấy đó làm khởi điểm cho một cuộc đối thoại xa
hơn.
139. Hãy cởi mở trong suy nghĩ. Đừng mắc kẹt trong những ý kiến
và quan điểm giới hạn của mình, nhưng hãy sẵn sàng để thay đổi hay mở rộng
chúng. Sự kết hợp của hai cách nghĩ khác nhau có thể dẫn đến một tổng hợp làm
phong phú cả hai. Sự hợp nhất mà chúng ta tìm kiếm không phải là sự đồng nhất,
nhưng là một sự “hợp nhất trong khác biệt”, hay “sự khác biệt được hòa giải”.
Mối hiệp thông huynh đệ được làm cho phong phú bằng sự kính trọng và trân trọng
những khác biệt trong một nhãn giới bao quát giúp thăng tiến thiện ích chung.
Chúng ta cần giải phóng chính mình khỏi cái cảm nghĩ rằng tất cả chúng ta đều
giống như nhau. Cũng cần tinh tế mức nào đó để phòng tránh sự xuất hiện của
“nỗi bực tức” có thể ngáng trở tiến trình đối thoại. Chẳng hạn, nếu những cảm
nghĩ gay gắt bắt đầu nổi lên, chúng phải được xử lý một cách thận trọng, nếu
không chúng sẽ làm gián đoạn mạch đối thoại. Khả năng nói lên những gì mình
nghĩ mà không gây khó chịu cho người khác là điều rất quan trọng. Cần phải lựa
lời mà nói để không làm tổn thương người ta, nhất là khi thảo luận những vấn đề
gay cấn. Việc nêu quan điểm của mình đừng bao giờ gắn với việc xả cơn giận và
công kích người ta. Một giọng điệu cha chú chỉ gây tổn thương, nhạo báng, tố
cáo và làm người ta bực bội. Nhiều sự bất đồng giữa vợ chồng thực sự không phải
là những chuyện quan trọng. Phần lớn chúng là những chuyện vặt vãnh. Tuy nhiên,
điều làm thay đổi bầu khí chính là cách nói hay thái độ của người nói.
140. Hãy bày tỏ tình cảm và sự quan tâm đối với người kia. Tình
yêu có thể vượt qua cả những rào chắn tệ hại nhất. Khi chúng ta yêu thương một
người, hay khi chúng ta cảm thấy mình được họ yêu thương, thì chúng ta có thể
hiểu tốt hơn những gì mà họ cố gắng truyền đạt. Nỗi sợ đối với người kia như
thể một “đối thủ cạnh tranh” là một dấu hiệu của yếu nhược và cần phải được
vượt qua. Thật quan trọng việc đặt nền quan điểm của mình trên những lựa chọn,
những niềm tin hay những giá trị vững chắc, chứ không đặt trên nhu cầu thắng
một cuộc tranh cãi hay nhu cầu chứng minh rằng mình đúng.
141. Cuối cùng, chúng ta phải nhìn nhận rằng trong một cuộc đối
thoại có ý nghĩa quan trọng nào đó, thì chúng ta phải có gì đó để nói. Điều này
chỉ có thể là hoa trái của một sự phong phú nội tâm được nuôi dưỡng bằng việc
đọc sách vở, suy tư cá nhân, cầu nguyện, và mở lòng ra với thế giới chung quanh
mình. Nếu không, các cuộc trò chuyện sẽ trở nên chán ngán và tầm thường. Khi cả
vợ lẫn chồng đều không đầu tư cho việc này, và chẳng có mấy sự tiếp xúc thật sự
với những người khác, thì đời sống gia đình sẽ nặng nề và đối thoại sẽ rất
nghèo nàn.
Tình yêu đam mê
142. Công đồng Vatican II dạy rằng tình yêu phu phụ “bao trùm
thiện ích của toàn thể nhân vị; nó có thể làm cho những tình cảm của tinh thần
và sự diễn tả thể lý của chúng nên phong phú với một phẩm giá độc đáo, và làm
cho chúng nên cao quí xét như là những đặc nét và như sự biểu đạt của tình bạn
chuyên biệt trong hôn nhân”.[138] Vì thế, một tình yêu nếu thiếu khoái
cảm hoặc sự say mê thì không đủ để làm biểu tượng cho sự kết hợp của trái tim
con người với Thiên Chúa: “Tất cả các nhà thần bí đều khẳng định rằng tình yêu
siêu nhiên và tình yêu thiên giới gặp thấy những biểu tượng của chúng trong
tình yêu vợ chồng, hơn là trong tình bạn, trong lòng hiếu thảo hay trong nhiệt
tâm dấn thân cho một chính nghĩa nào đó. Lý do được tìm thấy trong chính toàn
thể tính của nó”.[139] Vì vậy ta cũng nên đề cập đến những
cảm xúc và dục tính trong hôn nhân.
Thế giới xúc cảm
143. Những khao khát, những tâm cảm, những cảm xúc, điều mà
người xưa gọi là “những đam mê”, tất cả có một chỗ quan trọng trong đời sống
hôn nhân. Chúng được đánh thức bất cứ khi nào “một người khác” trở nên hiện
diện và thành một phần trong đời sống của mình. Đặc trưng của mọi hữu thể sống
động, đó là vươn ra tới những hữu thể khác, và xu hướng này luôn luôn có những
dấu hiệu tình cảm căn bản: hoan lạc hay đớn đau, vui hay buồn, âu yếm hay sợ
hãi. Chúng đặt nền móng cho sinh hoạt tâm lý căn bản nhất. Con người sống trên
trần gian này, và tất cả những gì họ làm và tìm kiếm đều mang đầy dấu vết đam
mê.
144. Là con người thực sự, Đức Giêsu đã cho thấy cảm xúc của
Người. Người bị tổn thương vì Giêrusalem tẩy chay Người (x. Mt 23,27) và điều
đó khiến Người rơi lệ (x. Lc 19,41). Người cũng cảm động sâu xa trước những nỗi
thống khổ của người khác (x. Mc 6,34). Người thổn thức trước nỗi tiếc thương
của họ (x. Ga 11,33), và Người khóc trước cái chết của một người bạn (x. Ga
11,35). Những ví dụ này về sự nhạy cảm của Đức Giêsu cho thấy trái tim nhân
loại của Người rộng mở biết bao đối với người khác.
145. Kinh nghiệm một cảm xúc thì tự nó không phải là một việc
tốt hay xấu về mặt luân lý.[140] Sự sôi trào lên của dục vọng hay của
sự dị ứng không hề là tội lỗi và cũng chẳng đáng trách. Điều tốt hay xấu về mặt
luân lý là điều mà chúng ta làm trên cơ sở của một đam mê nào đó, hay dưới ảnh
hưởng của nó. Nhưng khi các đam mê được khuấy động hay tìm kiếm, và kết quả là
chúng ta có những hành động xấu, thì sự dữ nằm ở trong cái quyết định kích động
các đam mê và ở trong những hành động xấu mà ta thực hiện từ đó. Cũng vậy, sự
việc tôi được lôi cuốn hướng tới một người nào đó thì không tự nó tốt. Nếu sự
hấp dẫn của người ấy khiến tôi tìm cách thống trị người ấy, thì cảm xúc của tôi
chỉ phục vụ cho sự ích kỷ của mình. Tin rằng mình tốt chỉ bởi vì “mình cảm thấy
tốt”, đó là một ảo tưởng ghê gớm. Có những người cảm thấy mình có tình yêu vĩ
đại chỉ vì họ có một nhu cầu to lớn về tình cảm, nhưng họ cho thấy không có khả
năng thực hiện những nỗ lực cần thiết để đem lại hạnh phúc cho người khác. Họ
chỉ loay hoay với những nhu cầu và những khao khát của riêng mình. Trong những
trường hợp như thế, các cảm xúc làm người ta sao lãng các giá trị cao nhất và
che đậy một thái độ vị kỷ vốn làm người ta không thể xây dựng một đời sống gia
đình lành mạnh và hạnh phúc.
146. Tuy nhiên, nếu đam mê đi kèm theo một hành động tự do, thì
nó có thể biểu lộ chiều sâu của hành động ấy. Tình yêu hôn nhân cố gắng bảo đảm
rằng toàn thể đời sống tâm cảm của người ta sinh ích cho gia đình xét như một
toàn thể, và nhằm phục vụ cho đời sống chung của gia đình. Một gia đình trưởng
thành khi đời sống tâm cảm của các thành viên trở nên một dạng nhạy bén không
đè nén cũng không che mờ những quyết định và những giá trị lớn, nhưng đúng hơn
tôn trọng sự tự do của mỗi người,[141]xuất
phát từ sự tự do ấy, làm phong phú nó, hoàn thiện và hòa điệu nó nhằm phục vụ
mọi người.
Thiên Chúa yêu thích niềm vui của con cái Ngài
147. Điều này cần đến một tiến trình có tính sư phạm liên quan
đến việc từ bỏ. Xác tín này của Giáo Hội thường bị tẩy chay viện lẽ rằng nó đi
ngược lại hạnh phúc của con người. Đức Bênêđictô XVI đã đúc kết cáo buộc này
thật rõ ràng: “Với tất cả những điều răn và những cấm đoán của mình, chẳng phải
Giáo Hội muốn biến điều quí giá nhất trong đời thành sự cay đắng đó sao? Chẳng
phải Giáo Hội thổi còi chính khi niềm vui – vốn là quà tặng của Tạo Hóa – đem
lại cho chúng ta một niềm hạnh phúc mà tự nó là một cảm nếm trước thiên giới đó
sao?”[142] Ngài trả lời rằng mặc dù đã có những
sự cường điệu và những hình thức khổ hạnh lệch lạc trong Kitô giáo, nhưng giáo
huấn chính thức của Giáo Hội, trong sự trung thành với Thánh Kinh, không hề bác
bỏ “nhục cảm theo đúng nghĩa của nó, mà đúng hơn Giáo Hội tuyên chiến với một
dạng méo mó và tàn phá của nó, bởi vì sự thần thánh hóa giả hiệu này của nhục
cảm […] thực ra tước mất của nó phẩm giá thần linh và làm mất cả tính người của
nó nữa”.[143]
148. Thật cần thiết phải có sự đào tạo trong các lãnh vực cảm
xúc và bản năng, và có những khi điều này đòi hỏi phải lập ra những giới hạn.
Sự thái quá, sự thiếu kiểm soát hay sự ám ảnh với một dạng lạc thú đơn độc sẽ
rốt cục làm suy yếu và bại hoại chính lạc thú ấy[144] và phá hỏng đời sống gia đình. Một
người có thể chuyển thông những đam mê của mình bằng một cách thế đẹp đẽ và
lành mạnh, không ngừng hướng chúng về phía vị tha và sự hoàn thành chính mình
một cách toàn nhập, điều này luôn làm phong phú các mối tương quan liên vị ở
trung tâm đời sống gia đình. Điều này không có nghĩa là khước từ những khoảnh
khắc thích thú cực độ,[145] nhưng đúng hơn là hội nhập chúng với
những khoảnh khắc khác của sự dấn thân quảng đại, của niềm hy vọng bền bỉ, của
sự mệt mỏi không tránh được và của sự chiến đấu để đạt một lý tưởng. Đời sống
gia đình là tất cả những điều này, và nó đáng được sống đến mức trọn vẹn nhất.
149. Một số trào lưu linh đạo dạy rằng cần phải từ bỏ sự thèm
khát như một con đường giải phóng khỏi đau khổ. Nhưng chúng ta tin rằng Thiên
Chúa yêu thích niềm vui thú mà con người cảm nghiệm: Ngài đã dựng nên chúng ta
và “trang bị dồi dào cho chúng ta mọi sự để hưởng dùng” (1Tm 6,17). Chúng ta
hãy vui mừng vì với tình yêu hải hà Ngài bảo chúng ta: “Hỡi con, hãy săn sóc
lấy mình… Đừng tước mất của mình một ngày hạnh phúc” (Hc 14,11-14). Các đôi vợ
chồng cũng đáp lại thánh ý Thiên Chúa khi họ tuân theo huấn thị của Thánh Kinh:
“Vào ngày thịnh vượng, hãy hưởng lấy phúc” (Gv 7,14). Điều quan trọng là có sự
tự do để nhận ra rằng lạc thú có thể có những cách diễn tả khác nhau vào những
giai đoạn khác nhau của đời sống, phù hợp với các nhu cầu của tình yêu đối với
nhau. Theo nghĩa này, chúng ta có thể trân trọng những giáo huấn của một số bậc
thầy Đông phương thúc đẩy chúng ta giãn rộng ý thức của mình, phòng tránh việc
chúng ta bị giam hãm bởi một kinh nghiệm giới hạn có thể bó hẹp tầm nhìn của
mình. Sự giãn rộng ý thức này không phải là phủ nhận hay tiêu diệt lòng khát
khao cho bằng là mở nó rộng ra và hoàn thiện nó.
Chiều kích nhục cảm của tình yêu
150. Tất cả những điều này đưa chúng ta đến với chiều kích tình
dục của hôn nhân. Chính Thiên Chúa tạo dựng nên tính dục, là món quà kỳ diệu
cho các thụ tạo của Ngài. Nếu món quà này phải được phát huy và hướng dẫn, thì
đó là để phòng tránh “sự phá giá một giá trị đích thực”.[146] Thánh Gioan Phaolô II bác bỏ quan điểm
cho rằng giáo huấn của Giáo Hội là “một sự phủ nhận giá trị của tính dục con
người”, hay cho rằng Giáo Hội miễn cưỡng chấp nhận tính dục “chỉ vì nó cần cho
việc truyền sinh”.[147] Sự thèm khát tình dục không phải là
một cái gì đáng bị coi thường, và “người ta không thể nào chất vấn sự cần thiết
của nó”.[148]
151. Nói với những người lo sợ rằng việc uốn nắn các đam mê và
tình dục sẽ làm ảnh hưởng đến tính tự nhiên của tình yêu nam nữ, Thánh Gioan
Phaolô II trả lời rằng nhân vị con người được “mời gọi đạt đến tính cách tự
nhiên đầy đủ và trưởng thành trong các mối tương quan của mình”, một sự trưởng
thành vốn “là hoa trái trổ sinh dần dần từ một sự phân định các xung năng trong
lòng mình”.[149] Điều này đòi hỏi tính kỷ luật và khả
năng tự chủ, bởi vì mọi người đều “phải học – một cách kiên trì và nhất quán –
để biết ý nghĩa của thân xác mình”.[150] Tính dục không phải là một phương tiện
để thỏa mãn hay để giải trí; nó là một ngôn ngữ liên vị trong đó người kia được
nghiêm túc trân trọng, trong phẩm giá thánh thiêng và bất khả xâm phạm của
người ấy. Như vậy, “trái tim con người tiến tới tham dự vào, có thể nói, một
loại tính cách tự nhiên khác”.[151] Trong bối cảnh này, nhục cảm xuất hiện
như một sự thể hiện tính dục chuyên biệt của con người. Nó giúp chúng ta khám
phá “ý nghĩa hoàn hợp của thân xác và phẩm giá đích thực của ơn ban ấy”.[152] Trong các bài giáo lý về thần học thân
xác của ngài, Thánh Gioan Phaolô II dạy rằng sự dị biệt về tính dục không chỉ
là “một nguồn của hoa trái và sinh sản”, mà nó còn sở hữu “khả năng diễn tả
tình yêu: tình yêu mà chính ở đó nhân vị trở thành một quà tặng”.[153] Một khao khát tình dục lành mạnh, cho
dù gắn với một sự mưu cầu lạc thú, luôn luôn liên quan tới một cảm thức ngạc
nhiên, và chính bởi đó mà nó có thể làm cho các xung năng có tính người.
152. Vì thế, chúng ta không thể xem chiều kích nhục cảm của
tình yêu đơn thuần như một sự dữ được phép, hay như một gánh nặng phải chịu
đựng vì thiện ích của gia đình. Đúng hơn, nó phải được xem như quà tặng từ
Thiên Chúa, giúp làm phong phú mối tương quan của vợ chồng. Xét như một đam mê
được thăng hoa bởi một tình yêu đầy kính trọng phẩm giá của người kia, nó trở
thành một “khẳng định tinh thuần và trọn vẹn” cho thấy những điều kỳ diệu có
thể ẩn chứa trong trái tim con người. Bằng cách này, thậm chí ngay lập tức,
chúng ta có thể cảm thấy rằng “đời sống quả thật rất tốt lành và hạnh phúc”.[154]
Bạo lực và lệch lạc
153. Trên cơ sở của cái nhìn tích cực này về tình dục, chúng ta
có thể tiếp cận toàn thể chủ đề với một tinh thần hiện thực lành mạnh. Nói cho
cùng, thực tế là tình dục thường bị phi nhân
vị hóa và trở thành
bệnh hoạn; kết quả là, “nó trở thành cơ hội và phương tiện cho người ta tự
khẳng định mình và thỏa mãn cách ích kỷ những thèm khát và những bản năng của
mình”.[155] Trong thời của chúng ta, tình dục có
nguy cơ bị nhiễm độc bởi não trạng “sử dụng và vứt bỏ”. Thân xác của người kia
thường được xem như một đồ vật để sử dụng bao lâu nó còn đem lại thỏa mãn, và
bị vứt bỏ khi nó không còn gây thích thú nữa. Liệu chúng ta có thể thực sự phớt
lờ hay bỏ qua những hình thức đang tiếp diễn của sự thống trị, ngạo mạn, lạm
dụng, lệch lạc tình dục và bạo lực, vốn là sản phẩm của một cách nhận hiểu méo
mó về tình dục? Hay chúng ta có thể bỏ qua sự kiện rằng phẩm giá của người khác
và ơn gọi yêu thương của con người rốt cục trở thành không quan trọng bằng một
nhu cầu ẩn kín muốn “tìm chính mình”?
154. Chúng ta cũng biết rằng ngay trong chính hôn nhân, tình
dục có thể trở thành một nguồn cơn của đau khổ và của sự thao túng. Vì thế cần
phải xác nhận lại rõ ràng rằng “một hành vi vợ chồng áp đặt trên người phối
ngẫu mà không xem xét đến điều kiện của người đó, hay không cần biết người đó
có muốn hay không, thì không phải là hành vi đích thực của tình yêu, và do đó
nó xúc phạm trật tự luân lý trong chức năng chuyên biệt của nó phục vụ cho mối
tương quan mật thiết của vợ chồng”.[156] Những hành vi dành riêng cho sự kết
hợp tính dục giữa vợ chồng phù hợp với bản chất của tính dục như được Thiên
Chúa muốn khi chúng diễn ra trong “một cách thế thực sự có tính người”.[157] Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Về điểm này,
đừng ai làm tổn thương hay lừa dối người anh em mình” (1Tx 4,6). Ngay cả dù
Thánh Phaolô đang viết trong bối cảnh một nền văn hóa có tính gia trưởng, trong
đó người phụ nữ bị coi như là hoàn toàn phụ thuộc vào đàn ông, song ngài vẫn
dạy rằng tình dục phải liên quan đến sự tương giao giữa vợ chồng: Thánh Phaolô
nêu ra khả năng của việc đình hoãn quan hệ tình dục trong một giai đoạn nào đó,
nhưng dĩ nhiên là “có sự đồng thuận” (1Cr 7,5).
155. Thánh Gioan Phaolô II cảnh giác một cách rất tinh tế rằng
đôi vợ chồng có thể bị “đe dọa bởi sự ham hố vô độ”.[158] Nói cách khác, trong khi được mời gọi
đạt tới một mối kết hợp không ngừng thâm sâu hơn, thì có thể có nguy cơ hai
người xóa bỏ những sự khác biệt và khoảng cách chính đáng giữa họ. Vì mỗi người
sở hữu phẩm giá riêng và bất khả nhượng của mình. Khi tính cách thuộc về nhau
chuyển thành thống trị, thì “cấu trúc hiệp thông trong những mối quan hệ liên
vị sẽ bị thay đổi về bản chất”.[159] Một phần của tâm thức thống trị, đó là
những người thống trị rốt cục phủ nhận phẩm giá của chính mình.[160] Cuối cùng, họ không còn “tự đồng hóa
một cách chủ quan với thân xác của chính mình nữa”,[161]vì
họ lấy đi ý nghĩa sâu xa nhất của nó. Kết cuộc, họ dùng tình dục như cách để
thoát ly thực tế và chối bỏ vẻ đẹp của sự kết hợp vợ chồng.
156. Mọi hình thức nô dịch tình dục phải bị dứt khoát loại trừ.
Điều này bao gồm tất cả những diễn dịch sai lạc đoạn văn trong Thư gửi các tín hữu Êphêsô, trong đó
Phaolô bảo các phụ nữ hãy “tùng phục chồng mình” (Ep 5,22). Đoạn văn này phản
ảnh những phạm trù văn hóa của thời đó, nhưng mối quan tâm của chúng ta không ở
chỗ ma trận văn hóa của nó, mà ở chỗ cái sứ điệp mạc khải mà nó chuyển tải. Như
Thánh Gioan Phaolô II ghi nhận rất hay: “Tình yêu loại trừ mọi loại qui phục
theo nghĩa người vợ có thể trở thành một tôi tớ hay nô lệ của người chồng… Tính
cộng đồng hay sự hợp nhất mà họ phải kiến tạo xuyên qua hôn nhân được xây dựng
bởi một sự tự hiến cho nhau, sự tự hiến này vốn cũng là một sự qui phục nhau”.[162] Vì thế Phaolô tiếp tục nói rằng “những
người chồng phải yêu vợ mình như yêu chính thân xác mình” (Ep 5,28). Bản văn
Thánh Kinh này thực sự nhằm thúc đẩy mọi người vượt qua một chủ nghĩa cá nhân
có tính tự mãn và biết không ngừng lưu tâm tới người khác: “Hãy tùng phục nhau”
(Ep 5,21). Trong hôn nhân, sự “tùng phục” hỗ tương này mang một ý nghĩa đặc
biệt, và được thấy như một sự thuộc về nhau được tự do chọn lựa, được đánh dấu
bởi lòng trung thành, kính trọng và quan tâm. Tính dục gắn không rời với việc
phục vụ cho tình bạn này giữa vợ chồng, vì nó được đặt định để giúp hoàn thành
người kia.
157. Cũng vậy, việc tẩy chay những bóp méo tính dục và nhục cảm
không bao giờ được dẫn chúng ta đến chỗ xem thường hay dửng dưng với chúng xét
trong bản chất của chúng. Lý tưởng của hôn nhân không thể bị xem đơn thuần như
sự quảng đại trao hiến và quên mình, trong đó mỗi người phối ngẫu từ bỏ tất cả
những nhu cầu riêng và chỉ tìm cách phục vụ người kia mà không quan tâm gì đến
sự thỏa mãn riêng của mình. Chúng ta cần nhớ rằng tình yêu đích thực cũng cần
khả năng đón nhận người kia, chấp nhận sự chênh vênh và các nhu cầu của riêng
mình, và chân thành tri ơn đón nhận những diễn tả thể lý của tình yêu như trong
một cử chỉ vuốt ve, một ôm siết, một nụ hôn, và sự kết hợp tính dục. Đức
Bênêđictô XVI tuyên bố điều này rất rõ ràng: “Nếu người ta mong muốn trở thành
tinh thần thuần túy và loại bỏ xác thịt như cái gì chỉ thuộc về bản tính động
vật của mình mà thôi, thì cả tinh thần và thân xác đều sẽ đánh mất phẩm giá của
nó”.[163] Vì vậy, “người ta không thể sống với
tình yêu trao hiến mà thôi. Không thể luôn luôn cho đi, người ta cũng phải đón
nhận nữa. Bất cứ ai muốn trao hiến tình yêu thì cũng phải đón nhận tình yêu như
một quà tặng”.[164] Hơn nữa, chúng ta không bao giờ được
quên rằng sự cân bằng của con người chúng ta rất mong manh; có một phần trong
chúng ta đề kháng lại sự trưởng thành nhân bản thực sự, và bất cứ lúc nào nó
cũng có thể bộc lộ những xu hướng ích kỷ và thô thiển nhất.
Hôn nhân và trinh khiết
158. “Nhiều người không kết hôn không chỉ tận tụy với gia đình
mình mà thường cống hiến những sự phục vụ lớn lao trong nhóm bạn hữu của họ,
trong cộng đoàn Giáo Hội và trong đời sống nghề nghiệp của họ. Đôi khi sự hiện
diện và những đóng góp của họ không được ghi nhận, gây cho họ một cảm giác đơn
độc. Nhiều người dùng các tài năng của mình để phục vụ cộng đoàn Kitô hữu qua
việc bác ái và thiện nguyện. Những người khác duy trì tình trạng không kết hôn
vì họ thánh hiến cuộc đời của họ cho tình yêu đối với Đức Kitô và tha nhân. Sự
hiến dâng của họ góp phần lớn lao làm phong phú cho gia đình, Giáo Hội và xã
hội”.[165]
159. Trinh khiết là một hình thức của tình yêu. Xét như một dấu
chỉ, nó nói với chúng ta về Nước Thiên Chúa đang đến và về nhu cầu dấn thân
hoàn toàn cho Tin Mừng (x. 1Cr 7,32). Trinh khiết cũng là một phản ảnh của sự
viên mãn trên thiên quốc, ở đó “người ta không còn dựng vợ gả chồng” (Mt
22,30). Thánh Phaolô cổ võ sự trinh khiết vì ngài kỳ vọng sự trở lại nhanh
chóng của Đức Giêsu và ngài muốn mọi người chỉ tập trung vào việc truyền rao
Tin Mừng: “Thời gian chẳng còn bao lâu” (1Cr 7,29). Tuy nhiên, ngài nêu rõ rằng
đây là quan điểm và ý muốn cá nhân của ngài (x. 1Cr 7,6-9), chứ không phải một
cái gì do Đức Kitô đòi hỏi: “Tôi không có chỉ thị nào của Chúa” (1Cr 7,25).
Cũng vậy, ngài nhìn nhận giá trị của những tiếng gọi khác nhau: “Mỗi người nhận
được ân ban riêng của Thiên Chúa, người ơn này kẻ ơn khác” (1Cr 7,7). Suy tư về
điều này, Thánh Gioan Phaolô II ghi nhận rằng các bản văn Thánh Kinh “không cho
ta lý do để khẳng định tính ‘thấp kém’ của hôn nhân, cũng không khẳng định tính
‘ưu việt’ của trinh khiết hay độc thân”[166] dựa trên sự tiết dục. Thay vì nói một
cách tuyệt đối về tính ưu việt của trinh khiết, ta nên chỉ ra rằng những bậc
sống khác nhau bổ sung cho nhau, và vì thế một số người có thể hoàn hảo hơn
trong cách sống này và những người khác sẽ hoàn hảo hơn trong cách sống khác.
Alexander (gốc ở Hales), chẳng hạn, tuyên bố rằng theo một nghĩa nào đó thì hôn
phối có thể được xem như ưu việt hơn các bí tích khác, trong mức độ nó là biểu
tượng của thực tại lớn lao, đó là “sự kết hợp của Đức Kitô với Hội Thánh, hay
sự kết hợp giữa thiên tính và nhân tính của Người”.[167]
160. Do đó, “đây không phải là vấn đề giảm trừ giá trị của hôn
nhân để thiên vị sự trinh khiết”.[168] “Không có nền tảng nào để ta hạ giá
bên này và đề cao bên kia… Nếu người ta nói về “bậc trọn lành” (status
perfectionis) theo một truyền thống thần học nào đó, thì điều đó
không liên hệ với sự trinh khiết xét tự thân nó, nhưng là liên hệ tới toàn thể
đời sống đặt nền trên các lời khuyên của Phúc Âm”.[169] Một người kết hôn có thể kinh nghiệm
mức độ cao nhất của đức ái và do đó “đạt tới sự hoàn thiện phát xuất từ đức ái,
xuyên qua việc trung thành với tinh thần các lời khuyên Phúc Âm. Sự hoàn thiện
như thế là điều có thể, và mọi người nam nữ đều có khả năng đạt được”.[170]
161. Giá trị của trinh khiết nằm ở chỗ nó là biểu tượng của một
tình yêu vốn không có nhu cầu chiếm hữu người khác; bằng cách này nó phản ảnh
sự tự do của Nước Trời. Trinh khiết khích lệ những người vợ chồng sống tình yêu
phu phụ của họ dựa trên cơ sở tình yêu dứt khoát của Đức Kitô, đồng hành với
nhau tiến tới sự viên mãn của Nước Trời. Về phần mình, tình yêu vợ chồng biểu
tượng cho những giá trị khác. Một đàng, nó là một phản ảnh đặc biệt của sự hợp
nhất trọn vẹn ngay trong những khác biệt như thấy nơi Chúa Ba Ngôi. Gia đình
cũng là một dấu hiệu của Đức Kitô. Nó biểu thị sự gần gũi của Thiên Chúa, Đấng
có mặt trong mọi đời sống con người, vì Ngài trở nên một với chúng ta qua cuộc
nhập thể, cái chết và sự sống lại. Mỗi người phối ngẫu trở thành “một xương một
thịt” với người kia, như một dấu chỉ sẵn sàng chia sẻ mọi sự với người ấy cho
tới chết. Trong khi trinh khiết là một dấu chỉ “cánh chung” của Đức Kitô Phục
sinh, thì hôn nhân là một dấu chỉ “lịch sử” cho chúng ta sống trên thế giới
này, một dấu chỉ của Đức Kitô tại thế, là Đấng đã chọn trở thành một với chúng
ta và tự hiến cho chúng ta đến mức đổ máu mình ra. Trinh khiết và hôn nhân là –
và phải là – những cách thế khác nhau để yêu thương. Vì “con người không thể
sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là một hữu thể không thể hiểu nổi đối
với chính mình, đời sống của con người sẽ vô nghĩa, nếu tình yêu không được mạc
khải cho con người”.[171]
162. Độc thân có thể có nguy cơ trở thành một đời sống thoải mái
một mình, trong đó người ta có sự tự do để sống độc lập, để di chuyển từ chỗ ở
này đến chỗ ở khác, từ công việc này đến công việc khác, hay từ sự chọn lựa này
đến sự chọn lựa khác, để sử dụng tiền bạc và thời giờ với người khác theo cách
mình muốn. Trong những trường hợp như thế, chứng tá của những người kết hôn trở
thành hùng hồn cách đặc biệt. Những người được gọi để sống trinh khiết có thể
gặp thấy trong một số cuộc hôn nhân một dấu hiệu rõ ràng của lòng trung thành
bền bỉ và quảng đại của Thiên Chúa đối với giao ước của Ngài, và điều này có
thể thúc đẩy họ sẵn sàng phục vụ người khác cách quảng đại và cụ thể hơn. Nhiều
đôi vợ chồng vẫn trung thành với nhau khi một người trong họ trở nên không còn
hấp dẫn về mặt thể lý, hay không còn có thể thỏa mãn các nhu cầu của người kia,
bất chấp trong xã hội có những tiếng xúi quẩy họ bất trung hoặc rời bỏ người
bạn đời của mình. Một người vợ có thể chăm sóc người chồng bệnh tật của mình,
và như vậy, trong khi tiến gần tới Thập giá, chị làm mới lại lời cam kết yêu
chồng mình đến suốt đời. Trong tình yêu như thế, phẩm giá của người yêu đích
thực tỏa sáng, theo tiêu chuẩn rằng đức ái được đặc trưng ở yêu người nhiều hơn ở được người yêu.[172] Chúng ta cũng có thể nghĩ đến nhiều
gia đình có khả năng phục vụ cách ân cần và quên mình khi con cái gây phiền
nhiễu và thậm chí phụ bạc. Các bậc cha mẹ ở đây trở thành một dấu chỉ của tình
yêu nhưng không và quên mình của Đức Giêsu. Những trường hợp này khích lệ những
người độc thân sống sự dấn thân của họ cho Nước Trời một cách cởi mở và quảng
đại nhiều hơn. Ngày nay, hiện tượng tục hóa đã che mờ giá trị của một sự kết
hợp suốt đời và vẻ đẹp của ơn gọi hôn nhân. Vì thế, “cần phải đào sâu nhận thức
về những khía cạnh tích cực của tình yêu vợ chồng”.[173]
SỰ CHUYỂN HÓA CỦA TÌNH YÊU
163. Ngày nay, tuổi thọ dài hơn có nghĩa rằng những mối tương
quan mật thiết và độc hữu phải kéo dài bốn, năm hay thậm chí sáu thập niên; vì
thế, cái quyết định ban đầu phải thường xuyên được làm mới lại. Trong khi một
người phối ngẫu có thể không còn kinh nghiệm một khao khát tình dục mạnh mẽ đối
với người kia, thì đương sự vẫn có thể kinh nghiệm niềm hoan lạc của sự thuộc
về nhau, cũng như ý thức rằng không ai trong họ cô đơn, nhưng có một “bạn đời”
để chia sẻ mọi sự trong đời sống của mình. Người này là bạn đồng hành trong
hành trình cuộc sống của người kia, cả hai cùng đương đầu với những khó khăn và
cùng hưởng những hoan lạc của đời sống. Niềm thỏa mãn này thuộc về tâm cảm
riêng của tình yêu vợ chồng. Không có gì bảo đảm rằng chúng ta sẽ cảm nghiệm
theo cùng một cách giống nhau trong suốt cuộc sống. Nhưng nếu một đôi bạn có
thể thực hiện được dự án chia sẻ đời sống suốt đời, thì họ có thể yêu nhau và
sống gắn bó cho đến khi cái chết tách lìa họ, họ vui hưởng và đào sâu sự mật
thiết. Tình yêu mà họ cam kết thì lớn hơn mọi cảm tính, xúc cảm, hay mọi tình
trạng tâm tưởng, dù nó có thể bao gồm tất cả những yếu tố ấy. Đó là một tình
yêu sâu xa hơn, một quyết định có tầm vĩnh viễn của trái tim người ta. Ngay cả
giữa những xung đột ngổn ngang và những hoàn cảnh tâm cảm lộn xộn, họ vẫn hằng
ngày xác nhận lại quyết định yêu thương của mình, thuộc về nhau, chia sẻ đời
sống với nhau, và tiếp tục yêu thương và tha thứ. Mỗi người tiến bộ trên con
đường trưởng thành cá nhân và phát triển. Trên hành trình này, tình yêu vui
mừng ở mỗi bước đi và ở mỗi chặng đường mới.
164. Trong mọi cuộc hôn nhân, những dáng vẻ ngoại hình sẽ thay
đổi, nhưng điều này không có nghĩa rằng tình yêu và sự hấp dẫn nhất thiết phải
phai nhạt. Chúng ta yêu người kia vì chính con người của người ấy, không duy
chỉ vì thân xác của người ấy. Dù thân xác già đi, nó vẫn diễn tả cái căn tính
con người vốn đã chinh phục trái tim chúng ta lúc ban đầu. Ngay cả dù những
người xung quanh không còn thấy được vẻ đẹp của căn tính ấy, thì người phối
ngẫu vẫn tiếp tục nhìn thấy nó với đôi mắt của tình yêu, và vì thế tình cảm
không suy giảm. Người phối ngẫu tái xác nhận quyết định thuộc về người kia và
diễn tả sự chọn lựa này trong sự gần gũi trung thành và đầy yêu thương. Sự cao
quí của quyết định này, do tính thâm sâu của nó, sẽ làm phát sinh một loại cảm
xúc mới khi người ta chu toàn sứ mạng đời sống hôn nhân của mình. Vì “cảm xúc,
gây ra bởi một người khác trong tư cách là một con người… tự nó không hướng đến
hành vi vợ chồng”.[174] Nó tìm thấy những diễn tả khả giác
khác. Thật vậy, tình yêu “là một thực tại đơn nhất, nhưng với những chiều kích
khác nhau; vào những lúc khác nhau, chiều kích này hay chiều kích kia có thể
hiện lộ rõ ràng hơn”.[175] Mối dây hôn nhân tìm thấy những hình
thức diễn tả mới và không ngừng tìm kiếm những cách thức mới để thắt chặt hơn.
Cả hai điều này sẽ giữ gìn và củng cố mối dây. Chúng giả thiết những cố gắng
hằng ngày. Tuy nhiên, những điều này sẽ là không thể, nếu người ta không cầu
nguyện với Chúa Thánh Thần để xin Ngài đổ tràn ân sủng của Ngài, sức mạnh siêu
nhiên và ngọn lửa thiêng liêng của Ngài, để củng cố, hướng dẫn và biến đổi tình
yêu của chúng ta trong mỗi hòan cảnh mới.
[1] PHIÊN HỌP KHOÁNG ĐẠI NGOẠI THƯỜNG THỨ BA, THƯỢNG HỘI ĐỒNG
GIÁM MỤC, Phúc
trình THĐ. (18.10.2014), 2.
[2] PHIÊN HỌP KHOÁNG ĐẠI THƯỜNG KỲ THỨ MƯỜI BỐN, THƯỢNG HỘI
ĐỒNG GIÁM MỤC, Phúc
trình chung kết (24.10.2015),
3.
[3] Diễn từ Bế mạc Phiên Họp Khoáng Đại Thường Kỳ Thứ Mười
Bốn, Thượng Hội Đồng Giám Mục(24.10.2015), L’Osservatore Romano, 26-27.10. 2015,
tr. 13; x. ỦY BAN KINH THÁNH GIÁO HOÀNG, Fede e
cultura alla luce della Bibbia. Atti della sessione plenaria 1979 della Pontificia
Commissione Biblica, Turin, 1981; VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về
Giáo Hội trong Thế Giới Hôm Nay Gaudium
et Spes, 44; GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Missio (7.12.1990), 52: AAS 83 (1991), 300;
Tông Huấn Evangelii
Gaudium (24.11.
2013), 69, 117: AAS 105 (2013), 1049, 1068-69.
[4] Diễn từ tại Hội Nghị các Gia đình ở
[5] JORGE LUIS BORGES, “Calle Desconocida”, trong Fervor de Buenos Aires, Buenos Aires,
2011, 23.
[6] Bài giảng tại Thánh Lễ cử hành ở
[7] Cf. ibid.
[8] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 4: AAS 74 (1982), 84.
[9] Phúc trình THĐ. 2014, 5.
[10] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC TÂY BAN NHA, Matrimonio y familia (6.7.1979), 3, 16, 23.
[11] Phúc trình chung kết 2015, 5.
[12] Phúc trình THĐ. 2014, 5.
[13] Phúc trình chung kết 2015, 8.
[14] Diễn từ tại Quốc Hội Mỹ (24.9.2015): L’Osservatore
Romano, 26.9. 2015, tr. 7.
[15] Phúc trình chung kết 2015, 29.
[16] Phúc trình THĐ. 2014, 10.
[17] PHIÊN HỌP KHOÁNG ĐẠI THỨ BA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC, Sứ điệp, 18.10.2014.
[18] Phúc trình THĐ. 2014, 10.
[19] Phúc trình chung kết 2015, 7.
[20] Ibid., 63.
[21] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC HÀN QUỐC, Hướng Đến Một Nền Văn Hóa Sự Sống!
(15.3.2007), 2.
[22] Phúc trình THĐ. 2014, 6.
[23] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ GIA ĐÌNH, Hiến chương về các Quyền của Gia đình (22.10.1983), Art. 11.
[24] Cf. Phúc
trình chung kết 2015,
11-12.
[25] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ GIA ĐÌNH, Hiến chương về các Quyền của Gia đình (22.10.1983), Dẫn nhập.
[26] Ibid., 9.
[27] Phúc trình chung kết 2015, 14.
[28] Phúc trình THĐ. 2014, 8.
[29] Cf. Phúc
trình chung kết 2015,
78.
[30] Phúc trình THĐ. 2014, 8.
[31] Phúc trình chung kết 2015, 23; cf. Sứ điệp
Ngày Thế giới những người Di cư và Tị nạn 17.01.2016 (12.9.2015), L’Osservatore Romano, 2.10.2015, tr. 8.
[32] Phúc trình chung kết 2015, 24.
[33] Ibid., 21.
[34] Ibid., 17.
[35] Ibid., 20.
[36] Cf. ibid.,
15.
[37] Diễn từ Bế mạc Phiên họp Khoáng Đại Thứ Mười Bốn Thượng
Hội Đồng Giám Mục (24.10.2015):L’Osservatore
Romano, 26-27.10.2015, tr. 13.
[38] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
[39] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
[40] Phúc trình chung kết 2015, 25.
[41] Ibid., 10.
[42] Bài giáo lý (22.4.2015): L’Osservatore Romano, 23.4.2015, tr. 7.
[43] Bài giáo lý (29.4.2015): L’Osservatore Romano, 30.4.2015, tr. 8.
[44] Phúc trình chung kết 2015, 28.
[45] Ibid., 8.
[46] Ibid., 58.
[47] Ibid., 33.
[48] Phúc trình THĐ. 2014, 11.
[49] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
[50] Tông Huấn Evangelii
Gaudium (24.11.2013),
35: AAS 105 (2013), 1034.
[51] Ibid., 164: AAS
105 (2013), 1088.
[52] Ibid.
[53] Ibid., 165: AAS 105
(2013), 1089.
[54] Phúc trình THĐ. 2014, 12.
[55] Ibid., 14.
[56] Ibid., 16.
[57] Phúc trình chung kết 2015, 41.
[58] Ibid., 38.
[59] Phúc trình THĐ. 2014, 17.
[60] Phúc trình chung kết 2015, 43.
[61] Phúc trình THĐ. 2014, 18.
[62] Ibid., 19.
[63] Phúc trình chung kết 2015, 38.
[64] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 13: AAS 74 (1982), 94.
[65] Phúc trình THĐ. 2014, 21.
[66] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo , 1642.
[67] Ibid.
[68] Bài giáo lý (6.5.2015): L’Osservatore Romano, 7.5.2015, tr. 8.
[69] LÊÔ CẢ, Epistula
Rustico Narbonensi Episcopo, Inquis. IV: PL 54, 1205A; cf. HINCMAR
OF
[70] Cf. PIÔ XII, Thông Điệp Mystici
Corporis Christi (29.6.1943):
AAS 35 (1943), 202: “Matrimonio enim quo coniuges sibi invicem sunt ministri
gratiae …”
[71] Cf. Bộ Giáo
Luật, cc. 1116; 1161-1165; Bộ Giáo
Luật các Giáo Hội Đông Phương, 832; 848-852.
[72] Ibid., c. 1055 §2.
[73] Phúc trình THĐ. 2014, 23.
[74] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 9: AAS 74 (1982), 90.
[75] Phúc trình chung kết 2015, 47.
[76] Ibid.
[77] Bài giảng Thánh Lễ Bế Mạc Đại Hội các Gia Đình Thế Giới
Lần Thứ Tám ở
[78] Phúc trình chung kết 2015, 53-54.
[79] Ibid., 51.
[80] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay Gaudium
et Spes, 48.
[81] Cf. Bộ Giáo
Luật, c. 1055 § 1: “ad bonum coniugum atque ad prolis generationem
et educationem ordinatum”.
[82] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 2360.
[83] Ibid., 1654.
[84] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay Gaudium
et Spes, 48.
[85] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 2366.
[86] Cf. PHAOLÔ VI, Thông Điệp Humanae Vitae (25.7.1968), 11-12: AAS 60 (1968),
488-489.
[87] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 2378.
[88] THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Huấn Thị Donum Vitae (22.02.1987), II, 8: AAS 80 (1988),
97.
[89] Phúc trình chung kết 2015, 63.
[90] Phúc trình THĐ. 2014, 57.
[91] Ibid., 58.
[92] Ibid., 57.
[93] Phúc trình chung kết 2015, 64.
[94] Phúc trình THĐ. 2014, 60.
[95] Ibid., 61
[96] Bộ Giáo Luật,
c. 1136; cf. Bộ Giáo
Luật các Giáo Hội Đông Phương ,
627.
[97] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ GIA ĐÌNH, Sự Thật và Ý Nghĩa của Tính Dục Con Người (8.12.1995), 23.
[98] Bài giáo lý (20.5.2015): L’Osservatore Romano, 21.5.2015, tr. 8.
[99] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (28 November 1981) 38: AAS 74 (1982),
129.
[100] Cf. Diễn từ tại Hội Đồng Giáo Phận Rôma (14.6.2015): L’Osservatore Romano, 15-16.6.2015, tr.
8.
[101] Phúc trình THĐ. 2014, 23.
[102] Phúc trình chung kết 2015, 52.
[103] Ibid., 49-50.
[104] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, 1641.
[105] Cf. BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est (25.12.2005), 2: AAS 98 (2006), 218.
[106] Linh Thao,
Chiêm niệm để được tình yêu (230).
[107] OCTAVIO PAZ, La llama
doble,
[108] TÔMA AQUINÔ, Summa
Theologiae II-II, q.
114, art. 2, ad 1.
[109] Bài giáo lý (13.5.2005): L’Osservatore Romano, 14.5.2015, tr. 8.
[110] TÔMA AQUINÔ, Summa
Theologiae, II-II, q. 27, art. 1, ad 2.
[111] Ibid., q. 27, art.
1.
[112] Bài giáo lý (13.5.2015): L’Osservatore Romano, 14.5.2015, tr. 8.
[113] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 21: AAS 74 (1982), 106.
[114] MARTIN LUTHER KING JR., Bài giảng
tại Nhà thờ
[115] Tôma Aquinô gọi tình yêu là một vis unitiva (Summa Theologiae I, q. 20, art. 1, ad
3), âm vang một từ ngữ của Pseudo-Dionysius (De Divinis Nominibus, IV, 12: PG
3, 709).
[116] TÔMA AQUINÔ, Summa
Theologiae II-II, q.
27, art. 2.
[117] Thông Điệp Casti
Connubii (31.12.1930):
AAS 22 (1930), 547-548.
[118] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 13: AAS 74 (1982), 94.
[119] Bài giáo lý (2
April 2014): L’Osservatore
Romano, 3.4.2014, tr. 8.
[120] Ibid.
[121] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Familiaris Consortio (22.11.1981), 9: AAS 75 (1982), 90.
[122] TÔMA AQUINÔ, Summa
Contra Gentiles III,
123; cf. ARISTOTLE, Nicomachean
Ethics, 8, 12 (ed. Bywater,
[123] Thông Điệp Lumen
Fidei (29.6.2013),
52: AAS 105 (2013), 590.
[124] De
[125] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay Gaudium
et Spes, 50.
[126] Ibid., 49.
[127] Cf. Summa
Theologiae I-II, q.
31, art. 3., ad 3.
[128] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay Gaudium
et Spes, 48.
[129] Cf. TÔMA AQUINÔ, Summa
Theologiae I-II, q.
26, art. 3.
[130] Ibid., q. 110,
art. 1.
[131] AUGUSTINÔ, Tự Thú,
VIII, III, 7: PL 32, 752.
[132] Diễn từ cho Cuộc Hành Hương của Các Gia Đình trong Năm Đức
Tin (26.10.2013):
AAS 105 (2013), 980.
[133] Sứ điệp Kinh Truyền Tin (29.12.2013): L’Osservatore
Romano, 30-31.12.2013, tr. 7.
[134] Diễn từ cho Cuộc Hành Hương của Các Gia Đình trong Năm Đức
Tin (26.10.2013):
AAS 105 (2013), 978.
[135] Summa Theologiae II-II, q. 24, art. 7.
[136] VATICAN II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay Gaudium
et Spes, 48.
[137] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CHI-LÊ, La vida y la familia: regalos de Dios para cada uno
de nosotros(21.7.2014).
[138] Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Hôm Nay Gaudium et Spes, 49.