Suy nghĩ về Tông huấn Amoris Laetitia
(conggiao.info) 7/17/2016
Đức giáo hoàng
Phanxicô muốn các chân lý về hôn nhân, tính dục, và gia đình được công bố cách
rõ ràng, nhưng ngài cũng muốn các thừa tác viên của Hội Thánh với lòng từ bi và
hay thương xót vươn tay ra cứu giúp những người đang chiến đấu để đưa những
chân lý ấy vào cuộc sống họ.
Các mục tử phải là những người hết lòng tìm kiếm chân lý,
giáo lý chính thống về tín lý và luân lý của Hội Thánh, để từ đó hướng dẫn và dạy
dỗ Dân Chúa. Nắm vững đạo lý chính thống là điều đáng khen ngợi, nhưng các ngài
còn phải lo bảo ban những khuyên bảo mục vụ quan trọng cấp thiết. Không thể đến
ban lời chân lý cho dân chúng rồi bỏ đi và lấy thế làm đủ, đúng hơn, các ngài
phải đồng hành với những người các ngài đã hướng dẫn, dạy dỗ, bằng cách dấn
thân giúp đỡ đưa các chân lý ấy hoà vào cuộc sống của họ.
Đức giáo hoàng
Phanxicô muốn các chân lý về hôn nhân, tính dục, và gia đình được công bố cách
rõ ràng, nhưng ngài cũng muốn các thừa tác viên của Hội Thánh với lòng từ bi và
hay thương xót vươn tay ra cứu giúp những người đang chiến đấu để đưa những
chân lý ấy vào cuộc sống họ.
Về tính khách
quan luân lý của hôn nhân, Đức giáo hoàng nói rõ ràng chắc chắn. Ngài quả quyết
trình bày sự hiểu biết của Hội Thánh về hôn nhân đích thật là giữa một người
nam và một người nữ, cả hai cùng cam kết dấn thân cho nhau trong sự trung thành
mãi mãi, diễn tả tình yêu của họ và sự sẵn sàng đón nhận con cái mà Chúa sẽ
ban, và sự kết hợp ấy như là một bí tích của tình yêu của Đức Kitô đối với Hội
Thánh (52, 71). Ngài cũng tỏ bày nỗi xót xa trước những đe dọa lý tưởng này của
thời đại hôm nay, trong đó bao gồm: não trạng duy tương đối về luân lý (moral
relativism), nền văn hoá phổ biến quy ngã thích tự yêu mình (cultural
narcissism), ý thức hệ tự sáng tạo chính mình (self-invention), văn
hoá khiêu dâm, văn hoá xã hội “đào thải” (throwaway society), v.v… Ngài
rõ ràng kêu gọi người ta quan tâm đến giáo huấn của đức chân phước Giáo hoàng
Phaolô VI trong thông điệp Humanae Vitae về sự liên kết thiết yếu giữa hai chiều kích kết hợp và sinh sản
của tình yêu hôn phối (80). Hơn nữa, Đức giáo hoàng còn trích dẫn ý kiến đồng
thuận của Thượng Hội đồng các Giám mục về Gia đình vừa qua, cho rằng quan hệ giữa
những người đồng giới không thể được coi dù như là gần tương đương với quan hệ
mà Hội Thánh gọi là hôn nhân (251). Đặc biệt, ngài cũng mạnh mẽ lên án các ý thức
hệ muốn áp đặt ý kiến cho rằng phái tính (hay giới) chỉ là một khái niệm xã hội
có thể thay đổi và vận dụng tự do theo chọn lựa của người ta (56). Ngài lập luận
những động thái như thế là quên đi mối quan hệ đúng đắn của thụ tạo với Tạo Hoá
của mình. Cuối cùng, mọi ngờ vực nào đó về thái độ của Đức giáo hoàng về sự bất
khả phân ly của hôn nhân đều rõ ràng và trực tiếp bị đánh tan. Ngài nói: “Tính
bất khả phân ly của hôn nhân – “Điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được
phân ly” (Mt 19,6) – không nên hiểu như một ‘cái ách’
áp đặt lên con người, nhưng như một ‘quà tặng’ được ban cho những ai kết hợp với
nhau trong hôn nhân (62).
Trong một phần
đặc biệt đánh động của Tông huấn, Đức giáo hoàng Phanxicô giải thích bài ca đức
ái nổi tiếng trong Thư thứ nhất của thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô (90-119).
Theo thánh Tông đồ Phaolô, nhà truyền giáo vĩ đại, tình yêu trước hết không phải
là một cảm xúc (94) nhưng là một ý chí dấn thân muốn thể hiện một số điều có
tính dứt khoát và thách thức: nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, không vênh vang tự
đắc, loại bỏ ghen tị, đua tranh, luôn tin tưởng, hy vọng, tha thứ. Với cung giọng
của một mục tử hiền phụ, Đức Thánh Cha Phanxicô dạy các cặp hãy bước vào đời sống
hôn nhân bằng một tình yêu, theo nghĩa đậm sâu và đòi hỏi nhất, phải ở trung
tâm của mối quan hệ vợ chồng và gia đình. Đây là phần quan trọng cần phải học
trong các chương trình chuẩn bị hôn nhân của Hội Thánh. Đức Phanxicô nói nhiều
về vẻ đẹp và sự toàn diện của hôn nhân. Nhưng nên lưu ý đừng giảm thiểu, pha
loãng đi hoặc thỏa hiệp với lý tưởng nói đến trong bản văn này.
Tuy nhiên, Đức
giáo hoàng cũng thành thật nhìn nhận rằng thực tế rất nhiều người sống thiếu lý
tưởng, không hoàn toàn hội nhập tất cả các chiều kích của hôn nhân theo nghĩa của
Hội Thánh. Ngài không theo đường lối chỉ biết lên án, nhưng xem Hội Thánh như một
bệnh viện dã chiến hiện diện chính là để cứu chữa và chăm sóc người bị thương
tích (292).
Theo hướng đó,
ngài đề xuất hai hướng chăm sóc mục vụ cơ bản. Thứ nhất, chúng ta có thể nhận
thấy, cả trong trường hợp của những mối kết hợp về khách quan là trái quy tắc
hoặc bất toàn, một số yếu tố tích cực tham dự trong tình yêu hôn nhân đầy đủ. Bởi
thế, một cặp chẳng hạn sống với nhau không hôn phối mà lại biểu lộ sự chung thủy,
một tình yêu sâu sắc, và có con cái, v.v… Hội Thánh, chú ý đến những dấu hiệu
tích cực này, có thể theo “luật tiệm tiến” dần hướng dẫn những cặp này tiến đến
một quan hệ hôn nhân đích thực và trọn vẹn (295). Điều đó không có nghĩa là ta
nói: sống chung là được phép và hợp với ý Chúa; nhưng là nói: có lẽ Hội Thánh
có thể tìm thấy được một phương cách hấp dẫn hơn để hướng người ta trong hoàn cảnh
đó đến sự hoán cải.
Thứ hai (ở đây
chúng ta sẽ đề cập đến phần chắc chắn gây bàn cãi nhất) là hướng sử dụng sự
phân biệt cổ điển của Giáo hội giữa phẩm chất khách quan của một hành vi luân
lý và trách nhiệm chủ quan của chủ thể luân lý phạm hành vi ấy (302). Đức giáo
hoàng nhận xét rằng nhiều người trong các hôn nhân dân sự sau một lần ly dị thấy
mình ở trong một tình cảnh ràng buộc hầu như không thể gỡ. Nếu cuộc hôn nhân thứ
hai của họ chứng tỏ có sự trung tín, giàu sức sống và sinh hoa kết trái, làm
sao họ có thể rời bỏ nó mà thực sự không tạo thêm lỗi tội và gây thêm sầu buồn?
Dĩ nhiên điều này không có ý nói cuộc hôn nhân thứ hai của họ về khách quan là
chính đáng, nhưng muốn nói rằng họ có thể được giảm khinh trong quy tội vì lý
do những áp lực, khó khăn, hoàn cảnh lưỡng nan của họ. Đức giáo hoàng áp dụng ở
đây sự phân biệt đã nói: “Bởi thế người ta không thể nói rằng tất cả những người
đang ở trong một hoàn cảnh gọi là ‘trái quy tắc’ là đang sống trong tình trạng
tội trọng, mất ơn thánh hoá” (301). Như thế, thừa tác viên của Giáo hội không
thể giúp những người ấy, trong nhà xứ mình hay trong toà giải tội, biết phân định
mức độ trách nhiệm luân lý của họ được hay sao? Một lần nữa, chúng ta khẳng định
không chạy theo não trạng “ba phải” dĩ hoà vi quý, mà cũng không chối bỏ một
hôn nhân dân sự sau khi ly dị là trái quy tắc khách quan.
Niềm Vui của Tình Yêu (Amoris
Laetitia) liệu sẽ giải quyết các vấn đề này cách
yên ắng hay không? Nhưng Tông huấn này là một lý giải cân bằng khéo léo và gây ấn
tượng giữa nhiều ý kiến tham luận thường cũng trái ngược nhau. Với đường lối
như thế đó, Tông huấn sẽ phục vụ rất tốt giúp cứu vãn nhiều linh hồn đau khổ đến
với “bệnh viện dã chiến”.
(Theo Giám mục Robert Barron, WORD on FIRE)
Luy Nguyễn
Anh Tuấn (WHĐ 16.07.2016)