Giữ
lửa cháy bừng: Tông huấn ‘Christus Vivit’
(gpquinhon.org)
Thứ bảy - 13/04/2019 05:21
Antonio
Spadaro, SJ
Ngài
đang sống và muốn bạn sống! Đức Phanxicô đã mở đầu như thế trong Tông huấn mới
được ký vào ngày 25 tháng Ba 2019. Tiếng reo này đã tóm kết ý nghĩa tàng ẩn
trong bản văn của Bergoglio, có tựa đềChristus Vivit, Đức Kitô sống. “Sự
sống,” “đang sống,” “sống” là những từ được lập lại khoảng 280 lần trong bản
văn, cũng nhiều như từ “người trẻ” là từ khóa của Tông huấn. Sống trọn vẹn: đây
là điểm trọng yếu trong suy tư của Đức Phanxicô về người trẻ. Lật qua những
trang của Tông huấn ta thấy được năng lượng tràn trề như lay động chúng ta hay
nói văn vẻ là thúc đẩy chúng ta sống trọn vẹn.
Tuổi
trẻ không hiện hữu: chỉ có người trẻ
Trong
một cuốn sách dưới hình thức phỏng vấn “God is Young” (Thiên Chúa
luôn trẻ)[1], Đức Phanxicô nói rằng “tuổi trẻ không hiện hữu.
Khi ta nói về tuổi trẻ thì thường vô thức liên hệ đến những điều huyền hoặc về
tuổi trẻ. Tôi thì cho rằng tuổi trẻ không hiện hữu, chỉ có người trẻ”.[2] Người trẻ không được phân loại như một giai
cấp riêng biệt.
Hiển
nhiên, ta có thể nói với Thánh giáo hoàng Phaolô VI rằng thời tuổi trẻ “không
nên được xem như là thời của những đam mê tự do, sự thất bại không tránh khỏi,
những khủng hoảng khó vượt qua, sự bi quan suy đồi, tính vị kỷ gây hại; làm
người trẻ là một ân sủng, nó là sự chúc phúc”.[3] Và đây là ân sủng và chúc lành được ban cho
mọi người, tất cả chúng ta hay những ai đã từng là người trẻ. Vì thế, nói về
người trẻ là nói về nhân loại. Vượt qua mọi xét đoán khác, Giáo Hội nhìn thấy
trong họ những bản năng dành cho hạnh phúc và sự trọn vẹn của những ai mở lòng
mình ra với sự sống.
Christus
Vivit là sự kết nối trong xâu chuỗi. Hiển nhiên là phải đọc nó
như một bản văn riêng biệt, nhưng nên biết rằng Đức thánh cha đã “lấy làm của
riêng mình” một tiến trình ghi chép phong phú và phức tạp có sự tham gia của
hàng trăm người trẻ: Thượng hội đồng giám mục lần thứ 15 về chủ đề “Người
trẻ, đức tin và phân định ơn gọi”, được tổ chức ở Roma, ngày 3 đến 18 tháng
Mười 2018 và Tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng nay.[4] Nói về người trẻ là nói về những hứa hẹn. Mỗi
người trẻ có điều gì đó của một ngôn sứ. Thượng hội đồng được triệu tập và giải
thích lời ngôn sứ này. Christus Vivit là một phần của công
trình chú giải này, gồm 9 chương. Chúng ta hãy gom lại những từ khóa của những
gì Đức Phanxicô nói khi chúng xuất hiện trong bản văn.
Ngài
đang sống và muốn bạn sống!
Chương
mở đầu là một chuỗi cận cảnh những người trẻ trong Kinh Thánh. Rất đáng đọc khi
Đức thánh cha không làm một bài đại diễn từ mà chỉ tổng hợp vài đặc trưng, vài
hành động và cử chỉ … những nét phác họa đủ để vẽ nên một bức tranh lớn. Như
vậy ta thấy được một Thiên Chúa gợi hứng cho người trẻ trong giấc mơ của mình
(Giuse) và chọn lựa người tuyển chọn của Ngài trong số người chẳng mấy ai biết
đến (Đavít). Và chúng ta có một người trẻ thẳng thắn không bọc đường những khắc
nghiệt của cuộc (Gideon), những người trẻ luôn bất an đã biết thế nào để can
đảm (Samuel), người trẻ thấy mình lạc lõng trước trách nhiệm nhưng biết phản
ứng cách khôn ngoan (Solomon) hay đánh thức lương tâm của dân tộc mình
(Giêrêmia), người trẻ là mẫu gương cho sự độ lượng trong thời khó khăn (Rút),
hay như cô thiếu nữ vô danh phục vụ cho bà vợ của Naaman, vị chỉ huy quân đội
của vua Aram, chị đã thông minh biết cách làm thế nào để giúp “ông chủ” của
mình.
Kỹ
thuật phác họa này cũng được sử dụng cho Tân Ước, nơi những người trẻ muốn trải
nghiệm thay đổi trong cuộc sống, muốn được biết. Đức thánh cha viết: “Người ta
không nhắm việc làm cho người trẻ thối chí; người ta mong họ mơ những điều vĩ
đại, tìm kiếm những chân trời rộng lớn, nhằm mục đích cao hơn, thách thức thế
giới, chấp nhận các thách thức và cống hiến những gì tốt nhất của bản thân để
xây dựng một điều gì đó tốt hơn” (Số 15).
Có
người còn muốn “từ bỏ tuổi trẻ của mình” (Số 18). Đây là lối diễn tả mạnh mẽ
liên quan đến người trẻ tuổi kia đến với Đức Giêsu để tìm kiếm “điều gì đó khác
hơn”, nhưng lại buồn bã quay đi. Và như thế, từ bỏ tính cách trẻ là sống phân
tâm, mê ngủ, và “lướt qua bề mặt của cuộc sống” (Số 19).
Chương
hai xây dựng hình tượng của “tính cách trẻ”. Chúng ta không chỉ nhìn vào trực
giác về hiện tượng tuổi trẻ. Chúng ta có một gương mặt: gương mặt Đức Giêsu.
Đức thánh cha nhìn thấy tính cách trẻ ở đấy. Đức Kitô cũng được trình bày với
vài đặc điểm và được tô vẽ với sự tưởng tượng nào đó.
Đức
Giêsu là người trẻ với nhiều mối liên hệ. Hãy đọc hình ảnh mà Đức Phanxicô vẽ
ra về đoàn hành hương gia đình lên Giêrusalem: “Chúa Giêsu ở đó, trà trộn với
những người khác, đùa giỡn với người trẻ khác, kể cho người lớn những câu
chuyện dỡn và chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của nhóm. Thật vậy, chữ Hy Lạp mà
Thánh Luca sử dụng để mô tả nhóm - synodía – rõ ràng gợi lên
một “cộng đồng lớn hơn đang trên hành trình”, mà Thánh gia là một thành phần.
Nhờ sự tin tưởng của cha mẹ, Người có thể tự do di chuyển và học cách lữ hành
cùng người khác” (Số 29).
Ở đây
chúng ta thấy tính cách đặc biệt khi ở trong đoàn người (caravan), điều mà Đức
thánh cha liên hệ với từ “synod” (thượng hội đồng), nghĩa là, biến cố của Giáo
Hội phát sinh ra tông huấn này. Một giáo hội có tính hội đồng (synodal
Church) là giáo hội biết làm thế nào để trẻ và là một phần của thế giới dấn
thân vào thế giới của những mối liên hệ mà không tách ra thành một vị trí riêng
biệt, ưu tuyển. Đây là một đoàn người: đây là hình ảnh của Giáo Hội. Đây cũng
là cách sống trong thế giới với những dự án, nhưng không phải “những dự án cách
ly những người trẻ khỏi gia đình và cộng đồng lớn hơn, hoặc biến họ thành thiểu
số ưu tuyển, được bảo vệ khỏi mọi ô nhiễm. Thay vào đó, chúng ta cần các dự án
có thể củng cố họ, đồng hành cùng họ và thúc đẩy họ gặp gỡ người khác, dấn thân
vào việc phục vụ quảng đại, vào sứ mệnh” (Số 30).
Sự luôn
thao thức, chìa khóa đưa đến sự thánh thiện và sứ mệnh của Giáo Hội
Đây là
điều Giáo Hội được kêu mời (cf. Các số 34-42): thoát khỏi mọi xơ cứng và bất
động, có thể đấu tranh cho công bằng, trở nên khiêm tốn. Nhưng Đức Phanxicô
biết rằng nhiều người trẻ không cho rằng Giáo Hội có ý nghĩa trong cuộc đời họ.
Thật vậy, nhiều người thấy rằng Giáo Hội thật phiền toái và gây khó chịu (cf.
Số 40). Khi tự vệ và không lắng nghe, Giáo Hội trở thành một “Viện bảo tàng”
(Số 41). Vì thế, vấn đề ở đây là: Làm thế nào để Giáo Hội ôm lấy những giấc mơ
của người trẻ?
Đức
thánh cha không dừng lại ở mức độ trừu tượng, nhưng vạch ra vài hình ảnh khác,
chân dung ngắn gọn của 12 vị thánh trẻ là sự tiếp nối những bức phác họa các
nhân vật trong Kinh Thánh: từ Thánh Sebastian ở thế kỷ III đến Chân phước
Chiara Badano mất năm 1990.
Đức
thánh cha thấy rằng Đức Maria là hình ảnh trọn vẹn của Giáo Hội. Nhưng thật thú
vị khi lưu ý rằng ngài định nghĩa Đức Maria như là người luôn thao thức hay
“tràn trề năng lực” (Số 46). Tóm lại, luôn thao thức là chìa khóa đến sự thánh
thiện và nhiệm vụ của Giáo Hội.
Chương
thứ ba của tông huấn dành cho việc đọc được hiện trạng của người trẻ hôm nay,
và chính xác là sự thao thức của họ. Việc đọc này không có ý xét hết mọi mặt
song chỉ nhắc rộng rãi hơn đến Tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng. Đức
Phanxicô viết ở phần đầu Tông huấn Christus Vivit: “Bằng cách này,
những lời lẽ của tôi sẽ lặp lại vô số tiếng nói của các tín hữu trên toàn thế
giới từng làm cho ý kiến của họ được Thượng hội đồng biết đến. Có những người
trẻ không phải là tín hữu, nhưng muốn chia sẻ suy nghĩ của họ, cũng nêu ra
những vấn đề khiến tôi phải đặt nhiều câu hỏi mới” (Số 4).
Những
lời của Đức thánh cha được nạp điện bằng những tiếng nói của tín hữu lẫn người
không tin. Ngài làm thế với sự kính trọng thánh thiêng. Thật vậy, ngài viết:
“Cõi lòng mỗi người trẻ nên được coi là “mảnh đất thánh thiêng”, mang hạt giống
sự sống thần thiêng, mà trước nó, chúng ta phải cởi giày của mình ra mới có thể
đến gần và bước vào Mầu Nhiệm sâu hơn” (Số 67).
Từ sự
năng động của Thượng hội đồng, một phương pháp nổi bật lên mạnh mẽ và được
khẳng định bởi Tông huấn của Đức Phanxicô: trước khi giải thích hay chọn lựa,
bạn cần lắng nghe, bạn cần biết rõ thực tại. Bạn cần để mình không nghỉ ngơi,
hoặc bị quấy rầy bởi thực tại. Bạn không thể nghe thấy được người trẻ nếu bạn
không đi cùng họ trên các nẻo đường của thế giới. Hội họp cùng nhau trong sảnh
đường Thượng hội đồng, những mục tử của Giáo hội ý thức rằng sứ điệp Tin Mừng,
kho tàng của Giáo Hội, chỉ được lưu truyền bằng cách đi cùng đường với người
trẻ. Thật vậy, trong dân Chúa, họ có thể đi trước cả chúng ta. Biểu tượng đi
cùng với những suy tư của Thượng hội đồng là các môn đệ làng Emmaus. Nó được
Đức Phanxicô sử dụng lại trong tông huấn của mình (cf. Các số 156, 236, 292,
296). Toàn bộ chương ba của tông huấn khẳng định phương pháp đi cùng nhau này.
Điều
đầu tiên ta phải lưu ý khi lắng nghe là những tiếng nói khá khác biệt nhau khó
hình thành một tiếng nói duy nhất. Đa giai điệu là cần thiết. Ta không thể xếp
mọi thứ làm một và như nhau. Như chúng tôi đã nói lúc đầu: ta không thể nói về
“tuổi trẻ” cách chung chung. Nếu ta lắng nghe họ và đi cùng họ, tất cả mọi khác
biệt và đa dạng của tiếng nói trong họ sẽ nổi lên.
Người
trẻ trong một thế giới đang khủng hoảng
Và dù
những khác biệt, Đức Phanxicô không do dự khi nói về “người trẻ trong một thế
giới đang khủng hoảng” trong tựa đề của một chương. Và khủng hoảng là kết quả
của bạo lực, lạm dụng, nghiện ngập và loại trừ đa thể loại. Sự đáp ứng tồi tệ
nhất cho tất cả điều này sẽ là “anesthesia” (gây mê): trở nên quen thuộc với
xâm lược này của tâm trí và tâm hồn, mất đi sự nhạy cảm, dừng lại ở bình diện
bên ngoài và không biết điều gì là không mong muốn, nghèo nàn, xấu xa và thừa
thải.
Và
thuốc giải là: nhìn thấy sự việc qua đôi mắt đầy nước mắt. Đây là những câu hỏi
mà Đức Phanxicô đã đặt ra: “Tôi có thể khóc không? Tôi có thể khóc khi nhìn
thấy một đứa trẻ đói lả, dùng ma túy hoặc ở đường phố, vô gia cư, bị bỏ rơi, bị
ngược đãi hoặc bị bóc lột như một nô lệ của xã hội không? Hay là cái khóc của
tôi chỉ là cái khóc rên rỉ vị kỷ của các người khóc vì họ muốn một điều gì
khác?” (Số 76).
Đức
thánh cha nhìn thấy nơi người trẻ “những ước ao, những tổn thương và khao khát”
và nhắc rằng Thượng hội đồng đã nhận ra ba chủ đề quan trọng này (cf. Tài liệu
cuối cùng, các số 21-31, và trong Tông huấn, các số 86-102). Ngài nhặt lấy và
trích dẫn chúng dài hơi. Đó là: môi trường kỹ thuật số, di dân và sự lạm dụng.
Môi
trường kỹ thuật số không chỉ được hiểu như là dụng cụ truyền
thông, nhưng là bối cảnh cho một nền văn hóa kỹ thuật số rộng rãi hơn. Đức
Phanxicô rất rõ ràng khi đồng hóa kỹ thuật số như là bối cảnh cho việc “tham
gia chính trị xã hội và quyền công dân tích cực” (Số 87). Trong nghĩa này, ngài
đã đụng chạm đến một chủ đề rất nóng trong xã hội chúng ta: một vấn nạn nhưng
đồng thời là một thách đố. Ta không thể vờ như hệ thống mạng không hiện hữu và
phải lưu ý rằng sự đồng thuận được hình thành qua không gian kỹ thuật số. Đặc
biệt, sự bất mãn cũng được biểu lộ ở đấy. Ta phải làm thế nào để khiến cho mạng
lưới thành một hình thức tham gia dân chủ mà không rơi vào cạm bẫy của chính
sách mị dân?
Di
dân được hiểu như là “điển hình cho thời đại chúng ta”. Hiện tượng
này được diễn tả qua những hệ quả của nó như là sự đau khổ và lạm dụng, cũng
như những não trạng bài ngoại. Giáo Hội hôm nay được kêu gọi đóng vai trò ngôn
sứ. Chắc chắn đây là một chủ đề nóng bỏng khác.
Thảm
kịch lạm dụng được nói rõ qua những hình thức gắn liền với quyền lực, với kinh
tế, lương tâm và tính dục. Đức Phanxicô giải thích: “Đám mây đen này cũng thách
thức mọi người trẻ yêu mến Chúa Kitô và Giáo hội của Người: họ có thể là một
nguồn chữa lành lớn lao nếu họ sử dụng khả năng lớn lao của họ để mang lại sự
đổi mới, thúc giục và đòi hỏi chứng tá nhất quán, tiếp tục mơ ước và đưa ra các
ý tưởng mới mẻ” (Số 100).
Một chủ
đề hiện diện suốt tông huấn là việc bảo vệ quyền phụ nữ và nhu cầu tương trợ
(Các số 42 và 81) giữa đàn ông và phụ nữ. Đức thánh cha nói về điều này trong
số 42: “Thay vào đó, một Giáo hội sống động có thể phản ứng bằng cách lưu ý đến
các yêu sách chính đáng của phụ nữ muốn tìm công bằng và bình đẳng nhiều hơn.
Một Giáo hội sống động có thể nhìn lại lịch sử và thừa nhận một phần quả mình
sai lầm trong chủ nghĩa toàn trị, thống trị nam giới, nhiều hình thức nô dịch,
lạm dụng và bạo lực tình dục. Với quan điểm này, Giáo hội có thể ủng hộ lời kêu
gọi tôn trọng nữ quyền, và cung hiến sự hỗ trợ đầy thuyết phục cho tính hỗ
tương lớn hơn giữa nam và nữ, dù không nhất trí với mọi điều được một số nhóm
nữ quyền đề xuất.”
Ta cũng
nên lưu ý sự dịch chuyển từ “tính bổ túc” (complementarity) sang “tính hỗ
tương” (reciprocity). Tính bổ túc dường như mang tính tĩnh tại hơn và gán cho
phụ nữ một vai trò cũng như cho đàn ông một vai trò khác. Cách nào đó điều này
làm kết tinh những mối liên hệ trong trò chơi mô tả tính cách nhân vật mà không
tôn trọng đời sống cụ thể của cặp đôi nam nữ. Mạc khải Kitô giáo thành đặt điều
này vấn đề, và rồi thì một quan niệm thuần khiết về bản tính con người giải
thích sự khác nhau như là cái gì đó được hoạch định để biến tan trong sự kết
hợp của tình yêu mà bằng sự phối hợp với nhau một hữu thể nhân sinh hoàn hảo sẽ
nổi lên. Trong số 245 ta lưu ý rằng Đức Phanxicô nói về sự thiếu vắng mẫu gương
của liderazgo femenino, nghĩa là “những mẫu gương phụ nữ có vai trò
lãnh đạo trong Giáo Hội”.
“Đại sứ
điệp”
Chương
bốn là chương trung tâm của Tông huấn. Nó được dành riêng cho “đại sứ điệp gởi
cho người trẻ” và chứa đựng “ba chân lý lớn mà tất cả chúng ta cần phải lắng
nghe” (Số 111).
Đầu
tiên là “Thiên Chúa yêu thương bạn”. Sứ điệp này thật đơn giản. Thế nhưng đây
là trong tâm của sứ điệp Kitô giáo. “Bất luận các bạn đã nghe nó hay chưa. Tôi
muốn nhắc các bạn nhớ điều đó. Thiên Chúa yêu các bạn. Đừng bao giờ nghi ngờ
điều này, bất cứ điều gì có thể xảy ra với các bạn trong cuộc sống. Ở mọi thời
điểm, các bạn đều được yêu thương vô hạn” (Số 112). Trên hết, Thiên Chúa không
phải là một ổ đĩa cứng. Bộ nhớ của Ngài là “một trái tim chứa đầy
lòng trắc ẩn dịu dàng” (Số 115). Không có chân lý này trong Kitô giáo thì mọi
sự rơi ra từng mảnh. Tác phẩm mục vụ của Đức Phanxicô luôn gây chú ý khi nó sửa
sai hình ảnh về một Thiên Chúa nặng nề, mơ hồ và giả tạo. Chúng ta bị quá tải
bởi hình ảnh về Thiên Chúa với những ý tưởng làm Ngài xa cách với hình ảnh chân
thật của Ngài như là Đấng yêu thương sự sống.
“Đại
chân lý” thứ hai mà Đức Phanxicô diễn tả trong chương bốn của Christus
Vivit là: “Đức Kitô, vì yêu thương, đã hoàn toàn hiến mình để cứu rỗi
chúng ta.” Và chân lý này trở nên lời mời gọi đi đến hành động: “Hãy nhìn vào
thập giá của Ngài, bám vào Ngài, để Ngài cứu các bạn” (Số 119). Tình yêu này đi
xa đến mức thập giá khắc phục những yếu đuối và mâu thuẫn của chúng ta. Thật
vậy, Đức Kitô viết nên câu chuyện tình với chúng ta qua “những vấn đề, yếu đuối
và sai sót” của chúng ta (Số 120). Không gì và không ai bị gạt ra ngoài thập
giá.
Chân lý
thứ ba là Đức Giêsu Kitô đang sống: ¡Él vive! Ngài không chỉ
là tấm gương từ trong quá khứ. Đức Bergoglio đòi hỏi: “Các bạn hãy xem Chúa
Giêsu như người hạnh phúc, tràn ngập niềm vui. Hãy vui mừng với Người như với
một người bạn đã chiến thắng. Người ta đã giết Người, Đấng thánh, Đấng duy nhất
công chính, Đấng vô tội, nhưng cuối cùng Người đã chiến thắng. Cái ác không có
lời cuối cùng. Nó cũng sẽ không có lời cuối cùng trong cuộc đời các bạn, vì các
bạn có một người bạn yêu các bạn và muốn chiến thắng trong các bạn. Đấng Cứu
Rỗi của các bạn đang sống” (Số 126). Ta có thể thấy sự chiến thắng, sự vinh
thăng trong những lời này, chừng như chúng là hoa trái của niềm vui phục sinh.
Đây là điều làm cải hóa chứ không chỉ là “một lựa chọn đạo đức hay một ý tưởng
cao cả” (số 129).
Như
vậy, đây là ba đại chân lý của đức tin: “Thiên Chúa yêu các bạn; Chúa Kitô là
Đấng Cứu Rỗi của các bạn; Ngài đang sống” (Số 130).
Bay lên
với đôi chân của bạn
Trong
chương năm của Tông huấn, Đức thánh cha hỏi điều gì đã thay đổi con đường của
tuổi trẻ khi nó được Tin Mừng chiếu rọi. Những yếu tố của hành trình này là gì?
Đức
Phanxicô đưa ra những ý tưởng để suy tư, giống như những ghi chú cho cuộc linh
thao. Tư tưởng của ngài không như một khảo luận hàn lâm nhưng là một loạt các
bản văn cung cấp cho độc giả, đưa ra hướng dẫn để suy tư về hiện sinh và thiêng
liêng.
Những
giấc mơ và chọn lựa. Thời tuổi trẻ thường được hiểu như là thời của những giấc mơ.
Nhưng Bergoglio suy tư rằng sự gặp gỡ với Thiên Chúa làm cho con người trưởng
thành và giấc mơ chín mùi, nếu không nó vẫn chỉ là trừu tượng. Đức tin đưa con
người đến trách nhiệm: đây là điều trọng yếu. Sự không ngơi nghỉ được xem như
là động cơ tăng trưởng vì nó mở cửa trái tim và giữ cho nó luôn luôn mở (cf. Số
138), nhưng nó không được ở trong tình trạng lờ mờ: nó phải đưa đến những chọn
lựa. Khi Đức Phanxicô thấy một chàng trai hay cô gái tìm kiếm con đường của
mình trong cuộc sống, ngài nhìn thấy như có ai đó muốn “bay lên trên đôi chân
của mình”. Đây là cách diễn tả tuyệt hay và đầy đủ. Song Đức thánh cha thấy cần
phải chính xác hơn: người trẻ đi trên hai chân giống như người trưởng thành,
nhưng trái với người trưởng thành hai chân song song, người trẻ đặt một chân
lên trước chân kia, sẵn sàng bước đi. Nói về người trẻ là nói về lời hứa hẹn,
mở ra con đường cho hành trình những sự lựa chọn, nghĩa là sự sống đang được
sống. Người trẻ đủ điên để làm điều ngốc nghếch, nhưng họ cũng có đủ tài để vực
dậy sau đó (cf. Số 139) và tiến về phía trước.
Khát
vọng sống và kinh nghiệm. Hành trình của người trẻ có khuynh
hướng về tương lai và có năng lượng cần thiết để chống lại những ảo tưởng của
lịch sử. Có lẽ vấn đề sẽ là sự lo lắng xao xuyến (cf. Số 142), nó trở thành thù
địch trong khoảng khắc ta thấy rằng hành động của chúng ta không đem lại kết
quả ngay lập tức và vì thế chúng ta sợ, bất an và tê liệt. Đức thánh cha tự đặt
mình trong hiện trạng của người trẻ sống trong mối căng thẳng này. Ngài nhìn
thấy nguy cơ điều này có thể đưa đến sự bất mãn hay vô trách nhiệm. Sứ điệp của
ngài rõ ràng thúc đẩy tiến lên phía trước, khi nhận biết rằng Lời Chúa cũng mời
gọi chúng ta sống giây phút hiện tại chứ không chỉ chuẩn bị cho tương lai (cf.
Số 147).
Tình
bằng hữu. Một yếu tố quan trọng trong đời sống của người trẻ là tình
bằng hữu. Đức thánh cha viết rằng Thiên Chúa giúp ta trưởng thành qua bạn bè.
Sự hiện diện của bạn bè ở bên cạnh ta trong những lúc khó khăn phản ánh sự trìu
mến của Thiên Chúa, sự an ủi và hiện diện dịu dàng của Ngài. Việc kết bạn dạy
chúng ta mở lòng mình ra, từ bỏ sự cô lập, chia sẻ đời sống của chúng ta (cf.
Số 151). Đây là hình thức liên hệ của người trẻ với Đức Kitô: không phải là sự
gắn kết trí năng hời hợt mà là mối thâm tình cao quý của tình bằng hữu.
Trưởng
thành và chín mùi. Sự nhiệt tình của tuổi trẻ cần được đồng hành trong sự trưởng
thành và chín mùi của nó để sự nhiệt tình không dập tắt vì nhu cầu an toàn và
tiện nghi đang gia tăng. Sự cởi mở và mê hoặc không cần phải mất đi. Đức thánh
cha đưa ra kinh nghiệm của riêng mình và tự thú: “Khi tôi bắt đầu sứ vụ của
mình với tư cách là Giáo hoàng, Chúa đã mở rộng các chân trời của tôi và ban
cho tôi tuổi trẻ đổi mới” (Số 160). Câu này là một cái nhìn thấu vào trong đời
của Đức thánh cha. Sự chín mùi mở ra những chân trời này đã trở thành lời ngôn
sứ khích động cho những ai ở gần chúng (cf. Số 162).
Tình
huynh đệ. Sự trưởng thành chín chắn được diễn tả qua sự cởi mở với tha
nhân, một hình thức thật sự của “xuất thần” như lời Đức thánh cha đã viết. Và
sự nhìn nhận tình huynh đệ triệt để. Để làm chứng cho tình huynh đệ này, Đức
thánh cha đã trích dẫn các giám mục của một quốc gia từng kinh nghiệm về một
cuộc chiến huynh đệ tương tàn: Rwanda.
Dấn
thân. Theo nghĩa này, Đức thánh cha khuyến khích sự tập hợp lại để
mở ra với sự dấn thân, vượt ra ngoài những nhóm nhỏ. Ngài nói về “công việc
thiện nguyện” và “bác ái chính trị”, “quyền công dân tích cực” và “tính liên
kết xã hội”. Đây là những cách diễn tả về sự dấn thân cụ thể để xây dựng một xã
hội mới. Một lối diễn tả thường lập lại trong ngôn ngữ của Bergoglio đã tổng
kết hình thức tột đỉnh của sự dấn thân: “tình bằng hữu xã hội”, nó mãnh liệt
hơn từ “gắn kết”, nhưng cũng là từ thượng lưu. Tình bằng hữu này là hoa trái
của sự hội tụ của “năng lực được sẻ chia” (Số 172).
Sứ mệnh. Cuối
cùng, Bergoglio nói rõ rằng sự dấn thân này không có ranh giới lẫn giới hạn.
Tin Mừng dành cho những người mọi người chứ không chỉ cho những ai ở gần hay
nhạy cảm hơn. Sự hợp tác trong việc biến đổi thế giới với năng lực, táo bạo và
sáng tạo là nhiệm vụ của cho mọi người.
Những
cành cây trên trời và rễ dưới đất.
Tinh
thần chung của tông huấn gắn liền với hoạt động biến đổi thế giới. Và phải làm
ngay bây giờ chứ không phải ngày mai hay tương lai. Song Bergoglio dành nguyên
một chương nói về sự cần thiết của cội rễ. Một tương lai không quá khứ chỉ là
thoảng qua; tuổi trẻ không lịch sử và truyền thống có nguy cơ là một ý thức hệ
đơn thuần hay một huyền thoại, sự thao túng hay hời hợt: “Thế giới chưa bao giờ
được hưởng lợi, cũng như sẽ không bao giờ được hưởng lợi, từ sự đứt đoạn giữa
các thế hệ” (Số 191).
Giáo
Hội là một chiếc ca nô – đây là điều mà một dự thính viên từ Quần đảo Samoa đã
nói ở Thượng hội đồng – nơi mà người già giúp chọn hướng đi bằng cách đọc vị
trí của các vì sao và người trẻ, khi đối thoại với người già, đã chèo thuyền
với sức mạnh của mình. Đức thánh cha đã nhớ lại lời phát biểu này và đưa nó vào
trong Tông huấn Christus Vivit, ngài kết luận rằng chúng ta
phải bước lên cùng một con thuyền để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn (Số
201). Đối với Đức Phanxicô, người trẻ là một ngôn sứ, nhưng chỉ có thể nói lời
ngôn sứ bằng việc lắng nghe giấc mơ của những người đi trước họ trên hành trình
cuộc sống: những giấc mơ trên căn bản kinh nghiệm lâu dài của họ.
Đáng
chú ý là trong bối cảnh Thượng hội đồng một sự kiện được tổ chức để giới thiệu
cuốn sách “Sharing the Wisdom of Time” (Chia sẻ sự khôn ngoan của thời
gian).[5] Đức thánh cha tham dự và chào đón những câu
hỏi về chủ đề các mối tương quan liên thế hệ từ những người lớn tuổi và trẻ
tuổi. Chính cuốn sách là một sưu tập những chứng từ của những người lớn tuổi
trên khắp thế giới mà Đức thánh cha đã tương tác, chú thích và kể những câu
chuyện cá nhân. Giờ đây Đức thánh cha quay lại với cuốn sách này khi viết:
“Trong cuốn sách Chia sẻ sự Khôn ngoan của Thời gian (Sharing
the Wisdom of Time), tôi đã phát biểu một số suy nghĩ dưới hình thức câu hỏi
“Tôi yêu cầu điều gì nơi những người lớn tuổi trong đó có tôi? Tôi kêu gọi
chúng tôi trở thành những người gìn giữ ký ức. Các ông các bà chúng tôi cần
phải thành lập một ca đoàn. Tôi vốn hình dung các người lớn tuổi như một ca
đoàn thường trực của một đền thánh tâm linh vĩ đại, nơi những lời cầu khẩn và
những bài ca ngợi nâng đỡ cộng đồng lớn hơn đang hoạt động và đấu tranh trong
lĩnh vực sự sống”. Quả là một điều tuyệt vời “khi những chàng trai và thiếu nữ
cùng nhau, những người già và trẻ em, đều ca ngợi thánh danh Chúa - Tv 148,
12-13” (Số 196).
Người
già xây dựng ước mơ của mình trên căn bản ký ức, hồi ức, với hình ảnh những
kinh nghiệm sống đã nhiều năm. Theo Đức Phanxicô, nếu người trẻ đâm rễ
trong những giấc mơ của người già, họ có thể thấy được tương lai, họ có thể có
được những thị kiến mở cho mình những chân trời. Nhưng nếu người lớn tuổi không
mơ thì người trẻ không thấy rõ những chân trời (cf. Số 193). Phá vỡ những tương
quan liên thế hệ sẽ là một cú đánh vào lịch sử.
Đừng
đánh mất ngọn lửa
Toàn
chương bảy dành cho “chăm sóc mục vụ giới trẻ”, nghĩa là hoạt động giáo dục khi
Giáo Hội đồng hành với người trẻ và khuyến khích họ nắm vai trò chủ đạo. Đức
thánh cha bắt đầu với kinh nghiệm của người trẻ đôi khi không tìm thấy câu trả
lời cho những mối quan tâm của mình, những nan đề và vấn đề của mình (cf. Số
202). Người trẻ được đòi hỏi đảm nhận một vai trò lớn hơn.
Việc
lên kế hoạch thì không đủ cũng như chiến lược và những cuộc hội họp cũng không
đủ như là mẫu gương cho hành động. Cần phải có điều gì đó khác hơn. Đức thánh cha
dùng những từ như “sáng tạo”, “táo bạo”, “cái nhìn sáng suốt”, “tài khéo” (cf.
Các số 203-204). Đức Phanxicô đưa ra hai đường lối hành động chính. Đó là với
tay ra (outreach) và dấn thân là cách thu hút người trẻ đến với kinh
nghiệm về Thiên Chúa; và trưởng thành (growth), phát triển con
đường đi đến sự chín mùi.
Đức
thánh cha đòi hỏi rằng trong công việc mục vụ không nên có nguy cơ kinh khủng
là làm cho người trẻ “mất lửa” (Số 212). Không để điều này xảy ra. “Nếu người
trẻ lớn lên trong một thế giới tro tàn, họ sẽ khó có thể giữ được ngọn lửa của
những giấc mơ và dự án lớn. Nếu họ lớn lên trong một sa mạc không còn ý nghĩa,
họ sẽ phát triển ước muốn cống hiến cuộc đời mình để gieo hạt giống ở đâu?” (Số
216).
Và chắc
rằng ngọn lửa sẽ tắt ngấm ngay cả khi kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô chuyển sang
“nhồi sọ lý thuyết” (indoctrination) (Số 214): “Nhiều người trẻ trở nên mệt mỏi
đối với các chương trình đào tạo tín lý và thiêng liêng của chúng ta, và đôi
khi đòi có cơ hội tham gia tích cực vào các hoạt động có lợi cho người khác”
(Số 225).
Tin
Mừng bị giảm thiểu thành mớ lý thuyết là một Tin Mừng nhạt nhẽo, khó hiểu, xa
cách, xa với các nền văn hóa của giới trẻ và có lẽ chỉ hợp với thành phần ưu tú
của một giới trẻ “khác”, những người nổi bềnh bồng một mình mà không sức sống
cũng chẳng sinh hoa trái gì. Vì thế “chúng ta cũng nhổ rễ hoặc bóp nghẹt bất cứ
số chồi nào đang cố gắng mọc lên bất chấp các hạn chế của chúng” (Số 232).
Giáo
Hội không phải là một pháo đài
Một
chương rất quan trọng dành cho công việc mục vụ trong các cơ sở giáo dục. Đức
thánh cha rất thẳng thắn và gay gắt khi cho rằng “Một số trường Công Giáo dường
như chỉ được cấu trúc vì mục đích tự bảo tồn. Việc sợ thay đổi khiến họ cố thủ
và phòng ngự trước các nguy hiểm, có thật hay tưởng tượng, mà bất cứ thay đổi
nào cũng có thể mang lại” (Số 221).
Đức
Phanxicô sử dụng một hình ảnh rất mạnh mẽ: “Trường học nào trở thành “một pháo
đài” (bunker), bảo vệ các học sinh của mình khỏi những lỗi lầm “từ bên ngoài”,
quả là một bức tranh biếm họa của xu hướng này. Thế nhưng, hình ảnh này phản
ánh, một cách ớn lạnh, điều nhiều người trẻ kinh qua khi họ tốt nghiệp từ một
số định chế giáo dục nào đó: mất sự kết nối không thể vượt qua giữa những gì họ
được dạy và thế giới mà họ đang sống.”
Điều
đang lâm nguy ở đây không chỉ là nội dung giảng dạy mà những con người mà chúng
ta muốn đào tạo. “Cách họ được dạy dỗ về các giá trị tôn giáo và luân lý đã
không chuẩn bị để họ đề cao các giá trị đó trong một thế giới đưa chúng ra chế
giễu, họ cũng không học được cách cầu nguyện và thực hành đức tin có thể dễ
dàng được nâng đỡ giữa nhịp độ chóng mặt của xã hội hôm nay. Vì một trong những
niềm vui lớn nhất mà bất cứ nhà giáo dục nào cũng có thể có là nhìn thấy một
học sinh biến thành một người mạnh mẽ, hòa nhập trọn vẹn, một nhà lãnh đạo và
một con người sẵn sàng cho đi” (số 221).
Con
đường nghiên cứu và đặt vấn đề giúp hình thành tính cách người trưởng thành, có
thể chọn lựa với sự phân định và gắn bó với đức tin bằng sự chín chắn trọn vẹn.
Ta có thể nói rằng hình mẫu pháo đài đối chọi với hình mẫu bệnh viện dã chiến
(field hospital) mà Đức thánh cha hay sử dụng và nói về không gian đào tạo giúp
chữa những vết thương của thế giới. Đức thánh cha mạnh mẽ kêu gọi sự tham gia
nắm lấy vai trò lãnh đạo.
Ơn gọi
và phân định
Hai
chương cuối cùng của Tông huấn dành cho ơn gọi và phân định. Đây là những chủ
đề được bàn luận xuyên suốt Tông huấn Gaudete et Exsultate. Ở đây,
Đức Phanxicô lại quay về với chúng trong ánh sáng của kinh nghiệm Thượng hội
đồng.
Bắt đầu
chương tám của Christus Vivit – dành cho ơn gọi – Đức Phanxicô
viết rằng “trong việc phân định ơn gọi của mình, thật quan trọng khi xác định
rằng bạn có nhìn thấy trong chính mình những khả năng cần thiết để phục vụ đặc
biệt cho xã hội” (Số 255). Phục vụ tha nhân thường được gắn với hai vấn đề nền
tảng là: Gia đình và Công việc.
Gia
đình là hướng nhìn ngược lại của lối sống cá nhân và không ràng
buộc, tù nhân của sự cô lập và cô đơn. Đức Phanxicô nhấn mạnh rằng thật là quan
trọng khi ta có thể “hiến mình cho người một cách quảng đại và riêng biệt” (Số
265).
Công
việc là một phần trong cuộc sống nhân sinh đầy đủ và trọn vẹn. Đức
Phanxicô thường lập lại điều này khi ghép lại thành ba chữ T trong tiếng Tây
Ban Nha là: tierra, techo y trabajo (đất đai, nhà ở và công
việc). Ở đây nhắc đến cuộc nói chuyện của ngài với “những phong trào phổ thông”
vào ngày 5 tháng Mười Một 2016. Đức Phanxicô viết: “Dù công việc có thể không
giúp đạt được ước mơ nhưng thật quan trọng khi giúp người trẻ nuôi dưỡng một
nhãn quan, biết cách làm việc theo lối của mình và thỏa mãn cho cuộc sống mình,
đồng thời tiếp tục phân định tiếng gọi của Chúa” (Số 268).
Vì thế
các chính trị gia phải xem công việc là một vấn đề quan trọng. Ngày nay chúng
ta khám phá ra những cách thế mới để bớt làm việc ở một tốc độ lớn hơn là khám phá
ra những cách thế mới để sử dụng công việc (cf. Số 271). Và còn thêm nữa là sự
ám ảnh giảm giá thành đã nhanh chóng đưa đến việc đưa máy móc thay thế những
việc làm.
Lướt
kênh và phân định
Tuy
nhiên, cuộc ssống được hiểu như một ơn gọi, đòi hỏi một không gian tĩnh lặng
nội tâm. Nó đòi hỏi bỏ lại phía sau sự lướt qua lướt lại của hiện sinh hay lướt
kênh truyền hình. Đức Phanxicô đã nói về điều này trong Gaudete et
Exsultate (Số 167) và trở lại với điều này ở đây. Thật sự, ngày nay
“chúng ta có thể xem hai hoặc nhiều màn ảnh cùng lúc hay đồng thời tương tác
với hai hay ba cảnh ảo”. Đối mặt với sự đa nhiệm của hiện sinh này, cần phải có
sự khôn ngoan của phân định. Thiếu đi điều nầy, “ta dễ dàng trở thành miếng mồi
cho mọi xu hướng thoáng qua” (Số 279). Sự im lặng và tĩnh lặng thật cần thiết
để phân định. Đức Phanxicô đưa một loạt những câu hỏi nổi lên trong sự im lặng
này. “Tôi có biết được chính mình, hoàn toàn tách khỏi những ảo tưởng và cảm
xúc của mình không? Tôi có biết điều gì mang lại niềm vui hay buồn sầu cho tâm
hồn của mình không? Đâu là sức mạnh và yếu đuối của tôi? Và rồi những câu hỏi
khác tiếp theo: “Tôi có thể phục vụ tha nhân tốt hơn và tỏ ra có ích nhất cho
thế giới và Giáo Hội của tôi? Chỗ đứng thật sự của tôi trong thế giới này? Tôi
có thể hiến dâng gì cho xã hội? Thậm chí những câu hỏi thực tế hơn: Tôi đã có
những khả năng cần thiết để phục vụ chưa? Tôi có thể phát triển những khả năng
này không?” (Số 285).
Thật
thích hợp khi nhắc lại rằng đối với Đức Phanxicô phân định không phải là sự khôn
ngoan dành cho thành phần học thức, ưu tú và được khai sáng. Phân định là một
đoàn sủng: “Nó không đòi hỏi những khả năng đặc biệt cũng không chỉ dành cho
những người học thức hay thông minh hơn. Chúa Cha sẵn sàng mạc khải cho những
kẻ bé mọn (cf. Mt 11,25)”. Đây là điều ngài đã viết
trong Gaudete et Exsultate (GE 170). Nhưng trên hết, “phân
định không phải là một kiểu tự phân tích chỉ biết có mình, hoặc một hình thức
nội quan (tự xét nội tâm) tập trung vào mình, nhưng là một tiến trình thật sự
ra khỏi chính mình để tiến về mầu nhiệm của Thiên Chúa, là Đấng giúp ta làm
tròn sứ vụ mà Ngài đã mời gọi ta, vì lợi ích cho anh chị em của ta” (GE 175).
Trong Christus
Vivit, Đức Phanxicô nhắm đến việc làm thế nào để giúp người ta phân định
được những con đường sống của riêng mình. Ngài viết, điều đầu tiên phải làm là
phải lắng nghe. Và sự lắng nghe này bao hàm ba lãnh vực khác nhau của sự nhạy
cảm bổ sung (cf. Các số 292-294).
Trước
hết là lưu tâm đến người khác với thời gian cần thiết và sự lắng nghe vô điều
kiện. Thư hai liên quan đến khả năng nắm bắt đúng trọng tâm mà trong đó ta nhận
ra ân sủng hay chỉ là sự cám dỗ đang hoạt động. Sự lắng nghe này hướng đến việc
nhận ra Thần Lành nhưng cũng là chiếc bẫy của Thần Dữ, mưu đồ hay sự cám dỗ của
hắn. Thứ ba là sự lắng nghe sâu sắc về nơi mà người khác muốn đến, họ muốn mình
là ai, vượt qua chiếc vỏ ngoài tình cảm của họ.
Phân
định là một tiến trình đòi hỏi sự đồng hành và giả định sự tự do. Không có công
thức ma thuật nào ở đây. Đây là bài học lớn mà Đức Phanxicô hiến dâng cho người
trẻ hôm nay: giúp họ nhận ra vận mệnh của mình và rằng thế giới đang ở trong
tay họ. Trong ánh sáng đức tin, sự dấn thân của họ là ơn gọi và là sứ mệnh.
Thế
giới và Giáo Hội cần sự nhiệt tình và trách nhiệm của người trẻ, đồng thời cũng
cần trực giác và đức tin của họ. Người trẻ có thể chạy nhanh hơn. Chính vì thế
Đức thánh cha đã kết thúc Tông huấn của mình với sự khôn ngoan và khiêm tốn khi
viết rằng: “Khi các bạn đến nơi mà chúng tôi chưa đến kịp thì hãy kiên nhẫn chờ
đợi chúng tôi” (Số 299).
(Các
trích dẫn Tông huấn từ bản dịch Việt ngữ của Vũ Văn An)
[1] Đức Phanxicô, God is Young: A
Conversation, cộng tác với Thomas Leoncini, New York, Random
House, 2018.
[2] Ibid., Phần I.
[3] Đức Phaolô VI, Diễn từ phong chân phước Nunzio
Sulprizio, 1 tháng Mười Hai 1963.
[4] cf. Final Document of the Synod of
Bishops on Young People, Faith and Vocational Discernment,
http://www.synod2018.va/content/synod2018/en/fede-discernimento-vocazione/final-document-of-the-synod-of-bishops-on-young-people–faith-an.html.
[5] Đức Phanxicô và những người bạn, Sharing
the Wisdom of Time, Loyola Press, 2019.
Tác giả bài viết: Lm.
Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ