TÔNG HUẤN HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG – CHRISTUS
VIVIT
(catechesis.net)
May 1, 2019
TÔNG HUẤN HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG
CHRISTUS VIVIT
(ĐỨC KITÔ HẰNG SỐNG)
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
Bản
dịch của Lm Công Đức,
1. Đức
Kitô hằng sống! Người là niềm hy vọng của chúng ta, và một cách kỳ diệu Người
mang sự tươi trẻ đến cho thế giới chúng ta, và mọi sự được Người chạm đến đều
trở nên trẻ trung, mới mẻ, đầy tràn sức sống.. Vì thế, lời đầu tiên cha muốn
nói với tất cả các bạn trẻ Kitô hữu là lời này: Đức Kitô đang sống và Người
muốn các con cũng sống thực sự!
2.
Người ở trong các con, Người ở với các con, và Người không bao giờ bỏ các con.
Dù các con đi lạc xa đến đâu, Người là Đấng Phục Sinh vẫn luôn ở đó. Người kêu
gọi các con, Người chờ mong các con trở về với Người và bắt đầu lại mọi sự. Khi
các con cảm thấy mình đang già đi vì ưu phiền, vì phẫn uất hay sợ hãi, vì nghi
ngờ hay thất bại, Người sẽ vẫn luôn ở đó để phục hồi nghị lực và hy vọng của
các con.
3. Với
cả tấm lòng, cha trao gửi Tông huấn này cho tất cả các bạn trẻ Kitô hữu. Tông
huấn này nhằm nhắc các con về một số xác tín đến từ đức tin của chúng ta, đồng
thời khích lệ các con lớn lên trong sự thánh thiện và trong sự dấn thân cho ơn
gọi riêng của mình. Nhưng vì đây cũng là một phần của tiến trình Thượng hội
đồng Giám mục, tôi cũng trao sứ điệp này cho toàn thể Dân Thiên Chúa, các mục
tử cũng như các tín hữu, bởi vì tất cả chúng ta đều được thách đố và được thúc
bách để suy tư cả về giới trẻ lẫn cho giới trẻ. Vì thế, nhiều chỗ tôi sẽ nói
trực tiếp với các bạn trẻ, nhiều chỗ khác, tôi sẽ gợi ra một số xem xét khái
quát hơn cho sự phân định của Giáo hội.
4. Tôi
nhận cảm hứng nơi kho tàng suy tư và thảo luận phong phú đúc kết từ Thượng hội
đồng Giám mục hồi năm ngoái. Tôi không thể bao gồm tất cả những đóng góp ấy ở
đây, nhưng mọi người vẫn có thể đọc chúng trong Tài liệu Chung kết. Dù sao, khi
viết Tông huấn này, tôi đã cố gắng đúc kết những đề nghị thiết tưởng là có tầm
quan trọng nhất. Bằng cách ấy, những lời của tôi ở đây sẽ vọng lại vô số tiếng
nói của các tín hữu trên khắp thế giới, những người đã bày tỏ quan điểm của
mình với Thượng hội đồng. Những bạn trẻ không phải là Kitô hữu nhưng đã muốn
chia sẻ các suy nghĩ của mình, họ cũng đã gợi ra những vấn đề làm cho tôi đặt
ra những dấu hỏi mới.
***
CHƯƠNG
MỘT
LỜI
THIÊN CHÚA NÓI GÌ VỀ NGƯỜI TRẺ?
5.
Chúng ta hãy tiếp cận một số bản văn trong kho tàng Thánh Kinh phong phú, vì
Thánh Kinh thường nói về người trẻ và về cách mà Chúa đến gần để gặp gỡ họ.
Trong
Cựu Ước
6. Vào
một thời đại mà người trẻ không được đánh giá cao, một số bản văn cho thấy rằng
Thiên Chúa nhìn họ một cách khác hẳn. Chẳng hạn, Giuse là đứa con nhỏ trong gia
đình (x. St 37,2-3), nhưng Thiên Chúa bày tỏ cho cậu ấy những điều lớn lao
trong các giấc mơ, và khi chỉ mới mười bảy tuổi, cậu ấy đã trổi vượt hơn các
anh mình trong những chuyện quan trọng (x. St 37-47).
7.
Trong Ghi-đê-ôn, chúng ta thấy sự thẳng thắn của người trẻ, họ không quen với
thực tế được bọc đường. Khi được bảo rằng có Chúa ở với mình, Ghi-đê-ôn đáp:
“Nhưng nếu Chúa ở với chúng tôi, thì tại sao tất cả những điều này lại xảy ra
với chúng tôi?” (Tl 6,13). Thiên Chúa không chấp lời trách cứ ấy, Ngài tiếp tục
truyền: “Với sức lực ngươi có đó, hãy đi mà cứu Israel!” (Tl 6,14).
8. Chúa
cũng ngỏ lời với Samuel khi cậu còn là một đứa trẻ. Nhờ lời khuyên của một
người lớn, cậu đã mở lòng ra nghe tiếng gọi của Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy
phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1Sm 3,9-10). Kết quả là Samuel trở
thành một ngôn sứ lớn, người đã can thiệp tại những thời điểm rất quan trọng
trong lịch sử đất nước mình. Vua Sao-lê cũng là một chàng trai trẻ khi được
Chúa kêu gọi đảm nhận sứ mạng (x. 1Sm 9,2).
9. Vua
Đa-vít được tuyển chọn khi còn là một thiếu niên. Khi ngôn sứ Samuel tìm kiếm
vị vua tương lai cho Israel, người kia đã tiến cử các con trai của mình, lớn
tuổi và dày dạn hơn. Nhưng vị ngôn sứ nói rằng người được chọn là chàng Đa-vít
trẻ, cậu ấy đang đi chăn cừu (x. 1Sm 16,6-13), vì “người phàm xét theo vẻ bên
ngoài, nhưng Đức Chúa trông thấy tâm hồn” (c.7). Tinh anh của tuổi trẻ nằm
trong tâm hồn, hơn là nơi sức mạnh cơ bắp hay nơi ấn tượng trao cho người khác.
10. Salômôn,
khi kế vị phụ vương, đã cảm thấy hốt hoảng và thưa với Chúa: “Con còn non nớt,
biết gì đâu mà làm” (1V 3,7). Nhưng sự táo bạo của tuổi trẻ đã thúc đẩy chàng
xin Chúa sự khôn ngoan, và chàng đã hết mình cho sứ mạng. Một điều gì đó tương
tự cũng đã xảy ra với ngôn sứ Giêrêmia, người được kêu gọi dù tuổi đời còn trẻ,
để thức tỉnh dân mình. Trong nỗi sợ, Giêrêmia thốt lên: “Ồ không, lạy Chúa là
Thiên Chúa, con thực sự không biết ăn nói, vì con chỉ là một đứa trẻ” (Gr 1,6).
Nhưng Chúa bảo không được nói thế (x. Gr 1,7), và Ngài thêm: “Ngươi đừng sợ
chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi” (Gr 1,8). Nhiệt tâm của ngôn sứ
Giêrêmia đối với sứ mạng mình cho ta thấy điều gì có thể xảy ra khi sự can đảm
của tuổi trẻ được nối kết với sức mạnh của Thiên Chúa.
11. Một
nữ tỳ Do thái của vị tướng ngoại bang là Naaman đã dùng đức tin để can thiệp,
và nhờ đó vị tướng này được chữa lành bệnh (x. 2V 5,2-6). Nàng Rút là một mẫu
gương quảng đại khi ở lại bên mẹ chồng vào hoàn cảnh khó khăn (x. R 1,1-18),
nhưng nàng cũng cho thấy sự dũng cảm của mình khi bước tới trên đường đời (x. R
4,1-17).
Trong
Tân Ước
12. Một
trong các dụ ngôn của Chúa Giêsu (x. Lc 15,11-32) kể rằng người con “trẻ tuổi
hơn” muốn bỏ nhà cha mình để trẩy đi phương xa (x. c.12-13). Nhưng cách nghĩ
của anh về sự độc lập đã đi đến chỗ thái quá và hủy hoại (x. c.13), anh bắt đầu
kinh nghiệm nỗi đắng cay của cô đơn và túng quẫn (x. c.14-16). Dù vậy, anh đã
tìm được nghị lực để bắt đầu lại (x. c.17-19), anh quyết định đứng lên trở về
nhà (x. c.20). Trái tim người trẻ thường sẵn sàng thay đổi, quay lại, đứng lên
và rút bài học từ cuộc sống. Ai mà lại không ủng hộ anh chàng này trong quyết
tâm mới của anh cơ chứ? Nhưng người anh trai thì mang một trái tim đã cằn cỗi;
anh ta để cho mình bị thống trị bởi sự tham lam, ích kỷ và ghen tị (Lc
15,28-30). Đức Giêsu khen ngợi chàng trai trẻ tội lỗi quay về đường ngay nẻo
chính, hơn là người anh tự cho mình là trung thành song lại thiếu tình yêu và
lòng thương xót.
13.
Chúa Giêsu, Đấng luôn mãi trẻ trung, muốn trao cho chúng ta quả tim trẻ trung
mãi mãi. Lời Chúa yêu cầu chúng ta “loại bỏ men cũ để trở thành bột mới” (1Cr
5,7). Thánh Phaolô mời gọi chúng ta cởi bỏ “con người cũ” và mặc lấy con người
“tươi trẻ” (Cl 3,9.10). [1] Khi giải thích ý nghĩa của việc mặc lấy sự tươi trẻ
“được đổi mới” ấy (c.10), ngài đề cập đến “lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm
nhu, hiền hòa và nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau nếu người này có điều
oán trách người kia” (Cl 3,12-13). Tóm lại, tuổi trẻ đích thực có nghĩa rằng có
một trái tim biết yêu thương, trong khi bất cứ gì chia rẽ chúng ta thì đều làm
cho linh hồn trở nên cằn cỗi. Vì thế Thánh Phaolô kết luận: “Trên hết mọi sự,
anh em phải có đức ái, đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14).
14.
Chúng ta cũng ghi nhớ rằng Đức Giêsu không ủng hộ những người lớn xem thường
hay khống chế người trẻ. Trái lại, Người nhấn mạnh rằng “kẻ lớn nhất trong anh
em phải trở thành người nhỏ nhất” (Lc 22,26). Đối với Đức Giêsu, tuổi tác không
tạo nên các đặc quyền, và sự kiện rằng người ta trẻ tuổi không có nghĩa rằng họ
có ít phẩm giá hơn.
15. Lời
Chúa nói rằng người trẻ nên được đối xử “như anh em” (1Tm 5,1), và cảnh giác
các bậc phụ huynh đừng “làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3,21).
Người trẻ không được an bài để mà ngã lòng; họ được mời gọi mơ những điều lớn
lao, tìm kiếm những chân trời xa rộng, hướng lên cao hơn, gánh vác thế giới
này, đón nhận những thách đố và cống hiến nhiều nhất có thể để xây dựng một cái
gì đó tốt đẹp hơn. Đó là lý do tại sao tôi thường xuyên khẩn khoản các bạn trẻ
đừng để mình bị tước mất niềm hy vọng; cha muốn nhắc lại với mỗi người trong
các con: “Đừng để ai xem thường tuổi trẻ của con!” (1Tm 4,12).
16.
Nhưng người trẻ cũng được khuyến dụ “chấp nhận quyền bính của các bậc cao niên”
(1Pr 5,5). Thánh Kinh không ngừng nhấn mạnh rằng các bậc niên trưởng phải được
chân thành kính trọng, vì họ có cả một kho tàng kinh nghiệm; họ từng trải những
thành công và thất bại, những niềm vui và nỗi khổ trong đời, những ước mơ và
những thất vọng. Trong sâu thẳm tâm hồn an tĩnh của mình, họ có cả một kho tàng
kinh nghiệm có thể dạy chúng ta biết tránh lầm lỗi hay đừng bị dụ hoặc bởi
những lời hứa hẹn phỉnh gạt. Một hiền nhân cổ thời kêu gọi chúng ta tôn trọng
một số giới hạn và làm chủ các xung năng của mình: “Hãy thúc đẩy các người trẻ
biết làm chủ chính mình” (Tt 2,6). Thật vô ích việc sùng bái tuổi trẻ hay điên
rồ loại trừ người khác chỉ vì họ lớn tuổi hơn hay vì họ thuộc một thế hệ khác.
Đức Giêsu bảo chúng ta rằng người khôn ngoan có thể rút ra từ kho tàng của họ
cả những thứ mới và cũ (x. Mt 13,52). Một người trẻ khôn ngoan thì mở ra hướng
tới tương lai, nhưng cũng biết học hỏi từ kinh nghiệm của những người khác nữa.
17.
Trong Tin Mừng Máccô, chúng ta gặp thấy một anh chàng sau khi lắng nghe Đức
Giêsu nói về các điều răn, đã lên tiếng: “Tất cả những điều ấy tôi đã tuân giữ
từ tuổi nhỏ” (10,20). Tác giả Thánh Vịnh cũng từng nói điều tương tự: “Lạy
Chúa, Chúa là hy vọng của con; con tin tưởng vào Chúa từ thời niên thiếu… Từ
tuổi thanh xuân, Chúa đã dạy bảo con, và con sẽ loan báo những kỳ công Chúa đã
làm” (Tv 71,5.17). Chúng ta đừng bao giờ ân hận vì đã sống tốt lành ở tuổi
thanh xuân, đã mở lòng ra với Chúa, và đã sống khác với thói đời. Những điều đó
không làm tuổi xuân ta mất gì, thay vào đó chúng kiện cường và làm tươi trẻ tuổi
xuân chúng ta: “Tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng” (Tv 103,5). Vì thế,
Thánh Augustinô đã than thở: “Con yêu Chúa quá muộn màng, lạy Chúa là vẻ đẹp
thường hằng và mãi mãi tinh khôi! Con đã yêu Chúa quá muộn màng!” [2]. Rất
tiếc, chàng trai giàu có ấy, vốn trung tín với Chúa trong tuổi thanh xuân, đã
để cho những năm tháng trôi qua cướp mất các giấc mơ của mình; anh ta thích bám
víu vào của cải (x. Mc 10,22).
18. Mặt
khác, trong Tin Mừng Mátthêu chúng ta gặp một chàng trai trẻ (x. Mt 19,20.22)
đến gặp Đức Giêsu và hỏi xem mình còn có thể làm gì nữa (c.20); ở đây, anh cho
thấy tinh thần cởi mở của chất trẻ, muốn kiếm tìm những chân trời mới và những
thách đố lớn lao. Nhưng thực sự tinh thần của anh không được trẻ trung như thế,
vì anh đã bị cột chặt vào của cải và những tiện nghi. Anh nói rằng anh muốn
điều gì đó, nhưng khi Đức Giêsu đề nghị anh quảng đại chia sẻ tài sản của mình,
thì anh nhận ra anh không thể buông bỏ mọi thứ mà mình đang có. Cuối cùng,
“nghe những lời ấy, người thanh niên buồn rầu bỏ đi” (c.22). Anh đã đánh mất sự
trẻ trung của mình.
19. Tin
Mừng cũng nói về một nhóm cô gái khôn ngoan, trong tình trạng tỉnh thức chờ
đợi, trong khi những cô khác thì tâm trí phân tán và mê ngủ (x. Mt 25,1-13).
Quả thật, chúng ta có thể đi qua tuổi trẻ của mình với đầy những chia trí, chỉ
sống hời hợt, nửa tỉnh nửa mê, không có khả năng đào sâu những mối tương quan
có ý nghĩa, cũng không kinh nghiệm được những điều sâu xa hơn trong cuộc sống.
Như thế, chúng ta có thể hình thành một tương lai tầm thường và thiếu nền móng.
Hoặc giả chúng ta có thể trải qua tuổi thanh xuân với đầy cảm hứng đối với
những điều đẹp đẽ và cao thượng, qua đó chúng ta kiến tạo một tương lai tràn
đầy sức sống và sự phong phú tâm hồn.
20. Nếu
các con đã đánh mất sinh lực bên trong, đánh mất những giấc mơ, lòng hăng hái,
tinh thần lạc quan và sự quảng đại, thì Đức Giêsu đang đứng trước mặt các con,
như Người đã từng đứng trước anh con trai đã chết của người góa phụ, và với tất
cả sức mạnh từ sự Phục Sinh của Người, Người thúc bách các con: “Này người bạn
trẻ, Ta truyền cho con, hãy chỗi dậy!” (Lc 7,14).
21.
Chắc chắn là còn nhiều đoạn văn khác của Lời Chúa có thể soi sáng cho giai đoạn
này của đời sống các con. Chúng ta sẽ nhắc đến một số bản văn như thế trong các
chương sau.
***
CHƯƠNG
HAI
ĐỨC
GIÊSU MÃI MÃI TRẺ TRUNG
22. Đức
Giêsu là “người trẻ ở giữa những người trẻ để làm gương mẫu cho người trẻ và để
thánh hiến họ cho Chúa”. [3] Vì thế Thượng hội đồng nói rằng “tuổi trẻ là một
giai đoạn độc đáo và đầy sức truyền cảm hứng trong đời, chính Đức Giêsu đã trải
nghiệm giai đoạn này và đã thánh hóa nó”. [4]
Tuổi
trẻ của Đức Giêsu
23.
Chúa “trút linh hồn” (x. Mt 27,50) trên thập giá khi Người chỉ mới ngoài ba
mươi (x. Lc 3,23). Thật quan trọng việc nhận ra rằng Đức Giêsu là một người
trẻ. Người trao mạng sống khi Người ở độ tuổi mà ngày nay gọi là ‘giai đoạn đầu
của tuổi trưởng thành’. Người bắt đầu sứ mạng công khai ở giai đoạn tràn đầy
sinh lực nhất, và xuất hiện như “một ánh sáng huy hoàng” (Mt 4,16), ánh sáng
này sẽ chiếu soi rực rỡ nhất khi cuối cùng Người hiến trao mạng sống. Sự kết
thúc ấy không phải là một cái gì ngẫu nhiên xảy ra; đúng hơn, tất cả tuổi trẻ
của Người, trong mọi khoảnh khắc, đã là một sự chuẩn bị quí giá cho hồi kết cục
ấy. “Mọi sự trong đời sống của Đức Giêsu đều là một dấu chỉ mầu nhiệm của
Người”; [5] thật vậy, “toàn thể đời sống Đức Giêsu là một mầu nhiệm cứu độ”.
[6]
24. Tin
Mừng không kể gì cho chúng ta về thuở ấu thời của Đức Giêsu, nhưng có tường
thuật vài biến cố vào giai đoạn thiếu niên và thanh niên của Người. Matthêu đặt
thời thanh niên của Chúa vào giữa hai biến cố: việc gia đình Người trở về
Nadarét sau chuyến đi tha phương, và sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông
Gio-đan, tức lúc bắt đầu sứ vụ công khai của Người. Những hình ảnh cuối cùng
chúng ta có về trẻ Giêsu là những hình ảnh của một cậu bé tị nạn ở Ai-cập (x.
Mt 2,14-15) và hồi hương tại Nadarét (x. Mt 2,19-23). Hình ảnh đầu tiên ta có
về Đức Giêsu như một người đã vào tuổi trưởng thành, đó là hình ảnh Người đứng
giữa đám đông trên bờ sông Gio-đan để được người anh họ là Gioan Tẩy Giả làm
phép rửa cho, giống như mọi người khác trong dân chúng (x. Mt 3,13-17).
25.
Không giống Phép Rửa của chúng ta là Phép Rửa đưa ta vào đời sống ân sủng, Phép
Rửa mà Đức Giêsu chịu là một sự thánh hiến trước khi Người đi vào sứ mạng lớn
lao của cuộc đời Người. Tin Mừng nói rằng trong biến cố Phép Rửa ấy, Chúa Cha
rất hoan hỉ và hài lòng: “Con là Con yêu dấu của Ta” (Lc 3,22). Ngay lập tức
Đức Giêsu được thấy đầy tràn Thánh Thần, và Người được Thánh Thần dẫn vào hoang
địa. Ở đó Người sửa soạn để xúc tiến việc rao giảng và thực hiện các phép lạ,
đem lại sự tự do và sự chữa lành (x. Lc 4,1-14). Mọi người trẻ cảm nhận mình
được kêu gọi nhận lãnh một sứ mạng trong thế giới này cũng được mời gọi nghe
Chúa Cha nói cùng những lời ấy trong tâm hồn mình: “Con là con yêu dấu của Ta”.
26.
Giữa hai trình thuật trên, chúng ta tìm thấy một trình thuật khác giới thiệu
Đức Giêsu ở tuổi thiếu niên, khi Người cùng với cha mẹ mình trở về Nadarét sau
biến cố lạc mất và tìm thấy trong Đền thờ (x. Lc 2,41-51). Ở đây chúng ta đọc
thấy rằng “Người vâng lời cha mẹ” (x. Lc 2,51); Người không phủ nhận gia đình
mình. Rồi Luca thêm rằng Giêsu “lớn lên, thêm khôn ngoan và đầy ân sủng trước
mặt Thiên Chúa và người ta” (x. Lc 2,52). Tóm lại, đây là một thời gian chuẩn
bị, trong đó Đức Giêsu lớn lên trong tương quan với Cha và với tha nhân. Thánh
Gioan Phaolô II giải thích rằng Đức Giêsu không chỉ lớn lên về thể lý, mà còn
“có một sự trưởng thành tâm linh nơi Đức Giêsu nữa”, vì “sự sung mãn của ân
sủng nơi Đức Giêsu tương ứng với độ tuổi của Người: luôn có một sự sung mãn,
nhưng đó là một sự sung mãn tăng trưởng khi Người lớn lên”. [7]
27. Từ
những gì Tin Mừng nói với chúng ta, ta có thể nói rằng trong những năm tuổi
trẻ, Đức Giêsu “rèn luyện”, chuẩn bị sẵn sàng để thực hiện kế hoạch của Cha.
Tuổi thiếu niên và thanh niên của Đức Giêsu đặt Người trên nẻo đường sứ mạng
cao cả ấy.
28. Ở
tuổi thiếu niên và thanh niên, Đức Giêsu tương quan với Chúa Cha như người Con
yêu dấu. Gắn bó với Cha, Người lớn lên trong thao thức về các công việc của
Cha: “Bố mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con sao?” (Lc 2,49).
Tuy nhiên, không được nghĩ rằng Giêsu là một thiếu niên cô lập hay một thanh
niên chỉ quan tâm đến mình. Các mối tương quan của Người cũng giống như một
người trẻ hoàn toàn tham gia vào đời sống của gia đình và đồng bào mình. Người
học việc với cha, và rồi thay cha ở xưởng thợ mộc. Tin Mừng có chỗ đề cập rằng
Người được gọi là “con bác thợ mộc” (Mt 13,55), và một chỗ khác đơn giản gọi
Người là “chàng thợ mộc” (Mc 6,3). Chi tiết ấy cho thấy rằng Người là một chàng
trai như mọi chàng trai khác trong thôn xóm, và Người liên hệ bình thường với
mọi người. Không ai xem Người như một nhân vật bất thường hay tách rời khỏi
những người khác. Chính vì vậy, khi Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy, người ta không
thể hình dung bởi đâu mà Người có được sự khôn ngoan ấy: “Đây không phải là con
ông Giuse sao?” (Lc 4,22).
29.
Thật vậy, “Giêsu đã không lớn lên trong một mối tương quan khép kín ngột ngạt
với Maria và Giuse, nhưng sẵn sàng tương tác với gia đình rộng lớn hơn, với
những người thân và bạn hữu của cha mẹ mình”. [8] Chính vì thế mà ta có thể
hiểu tại sao khi trở về từ chuyến hành hương Giêrusalem, cha mẹ Người cứ đinh
ninh rằng đứa con mười hai tuổi của mình (x. Lc 2,42) đang lang thang đâu đó
giữa đám đông, ngay cả dù hai vị đã không nhìn thấy con mình suốt cả ngày hôm
ấy – “nghĩ rằng con mình đang đi với nhóm khách hành hương, các ngài đã đi một
ngày đường” (Lc 2,44). Chắc hẳn, các ngài hình dung rằng Giêsu đang ở đâu đó,
đang lẩn giữa những người khác, đang chơi đùa với những đứa trẻ khác, đang nghe
những người lớn kể chuyện, đang chia sẻ những chuyện vui buồn của những người
đồng hành. Quả thực, từ Hy lạp “synodía” mà Luca dùng để mô tả nhóm người ở đây
rõ ràng gợi nghĩ đến một “cộng đoàn hành hương” lớn hơn, mà Thánh Gia là một
thành phần trong đó. Chính nhờ sự tin tưởng của cha mẹ mà Giêsu có thể đi đứng
tự do và học biết cùng bước đi với những người khác.
Chúng
ta học từ tuổi trẻ của Đức Giêsu
30.
Những khía cạnh này trong đời sống của Đức Giêsu rõ ràng có thể truyền cảm hứng
cho tất cả các bạn trẻ đang lớn lên và sửa soạn đảm nhận sứ mạng của mình trong
đời. Điều này đòi hỏi việc lớn lên trong mối tương quan với Chúa Cha, trong ý
thức mình là thành phần của một gia đình và một dân tộc, trong sự mở lòng ra để
được lấp đầy bởi Thánh Thần và được hướng dẫn để thi hành sứ mạng mà Thiên Chúa
trao cho mình, tức ơn gọi riêng của mình. Không được bỏ qua điểm nào ở đây khi
làm việc mục vụ giới trẻ, nhằm tránh việc lập ra những dự án gây tách biệt
người trẻ khỏi gia đình và khỏi cộng đoàn rộng lớn hơn, hoặc biến họ thành một
thiểu số ưu tuyển được bảo vệ khỏi mọi sự uế nhiễm. Đúng hơn, chúng ta cần
những dự án có thể kiện cường các bạn trẻ, đồng hành với họ và thúc đẩy họ gặp gỡ
những người khác, dấn thân vào những việc phục vụ quảng đại trong sứ mạng.
31. Các
bạn trẻ thân mến, Đức Giêsu không dạy các con từ xa hay từ bên ngoài, nhưng từ
chính trong tuổi trẻ của các con, một tuổi trẻ mà Người cùng kinh nghiệm với
các con. Thật quan trọng việc các con chiêm ngắm chàng trai Giêsu như được giới
thiệu trong các Sách Tin Mừng, vì Người thực sự là một giữa các con, và Người
chia sẻ nhiều nét trong tâm hồn trẻ trung của các con. Chẳng hạn, chúng ta thấy
điều này trong nhận định sau đây: “Đức Giêsu tin tưởng vào Cha một cách vô điều
kiện; Người giữ tình thân hữu với các môn đệ, và ngay cả trong những thời khắc
khủng hoảng Người vẫn trung thành với họ. Người tỏ lòng thương cảm sâu xa đối
với những người yếu đuối nhất, đặc biệt những người nghèo, người đau ốm, người
tội lỗi và những kẻ bị loại trừ. Người có can đảm để đương đầu với các quyền
bính chính trị và tôn giáo thời ấy; Người hiểu thế nào là bị hiểu lầm và bị tẩy
chay; Người kinh nghiệm nỗi sợ trước đau khồ và Người biết sự chênh vênh trong
cuộc khổ nạn. Người hướng nhìn tương lai, phó thác chính mình trong vòng tay
che chở của Cha và trong sức mạnh của Thánh Thần. Nơi Đức Giêsu, mọi người trẻ
có thể nhìn thấy chính mình”. [9]
32.
Đàng khác, Đức Giêsu đã Phục Sinh, và Người muốn đưa chúng ta vào tham dự trong
sự sống mới của cuộc Phục Sinh ấy. Người là nét thanh xuân đích thực của một
thế giới đang già đi, thanh xuân của một vũ trụ đang chờ “sinh nở” (Rm 8,22),
để được phủ trùm bởi ánh sáng của Người và được sống sự sống của Người. Có Người
bên mình, chúng ta có thể uống từ nguồn mạch đích thực có sức làm sống động mọi
giấc mơ của chúng ta, mọi kế hoạch và mọi lý tưởng cao cả của chúng ta, đồng
thời chúng ta được thúc đẩy rao giảng về điều làm cho đời sống thực sự có ý
nghĩa. Hai chi tiết thú vị trong Tin Mừng Máccô cho thấy cách mà những người
sống lại với Đức Kitô Phục Sinh được mời gọi sống tuổi trẻ đích thực. Trong
cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta thấy một thanh niên muốn đi theo Đức Giêsu,
nhưng vì sợ hãi nên đã vứt áo bỏ chạy trần truồng (x. 14,51-52); anh ta thiếu
sức mạnh để đương đầu với mọi sự khi theo Chúa. Trong khi đó tại ngôi mồ trống,
chúng ta thấy một thanh niên khác, “mặc áo trắng” (16,5), bảo các phụ nữ đừng
sợ nhưng hãy loan báo niềm vui Phục Sinh (x. 16,6-7).
33.
Chúa đang kêu gọi chúng ta thắp lên những ánh sao trong đêm tối của các bạn trẻ
khác. Người đề nghị các con hướng nhìn những ánh sao đích thực, tức tất cả
những dấu hiệu đủ loại mà Người trao cho để dẫn đường chúng ta, và bắt chước
người nông dân xem sao trên trời trước khi đi cày ruộng. Thiên Chúa thắp sáng
các ánh sao để giúp chúng ta bước đi: “Sao chiếu sáng nơi trạm canh của chúng;
Ngài gọi chúng và chúng vui mừng” (Br 3,34-35). Chính Đức Kitô là ánh sáng hy
vọng rạng ngời của chúng ta và là người dẫn đường chúng ta trong đêm tối, vì
Người là “sao mai chiếu rạng” (Kh 22,16).
Nét trẻ
của Giáo hội
34.
Tuổi trẻ không chỉ là một giai đoạn thời gian; nó là một dạng tâm thức. Đó là
lý do tại sao một cơ chế cổ truyền như Giáo hội có thể kinh nghiệm sự đổi mới
và trở về tình trạng tươi trẻ tại những thời khắc khác nhau trong lịch sử lâu
đời của mình. Thật vậy, vào những giai đoạn kịch tính nhất trong lịch sử của
mình, Giáo hội cảm thấy được gọi hết lòng trở về với tình yêu thuở ban đầu.
Nhắc đến sự thật này, Công đồng Vatican II ghi nhận rằng “được nên phong phú
nhờ một lịch sử lâu dài và sống động, trong khi tiến tới hướng về sự hoàn thành
của con người trong thời gian và hướng về những định mệnh cuối cùng của lịch sử
và của đời sống, Giáo hội thực sự là tuổi xuân của thế giới”. Nơi Giáo hội,
người ta luôn luôn có thể gặp gỡ Đức Kitô, Đấng là “người đồng hành và là bạn
của giới trẻ”. [10]
Một
Giáo hội luôn sẵn sàng canh tân
35.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa giải thoát Giáo hội khỏi những kẻ muốn làm cho Giáo
hội già nua, giam Giáo hội trong quá khứ, kéo Giáo hội giật lùi hay giữ Giáo
hội đứng khựng lại. Nhưng chúng ta cũng phải xin Chúa giải thoát Giáo hội khỏi
một cám dỗ khác: cám dỗ nghĩ rằng Giáo hội trẻ trung nhờ ở việc chấp nhận mọi
thứ mà thế giới này mời chào, nghĩ rằng Giáo hội được đổi mới nhờ ở việc gạt bỏ
sứ điệp của mình và hành động giống như mọi người khác. Không! Giáo hội trẻ
trung khi Giáo hội là chính mình, khi Giáo hội luôn luôn đón nhận năng lực từ
Lời Chúa, Thánh Thể, từ sự hiện diện hằng ngày của Đức Kitô và từ sức mạnh của
Thánh Thần Đức Kitô trong đời sống chúng ta. Giáo hội trẻ trung khi Giáo hội
cho thấy mình có khả năng không ngừng trở về nguồn.
36.
Đương nhiên, trong tư cách là thành viên của Giáo hội, chúng ta không được đứng
tách rời khỏi những người khác. Mọi người phải nhìn thấy chúng ta là bạn hữu,
láng giềng của họ, như các tông đồ “hoan hỉ với thiện chí của mọi người” (Cv
2,47; x. 4,21; 5,13). Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải dám khác biệt, dám
hướng chỉ những lý tưởng khác với những lý tưởng của thế gian này, dám làm
chứng cho vẻ đẹp của sự quảng đại, tinh thần phục vụ, sự trong sạch, nhẫn nại,
tha thứ, trung thành với ơn gọi riêng của mình, cầu nguyện, theo đuổi công lý
và thiện ích chung, yêu thương người nghèo và tình thân hữu với mọi người.
37.
Giáo hội của Đức Kitô luôn luôn có nguy cơ nhượng bộ cho cám dỗ đánh mất lòng
nhiệt thành, vì không còn nghe tiếng Chúa gọi mình chấp nhận sự mạo hiểm của
đức tin và trao hiến tất cả mà không ngại nguy hiểm; Giáo hội có thể bị cám dỗ
để quay lại tìm kiếm một dạng an toàn giả tạo của thế gian. Người trẻ có thể
giúp giữ cho Giáo hội trẻ trung. Họ có thể ngăn Giáo hội khỏi tha hóa; họ có
thể giữ Giáo hội tiến về phía trước, đề phòng cho Giáo hội khỏi kiêu căng và bè
phái, giúp Giáo hội nên nghèo khó hơn và nêu chứng tá tốt hơn, biết đứng về
phía người nghèo và những người bị bỏ rơi, biết chiến đấu cho công lý và khiêm
tốn chấp nhận thách đố. Người trẻ có thể cống hiến cho Giáo hội vẻ đẹp của tuổi
trẻ bằng cách canh tân khả năng của Giáo hội để “hoan hỉ với những sự bắt đầu
mới, để hoàn toàn trao hiến chính mình, để được đổi mới và để luôn lên đường
hướng đến những thành quả lớn hơn nữa”. [11]
38.
Những ai trong chúng ta không còn trẻ nữa thì cần phải tìm cách gần gũi với
những tiếng nói và những mối quan tâm của người trẻ. “Việc sáp lại gần nhau sẽ
tạo điều kiện cho Giáo hội trở thành một nơi chốn của đối thoại và trao chứng
tá về tình huynh đệ quên mình”. [12] Chúng ta cần dành nhiều chỗ hơn nữa cho
tiếng nói của người trẻ được lắng nghe: “Việc lắng nghe giúp người ta có thể
trao đổi các ân ban trong một bối cảnh thấu cảm nhau… Đồng thời, nó tạo điều
kiện để việc rao giảng Tin Mừng có thể chạm đến trái tim người ta một cách thực
sự, mạnh mẽ và sinh hoa trái”. [13]
Một
Giáo hội chú ý đến các dấu chỉ của thời đại
39. “Dù
đối với nhiều người trẻ, Thiên Chúa, tôn giáo và Giáo hội dường như là những từ
ngữ trống rỗng, thì họ vẫn nhạy cảm trước hình ảnh Đức Giêsu khi Người được
giới thiệu cho họ một cách lôi cuốn và hữu hiệu”. [14] Vì thế, Giáo hội không
nên quá loay hoay với chính mình, mà thay vào đó, và trước hết, cần phải phản
ảnh Đức Giêsu Kitô. Điều này có nghĩa cần khiêm nhường nhìn nhận rằng một số
điều phải được thay đổi cách cụ thể, và để thay đổi như vậy thì Giáo hội cần
trân trọng cả tầm nhìn lẫn những phê bình của người trẻ.
40.
Thượng hội đồng nhận thấy rằng “khá nhiều người trẻ, vì rất nhiều lý do, không
hề kỳ vọng điều gì nơi Giáo hội, vì họ chẳng thấy Giáo hội có ý nghĩa gì cho
cuộc sống của họ. Một số ngay cả công khai yêu cầu rằng hãy để mặc họ, vì họ
thấy sự hiện diện của Giáo hội như một cái gì phiền toái, thậm chí gây dị ứng.
Yêu cầu này không phải luôn luôn do bồng bột bức xúc. Nó có thể có những lý do
hẳn hoi: như những vụ tai tiếng về tình dục và tiền bạc; như một hàng giáo sĩ
chưa được chuẩn bị tốt để xử lý cách hữu hiệu trước các xúc cảm của giới trẻ;
như việc thiếu chuẩn bị cho bài giảng, cho việc trình bày lời Chúa; như người
trẻ trong cộng đoàn Kitô hữu chỉ được trao cho vai trò thụ động; như việc Giáo
hội gặp khó khăn khi giải thích giáo thuyết và các quan điểm đạo đức của mình
cho xã hội hiện đại”. [15]
41. Mặc
dù nhiều người trẻ vui mừng nhìn thấy một Giáo hội khiêm nhường nhưng tin tưởng
vào các ân ban nhận được, và họ có thể đưa ra những phê bình thích đáng trong
tình huynh đệ, nhưng nhiều người khác thì muốn một Giáo hội biết lắng nghe hơn,
biết làm nhiều hơn là duy chỉ lên án thế giới. Họ không muốn nhìn thấy một Giáo
hội thinh lặng và sợ lên tiếng, nhưng cũng không phải là một Giáo hội chỉ chăm
chăm vật lộn với hai hay ba vấn đề. Để được người trẻ tin cậy, có những lúc
Giáo hội cần lấy lại sự khiêm nhường của mình và biết lắng nghe, nhìn nhận rằng
những điều người ta nói có thể cung cấp ánh sáng nào đó giúp mình hiểu Tin Mừng
tốt hơn. Một Giáo hội luôn luôn phòng thủ, đánh mất sự khiêm nhường và không
còn biết lắng nghe, không chừa chỗ cho những chất vấn, thì Giáo hội ấy đánh mất
sự trẻ trung của mình và hóa thành một viện bảo tàng. Như vậy, làm sao Giáo hội
có thể đáp ứng những giấc mơ của người trẻ? Cho dù Giáo hội sở hữu sự thật của Tin
Mừng, thì điều đó không có nghĩa rằng Giáo hội nắm hiểu trọn vẹn Tin Mừng ấy;
đúng hơn, Giáo hội được mời gọi lớn lên mãi trong việc nắm hiểu kho báu vô tận
này. [16]
42.
Chẳng hạn, một Giáo hội quá lo sợ và quá trói buộc mình vào các cơ cấu có thể
khư khư dị ứng với các nỗ lực bảo vệ quyền phụ nữ, và lúc nào cũng chỉ ra những
nguy hiểm và những sai lầm tiềm ẩn trong các yêu cầu đó. Trái lại, một Giáo hội
sống động có thể phản ứng bằng việc lưu tâm đến các yêu cầu của những phụ nữ
muốn tìm kiếm sự công bằng và bình đẳng nhiều hơn. Một Giáo hội sống động có
thể nhìn ngược về lịch sử và nhận ra phần trách nhiệm của mình trong chủ nghĩa
nam giới chuyên quyền thống trị, trong những hình thức khác nhau của nô lệ hóa,
lạm dụng và bạo lực giới tính. Với cái nhìn này, Giáo hội có thể ủng hộ lời kêu
gọi tôn trọng nữ quyền, và mạnh mẽ hỗ trợ cho sự tương nhượng nhiều hơn nữa
giữa nam và nữ, trong khi vẫn không nhắm mắt đồng thuận với mọi điều mà một số
nhóm nữ quyền nêu ra. Trong tinh thần này, Thượng hội đồng muốn xác nhận lại
rằng Giáo hội cam kết “chống lại mọi sự kỳ thị và bạo lực liên quan đến giới
tính”. [17] Đó là lời đáp trả của một Giáo hội vẫn tiếp tục trẻ trung, chấp
nhận bị thách thức, và được thúc đẩy bởi các cảm xúc của người trẻ.
Maria,
người phụ nữ trẻ ở Nadarét
43. Đức
Maria chiếu sáng ở con tim Giáo hội. Ngài là kiểu mẫu tuyệt hảo cho một Giáo
hội trẻ trung muốn đi theo Đức Kitô với nhiệt tâm và sự mềm mỏng. Khi còn rất
trẻ, Maria đã đón nhận thông điệp của thiên sứ, ngài không sợ nêu ra các câu
hỏi (x. Lc 1,34). Với trái tim và tâm hồn rộng mở, ngài đáp: “Này đây, tôi là
nữ tỳ của Đức Chúa” (Lc 1,38).
44.
“Chúng ta mãi còn kinh ngạc trước sức mạnh của tiếng ‘xin vâng’ nơi cô gái trẻ
Maria, sức mạnh trong lời thưa ‘hãy thực hiện điều đó’ mà Maria nói với vị
thiên sứ. Đây không phải là sự chấp nhận thuần túy thụ động hay bị bắt buộc,
hay một tiếng ‘vâng’ vu vơ, kiểu như nói: ‘Ờ, thì ta cứ thử xem sao’. Maria
không nói như vậy, không ‘cứ thử xem sao’. Ngài rất kiên quyết; ngài ý thức cái
giá phải trả, và ngài nói ‘xin vâng’ không chút do dự. Đây là tiếng ‘xin vâng’
của một người đã sẵn sàng dấn thân, một người sẵn sàng mạo hiểm, sẵn sàng đặt
cược tất cả những gì mình có, mà không có gì chắc chắn hơn ngoài việc biết rằng
mình nhận một lời hứa. Vì vậy cha muốn hỏi mỗi người trong các con: Các con có
thấy mình là người mang một lời hứa không? Lời hứa nào đang có trong lòng tôi
mà tôi có thể nhận lấy? Sứ mạng của Đức Maria hẳn là không dễ dàng, nhưng các
thách đố phía trước không phải là lý do để thoái thác. Mọi sự dĩ nhiên sẽ rất
phức tạp, nhưng không giống như trường hợp sự nhút nhát làm tê liệt chúng ta do
nghĩ rằng chẳng có gì được thấy rõ ràng hay chắc chắn. Maria không mua bảo
hiểm! Ngài mạo hiểm, và vì thế ngài rất mạnh mẽ, ngài là một ‘người tác động’,
‘người tác động’ của Thiên Chúa. Tiếng ‘xin vâng’ của Maria và lòng khát khao
phục vụ của ngài thì mạnh hơn bất cứ sự nghi ngờ hay khó khăn nào”. [18]
45.
Không lẩn tránh cũng không ảo tưởng, “Maria sát cánh bên đau khổ của Con mình;
ngài nâng đỡ Con bằng ánh mắt nhìn và che chở Con bằng trái tim. Ngài chia sẻ
đau khổ của Con, nhưng không bị đè bẹp bởi đau khổ ấy. Maria là người phụ nữ
mạnh mẽ thưa tiếng ‘xin vâng’, là người nâng đỡ và đồng hành, bao bọc và che
chở. Ngài là người canh giữ xuất sắc niềm hy vọng… Chúng ta học từ ngài để biết
nói ‘vâng’ với sự kiên nhẫn bất khuất và năng lực sáng tạo của những ai luôn
kiên cường sẵn sàng bắt đầu lại”. [19]
46.
Maria là một phụ nữ trẻ với tâm hồn tràn ngập niềm vui (x. Lc 1,47), đôi mắt
ngài – phản chiếu ánh sáng của Chúa Thánh Thần – nhìn đời sống với đức tin và
lưu giữ mọi sự trong trái tim trẻ trung của ngài (x. Lc 2,19.51). Ngài năng
động, sẵn sàng mau mắn lên đường khi biết rằng người chị họ cần đến mình. Ngài
không loay hoay với các kế hoạch riêng của mình, nhưng ra đi “vội vã” đến miền
đồi núi ấy (Lc 1,39).
47. Khi
đứa con bé bỏng của mình cần sự bảo vệ, Maria trẩy đi cùng với Giuse đến một xứ
sở xa xôi (x. Mt 2,13-14). Ngài cũng có mặt với các môn đệ khi chờ đợi được
tuôn đổ Thánh Thần (x. Cv 1,14). Trong sự hiện diện của ngài, một Giáo hội trẻ
trung được khai sinh, khi các tông đồ lên đường để sinh hạ một thế giới mới (x.
Cv 2,4-11).
48.
Ngày nay, Đức Maria là Mẹ chăm sóc chúng ta, con cái ngài, trên hành trình cuộc
đời vốn thường gặp mệt mỏi và quẫn bách, lo sao để ánh sáng hy vọng không bị
dập tắt. Vì đó là ước vọng của chúng ta: ước mong ánh sáng hy vọng không bao
giờ lụi tàn. Đức Maria, Mẹ chúng ta, coi sóc đoàn dân lữ hành này: một dân non
trẻ mà ngài yêu thương, một dân kiếm tìm ngài trong cõi tâm an tĩnh của mình ở
giữa muôn náo động, giữa những tiếng nói huyên thiên và những chia trí trong
cuộc hành trình. Nhưng dưới ánh nhìn của Mẹ, chỉ có sự thinh lặng lấp đầy hy
vọng. Vì thế Đức Maria không ngừng soi sáng tuổi trẻ của chúng ta.
Các
thánh trẻ
49. Giữa
lòng Giáo hội có rất nhiều vị thánh trẻ, những người dâng hiến đời mình cho Đức
Kitô, đến mức nhiều người trong đó nhận cái chết tuẫn đạo. Các ngài là những
phản ảnh quí giá của Đức Kitô trẻ trung; chứng tá sáng ngời của các ngài khích
lệ và đánh thức chúng ta khỏi cơn mê. Thượng hội đồng nhấn mạnh rằng “nhiều vị
thánh trẻ đã cho phép các nét trẻ trung chiếu sáng trong tất cả vẻ đẹp của
chúng, và trong cuộc sống của mình, các ngài đã thực sự là những ngôn sứ đem
lại sự thay đổi. Mẫu gương của các ngài cho thấy rõ những gì mà người trẻ có
thể làm, một khi họ mở lòng ra sẵn sàng gặp gỡ Đức Kitô”. [20]
50.
“Xuyên qua sự thánh thiện của người trẻ, Giáo hội có thể làm tươi trẻ lại lòng
sốt mến thiêng liêng và khí thế tông đồ của mình. Dầu thơm thánh thiện lấy từ
đời sống tốt lành của vô số người trẻ có thể chữa lành các vết thương của Giáo
hội và của thế giới, đưa chúng ta trở về với sự viên mãn của tình yêu mà ta
luôn luôn được mời gọi: Các thánh trẻ thôi thúc chúng ta lấy lại tình yêu thuở
ban đầu (x. Kh 2,4)”. [21] Một số vị thánh đã không bao giờ đạt tới độ tuổi
trưởng thành, nhưng các ngài cho chúng ta thấy rằng có một cách khác nữa để
sống tuổi trẻ của chúng ta. Ta hãy nhìn lại ít nhất một số vị thánh qua dòng
lịch sử, mỗi người một cách, đã sống đời thánh thiện:
51. Vào
thế kỷ thứ ba, Thánh Sebastianô là một chỉ huy trẻ của Đội Cận Vệ Hoàng Đế.
Người ta kể rằng ngài thường xuyên nói về Đức Kitô và cố gắng giúp các đồng đội
mình trở lại đạo, đến mức ngài bị truyền lệnh phải bỏ đức tin của mình. Từ chối
tuân lệnh ấy, ngài bị bắn nhiều mũi tên, nhưng ngài sống sót và vẫn tiếp tục
bình tĩnh rao giảng về Đức Kitô. Cuối cùng, Sebastianô bị đánh đòn cho đến
chết.
52.
Thánh Phanxicô Assisi, khi còn rất trẻ với đầy những giấc mơ lớn, đã nghe tiếng
Chúa Giêsu mời gọi trở nên nghèo khó như Người và cải tổ Giáo hội bằng chứng tá
đời sống. Ngài đã hân hoan từ bỏ mọi sự, và nay trở thành vị thánh của tình
huynh đệ đại đồng, trở thành anh em của mọi người. Ngài ca ngợi Chúa vì công
trình tạo dựng của Chúa. Phanxicô qua đời năm 1226.
53.
Thánh Jeanne d’Arc sinh năm 1412. Ngài là một thiếu nữ nông dân, nhưng bất chấp
tuổi đời non nớt, ngài đã chiến đấu bảo vệ nước Pháp khỏi ngoại xâm. Bị hiểu
lầm về cách ứng xử, cách hành động và cách sống đức tin của mình, Jeanne bị
thiêu một cách dã man.
54.
Chân phước Anrê Phú Yên là một thanh niên Việt Nam vào thế kỷ 17. Ngài là một
giảng viên giáo lý và là trợ tá của các vị thừa sai. Ngài bị tống giam vì đức
tin, và vì cương quyết không từ bỏ đức tin, ngài đã bị giết. Anrê chết trong lúc
đang kêu Danh Thánh Giêsu.
55.
Trong cùng thế kỷ ấy, Thánh Kateri Tekakwitha, một cô gái trẻ thổ dân Bắc Mỹ,
bị bách hại vì đức tin của mình và trốn thoát, đã đi bộ hơn ba trăm cây số
trong vùng hoang địa. Kateri đã hiến mạng mình cho Thiên Chúa, và khi chết ngài
thốt lên: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa!”
56.
Thánh Đaminh Saviô phó dâng mọi đau khổ của mình cho Đức Maria. Khi Thánh Gioan
Bosco dạy ngài rằng sự thánh thiện đòi hỏi phải luôn vui tươi, ngài đã mở lòng
mình cho một niềm vui đầy sức lan tỏa. Ngài muốn gần gũi các bạn trẻ yếu ớt và
côi cút nhất của mình. Đaminh qua đời năm 1857, ở tuổi mười bốn, với lời này:
“Ôi, con đang cảm nhận một điều kỳ diệu biết bao!”
57.
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu sinh năm 1873. Khi mười lăm tuổi, ngài đã vượt qua
rất nhiều khó khăn, ngài thành công trong việc gia nhập tu viện Cát Minh.
Têrêsa sống con đường nhỏ, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của Chúa, và quyết
tâm dùng lời cầu nguyện của mình để thổi ngọn lửa tình yêu bùng cháy lên giữa
lòng Hội Thánh.
58.
Chân phước Ceferino Namuncurá là một chàng trai Argentina, con trai của thủ
lãnh một bộ tộc thổ dân vùng xa. Ngài trở thành một chủng sinh Salêdiên, tràn
ngập khát vọng trở về bộ tộc của mình, mang Đức Giêsu Kitô đến cho họ. Ceferino
mất năm 1905.
59.
Chân phước Isidore Bakanja là một giáo dân Congo đã làm chứng cho đức tin của
mình. Ngài bị hành hạ kéo dài vì đã giới thiệu Kitô giáo cho các bạn trẻ khác.
Tha thứ cho kẻ hành hình mình, Isidore mất năm 1909.
60.
Chân phước Pier Giorgio Frassati, mất năm 1925, “là một thanh niên đầy ắp niềm
vui có sức cuốn hút mọi sự, một niềm vui cũng có sức vượt qua nhiều khó khăn
trong cuộc đời ngài”. [22] Pier Giorgio nói rằng ngài muốn đáp lại tình yêu của
Chúa Giêsu mà ngài lãnh nhận khi rước lễ, bằng cách viếng thăm và giúp đỡ người
nghèo.
61.
Chân phước Marcel Callo là một thanh niên Pháp qua đời năm 1945. Marcel bị giam
trong một trại tập trung ở Áo, ở đó ngài đã củng cố các bạn tù của mình trong
đức tin, giữa cảnh lao động khổ sai khắc nghiệt.
62.
Chân phước trẻ Chiara Badano, mất năm 1990, “đã kinh nghiệm bằng cách nào nỗi
đớn đau có thể được biến đổi bởi tình yêu… Bí quyết để bình an và vui tươi
chính là việc ngài hoàn toàn tín thác vào Chúa và đón nhận căn bệnh của mình
như một diễn tả nhiệm mầu thánh ý Chúa, vì ơn ích cho mình và cho người khác”.
[23]
63.
Nguyện xin các vị ấy, và rất nhiều vị khác có lẽ âm thầm sống triệt để Tin
Mừng, chuyển cầu cho Giáo hội để Giáo hội có đầy những người trẻ vui tươi, can
đảm và nhiệt tâm dấn thân, những người có thể cống hiến cho thế giới những
chứng từ mới về sự thánh thiện.
***
CHƯƠNG
BA
CÁC CON
LÀ “HIỆN TẠI” CỦA THIÊN CHÚA
64. Sau
khi lướt qua Lời Chúa, chúng ta không thể duy chỉ nói rằng người trẻ là tương
lai của thế giới. Họ là hiện tại của thế giới; ngay lúc này đây, họ đang giúp
làm phong phú thế giới. Các bạn trẻ không còn là những trẻ con nữa. Họ đã tới
lúc bắt đầu đảm nhận nhiều trách nhiệm, chia sẻ với người lớn trong việc phát
triển gia đình, xã hội và Giáo hội. Tuy nhiên, thời đại đang thay đổi, khiến
chúng ta tự hỏi: Người trẻ hôm nay thực sự thích gì? Điều gì đang diễn ra trong
đời sống của họ?
Về mặt
tích cực
65.
Thượng hội đồng nhìn nhận rằng các thành viên trong Giáo hội không luôn luôn áp
dụng cách tiếp cận của Đức Giêsu. Thay vì chú ý lắng nghe người trẻ, “rất
thường có một xu hướng đưa ra những câu trả lời đóng gói sẵn và những giải pháp
tiền chế, mà không cho phép họ nêu lên những câu hỏi thực sự của họ, cũng không
đối mặt với những thách đố mà họ đề ra”. [24] Nhưng một khi Giáo hội gạt bỏ các
định kiến chật hẹp và nghiêm túc lắng nghe những người trẻ, thì sự thấu cảm này
sẽ làm cho Giáo hội nên phong phú, vì “nó cho phép người trẻ đóng góp cho cộng
đoàn, giúp cộng đoàn biết trân trọng những cảm thức mới và khảo sát những vấn
đề mới”. [25]
66.
Người lớn chúng ta có thể thường bị cám dỗ để liệt kê tất cả các vấn đề và các
nhược điểm của giới trẻ. Có lẽ một số người sẽ ủng hộ điều đó, cho rằng như vậy
chúng ta tỏ ra sắc sảo trong việc nhận định những khó khăn và những nguy hiểm.
Nhưng một thái độ như thế sẽ dẫn tới điều gì nếu không phải là xa cách hơn, ít
gần gũi hơn, và ít sự hỗ trợ nhau hơn?
67. Bất
cứ ai được kêu gọi trở thành một phụ huynh, mục tử hay người hướng dẫn của các
bạn trẻ thì phải có tầm nhìn xa, để biết trân trọng ngọn đèn còn leo lét cháy,
trân trọng cây lau mong manh dù bị dập vùi nhưng chưa đứt gãy (x. Is 42,3). Đó
là cái khả năng nhìn thấy đường đi nơi mà kẻ khác chỉ thấy các bức tường, khả
năng nhận ra tiềm năng nơi mà kẻ khác chỉ thấy hiểm họa. Đó là cách mà Thiên
Chúa Cha nhìn mọi sự; Ngài biết cách nâng niu nuôi dưỡng những hạt giống thiện
hảo trong trái tim những người trẻ. Vì thế tâm hồn mỗi người trẻ phải được xem
là “đất thánh”, nơi mang các hạt giống sự sống thần linh; chúng ta phải “cởi
giày ra” trước khi đến gần và bước sâu hơn vào Mầu nhiệm.
Nhiều
cách để trẻ trung
68. Hẳn
chúng ta có thể vẽ một bức tranh về giới trẻ ngày nay, nhưng trước hết tôi muốn
làm vang âm lại ghi nhận của các Nghị phụ Thượng hội đồng rằng “việc qui tụ
Thượng hội đồng đã bao gồm sự hiện diện và đóng góp của nhiều vùng khác nhau
trên thế giới, và đã bộc lộ vẻ đẹp của chúng ta xét như Giáo hội hoàn vũ. Trong
một bối cảnh ngày càng toàn cầu hóa, các Nghị phụ Thượng hội đồng mong muốn
nhấn mạnh đúng mức nhiều sự khác biệt về các bối cảnh và các nền văn hóa ấy,
ngay cả trong phạm vi mỗi quốc gia. Có nhiều thế giới của tuổi trẻ ngày nay,
đến nỗi tại một số nước người ta có khuynh hướng nói về ‘giới trẻ’ ở số nhiều.
Nhóm tuổi được quan niệm bởi Thượng hội đồng (16-29 tuổi) không biểu thị một
phạm trù thuần nhất, nhưng bao gồm các nhóm khác nhau, mỗi nhóm có kinh nghiệm
sống riêng của mình”. [26]
69.
Cũng từ một quan điểm nhân khẩu học, một số nước có nhiều người trẻ, trong khi
những nước khác có sinh suất rất thấp. “Một yếu tố phân biệt khác nữa, đó là
yếu tố lịch sử: có những quốc gia và lục địa thuộc truyền thống Kitô giáo cựu
trào, với nền văn hóa được ghi dấu sâu xa bởi một ký ức không thể bị thản nhiên
gạt bỏ, trong khi nhiều quốc gia và lục địa khác được đặc trưng bởi những
truyền thống tôn giáo khác, nơi mà sự hiện diện của Kitô giáo chỉ rất nhỏ nhoi
– và nhiều trường hợp chỉ mới hiện diện gần đây thôi. Ngoài ra, tại những nơi
khác, các cộng đoàn Kitô hữu và giới trẻ của các cộng đoàn ấy đang kinh nghiệm
sự bách hại”. [27] Cũng cần phải phân biệt giữa những người trẻ “được tiếp cận
ngày càng nhiều cơ hội do nền toàn cầu hóa cung ứng và những người trẻ sống
ngoài rìa xã hội hay tại các vùng thôn quê và nhận thấy mình bị gạt ra ngoài”.
[28]
70. Còn
nhiều sự khác biệt nữa, khó mà khảo sát ở đây. Dù sao, thiết tưởng không cần
phải có một phân tích rất chi tiết về người trẻ hôm nay, về đời sống và kinh
nghiệm của họ. Song tôi cũng không muốn bỏ qua thực tế ấy, vì thế tôi sẽ tổng
hợp vắn tắt một số đóng góp nhận được hồi trước Thượng hội đồng, và một số khác
tôi đã nghe từ các cuộc thảo luận.
Một số
kinh nghiệm của người trẻ
71.
Tuổi trẻ không phải là một cái gì để người ta phân tích cách trừu tượng. Thật
vậy, “tuổi trẻ” không tồn tại, chỉ tồn tại những người trẻ thôi, mỗi người với
thực tế đời sống của mình. Trong thế giới thay đổi rất nhanh chóng hôm nay,
nhiều cuộc đời ấy bị phơi sườn để hứng chịu đau khổ và bị dẫn dụ.
Sống
trong một thế giới khủng hoảng
72. Các
Nghị phụ Thượng hội đồng đau buồn ghi nhận rằng “nhiều người trẻ hôm nay sống
trong những vùng chiến sự và kinh nghiệm bạo lực dưới vô vàn hình thức: bắt
cóc, truy bức, tội phạm có tổ chức, buôn người, khai thác nô lệ và tình dục,
lợi dụng thời chiến để cưỡng hiếp, vân vân. Nhiều người trẻ khác, vì đức tin
của mình, phải đấu tranh để tìm chỗ của mình trong xã hội và phải chịu những
loại bách hại khác nhau, ngay cả bị thảm sát. Nhiều người trẻ khác, do bị ép
buộc hay do bởi không có chọn lựa nào khác, phải sống bằng việc phạm tội ác và
những hành động bạo lực: các binh sĩ trẻ em, các băng nhóm tội phạm vũ trang,
hoạt động buôn ma túy, khủng bố, vân vân. Tình trạng bạo lực này hủy hoại cuộc
đời nhiều người trẻ. Những sự lạm dụng và nghiện ngập, cùng với bạo lực và vọng
động, là một số trong những lý do đẩy người trẻ vào tù tội, với tỉ lệ cao hơn
được ghi nhận nơi một số nhóm sắc tộc và xã hội nào đó”. [29]
73.
Nhiều người trẻ khác bị lung lạc bởi các ý thức hệ, bị sử dụng và khai thác như
bia đỡ đạn hay như sức mạnh trấn áp để tiêu diệt, khủng bố hay hạ nhục những
người khác. Tệ hơn nữa, nhiều người trong họ rốt cục trở thành những con người
cá nhân chủ nghĩa, hay gây hấn và nghi ngờ người khác; bằng cách này, họ trở
thành một mục tiêu dễ dàng cho những sách lược bạo tàn của các nhóm chính trị
hay các thế lực kinh tế.
74.
“Con số còn đông đảo hơn nữa trên thế giới, đó là những người trẻ bị gạt ra rìa
cách này hay cách khác, và bị xã hội tẩy chay vì các lý do tôn giáo, sắc tộc
hay kinh tế. Chúng ta đừng quên hoàn cảnh khó khăn của các thanh niên thiếu nữ
thấy mình trong tình trạng mang thai, trong nạn phá thai, nạn dịch HIV, trong vô
số hình thức nghiện ngập (ma túy, cờ bạc, phim ảnh sách báo khiêu dâm, vân
vân), và thảm cảnh của các trẻ em đường phố không có nhà cửa, gia đình hay chỗ
dựa kinh tế”. [30] Đối với nữ giới, những hoàn cảnh này sẽ khó khăn và khổ sở
gấp đôi.
75. Là
Giáo hội, chúng ta không thể vô cảm trước những bi kịch ấy của các bạn trẻ.
Chúng ta không bao giờ được phép trơ lì trước các bi kịch ấy, vì bất cứ ai
không biết khóc thì không thể nào làm một người mẹ. Chúng ta muốn khóc lên để
chính xã hội có thể trở thành đúng nghĩa một người mẹ hơn, để thay vì giết
người thì xã hội có thể học biết cách sinh sản, trở thành một nơi hứa hẹn của
sự sống. Chúng ta khóc lên khi nghĩ về tất cả những người trẻ đã bị tước đi
mạng sống do nghèo đói và bạo lực, và chúng ta kêu gọi xã hội trở thành một
người mẹ ân cần hơn. Tất cả nỗi đau này không phai nhạt đi; nó còn đó với chúng
ta, vì thực tế nghiệt ngã không còn có thể bị che giấu được nữa. Điều tệ hại
nhất chúng ta có thể làm, đó là hùa theo cái tinh thần thế gian mà giải pháp
của nó duy chỉ là ru ngủ người trẻ với những thông điệp khác, với những bận tâm
khác, với những theo đuổi tầm thường vớ vẩn.
76. Có
lẽ “những ai trong chúng ta có một cuộc sống thoải mái dễ chịu thì sẽ không
biết khóc. Một số thực tế trong đời sống chỉ có thể được nhìn thấy bằng đôi mắt
từng đẫm lệ. Cha muốn mỗi người trong các con tự hỏi mình: Tôi có biết khóc
không? Tôi có biết khóc khi nhìn thấy một đứa trẻ bị đói, bị dính vào ma túy
hay bụi đời, vô gia cư, bị xã hội bỏ rơi, bạo hành hay khai thác như một nô lệ?
Hay tôi chỉ biết khóc cho mình, như những kẻ vùng vằng khóc đòi thứ gì đó
khác?” [31]. Các con hãy học để biết khóc cho tất cả những bạn trẻ kém may mắn
hơn mình. Khóc cũng là một diễn tả lòng thương xót và trắc ẩn. Nếu thấy nước
mắt mình không trào ra được, các con hãy xin Chúa ban cho mình ơn biết khóc
trước những khổ đau của tha nhân. Một khi các con có thể khóc, các con sẽ có
thể giúp đỡ người khác với cả tấm lòng.
77. Có
những lúc, nỗi đau nơi một số người trẻ thật xé lòng, một nỗi đau sâu thẳm
không thể diễn tả thành lời. Họ chỉ có thể nói với Chúa rằng họ đang đau khổ
nhiều lắm, rằng họ thật khó đứng vững, vì họ không còn tin vào ai nữa. Nhưng
trong lời cầu xin thống thiết đó, họ sẽ nghe vang vọng những lời của Đức Giêsu:
“Phúc cho ai than khóc, vì họ sẽ được an ủi” (Mt 5,4). Một số bạn trẻ nam nữ có
thể bước tới nhờ nghe lời hứa ấy của Chúa. Ước gì tất cả các bạn trẻ đang đau
khổ cảm nhận được sự gần gũi của một cộng đoàn Kitô hữu có sức làm hiện thực
lời hứa ấy bằng các hành động của mình, bằng sự bao bọc và sự trợ giúp cụ thể
của mình.
78. Quả
thực là những người nắm quyền lực có cung ứng sự trợ giúp nào đó, nhưng điều
này thường gắn với một cái giá cao. Tại nhiều nước nghèo, sự trợ giúp kinh tế
từ các nước giàu hơn hay từ các tổ chức quốc tế thường được ràng buộc với việc
chấp nhận các quan điểm của phương Tây về tính dục, về hôn nhân, về sự sống hay
về công bằng xã hội. Tình trạng thực dân ý thức hệ này có sức tàn phá đặc biệt
đối với người trẻ. Chúng ta cũng thấy cách mà một loại quảng cáo nào đó dạy cho
người trẻ thường xuyên không thỏa mãn, và đóng góp vào nền văn hóa vứt bỏ,
trong đó chính những người trẻ cuối cùng bị vứt bỏ.
79. Nền
văn hóa hiện nay khai thác hình ảnh của người trẻ. Vẻ đẹp được gắn kết với một
dáng vẻ trẻ trung, với những món mỹ phẩm che lấp đi dấu vết của thời gian. Thân
thể của người trẻ thường xuyên được quảng cáo như cách để bán các sản phẩm. Lý
tưởng của vẻ đẹp là nét trẻ, nhưng chúng ta cần nhận ra rằng điều này chẳng
liên quan bao nhiêu với người trẻ. Nó chỉ có nghĩa rằng những người lớn muốn
níu giữ nét trẻ cho mình, chứ không có nghĩa rằng họ tôn trọng, yêu thương và
chăm sóc người trẻ.
80. Một
số người trẻ “cảm thấy các truyền thống gia đình có tính đè nén ngột ngạt, và
họ thoát ly khỏi chúng do bị thúc đẩy bởi một nền văn hóa toàn cầu hóa vốn
nhiều khi bỏ mặc họ chới với không điểm tựa. Tại những vùng khác trên thế giới,
vấn đề không chỉ là xung đột thế hệ giữa giới trẻ và người lớn, mà còn có tình
trạng ghẻ lạnh xa rời nhau. Đôi khi người lớn mất khả năng – hay thậm chí không
dám thử – truyền thụ những giá trị căn bản của đời sống, hoặc giả họ cố gắng
bắt chước giới trẻ, và như thế là đảo ngược mối tương quan giữa các thế hệ. Mối
tương quan giữa giới trẻ và người lớn như vậy có nguy cơ dừng lại ở bình diện
tâm cảm, không đụng chạm gì đến các phương diện giáo dục và văn hóa”. [32] Thật
tai hại cho giới trẻ biết bao, dù một số người không nhận ra điều này! Chính
người trẻ đã cho biết rằng tình trạng ấy làm cho việc truyền thụ đức tin trở
nên vô cùng khó khăn “tại một số nước không có tự do biểu đạt, những nơi mà
người trẻ bị ngăn chặn tham dự vào đời sống Giáo hội”. [33]
Những
khao khát, những tổn thương, và những tìm kiếm
81.
Người trẻ ý thức rằng thân xác và tính dục có một tầm quan trọng thiết yếu cho
đời sống và cho tiến trình trưởng thành trong căn tính của họ. Nhưng trong một
thế giới thường xuyên tôn thờ tính dục, việc giữ gìn một mối tương quan lành
mạnh với thân xác mình và giữ một đời sống tình cảm yên ả thì không hề dễ dàng.
Vì lý do này và nhiều lý do khác, luân lý tính dục thường được thấy như một
nguồn gây “khó hiểu và dị ứng đối với Giáo hội, trong mức độ mà Giáo hội được
coi như một nơi phán xét và lên án”. Tuy nhiên, người trẻ cũng biểu lộ “một
khát vọng rõ ràng muốn thảo luận những vấn đề về sự khác biệt giữa căn tính nam
và nữ, về tính hỗ tương giữa hai giới, và về tình dục đồng giới”. [34]
82.
Trong thời đại chúng ta, “những tiến bộ trong khoa học và trong các công nghệ y
khoa-sinh học tác động mạnh mẽ trên những nhận thức về thân xác, dẫn tới ý
tưởng rằng thân xác có thể mở ra cho sự biến đổi không giới hạn. Khả năng can
thiệp vào ADN, khả năng đưa những yếu tố nhân tạo vào trong sinh vật (cyborgs)
và sự phát triển của các khoa thần kinh cho thấy một nguồn lực lớn lao, nhưng
đồng thời chúng cũng làm bật lên những vấn đề nghiêm trọng về nhân học và đạo
đức”. [35] Chúng có thể làm ta quên rằng sự sống là một quà tặng, và quên rằng
chúng ta là thụ tạo với những giới hạn cố hữu, rất dễ bị khai thác bởi những kẻ
nắm giữ sức mạnh công nghệ. [36] “Hơn nữa, nơi một số nhóm trẻ, có một xu thế
ngày càng tăng việc hành xử liều lĩnh, coi đó như một cách thăm dò chính mình,
tìm kiếm cảm giác mạnh và lôi cuốn sự chú ý… Những thực tế này – vốn đang hoành
hành nơi các thế hệ trẻ – là một chướng ngại trong tiến trình trưởng thành tự
nhiên của họ”. [37]
83.
Người trẻ cũng kinh nghiệm những bế tắc, những thất vọng và những ký ức đau đớn
sâu xa. Họ thường cảm thấy “nỗi đau của những thất bại trong quá khứ, những vỡ
mộng, những kinh nghiệm về sự phân biệt đối xử và bất công, về cảm giác mình
không được yêu thương và đón nhận”. Rồi, cũng “có những tổn thương luân lý, sự
đè nặng của những lỗi lầm trong quá khứ, và một mặc cảm tội lỗi vì mình đã phạm
các sai lầm”. [38] Giữa những thập giá này mà người trẻ phải mang vác, Đức
Giêsu cho thấy sự hiện diện của Người; Người trao cho họ tình bạn của Người, sự
đồng hành đầy sức an ủi và chữa lành của Người. Giáo hội muốn trở thành khí cụ
của Đức Giêsu trên con đường này, con đường dẫn đến sự chữa lành và sự bình an
nội tâm.
84. Nơi
một số người trẻ, chúng ta có thể nhận thấy một khát vọng Thiên Chúa, dù vẫn
còn mơ hồ và còn rất xa lạ với sự hiểu biết về vị Thiên Chúa của mặc khải. Nơi
những người trẻ khác, chúng ta có thể thoáng thấy một lý tưởng về tình huynh đệ
giữa con người, điều này không hề nhỏ nhoi chút nào. Nhiều bạn trẻ có một khát
vọng chân thành muốn phát triển các tài năng của mình để cống hiến một cái gì
đó cho đời. Nơi một số bạn trẻ, chúng ta thấy một sự nhạy cảm đặc biệt với nghệ
thuật, hay một khao khát hòa điệu với thiên nhiên. Có lẽ nơi một số khác, ta
thấy một mối quan tâm lớn đối với truyền thông. Nơi nhiều người trong họ, chúng
ta gặp một khát vọng sâu xa muốn sống đời mình một cách mới mẻ. Trong tất cả
những điều này, chúng ta có thể nhận ra những khởi điểm thật sự, những nguồn
lực nội tại đang chờ nhận được một lời kích hoạt, soi sáng và khích lệ.
85.
Thượng hội đồng quan tâm cách riêng tới ba lãnh vực có tầm quan trọng nhất. Ở
đây tôi muốn dẫn lại các đúc kết của Thượng hội đồng, với ý thức rằng các đúc
kết này mời gọi ta phân tích kỹ hơn và phát triển một khả năng đáp ứng thích
hợp và hữu hiệu hơn.
Môi
trường kỹ thuật số
86.
“Môi trường kỹ thuật số là đặc trưng của thế giới hiện đại. Những lãnh vực rộng
lớn của con người được đưa vào trong đó, một cách thông thường và liên tục. Vấn
đề không còn duy chỉ là ‘dùng’ các công cụ truyền thông, nhưng vấn đề là sống
trong một nền văn hóa kỹ thuật số cao độ vốn có một tác động sâu xa trên các ý
niệm về thời gian và không gian, trên việc chúng ta nhận hiểu chính mình, nhận
hiểu người khác và thế giới, và trên khả năng liên lạc, học tập, tiếp cận thông
tin và đi vào mối tương quan với người khác. Một cách tiếp cận thực tại thiên
về hình ảnh hơn là nghe và đọc đã ảnh hưởng đến cách người ta học tập cũng như
ảnh hưởng đến việc phát triển khiếu phê bình của họ”. [39]
87.
Internet và các mạng xã hội đã tạo ra một cách thức mới để truyền thông và
thiết lập tương quan. Chúng là “một quảng trường công cộng, nơi mà người trẻ
tiêu tốn phần lớn thời gian của mình và gặp gỡ người khác khá dễ dàng, cho dù
không phải ai cũng có cơ hội như nhau để tiếp cận nó, cách riêng tại một số
vùng trên thế giới. Chúng cung cấp một cơ hội phi thường để đối thoại, gặp gỡ
và trao đổi giữa người này và người khác, cũng như để tiếp cận thông tin và tri
thức. Hơn nữa, thế giới kỹ thuật số là một thế giới của việc dấn thân chính trị
xã hội và hoạt động dân sự, nó giúp phổ biến các thông tin độc lập, cung ứng sự
bảo vệ hữu hiệu cho những người yếu đuối nhất và lên tiếng công khai về những
vụ xâm phạm các quyền của họ. Tại nhiều quốc gia, internet và các mạng xã hội
đã làm nên một diễn đàn vững chắc để tiếp cận với người trẻ, cách riêng trong
các sáng kiến và các hoạt động mục vụ”. [40]
88.
Nhưng để hiểu hiện tượng này cách toàn diện, chúng ta cần nhận ra rằng cũng như
mọi thực tại con người, nó cũng có những giới hạn và khiếm khuyết. Thật không
lành mạnh nếu nhập nhằng đánh đồng sự truyền thông liên lạc với sự tiếp xúc
hoàn toàn ảo. Thật vậy, “môi trường kỹ thuật số cũng là một môi trường của sự
cô đơn, dẫn dụ, bóc lột và bạo lực, đến mức quá quắt như trường hợp các ‘web
đen’. Truyền thông kỹ thuật số có thể đặt người ta trước nguy cơ nghiện ngập,
cô lập và dần dần đánh mất sự tiếp xúc với thực tế cụ thể, làm bế tắc sự phát
triển các tương quan liên vị đích thực. Những hình thức bạo lực mới đang tràn
lan thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, chẳng hạn việc uy hiếp trên
mạng. Internet cũng là một kênh truyền bá khiêu dâm và khai thác người ta cho
những mục tiêu tình dục hay cho hoạt động cờ bạc”. [41]
89.
Không được quên rằng “có những lợi nhuận kinh tế khổng lồ vận hành trong thế
giới kỹ thuật số, nó có thể có những hình thức kiểm soát vừa rất tinh vi vừa
rất lan tràn, tạo ra cơ chế cho việc dẫn dụ lương tâm người ta và sự lừa mị
tiến trình dân chủ. Cách thế mà nhiều diễn đàn làm việc thường dẫn đến chỗ ủng
hộ sự gặp gỡ giữa những người có suy nghĩ giống nhau, tránh cho họ khỏi bị
tranh cãi. Những nhóm đóng kín này dễ tạo điều kiện cho sự lan truyền tin giả
và thông tin không đúng, kích động thành kiến và đố kỵ. Việc tuyên truyền tin
giả là sự thể hiện của một nền văn hóa đã đánh mất cảm thức sự thật, nó bóp méo
các sự thật để phục vụ cho lợi ích riêng. Thanh danh của các cá nhân bị lâm
nguy bởi những ‘phiên tòa rút gọn’ được tiến hành trên mạng. Giáo hội và các
mục tử của Giáo hội cũng không nằm ngoài ảnh hưởng của hiện tượng này”. [42]
90. Một
tài liệu chuẩn bị hội trước Thượng hội đồng, được thực hiện bởi ba trăm bạn trẻ
trên khắp thế giới, đã chỉ ra rằng “những mối tương quan trên mạng có thể trở
thành phi nhân. Không gian kỹ thuật số làm ta mờ mắt, không nhìn thấy tình
trạng dễ tổn thương của người khác, và nó ngăn cản ta phản tỉnh. Truyền thông
khiêu dâm, chẳng hạn, làm méo mó nhận thức của người trẻ về tính dục con người.
Công nghệ được dùng theo cách này tạo ra một thực tế hàm hồ có tính đánh lừa,
không quan tâm đến phẩm giá con người”. [43] Đối với nhiều người, việc chìm đắm
trong thế giới ảo dẫn tới một kiểu “di cư kỹ thuật số”, nó làm cho người ta rút
khỏi gia đình, rút khỏi các giá trị văn hóa và tôn giáo, để đi vào trong một
thế giới của cô đơn và tự dò dẫm, kết quả là họ cảm thấy bị bật rễ ngay cả dù
trong thực tế mình vẫn còn ở đó. Những lối sống mới và cuồng nhiệt của những
người trẻ muốn khẳng định tính cách của mình ngày nay đang đương đầu với một
thách đố mới: đó là việc tương tác với một thế giới thực và ảo mà họ bước vào
một mình, dường như họ đặt chân đến một lục địa chưa hề được khám phá. Người
trẻ hôm nay là những người trước hết phải thực hiện sự tổng hợp này giữa những
gì là cá vị, những gì là riêng biệt của mỗi nền văn hóa, và những gì là phổ
quát. Điều này có nghĩa họ phải tìm ra những cách thế để đi qua sự tiếp xúc ảo
và tiến đến sự liên lạc tốt đẹp và lành mạnh.
Di dân,
một kiểu thức của thời đại chúng ta
91. Làm
sao chúng ta có thể không nghĩ đến tất cả những người trẻ bị ảnh hưởng bởi
những làn sóng di dân? “Di dân, nhìn tổng quát, là một hiện tượng có tính cấu
trúc chứ không phải một trào lưu nhất thời. Nó có thể diễn ra trong một nước
hay giữa các nước khác nhau. Mối quan tâm của Giáo hội đặc biệt tập chú vào
những người chạy tránh chiến tranh, bạo lực, tránh sự bách hại vì lý do tôn
giáo hay chính trị, hay chạy tránh các thiên tai, bao gồm cả những tai họa do
sự biến đổi khí hậu, và chạy tránh tình trạng nghèo đói cùng cực. Nhiều người
trong họ còn rất trẻ. Nói chung, họ đang tìm kiếm các cơ hội cho bản thân và
cho gia đình. Họ mơ về một tương lai tốt đẹp hơn, và họ muốn tạo điều kiện để
đạt được tương lai ấy”. [44] Những người di dân “nhắc chúng ta về một khía cạnh
căn bản của đức tin chúng ta: chúng ta là ‘những khách ngoại kiều và những lưu
dân trên mặt đất này’ (Dt 11,13)”. [45]
92. Có
những di dân là những người “bị lôi kéo bởi văn hóa phương Tây, đôi khi với các
kỳ vọng thiếu thực tiễn đưa họ tới những thất vọng ê chề. Những con buôn vô lương
tâm, thường liên kết với các đường dây ma túy và vũ khí, khai thác sự yếu đuối
của người di dân, làm cho họ thường kinh nghiệm tình trạng bạo lực, buôn lậu,
lạm dụng tâm lý và thể lý, và vô vàn nỗi khổ không kể xiết trên hành trình của
họ. Chúng ta cũng không được bỏ qua tình trạng chênh vênh đặc biệt của những di
dân là những trẻ vị thành niên không có người đi theo, hay tình trạng của những
người bị buộc phải trải qua nhiều năm trong các trại tị nạn, hay những người bị
mắc kẹt lâu dài tại những nước trung chuyển, mà không có điều kiện để theo đuổi
việc học vấn hay sử dụng các năng khiếu của mình. Tại một số nước chủ nhà, hiện
tượng di dân gây ra nỗi sợ và sự cảnh giác, thường được kích động và khai thác
cho những mục đích chính trị. Điều này có thể dẫn tới một não trạng bài ngoại,
trong đó người ta đóng kín nơi chính mình, và điều này cần phải được giải quyết
dứt khoát”. [46]
93.
“Người di dân trẻ kinh nghiệm sự tách biệt khỏi quê quán mình, và cũng thường
kinh nghiệm một tình trạng trốc rễ tôn giáo và văn hóa. Sự phân mảnh cũng được
cảm thấy bởi các cộng đoàn mà họ bỏ lại phía sau, vì mất đi những nhân tố năng
động và có sức sáng tạo nhất của mình; sự phân mảnh cũng xảy ra cho các gia
đình, nhất là khi một hoặc cả hai cha mẹ là người di dân, để con cái lại nơi
quê quán. Giáo hội có một vai trò quan trọng trong tư cách là điểm tựa cho các
thành viên trẻ của những gia đình bị phân tán này. Tuy nhiên, câu chuyện di dân
cũng là câu chuyện gặp gỡ giữa các cá nhân và giữa các nền văn hóa. Đối với các
cộng đồng và các xã hội nơi người di dân đặt chân đến, họ đem lại một cơ hội
cho sự phong phú hóa và cho sự phát triển nhân văn toàn diện của mọi người. Từ
nhãn giới này, các sáng kiến tiếp đón – mà Giáo hội có liên can – sẽ có một vai
trò quan trọng; chúng có thể đem lại sức sống mới cho các cộng đoàn biết sử
dụng chúng”. [47]
94. “Vì
các Nghị phụ Thượng hội đồng đến từ những bối cảnh khác nhau, cuộc thảo luận về
di dân có được lợi điểm nhờ rất nhiều hướng tiếp cận đa dạng, nhất là từ những
nước di cư và những nước nhập cư. Mối ưu tư đặc biệt cũng được diễn tả bởi các
Giáo hội có những thành viên của mình cảm thấy bị buộc phải chạy tránh chiến
tranh và bách hại, và bởi những người khác khi nhìn những làn sóng di dân bắt
buộc như một mối đe dọa cho sự sống còn của mình. Chính sự kiện Giáo hội có thể
nhận lấy tất cả những nhãn giới đa dạng này cho phép Giáo hội đóng một vai trò
ngôn sứ trong xã hội trong liên hệ đến vấn đề di dân”. [48] Một cách đặc biệt,
cha khẩn khoản kêu gọi các bạn trẻ, các con đừng để mình bị lôi kéo bởi những
kẻ gài các con vào thế chống lại các bạn trẻ khác là những người mới đến xứ sở
mình, cũng như những kẻ thúc đẩy các con nhìn các bạn nhập cư như một mối đe
dọa và như những người không có cùng phẩm giá bất khả nhượng của mọi con người.
Chấm dứt
mọi hình thức lạm dụng
95. Gần
đây, có những lời kêu gọi khẩn thiết thúc giục chúng ta nghe tiếng than khóc
của các nạn nhân liên quan đến các loại lạm dụng khác nhau gây ra bởi một số
giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân. Những tội này gây ra cho các nạn nhân
của họ “những nỗi đau khổ có thể kéo dài cả đời và không một sự hối hận nào có
thể làm thuyên giảm được. Hiện tượng này lan rộng trong xã hội, nó có thể ảnh
hưởng đến Giáo hội và tạo nên một cản ngại nghiêm trọng cho sứ mạng của Giáo
hội”. [49]
96. Quả
thật, “nạn lạm dụng tình dục với trẻ vị thành niên hiện nay, cũng như trong
lịch sử, là một hiện tượng nơi mọi xã hội và mọi nền văn hóa”, nhất là trong
các gia đình và các cơ chế khác nhau; người ta biết đến tầm mức của nó chủ yếu
“nhờ những thay đổi trong công luận”. Vấn đề này, ngay cả dù có tính rộng khắp
và “ảnh hưởng nghiêm trọng đến các xã hội chúng ta xét như một toàn thể, thì nó
vẫn còn nguyên tính khủng khiếp của nó khi xảy ra trong lòng Giáo hội”. Thật
vậy, “trong sự phẫn nộ chính đáng của người ta, Giáo hội nhìn thấy phản ảnh cơn
giận của Thiên Chúa, Đấng bị phản bội và lăng nhục”. [50]
97.
“Thượng hội đồng tái xác nhận sự cam kết mạnh mẽ về việc áp dụng những biện
pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhằm tránh tái diễn [các tội ác], bắt đầu với việc
tuyển lựa và đào tạo những ai sẽ được ủy trao các công việc có tính trách nhiệm
và giáo dục”. [51] Đồng thời, phải lặp lại quyết tâm áp dụng “những biện pháp
và những hình phạt cần thiết”. [52] Và tất cả những điều này được làm với ân
sủng của Đức Kitô. Không thể có chuyện lùi bước.
98. “Có
nhiều hình thức lạm dụng: lạm dụng quyền lực, lạm dụng lương tâm, lạm dụng tình
dục và tiền bạc. Rõ ràng, những cách hành xử quyền bính dẫn tới tất cả những
lạm dụng ấy đều phải được loại trừ, và cần phải đấu tranh với sự vô trách nhiệm
và thiếu minh bạch trong khi xử lý nhiều vụ việc. Sự khao khát thống trị, tình
trạng thiếu đối thoại và thiếu minh bạch, những lối sống hai mặt, sự trống rỗng
tâm linh, những yếu kém về tâm lý, đều là mảnh đất cho sự thối nát hoành hành”.
[53] Tinh thần giáo sĩ trị là một cám dỗ thường xuyên nơi những linh mục nhìn
“sứ vụ mà họ lãnh nhận như một quyền lực để thể hiện, hơn là như một việc phục
vụ tự do và quảng đại mà họ cống hiến. Tinh thần giáo sĩ trị làm cho người ta
nghĩ rằng họ thuộc về một nhóm nắm giữ mọi câu trả lời và không còn cần phải
lắng nghe hay học hỏi gì cả”. [54] Thật rõ, tinh thần giáo sĩ trị như thế có
thể làm cho những người thánh hiến đánh mất lòng kính trọng đối với phẩm giá
thánh thiêng và bất khả nhượng của mỗi con người và sự tự do của họ.
99.
Cùng với các Nghị phụ Thượng hội đồng, tôi hết lòng biết ơn “những người đã có
can đảm báo cáo về những vụ việc xấu xa mà họ kinh nghiệm: họ giúp Giáo hội
biết điều gì đã xảy ra và hiểu rằng cần phải xử lý dứt khoát”. [55] Tôi cũng
đặc biệt biết ơn “sự dấn thân quảng đại của vô số giáo dân, linh mục, những
người nam nữ thánh hiến và các giám mục trung thành hiến thân mỗi ngày với sự
liêm khiết và nhiệt tâm phục vụ những người trẻ. Các nỗ lực của họ giống như
một cánh rừng mênh mông đang âm thầm lớn lên. Nhiều bạn trẻ hiện diện tại
Thượng hội đồng cũng diễn tả lòng tri ân đối với những người đã đồng hành với
họ, và họ nhấn mạnh rằng rất cần có những người lớn có thể phục vụ như điểm qui
chiếu cho họ”. [56]
100. Tạ
ơn Thiên Chúa, những kẻ phạm các tội ác khủng khiếp ấy không phải là thành phần
đa số các linh mục vốn là những người thi hành sứ vụ của mình cách trung tín và
quảng đại. Tôi kêu gọi các bạn trẻ hãy nhận cảm hứng từ đa số đông đảo này. Và
nếu các con thấy một linh mục trong tình trạng nguy hiểm, vì ngài đã đánh mất
niềm vui sứ vụ, hay tìm kiếm bù trừ tình cảm, hay đang lạc lối, thì các con hãy
nhắc ngài về sự cam kết của ngài với Thiên Chúa và dân chúng, nhắc ngài nhớ đến
Tin Mừng và khẩn nài ngài giữ vững con đường của mình. Bằng cách này, các con
đóng góp đáng kể cho một việc rất nền tảng, đó là, ngăn chặn những việc quái ác
này tiếp diễn. Đám mây đen này cũng thách đố tất cả các bạn trẻ yêu mến Đức
Giêsu Kitô và Giáo hội của Người: Các bạn trẻ có thể là một nguồn chữa trị đáng
kể nếu họ dùng khả năng lớn lao của mình để đem lại sự đổi mới, để khẩn nài
phải có chứng tá nhất quán, để tiếp tục ước mơ và thực hiện những ý tưởng mới
mẻ.
101.
Đây cũng không phải là tội lỗi duy nhất của các thành viên trong Giáo hội;
trong lịch sử lâu dài của Giáo hội không thiếu những bóng tối. Tội lỗi của
chúng ta sừng sững trước mắt mọi người; tất cả chúng được thấy quá rõ nơi những
vết nhăn in hằn trên khuôn mặt Giáo hội, là Mẹ và Thầy của chúng ta. Đã hai
ngàn năm, Giáo hội bước đi trên con đường lữ hành của mình, chia sẻ “những vui
mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng” [57] của toàn thể nhân loại. Giáo hội đã
bước đi như sự thật của mình, không hề có cuộc giải phẫu thẩm mỹ nào. Giáo hội
không sợ phơi trần tội lỗi của các thành viên – những tội lỗi mà một số người
trong Giáo hội có khi muốn che giấu – trước ánh sáng nóng bỏng của Tin Mừng vốn
có sức thanh tẩy. Giáo hội cũng không ngừng kêu lên mỗi ngày trong tâm tình ăn
năn: “Lạy Chúa, xin thương xót con theo lòng nhân hậu Chúa… tội lỗi con luôn ở
trước mặt con” (Tv 51,3.5). Tuy nhiên, chúng ta cũng không bao giờ quên rằng
chúng ta không được rời bỏ Mẹ của mình khi Mẹ bị tổn thương, nhưng đứng bên Mẹ,
để Mẹ có thể vận dụng mọi sức lực và khả năng mà luôn biết bắt đầu lại.
102. Ở
giữa bi kịch gây nhiều đau đớn cho chúng ta này, “Chúa Giêsu, Đấng không bao
giờ bỏ Giáo hội của Người, trao ban sức mạnh và phương tiện để Giáo hội cất
bước trên một nẻo đường mới”. [58] Với sự trợ giúp quí báu của người trẻ, thời
khắc đen tối này “có thể thật sự là cơ hội cho một cuộc canh tân đầy ý nghĩa”,
[59] đưa chúng ta vào một Lễ Hiện Xuống mới và khai mở một giai đoạn mới của sự
thanh luyện và thay đổi, giúp lấy lại sự trẻ trung của Giáo hội. Các bạn trẻ sẽ
càng giúp ích nhiều hơn nếu họ hoàn toàn ý thức mình thuộc về “đoàn Dân thánh
thiện và kiên trung của Thiên Chúa, được tác sinh và được làm linh hoạt bởi
Chúa Thánh Thần”, vì “chính Dân thánh này của Thiên Chúa sẽ giải thoát chúng ta
khỏi nạn dịch của tinh thần giáo sĩ trị vốn là mảnh đất màu mỡ cho tất cả những
điều kinh tởm ấy”. [60]
Một lối
thoát
103.
Trong chương này, tôi đã nhìn thực tế của giới trẻ trong thế giới ngày nay. Một
số khía cạnh khác sẽ được đề cập trong các chương sau. Như đã nói, tôi không có
ý bao quát mọi sự trong phân tích này. Tôi khuyến khích các cộng đoàn trân
trọng và nghiêm túc khảo sát hoàn cảnh của giới trẻ tại nơi của mình, để tìm ra
những cách thức thích hợp nhất mà cung cấp cho họ sự săn sóc mục vụ. Đồng thời,
tôi không muốn kết thúc chương này mà không ngỏ lời với mỗi người trong các bạn
trẻ.
104.
Cha muốn nhắc lại với các con tin vui mà chúng ta nhận như một quà tặng vào
buổi sáng Phục Sinh: đó là, trong tất cả những tình cảnh u ám và đớn đau mà
chúng ta đã đề cập, vẫn có một lối thoát. Chẳng hạn, quả thật là thế giới kỹ
thuật số có thể vây bủa các con trong nguy cơ của sự đóng kín nơi chính mình,
của sự cô lập và của lạc thú trống rỗng. Nhưng đừng quên rằng ở đây cũng có
những người trẻ cho thấy sự sáng tạo và thậm chí là kỳ tài. Đây là trường hợp
của Carlo Acutis, Tôi Tớ Chúa.
105.
Carlo ý thức rất rõ rằng tất cả phương tiện truyền thông, quảng cáo và mạng xã
hội có thể được người ta dùng để mê hoặc chúng ta, làm cho ta thấm nhiễm chủ
nghĩa tiêu thụ và mua sắm những món mới nhất trên thị trường, làm cho ta đắm
chìm trong tiêu khiển và kẹt cứng trong những điều tiêu cực. Nhưng Carlo biết
cách sử dụng công nghệ thông tin mới để truyền đạt Tin Mừng, để chuyển thông
các giá trị và vẻ đẹp.
106.
Carlo đã không dính vào cái bẫy ấy. Cậu thấy rằng nhiều bạn trẻ, vì muốn tỏ ra
độc đáo, cuối cùng chỉ giống như mọi người khác; họ chạy theo bất cứ gì mà
những kẻ có thế lực bày ra trước mắt mình, trong cơ chế của chủ nghĩa tiêu thụ
và của sự phân tán tâm trí. Như thế họ không phát huy những ơn huệ mà Chúa đã
ban cho mình; họ không cống hiến cho thế giới những khả năng độc đáo mà Thiên
Chúa ban tặng cho mỗi người chúng ta. Vì thế, Carlo nói: “Mỗi người được sinh
ra như một cái gì độc đáo, nhưng nhiều người rốt cục chết đi như những bản
sao”. Đừng để điều này xảy ra với các con!
107.
Đừng cho phép người ta cướp đi khỏi các con niềm vui và hy vọng, đừng để họ đầu
độc và biến các con thành nô lệ phục vụ cho những lợi ích của họ. Các con hãy
dám vượt lên trên chính mình, vì ‘mình là ai’ thì quan trọng hơn là ‘mình có
gì’. Của cải hay ngoại hình phỏng có giá trị gì nào? Các con có thể trở thành
điều mà Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo muốn, nếu các con nhận ra rằng mình được
mời gọi vươn lên. Hãy cầu xin sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần và tin tưởng nhắm
đến mục tiêu cao cả là sự thánh thiện. Bằng cách này, các con sẽ không trở
thành một bản sao. Các con sẽ thực sự là chính mình.
108. Để
được vậy, các con cần ý thức một sự thật căn bản: tuổi trẻ, đó không có nghĩa
là chạy theo những thú vui nhất thời và những thành công hời hợt. Nếu muốn cho
những năm tháng tuổi trẻ của các con đạt được ý nghĩa của nó trong đời, thì đó
phải là một thời gian của quảng đại dấn thân, hết lòng cống hiến, một thời gian
của những hy sinh không hề dễ dàng nhưng đem lại đầy hoa quả. Như một thi hào
diễn tả:
“Làm
sao được điều đã được,
nếu tiên vàn không mất điều đã
mất?
Làm sao thành công,
nếu không qua vất vả?
Để yêu bây giờ,
tôi phải từng đau,
Nhưng tôi biết mình đã đau cho
điều đáng đau,
và đã khóc cho điều đáng khóc.
Vì cuối cùng, tôi hiểu,
chẳng thể nào gặt trong hân
hoan,
nếu đã không từng gieo trong
nước mắt.
Cuối cùng, tôi hiểu,
hoa bừng nở trên cây kia
đang rút nhựa sống từ sâu dưới
đất”. [61]
109.
Nếu các con trẻ trong tuổi đời nhưng cảm thấy mình yếu nhược, rã rời hay vỡ
mộng, hãy xin Chúa Giêsu đổi mới các con. Có Người, luôn luôn có niềm hy vọng.
Các con cũng hãy xin như vậy nếu các con cảm thấy mình chìm ngập trong trụy
lạc, trong những thói xấu, trong tính ích kỷ hay những thú vui không lành mạnh.
Chúa Giêsu tràn đầy sức sống, Người muốn giúp làm cho tuổi trẻ của các con có giá
trị. Nhờ vậy, các con sẽ không tước mất của thế giới phần đóng góp mà chỉ mình
mới thực hiện được, trong tất cả nét độc đáo riêng của các con.
110.
Nhưng cha cũng muốn nhắc các con rằng “khi chúng ta sống tách rời khỏi người
khác, thì thật khó để chiến đấu chống lại nhục dục, chống lại những cạm bẫy và
cám dỗ của ma quỉ, cũng như tính ích kỷ của thế gian. Bị tấn công bởi quá nhiều
lực lôi kéo, chúng ta có thể trở nên quá cô lập, đánh mất cảm thức về thực tại
và sự trong sáng tâm hồn, và dễ dàng đầu hàng”. [62] Điều này đặc biệt đúng đối
với người trẻ, vì bất cứ khi nào các con liên kết với nhau, các con sẽ có sức
mạnh kỳ diệu. Bất cứ khi nào các con nhiệt tâm với đời sống cộng đoàn, các con
sẽ có khả năng hy sinh cho người khác và cho cộng đoàn. Trong khi đó, sự cô lập
sẽ rút cạn nghị lực của chúng ta và đặt chúng ta phơi sườn trước những sự dữ tệ
hại nhất của thời đại.
***
CHƯƠNG
BỐN
MỘT
THÔNG ĐIỆP TUYỆT VỜI CHO MỌI NGƯỜI TRẺ
111.
Giờ đây, bỏ qua mọi điều khác, cha muốn nói với các bạn trẻ về điều thiết yếu,
một điều mà chúng ta không bao giờ được bỏ qua. Đó là thông điệp chứa đựng
trong ba sự thật mà tất cả chúng ta phải lắng nghe luôn mãi.
Thiên
Chúa là tình yêu
112. Sự
thật đầu tiên cha muốn nói với mỗi người các con, đó là: “Thiên Chúa là tình
yêu”. Dù các con đã nghe rồi hay chưa nghe điều này, cha cũng muốn nhắc lại sự
thật ấy. Thiên Chúa yêu các con. Đừng bao giờ nghi nan, dù cho bất cứ gì xảy
đến với các con trong đời. Mọi lúc mọi nơi, các con luôn được yêu vô hạn.
113. Có
thể kinh nghiệm của các con về người cha không phải là kinh nghiệm tốt nhất.
Người cha trần thế của các con có thể xa cách hay hoàn toàn vắng mặt, có thể
khắc nghiệt và độc đoán. Hay có lẽ, đơn giản đó không phải là người cha mà các
con muốn. Cha không biết. Nhưng điều cha có thể nói với các con, với sự chắc
chắn tuyệt đối, đó là các con có thể tìm thấy sự an toàn trong vòng tay của Cha
trên trời, vị Thiên Chúa tự đầu tiên đã trao ban cho các con sự sống, và Ngài
vẫn tiếp tục trao ban như vậy mỗi phút giây. Ngài là sự nâng đỡ vững chắc cho
các con, nhưng các con cũng sẽ nhận ra rằng Ngài hoàn toàn tôn trọng tự do của
các con.
114.
Trong lời Thiên Chúa, chúng ta gặp thấy nhiều sự diễn tả về tình yêu của Ngài.
Dường như Ngài muốn tìm những cách khác nhau để bày tỏ tình yêu ấy, để cho với
ít nhất một trong những cách ấy Ngài có thể chạm đến trái tim các con. Chẳng
hạn, có những lúc Thiên Chúa nói về chính Ngài như một người cha trìu mến, chơi
với con cái mình: “Ta lôi kéo chúng với dây ân tình, với dải yêu thương. Với
chúng, Ta như những người nhấc con đỏ lên tận má mình” (Hs 11,4).
Có
những lúc khác, Thiên Chúa nói về chính Ngài như đầy ắp tình yêu của một người
mẹ, tình yêu tận tâm can đối với con cái làm cho người mẹ không thể quên hay bỏ
con mình: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa
con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, ta cũng chẳng
quên ngươi bao giờ” (Is 49,15).
Thiên
Chúa thậm chí so sánh chính ngài với một người tình đi xa đến mức ghi khắc
người mình yêu dấu trên bàn tay mình, luôn giữ khuôn mặt người ấy trước mặt:
“Này, Ta đã khắc ngươi trên bàn tay Ta!” (Is 49,16).
Cũng có
lúc Thiên Chúa nêu bật sức mạnh của tình yêu bất khuất của Ngài: “Núi có dời có
đổi, đồi có chuyển có lay, nhưng tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay
đổi, giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay” (Is 54,10).
Thiên
Chúa nói với ta rằng chúng ta đã được chờ đợi từ đời đời, vì không phải ngẫu
nhiên mà chúng ta đến trong thế giới này: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn
thuở; nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31,3).
Hay
Ngài cho ta biết rằng Ngài nhìn thấy nơi ta một vẻ đẹp mà không ai khác có thể
nhìn thấy: “Vì trước mắt Ta, ngươi thật quý giá, ngươi được Ta trân trọng và
mến thương” (Is 43,4).
Thiên
Chúa cũng cho ta biết rằng tình yêu của Ngài không ảm đạm, nhưng đầy niềm vui,
sôi trào lên bất cứ khi nào ta đón nhận tình yêu của Ngài: “Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì
ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi.
Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng” (Xp 3,17).
115.
Đối với Thiên Chúa, các con có giá trị; các con không tầm thường chút nào. Các
con thật quan trọng với Ngài, vì các con là công trình do tay Ngài làm ra. Đó
là lý do tại sao Ngài quan tâm đến các con, và Ngài nhìn các con với lòng
thương cảm. “Hãy tin tưởng vào ‘bộ nhớ’ của Thiên Chúa; ‘bộ nhớ’ của Ngài không
phải là một ‘ổ đĩa cứng’ có chức năng lưu trữ tất cả các dữ liệu của chúng ta.
‘Bộ nhớ’ của Ngài là một quả tim đầy trắc ẩn, một quả tim tìm thấy niềm vui khi
ấn nút xóa khỏi chúng ta mọi dấu vết của sự dữ”. [63] Ngài không lưu giữ dấu
vết những sai hỏng của các con, và Ngài luôn luôn giúp các con học bài học nào
đó ngay cả từ những lỗi lầm của các con. Bởi vì Ngài yêu các con. Hãy cố gắng
trầm lắng một chốc lát và cho phép mình cảm nhận tình yêu của Ngài. Hãy cố gắng
xua tan mọi tiếng ồn bên trong, và dành một tích tắc buông mình trong vòng tay
yêu thương của Ngài.
116.
Tình yêu của Thiên Chúa là “một tình yêu không lấn át hay bóp nghẹt, không loại
bỏ hay thờ ơ, không coi thường hay thống trị. Đó là tình yêu của Chúa chúng ta,
một tình yêu bền bỉ, tinh tế và đầy tôn trọng; một tình yêu tự do và giải
phóng, một tình yêu chữa lành và nâng dậy. Tình yêu của Chúa đỡ nâng lên hơn là
quật ngã, giao hòa hơn là cấm cách, mời gọi thay đổi hơn là lên án, hướng tới
tương lai hơn là nhìn về quá khứ”. [64]
117.
Khi Thiên Chúa yêu cầu các con điều gì đó, hay đơn giản đặt các con đối mặt với
các thách đố của đời sống, Ngài hy vọng rằng các con sẽ cho phép Ngài hỗ trợ,
giúp các con lớn lên. Thiên Chúa không khó chịu khi các con nêu cho Ngài những
câu hỏi của mình. Ngài chỉ ưu tư khi các con không nói chuyện với Ngài, khi các
con không mở lòng ra để đối thoại với Ngài. Thánh Kinh kể cho ta rằng Gia-cóp
chiến đấu với Thiên Chúa (x. St 32,25-31), nhưng điều đó không ngăn cản ông
kiên trì trong hành trình của mình. Chính Chúa thúc giục chúng ta: “Hãy đến, ta
cùng nhau tranh luận” (Is 1,18). Tình yêu của Thiên Chúa thì chân thực và cụ
thể đến nỗi nó mời gọi chúng ta đi vào một mối tương quan cởi mở và cuộc đối
thoại đầy hiệu quả. Hãy tìm kiếm sự gần gũi của Cha trên trời qua khuôn mặt yêu
thương của các chứng nhân can đảm của Ngài nơi trần gian này!
Đức
Kitô cứu độ các con
118. Sự
thật tuyệt vời thứ hai, đó là Đức Kitô, vì yêu thương, đã hiến mình trọn vẹn để
cứu độ các con. Đôi cánh tay Người dang ra trên thập giá là dấu hiệu hùng hồn
nhất cho thấy Người là một người bạn thực sự hết mình: “Người yêu thương những
kẻ thuộc về Người còn ở thế gian, Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).
Thánh
Phaolô nói rằng đời sống của ngài là một đời sống hoàn toàn tín thác vào tình
yêu thí mạng ấy: “Giờ đây tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã
yêu thương và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20).
119.
Nếu Đức Kitô đã dùng thập giá mà cứu chúng ta khỏi tội lỗi, thì chính Người hôm
nay tiếp tục cứu chuộc chúng ta bằng sức mạnh của sự qui phục hoàn toàn. Các
con hãy hướng nhìn thập giá, bám chặt lấy Người, cho phép Người cứu các con, vì
“những ai đón nhận ơn cứu độ của Người sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn
phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn”. [65] Và nếu các con phạm tội và lạc xa
Người, Người sẽ đến nâng các con dậy bằng sức mạnh của thập giá Người. Đừng bao
giờ quên rằng “Người tha thứ cho chúng ta bảy mươi lần bảy. Hết lần này đến lần
khác, Người vác chúng ta trên vai của Người. Không ai có thể tước đi phẩm giá
được ban cho chúng ta bởi tình yêu vô hạn chắc chắn này. Với một lòng trìu mến
không bao giờ làm ta thất vọng nhưng luôn luôn có sức phục hồi niềm vui của
chúng ta, Người giúp chúng ta có thể ngẩng đầu lên và bắt đầu lại”. [66]
120.
“Chúng ta được cứu độ bởi Đức Giêsu, vì Người yêu chúng ta và Người không thể
chống lại bản tính của Người. Dù có thể chúng ta làm vô số điều phản nghịch
Người, Người vẫn yêu thương và cứu chúng ta. Vì chỉ những gì được yêu thương
mới có thể được cứu độ. Chỉ những gì được đảm nhận mới có thể được biến đổi.
Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi vấn đề, mọi yếu đuối và sai phạm của chúng ta.
Chính xuyên qua những vấn đề, những yếu đuối và những sai phạm của chúng ta mà
Người muốn viết lên câu chuyện tình yêu này. Người ôm lấy đứa con đi hoang,
Người ôm lấy Phêrô sau khi ông chối Người, và Người vẫn luôn mãi ôm lấy chúng
ta sau mỗi lần chúng ta vấp ngã, để giúp chúng ta chỗi dậy và đứng vững. Bởi vì
sự sa ngã tệ hại nhất – các con hãy lưu ý điều này – sự sa ngã tệ hại nhất, sự
sa ngã có thể hủy diệt sự sống của chúng ta, đó là khi chúng ta cứ nằm vạ ra
đấy và không chấp nhận để mình được giúp đứng lên”. [67]
121. Sự
tha thứ và ơn cứu độ của Chúa không phải là điều chúng ta có thể mua được, ta
cũng không đạt được bằng những việc làm hay những cố gắng của mình. Chúa tha
thứ và giải thoát chúng ta mà không đòi trả giá nào. Sự hy sinh mạng sống của
Người trên thập giá thì lớn lao đến nỗi chúng ta không bao giờ có thể đáp đền
được, nhưng chỉ có thể đón nhận với lòng biết ơn vô hạn và với niềm vui vì mình
được yêu thương quá đỗi nhiều hơn mình có thể tưởng: “Chính Chúa yêu chúng ta
trước” (1Ga 4,19).
122.
Các bạn trẻ thân mến, các con được Chúa yêu dấu nhiều lắm, các con được cứu
chuộc bằng máu châu báu của Đức Kitô, nên chắc chắn các con quí giá lắm! Các
con là vô giá! Các con không thể bị bán rẻ! Xin đừng để mình bị ai mua. Đừng để
mình bị dụ dỗ. Đừng để mình bị nô lệ hóa bởi những hình thức thực dân ý thức hệ
đầu độc các con, mà kết quả là các con trở thành những nô lệ, những kẻ nghiện
ngập, những cuộc đời hư hỏng. Các con là vô giá. Các con phải luôn nhắc đi nhắc
lại điều này: Tôi không thể bị bán rẻ; không có giá nào mua được tôi cả. Tôi tự
do! Các con hãy say mê sự tự do này, sự tự do mà Đức Giêsu ban tặng”. [68]
123.
Hãy dán mắt vào đôi tay dang rộng của Đức Kitô chịu đóng đinh, hãy cho phép
mình được cứu, hết lần này đến lần khác, mãi mãi. Và khi các con đi xưng thú
tội lỗi của mình, hãy vững tin vào lòng thương xót của Chúa, vốn có sức giải
thoát các con khỏi ách tội lỗi. Hãy chiêm ngắm máu Người chảy ra với tình yêu
lớn lao như thế, và hãy cho phép mình được tẩy sạch bởi máu ấy. Bằng cách này,
các con có thể được tái sinh không ngừng và luôn luôn mới mẻ.
Đức
Kitô đang sống!
124.
Cuối cùng, có sự thật thứ ba, gắn liền với sự thật ở trên: Đức Kitô đang sống!
Chúng ta cần luôn tự nhắc mình điều này, vì ta dễ nhìn Đức Giêsu Kitô chỉ như
một mẫu gương tốt ở trong quá khứ xa xăm, như một ký ức, như một ai đó đã cứu
mình cách đây hai ngàn năm. Nhưng điều đó xem ra chẳng ích gì cho chúng ta: nó
không thay đổi gì nơi ta, nó không giải phóng ta. Đấng đổ đầy trên chúng ta ân
sủng của Người, Đấng giải phóng và biến đổi ta, chữa lành và an ủi ta, là Đấng
thực sự đang sống. Người là Đức Kitô, đã từ cõi chết sống lại, với đầy sự sống
và năng lực siêu nhiên, ở trong ánh sáng vô hạn. Vì thế Thánh Phaolô có thể
nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền”
(1Cr 15,17).
125. Đức
Kitô đang sống, nên Người có thể hiện diện trong đời sống các con mọi khoảnh
khắc, để ban ánh sáng chan hòa cho nó và xua đi mọi buồn phiền và cô đơn. Ngay
cả dù mọi người khác bỏ đi, thì Người vẫn ở đó, như người đã hứa: “Thầy ở với
anh em, cho đến tận cùng thời gian” (Mt 28,20). Người lấp đầy đời sống các con
với sự hiện diện vô hình của Người; các con đi bất cứ đâu, Người cũng chờ đón
các con ở đấy. Bởi vì Người không chỉ đã đến trong quá khứ, mà Người vẫn đến
với các con hôm nay và mọi ngày, mời gọi các con lên đường đi tới những chân
trời mới.
126.
Hãy chiêm ngắm Đức Giêsu rạng rỡ, tràn ngập niềm vui. Hãy mừng vui với Người
như với một người bạn đã chiến thắng. Người ta giết Người, giết Đấng Thánh,
người công chính, người vô tội, nhưng cuối cùng Người đã chiến thắng. Sự dữ
không có tiếng nói cuối cùng. Nó cũng không nắm quyền quyết định trong cuộc đời
các con, vì các con có một người bạn rất yêu thương các con và muốn chiến thắng
nơi các con. Đấng Cứu Độ của các con hằng sống.
127. Vì
Người hằng sống, nên chắc chắn rằng sự thiện sẽ khải thắng trên cuộc đời các
con, và mọi cuộc chiến đấu của chúng ta sẽ thực sự đáng giá. Và nếu vậy, chúng
ta có thể chấm dứt phàn nàn và hướng nhìn tương lai, vì với Người, điều này
luôn luôn có thể. Đó là sự chắc chắn mà chúng ta có được. Đức Giêsu hằng sống
muôn đời. Nếu chúng ta bám chặt lấy Người, chúng ta sẽ có sự sống, và sẽ được
bảo vệ khỏi những đe dọa của chết chóc và bạo lực, là những thứ có thể ập đến
trong đời ta.
128.
Mọi giải pháp khác sẽ bất cập và tạm bợ. Chúng có vẻ như hữu ích một lúc nào
đó, nhưng rồi chúng ta sẽ lại thấy mình chới với trước bão tố trong đời. Đàng
khác, với Đức Giêsu, tâm hồn chúng ta kinh nghiệm một sự an toàn có gốc rễ vững
chắc. Thánh Phaolô nói rằng ngài ước ao kết hợp với Đức Kitô để “được biết
Người và quyền năng sự Phục Sinh của Người” (Pl 3,10). Quyền năng ấy cũng sẽ
không ngừng được tỏ lộ trong đời sống các con, vì Người đến để cho các con được
sống, “và sống dồi dào” (Ga 10,10).
129.
Nếu trong tâm hồn mình các con có thể học biết trân trọng vẻ đẹp của sứ điệp
này, nếu các con sẵn lòng gặp gỡ Chúa, nếu các con sẵn lòng để cho Người yêu
thương và cứu các con, nếu các con có thể làm bạn với Người và bắt đầu trò
chuyện với Người, Đức Kitô hằng sống, về các thực tại trong cuộc đời mình, thì
các con sẽ có một kinh nghiệm sâu xa có thể nâng đỡ toàn bộ đời sống Kitô hữu
của các con. Các con sẽ có thể chia sẻ kinh nghiệm ấy với các bạn trẻ khác. Vì
“làm một Kitô hữu, đó không phải là kết quả của một lựa chọn đạo đức hay một ý
tưởng cao vời, nhưng là gặp gỡ một biến cố, một con người, vốn đem lại cho đời
sống một chân trời mới và một chiều hướng quyết định”. [69]
Thánh
Thần của sự sống
130.
Trong ba sự thật ấy – Thiên Chúa yêu thương các con; Đức Kitô là Đấng Cứu Độ
của các con; Người đang sống – chúng ta thấy Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu. Chúa
Cha và Chúa Con ở đâu thì Chúa Thánh Thần cũng ở đó. Ngài là Đấng lặng lẽ mở
lòng các con đón nhận sứ điệp này. Ngài giữ sống động niềm hy vọng ơn cứu độ
của chúng ta, và Ngài sẽ giúp các con lớn lên trong niềm vui nếu các con mở ra
đón nhận hoạt động của Ngài. Chúa Thánh Thần đổ đầy trái tim của Đức Kitô Phục
Sinh, và rồi chảy tràn vào đời sống các con. Khi các con đón nhận Thánh Thần,
Ngài kéo các con vào sâu hơn trong trái tim của Đức Kitô, nhờ đó các con có thể
lớn lên trong tình yêu của Người, trong sự sống và sức mạnh của Người.
131.
Hãy xin Chúa Thánh Thần hằng ngày giúp các con kinh nghiệm lại sứ điệp tuyệt
vời này. Tại sao không? Các con chẳng có gì để mất, và Ngài có thể thay đổi
cuộc đời các con, lấp đầy nó với ánh sáng và dẫn nó đi theo con đường tốt lành
hơn. Ngài chẳng lấy mất điều gì từ các con, nhưng giúp các con tìm thấy tất cả
những gì mình cần, bằng một cách thế tốt nhất có thể. Các con cần tình yêu,
đúng không? Các con sẽ không tìm thấy nó trong sự phóng đãng, trong việc dùng
những người khác, hay trong cố gắng chiếm đoạt và thống trị. Các con sẽ tìm
thấy nó theo một cách thế sẽ làm các con hạnh phúc đích thực. Các con đang kiếm
tìm những cảm giác mạnh, đúng không? Các con sẽ không kinh nghiệm chúng bằng
cách tích lũy mọi thứ đồ đạc vật chất, bằng cách tiêu tiền, săn đuổi miệt mài
những sự đời. Các cảm xúc mạnh mẽ sẽ xảy đến, bằng một cách thức đẹp hơn và ý
nghĩa hơn nhiều, nếu các con để mình được dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần.
132. Có
phải các con đang tìm kiếm đam mê? Như những câu thơ nào đó diễn tả: “Hãy yêu
đi (hay: Hãy cho phép mình được yêu đi)”, vì “không gì thực tiễn hơn là tìm
thấy Thiên Chúa, không gì thực tiễn hơn là yêu một cách dứt khoát và tuyệt đối.
Điều các con yêu, điều nắm trí tưởng tượng của các con, đó sẽ là điều chi phối
đến mọi sự. Nó sẽ quyết định về cái gì thúc đẩy các con thức dậy và ra khỏi
giường vào buổi sáng, về điều gì các con làm vào các buổi chiều, về cách mà các
con trải qua dịp cuối tuần, về những gì các con đọc, về những người các con
biết, về điều gì làm tan vỡ trái tim các con, và về điều gì làm các con rộn lên
niềm vui và lòng biết ơn. Hãy yêu, hãy tiếp tục yêu, và tình yêu ấy sẽ ấn định
mọi sự”. [70] Tình yêu này đối với Thiên Chúa, vốn có thể làm người ta tiếp cận
mọi sự trong đời sống với niềm đam mê, là điều hoàn toàn có thể, nhờ Thánh
Thần, vì “tình yêu Thiên Chúa đổ tràn trong tâm hồn chúng ta qua Thánh Thần
được ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
133.
Ngài là nguồn của sự trẻ trung trong ý nghĩa tốt nhất. Vì ai tin tưởng vào Chúa
thì “giống như cây trồng bên suối nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong; mùa
nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi” (Gr 17,8). Trong
khi “thanh niên sẽ mệt mỏi, nhọc nhằn” (Is 40,30), thì những người cậy trông Chúa
“sẽ được thêm sức mạnh, như thể chim bằng, họ tung cánh, họ chạy hoài mà không
mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân” (Is 40,31).
***
CHƯƠNG
NĂM
NHỮNG
NẺO ĐƯỜNG CỦA TUỔI TRẺ
134.
Đâu là ý nghĩa của việc sống những năm tháng tuổi trẻ của chúng ta trong ánh
sáng đầy sức biến đổi của Tin Mừng? Chúng ta cần nêu dấu hỏi này vì tuổi trẻ
không chỉ là một nguồn tự hào mà là một quà tặng của Thiên Chúa: “Tuổi trẻ là
một ơn lành, một phúc hạnh”. [71] Nó là một quà tặng mà chúng ta có thể phung
phí cách lãng xẹt, hoặc đón nhận với lòng biết ơn và sống tận lực.
135.
Thiên Chúa là Đấng trao ban tuổi trẻ, và Ngài hoạt động trong đời sống của mỗi
người trẻ. Tuổi trẻ là một thời gian phúc hạnh cho người trẻ, và là một ân ban
cho Giáo hội và cho thế giới. Nó là niềm vui, là một bài ca hy vọng và một sự
chúc phúc. Việc sống hết mình những năm tuổi trẻ của chúng ta đòi phải biết
nhìn thời gian này của cuộc đời như giá trị nơi chính nó, chứ không chỉ đơn
thuần là một bước chuyển tiếp ngắn dẫn tới tuổi trưởng thành.
Thời
của những giấc mơ và những quyết định
136.
Trong thời của Đức Giêsu, sự chuyển tiếp từ tuổi ấu thời là một bước quan trọng
trong đời sống, người ta hân hoan ăn mừng. Khi Đức Giêsu cứu sống đứa con gái
của người kia, Người nói về em là một “đứa trẻ” (Mc 5,39), nhưng rồi Người trực
tiếp gọi em là “thiếu nữ” (Mc 5,41). “Hỡi thiếu nữ, hãy chỗi dậy (talitha
cum)”, qua cách gọi này Người đặt cho em trách nhiệm nhiều hơn đối với đời
sống, mở ra trước em cánh cửa của tuổi trẻ.
137.
“Tuổi trẻ, xét như một giai đoạn phát triển nhân cách, được đánh dấu bằng những
ước mơ có sức tạo đà vận động, bằng những mối tương quan đạt được tính nhất
quán và sự quân bình ngày càng hơn, bằng những thử nghiệm, và bằng những chọn
lựa dần dần hình thành nên một kế hoạch đời sống. Tại giai đoạn này trong đời,
người trẻ được mời gọi tiến tới mà không cắt đứt khỏi các gốc rễ của mình, được
mời gọi tạo lập sự tự trị mà không rơi vào tình trạng cô lập”. [72]
138.
Tình yêu của Thiên Chúa và mối tương quan của chúng ta với Đức Kitô hằng sống
không hề ngăn cản chúng ta ước mơ; chúng không đòi ta thu hẹp các chân trời của
mình. Trái lại, tình yêu ấy nâng chúng ta lên, khích lệ và truyền cảm hứng cho
chúng ta để sống một đời sống tốt đẹp hơn. Phần lớn khát vọng trong trái tim
người trẻ có thể được đúc kết lại trong từ “khắc khoải”. Như Thánh Phaolô VI
nói: “Trong chính cảm giác không hài lòng mà các con thường kinh nghiệm…, có
tồn tại một tia sáng”. [73] Tình trạng không hài lòng đầy khắc khoải ấy, kết
hợp với sự nôn nao trước những chân trời mới mở ra, tạo nên một sự dũng cảm
giúp các con đứng lên và nhận trách nhiệm về một sứ mạng. Sự khắc khoải lành
mạnh đặc trưng của tuổi trẻ này tiếp tục ở lại trong mọi tâm hồn vẫn còn trẻ
trung, cởi mở và quảng đại. Niềm an bình nội tâm đích thực cùng tồn tại với cảm
giác không hài lòng sâu xa ấy. Như Thánh Augustinô nói: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng
nên chúng con cho Chúa, và tâm hồn chúng con còn khắc khoải cho tới khi nào tìm
được an nghỉ trong Chúa”. [74]
139.
Cách đây ít lâu, một người bạn hỏi tôi nhìn thấy gì nơi một người trẻ. Câu trả
lời của tôi là: “Tôi thấy một người đang tìm lối bước riêng của mình, một người
muốn bay trên hai bàn chân, một người đối diện với thế giới và hướng nhìn chân
trời với đôi mắt đong đầy tương lai, đầy hy vọng và cả ảo tưởng nữa. Một người
trẻ đứng trên hai bàn chân cũng như người trưởng thành, nhưng khác với người
trưởng thành, hai bàn chân người trẻ không đặt song song, mà một chân luôn luôn
ở phía trước, sẵn sàng lao tới. Họ luôn luôn lao về phía trước. Nói về người
trẻ là nói về triển vọng và nói về niềm vui. Người trẻ có nhiều nghị lực; họ có
thể nhìn về phía trước với niềm hy vọng. Một người trẻ là một triển vọng của
đời sống, hàm chứa một mức kiên định nào đó. Họ có đủ điên rồ để đánh lừa chính
mình, và có đủ năng lực phục hồi để vượt qua sự đánh lừa ấy”. [75]
140.
Một số người trẻ có thể không thích giai đoạn này trong đời sống, vì họ muốn
tiếp tục làm trẻ con hay muốn kéo dài vô tận tuổi thiếu niên của mình, thoái
thác việc phải đưa ra những quyết định. “Nỗi sợ tính dứt khoát, như thế, sẽ làm
phát sinh một loại tê liệt khiến người ta không thể quyết định. Nhưng tuổi trẻ
không thể bị đình hoãn. Nó là giai đoạn của những chọn lựa, và ở đây có hàm
chứa sự thú vị cũng như trách nhiệm lớn nhất của nó. Người trẻ đưa ra các quyết
định trong nghề nghiệp, trong các lãnh vực chính trị và xã hội, và trong những
mặt căn bản khác nữa vốn định hình cuộc đời của họ”. [76] Họ cũng đưa ra các
quyết định về tình yêu, về việc chọn bạn đời và thành lập một gia đình. Chúng
ta sẽ xem xét những vấn đề này kỹ hơn trong các chương cuối, khi đề cập đến các
ơn gọi cá nhân và việc phân định chúng.
141.
Nhưng đối lập với những niềm hy vọng và những ước mơ thôi thúc các quyết định
này, luôn luôn có mối cám dỗ phàn nàn và bỏ cuộc. “Chúng ta muốn nói đến những
người tôn thờ ‘nữ thần than thở’… Đó là một nữ thần dối trá, dẫn dụ các con vào
con đường sai lầm. Khi mọi sự dường như khựng lại và tê liệt, khi các vấn đề cá
nhân làm phiền chúng ta, và khi các vấn đề xã hội tỏ ra bế tắc, thì việc bỏ
cuộc vẫn không tốt đâu. Đức Giêsu là con đường: hãy đón Người vào ‘thuyền’ của
các con và ra khơi! Người là Chúa! Người biến đổi cách chúng ta nhìn cuộc sống.
Niềm tin vào Đức Giêsu dẫn tới niềm hy vọng to lớn hơn, cho ta một sự chắc chắn
không tựa trên các phẩm chất và năng khiếu của mình, nhưng tựa trên lời Thiên
Chúa, trên lời mời gọi đến từ Ngài. Đừng quá tính toán theo lối nhân loại, và
đừng lo lắng về những gì thách đố sự an toàn của các con, hãy ra khơi đến chỗ
nước sâu. Các con hãy ra khỏi chính mình”. [77]
142.
Hãy tiếp tục theo đuổi những niềm hy vọng và những ước mơ của các con. Nhưng
hãy cẩn thận về một cám dỗ có thể kéo chúng ta lại. Đó là sự lo âu. Lo âu có
thể chống lại chúng ta bằng cách làm chúng ta bỏ cuộc bất cứ khi nào không nhìn
thấy những kết quả ngay lập tức. Người ta chỉ đạt được những ước mơ đẹp nhất
xuyên qua hy vọng, kiên nhẫn và dấn thân, chứ không phải sự nóng vội. Đồng
thời, chúng ta không nên lưỡng lự, sợ phiêu lưu hay phạm sai lầm. Hãy tránh
tình trạng tê liệt của những người sống mà như chết, những người không thực sự
sống vì họ sợ mạo hiểm, sợ mắc sai lầm hay sợ kiên tâm trong những cam kết của
mình. Ngay cả dù các con phạm sai lầm, các con luôn luôn có thể đứng dậy và bắt
đầu lại, vì không ai có quyền cướp đi khỏi các con niềm hy vọng.
143.
Các bạn trẻ thân mến, các con hãy sống hữu hiệu nhất những năm tuổi trẻ của
mình. Đừng nhìn đời từ một ban công. Đừng lẫn lộn hạnh phúc với chiếc ghế bành,
hay sống đời sống các con sau một bức màn. Làm gì thì làm, đừng trở thành thê
thảm như một chiếc ô tô phế thải nghĩa địa! Cũng đừng như những chiếc xe đậu
trong bãi, nhưng hãy ước mơ thỏa chí và hãy đưa ra các quyết định tốt. Hãy mạo
hiểm, ngay cả dù điều đó có nghĩa là phạm sai lầm. Đừng đi qua đời sống một
cách vô cảm giác, hay tiếp cận thế giới như những khách du lịch. Hãy sôi nổi
lên! Hãy xua tan nỗi sợ vốn làm tê liệt các con, để các con không trở thành
những xác ướp trẻ. Hãy sống! Hãy dấn thân cho những gì tốt nhất trong đời sống!
Hãy mở cửa lồng, thoát ra và bay lên! Xin các con đừng về hưu sớm.
Một
khát vọng sống và kinh nghiệm
144.
Trong khi tiến về phía tương lai và các triển vọng của nó, người trẻ cũng có
một khao khát mãnh liệt muốn kinh nghiệm khoảnh khắc hiện tại, muốn tận dụng
tối đa các cơ hội mà đời sống trao cho. Thế giới của chúng ta ngập tràn vẻ đẹp!
Làm sao chúng ta có thể xem thường vô số tặng phẩm của Thiên Chúa?
145.
Trái ngược với điều mà nhiều người tưởng nghĩ, Chúa không muốn trấn áp những
khao khát về một đời sống dồi dào phong phú. Chúng ta hẳn nhớ những lời của một
hiền nhân trong Cựu Ước: “Con ơi, nếu có của, hãy làm cho đời con được tốt đẹp,
và tiến dâng lễ vật lên Đức Chúa sao cho xứng. Đừng từ chối không hưởng một
ngày vui, hoài bão của con, đừng để cho phần nào trôi đi mất” (Hc 14,11.14). Vị
Thiên Chúa đích thực là Đấng yêu thương các con, Ngài muốn các con hạnh phúc.
Vì thế, Thánh Kinh cũng chứa lời khuyên này cho người trẻ: “Này bạn thanh niên,
cứ vui hưởng tuổi xuân của bạn, và làm cho tâm hồn được hạnh phúc trong những
ngày còn trẻ… Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn” (Gv 11,9-10). Vì Thiên Chúa
“cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng” (1Tm 6,17).
146.
Làm sao Thiên Chúa có thể vui thích khi ai đó không có khả năng thuởng thức
những phúc ân nho nhỏ mỗi ngày, khi mắt ai đó bị che khuất và không nhìn thấy
những niềm vui thú đơn sơ ở khắp xung quanh ta? “Không ai tệ hơn kẻ làm khổ
chính mình” (Hc 14,6). Hoàn toàn khác với việc vồ vập những thú vui mới, là
điều ngăn cản ta tận hưởng khoảnh khắc hiện tại, chúng ta được mời gọi mở mắt
nhìn và dành một chốc lát để cảm nhận trọn vẹn mọi món quà bé nhỏ của đời sống
với lòng biết ơn.
147.
Thật rõ, lời Chúa mời gọi các con thuởng thức cái hiện tại, chứ không duy chỉ
chuẩn bị cho tương lai: “Đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo.
Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34). Nhưng điều này không giống như việc
dấn mình một cách vô trách nhiệm vào một cuộc sống phóng đãng, vốn chỉ đưa tới
sự trống rỗng và bất mãn dai dẳng. Đúng hơn, đó là sống trọn vẹn cái hiện tại,
dùng các năng lực của mình vào những điều tốt lành, vun xới tình huynh đệ, học
theo Đức Giêsu và tận dụng những niềm vui bé nhỏ của đời sống, vì đó là những
quà tặng của tình yêu Thiên Chúa.
148.
Hồng y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, khi bị cầm tù trong một trại tập trung,
đã từ chối việc thúc thủ để chỉ ngồi chờ ngày được phóng thích. Ngài đã chọn
“sống mỗi giây phút hiện tại, lấp đầy nó với tình yêu”. Ngài quyết định: “Tôi
sẽ tận dụng các cơ hội có được mỗi ngày; tôi sẽ chu toàn các việc bình thường
một cách phi thường”. [78] Khi các con làm việc để đạt được điều mình ước mơ,
hãy tận dụng mỗi ngày và sống hết mình, để mỗi khoảnh khắc đều đầy tràn yêu
thương. Ngày hôm nay của tuổi trẻ các con rất có thể là ngày cuối cùng, vì thế
rất đáng để nỗ lực sống nó một cách nồng nhiệt và trọn vẹn nhất.
149.
Điều này cũng có thể áp dụng cho những lúc khó khăn, những hoàn cảnh mà ta phải
kinh nghiệm đầy đủ thì mới học được thông điệp mà chúng có thể dạy mình. Như
các Giám mục Thụy Sĩ diễn tả: “Thiên Chúa ở đó, nơi mà chúng ta nghĩ rằng Ngài
bỏ chúng ta và chẳng còn hy vọng gì hơn về ơn cứu độ. Thật là nghịch lý, nhưng
đối với nhiều Kitô hữu, đau khổ và bóng tối đã trở thành… những nơi gặp gỡ
Thiên Chúa”. [79] Khát vọng sống hết mình và kinh nghiệm những điều mới mẻ cũng
được cảm nhận bởi nhiều người trẻ trong hoàn cảnh khiếm khuyết về thể lý, tâm
thần và giác quan. Dù có thể họ không luôn luôn có được cùng những kinh nghiệm
như những người khác, họ sở hữu những nguồn lực và những khả năng kỳ diệu
thường vượt xa trên mức bình thường. Chúa Giêsu ban cho họ những quà tặng khác,
mà cộng đoàn được mời gọi nhìn nhận và trân trọng, để họ có thể khám phá kế
hoạch yêu thương của Người cho mỗi người trong họ.
Trong
tình bạn với Đức Kitô
150. Dù
các con sống kinh nghiệm những năm tuổi trẻ của mình đến mức nào, các con cũng
sẽ không bao giờ hiểu được ý nghĩa sâu xa và đầy đủ nhất của nó, nếu các con
không gặp gỡ mỗi ngày với người bạn tốt nhất của mình, đó là Đức Giêsu.
151.
Tình bạn là một trong những quà tặng của cuộc sống và là một ân sủng của Thiên
Chúa. Qua các bạn hữu của chúng ta, Chúa tinh luyện chúng ta và dẫn chúng ta
tới trưởng thành. Những người bạn trung thành, những người đứng bên ta trong
những thời khắc khó khăn, đó cũng là một phản ảnh tình yêu của Chúa, phản ảnh
sự hiện diện ân cần và khích lệ của Người trong đời sống chúng ta. Kinh nghiệm
tình bạn dạy chúng ta mở ra, hiểu và quan tâm đến người khác, đi ra khỏi tình
trạng cô lập ru ngủ của mình, và chia sẻ đời sống mình với người khác. Chính vì
vậy, “không có gì quí hơn một người bạn trung thành” (Hc 6,15).
152.
Tình bạn không phải là một tương quan hời hợt tạm bợ, nhưng là tương quan ổn
định, vững chắc, trung thành và nó chín muồi với thời gian. Đó là một mối tương
quan tâm cảm nối kết chúng ta lại với nhau, và một tình yêu thương quảng đại
thúc đẩy chúng ta tìm kiếm điều tốt lành cho bạn mình. Bạn hữu có thể rất khác
nhau, nhưng luôn luôn có những điểm chung kéo họ lại gần nhau trong cởi mở và
tin tưởng. [80]
153.
Tình bạn thật quan trọng đến nỗi Đức Giêsu gọi chính Người là một người bạn:
“Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga
15,15). Nhờ ân ban của Người, chúng ta được nâng lên để trở thành thật sự là
bạn hữu của Người. Với cùng tình yêu mà Đức Kitô đổ tràn trên chúng ta, chúng
ta có thể yêu mến Người để đáp lại, và chia sẻ tình yêu của Người với những
người khác, với hy vọng rằng họ cũng sẽ tham dự vào cộng đoàn thân hữu mà Người
đã thiết lập. Và cũng như Người đang sống sự sống Phục Sinh trong trọn vẹn vinh
phúc, thì chúng ta, về phần mình, có thể làm việc cách quảng đại để giúp xây dựng
vương quốc của Người trên thế giới này, bằng cách mang sứ điệp của Người, ánh
sáng của Người, và trên hết là tình yêu của Người cho người khác (x. Ga 15,16).
Các môn đệ đã nghe Đức Giêsu gọi họ là bạn hữu của Người. Đó là một lời mời gọi
không hề áp chế họ, nhưng nhẹ nhàng gọi mời sự tự do của họ. “Hãy đến mà xem”,
Đức Giêsu nói với họ như thế; vì thế “họ đến và xem nơi Người ở, và họ ở lại
với Người hôm ấy” (Ga 1,39). Sau cuộc gặp gỡ bất ngờ và cảm động ấy, họ đã bỏ
mọi sự và đi theo Người.
154.
Tình bạn với Đức Giêsu không thể bị gãy đổ. Người không bao giờ rời bỏ chúng
ta, ngay cả dù có những lúc dường như Người giữ thinh lặng. Khi chúng ta cần
Người, Người tỏ mình ra cho chúng ta (x. Gr 29,14); Người vẫn ở bên ta dù ta đi
tới đâu (x. Gs 1,9). Người không bao giờ phá vỡ giao ước của Người. Người chỉ
yêu cầu rằng chúng ta không bỏ Người: “Hãy ở lại trong Thầy” (Ga 15,4). Nhưng
cho dù chúng ta đi lạc khỏi Người, “Người vẫn trung thành, vì Người không thể
nào chối bỏ chính mình” (2Tm 2,13).
155.
Với một người bạn, chúng ta có thể nói và chia sẻ những bí mật sâu xa nhất. Với
Đức Giêsu cũng vậy, chúng ta luôn luôn có thể trò chuyện. Cầu nguyện vừa là một
thách đố vừa là một cuộc phiêu lưu. Và cuộc phiêu lưu ấy thú vị biết bao! Dần
dần, Đức Giêsu giúp ta trân trọng sự cao cả của Người và kéo ta lại gần Người
hơn. Việc cầu nguyện cho phép ta chia sẻ với Người mọi khía cạnh trong đời sống
mình, và an tâm nghỉ ngơi trong vòng tay của Người. Đồng thời, cầu nguyện giúp
ta tham dự vào chính sự sống và tình yêu của Người. Khi chúng ta cầu nguyện,
“chúng ta cởi mở mọi điều ta làm” cho Người, và chúng ta dành chỗ cho Người “để
Người có thể hành động, có thể đi vào, và có thể chiến thắng”. [81]
156.
Bằng việc cầu nguyện, chúng ta có thể thường xuyên kinh nghiệm sự gần gũi với
Người, nhiều hơn bất cứ gì mà chúng ta có thể kinh nghiệm với một người khác:
“Không còn là tôi sống, nhưng chính là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Đừng
tước mất khỏi tuổi trẻ các con tình bạn này. Các con có thể cảm nghiệm Người ở
bên mình không chỉ khi các con cầu nguyện, nhưng là mọi nơi mọi lúc. Hãy thử
kiếm Người, và các con sẽ có cái kinh nghiệm tuyệt vời là nhận ra rằng Người
luôn luôn ở bên các con. Đây là điều mà các môn đệ trên đường Emmau đã kinh
nghiệm, khi họ đang buồn bã lê bước trên đường, Đức Giêsu “đã đến gần và cùng
bước đi với họ” (Lc 24,25). Một vị thánh đã nhận định: “Kitô giáo không phải là
một bộ sưu tập các chân lý để tin, các qui tắc để tuân theo, hay các cấm đoán.
Nhìn theo cách ấy, nó làm ta nản lòng. Nhưng Kitô giáo là một Đấng yêu thương
tôi vô hạn, Người kêu gọi tình yêu của tôi. Kitô giáo là Đức Kitô”. [82]
157.
Đức Giêsu có thể đem lại cho tất cả mọi người trẻ trong Giáo hội một giấc mơ,
“một giấc mơ vĩ đại, một giấc mơ có chỗ cho mọi người. Vì giấc mơ ấy mà Đức
Giêsu đã hiến mạng sống mình trên thập giá, vì giấc mơ ấy mà Thánh Thần được đổ
tràn trong ngày lễ Ngũ Tuần và mang lửa đến cho trái tim của mọi người nam và
nữ, cho trái tim các con và trái tim của cha. Ngài mang lửa ấy đến cho trái tim
các con, trong hy vọng tìm được chỗ để nó lớn lên và lan tỏa. Giấc mơ ấy tên là
Giêsu, được Chúa Cha gieo trồng trong niềm tin rằng nó sẽ lớn lên và sống trong
mọi con tim. Giấc mơ cụ thể ấy là một Đấng, đang tràn ngập trong huyết quản
chúng ta, làm cho trái tim ta rộn rã nhảy mừng”. [83]
Lớn lên
và trưởng thành
158.
Nhiều bạn trẻ quan tâm đến thân thể mình, cố gắng tăng cường sức mạnh thể lý
hay cải thiện ngoại hình. Nhiều bạn trẻ khác cố gắng phát triển các tài năng và
tri thức của mình, để cảm thấy tự tin về mình hơn. Một số nhắm mục tiêu cao hơn
nữa, cố gắng để dấn thân hơn và lớn lên về mặt tâm linh. Thánh Gioan nói: “Ta
viết cho các con, những người trẻ, vì các con mạnh mẽ và lời Thiên Chúa ở lại
trong các con” (1Ga 2,14). Tìm kiếm Chúa, giữ lời Người, tín thác đời mình cho Người
và lớn lên trong các nhân đức: tất cả những điều này làm cho trái tim các con
nên mạnh mẽ. Đó là lý do các con cần giữ sự nối kết với Đức Giêsu, giữ liên lạc
“online” với Người, vì nếu chỉ với nỗ lực và trí tuệ của riêng mình, các con sẽ
không lớn lên trong hạnh phúc và thánh thiện được đâu. Giống như các con cố
gắng để không mất nối kết internet, hãy bảo đảm rằng các con luôn nối kết với
Chúa. Điều này có nghĩa là đừng ngắt cuộc đối thoại, nhưng lắng nghe Người,
chia sẻ đời sống các con với Người, và bất cứ khi nào các con không rõ mình nên
làm gì, thì hãy hỏi Người: “Chúa Giêsu ơi, Chúa sẽ làm gì trong trường hợp của
con?”. [84]
159.
Cha hy vọng rằng các con sẽ đủ nghiêm túc với chính mình để cố gắng lớn lên về
tâm linh. Bên cạnh tất cả những điều thú vị của tuổi trẻ, cũng có vẻ đẹp của
việc tìm kiếm “sự công chính, đức tin, tình yêu và an bình” (2Tm 2,22). Điều
này không đòi phải đánh mất gì trong tính cách phóng khoáng, sự dũng cảm, nồng
nhiệt và dịu dàng của các con. Trở nên một người trưởng thành không có nghĩa là
các con phải bỏ những gì tốt nhất của giai đoạn này trong đời sống các con. Vì
nếu vậy, sẽ đến ngày Chúa khiển trách các con: “Ta nhớ lại lòng trung nghĩa của
ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi khi ngươi mới thành hôn, lúc ngươi theo
Ta trong sa mạc” (Gr 2,2).
160.
Những người trưởng thành cũng phải chín chắn hơn mà không đánh mất các giá trị
của tuổi trẻ. Mỗi giai đoạn của đời sống là một ơn phúc thường hằng, với giá
trị vững bền của nó. Kinh nghiệm về một tuổi trẻ được sống tốt luôn luôn còn đó
trong tâm hồn chúng ta. Nó tiếp tục lớn lên và sinh hoa trái ở tuổi trưởng
thành. Người trẻ thường được lôi cuốn bởi một chân trời vô hạn mở ra trước mắt
họ. [85] Đời sống của người trưởng thành, với những sự an toàn và tiện nghi của
nó, có thể có nguy cơ kéo lùi chân trời này, và đánh mất niềm phấn khích của
tuổi trẻ. Rất nên xảy ra điều ngược lại: khi chúng ta trưởng thành, trở nên già
hơn và ‘cứng nếp’ hơn trong đời sống, chúng ta đừng bao giờ đánh mất sự nồng
nhiệt và cởi mở đối với một thực tại bao giờ cũng rộng lớn hơn. Tại mỗi phút
giây trong đời sống, chúng ta có thể làm mới lại nét tươi trẻ của mình. Khi tôi
bắt đầu sứ vụ sứ vụ giáo hoàng, Chúa đã mở rộng các chân trời của tôi và ban
cho tôi một nét trẻ trung mới. Điều tương tự có thể xảy ra với một đôi vợ chồng
đã cưới nhau nhiều năm, hay với một đan sĩ trong đan viện của mình. Có những
thứ mà chúng ta cần buông bỏ theo thời gian, nhưng tiến trình trưởng thành có
thể cùng vận hành với một ngọn lửa không ngừng được thắp lại, với một trái tim
mãi trẻ trung.
161.
Già đi hơn có nghĩa là gìn giữ và nâng niu những gì quí nhất của tuổi trẻ chúng
ta, nhưng nó cũng đòi phải thanh luyện những gì không tốt và đón nhận những ân
ban mới mẻ của Thiên Chúa, để ta có thể phát triển những gì thực sự quan trọng.
Có những lúc, một mặc cảm tự ti nào đó có thể làm cho các con không lưu tâm đến
những yếu nhược của mình, điều này có thể cản trở tiến trình trưởng thành của
các con. Thay vào đó, hãy cho phép mình đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, vì
Ngài yêu các con như sự thật của các con. Ngài quí trọng các con, nhưng Ngài
cũng không ngừng trao ban thêm cho các con: thêm tình bạn, thêm sốt sắng trong
cầu nguyện, thêm khao khát lời Ngài, thêm ước ao đón nhận Chúa Kitô trong Thánh
Thể, thêm khát vọng sống Tin Mừng của Người, thêm sức mạnh bên trong, thêm bình
an và niềm vui thiêng liêng.
162.
Nhưng cha cũng muốn nhắc các con rằng các con sẽ không nên thánh và tìm thấy sự
viên mãn bằng cách sao chép những người khác. Bắt chước các thánh không có
nghĩa là sao chép lối sống của các ngài và cách các ngài sống thánh thiện: “có
một số chứng từ được thấy là hữu ích và truyền cảm hứng, nhưng chúng ta không
được kỳ vọng sao chép, vì như vậy ta có thể đi trệch khỏi nẻo đường thánh thiện
riêng mà Chúa nhắm cho chúng ta”. [86] Các con phải khám phá mình là ai và khai
triển nẻo đường nên thánh của riêng mình, dù cho những người khác nói hay nghĩ
gì đi nữa. Nên thánh có nghĩa là trở nên chính mình đầy đủ hơn, trở nên điều mà
Chúa đã mong muốn ước mơ và sáng tạo, chứ không phải một bản sao. Đời sống các
con phải là một sự khơi động có tính ngôn sứ cho người khác, và ghi dấu trên
thế giới này, dấu vết độc đáo mà chỉ các con mới để lại được. Đàng khác, nếu
các con chỉ đơn giản sao chép người khác, các con sẽ tước mất khỏi cõi thế này
– và tước mất của cả thiên đàng nữa – một cái gì đó mà không ai khác có thể
trao hiến. Cha nghĩ đến thánh Gioan Thánh Giá, ngài đã viết trong Khúc Linh Ca
rằng mọi người nên rút ra từ lời khuyên linh đạo của ngài “theo cách riêng của
mình”, [87] vì vị Thiên Chúa duy nhất muốn biểu lộ ân sủng của Ngài “cho người
ta mỗi người mỗi cách”. [88]
Các nẻo
đường huynh đệ
163. Sự
trưởng thành tâm linh của các con được diễn tả trước hết qua sự trưởng thành
trong tình yêu xót thương, quảng đại và huynh đệ. Thánh Phaolô cầu nguyện: “Xin
Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng
thêm đậm đà thắm thiết” (1Tx 3,12). Kỳ diệu biết bao cái kinh nghiệm “xuất thần
ngây ngất” này khi đi ra khỏi chính mình và tìm kiếm điều thiện hảo cho người
khác, ngay cả dù phải hiến mạng sống mình.
164.
Khi một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa được gọi là “xuất thần”, đó là vì nó rứt
chúng ta ra khỏi mình, nâng chúng ta lên và làm tràn ngập chúng ta với tình yêu
và vẻ đẹp của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta cũng có thể kinh nghiệm xuất thần khi
nhận ra nơi người khác vẻ đẹp giấu ẩn của họ, phẩm giá và sự cao cả của họ
trong tư cách là những hình ảnh của Thiên Chúa và là con cái của Cha trên trời.
Chúa Thánh Thần muốn thúc đẩy ta ra khỏi chính mình, đón nhận người khác trong
yêu thương, và tìm kiếm thiện ích cho họ. Vì thế, điều luôn luôn tốt hơn, đó là
sống đức tin cùng với nhau, diễn tả tình yêu thương của chúng ta bằng việc sống
trong cộng đoàn và chia sẻ với các bạn trẻ khác tình cảm của mình, thời giờ,
đức tin và những lo lắng của mình. Giáo hội cung ứng nhiều khả năng để sống đức
tin trong cộng đoàn, vì mọi sự sẽ dễ hơn khi chúng ta cùng làm với nhau.
165.
Những tổn thương mà các con kinh nghiệm có thể cám dỗ các con rút lui khỏi
người khác, quay lại nơi chính mình và nuôi dưỡng những cảm xúc oán giận, nhưng
đừng bao giờ ngưng lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi tha thứ. Các giám mục ở Rwanda
diễn tả rất hay: “Để hòa giải với một người, trước hết bạn phải nhìn thấy điều
tốt lành nơi người ấy, điều tốt lành mà Thiên Chúa nhắm khi tạo nên người ấy…
Điều này đòi phải cố gắng để phân biệt giữa điều xúc phạm và người xúc phạm;
nghĩa là các con ghét sự xúc phạm mà người đó đã gây ra, nhưng các con yêu
thương người đó bất chấp sự yếu đuối của họ, vì nơi người đó các con thấy hình
ảnh của Thiên Chúa”. [89]
166. Có
những lúc tất cả các năng lực tuổi trẻ chúng ta, những ước mơ và lòng hăng hái
có thể tàn lụi vì chúng ta bị cám dỗ chựng lại nơi chính mình, nơi các vấn đề
của mình, nơi các cảm giác tổn thương và những dằn vặt của mình. Đừng để điều
này xảy ra với các con! Các con sẽ già đi trước tuổi đấy. Mỗi lứa tuổi có nét
đẹp của nó, và những năm tháng tuổi trẻ chúng ta cần phải được đánh dấu bằng
những lý tưởng cùng nhau chia sẻ, những hy vọng và những ước mơ, những chân
trời thênh thang mà chúng ta có thể cùng nhau chiêm nghiệm.
167.
Thiên Chúa yêu quí niềm vui của người trẻ. Ngài đặc biệt muốn họ tham dự trong
niềm vui hiệp thông huynh đệ, niềm vui lớn lao được cảm nhận bởi những ai biết
chia sẻ cho người khác, vì “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). “Thiên
Chúa yêu thương những ai vui vẻ dâng hiến” (2Cr 9,7). Tình huynh đệ sẽ gia tăng
gấp bội khả năng của chúng ta trong kinh nghiệm niềm vui, vì nó làm cho chúng
ta hoan hỉ với điều tốt lành của người khác: “Hãy vui với người vui, khóc với
người khóc” (Rm 12,15). Ước gì tính cách hồn nhiên trẻ trung của các con ngày
càng thể hiện nơi tình yêu thương huynh đệ và nơi thái độ luôn sẵn sàng để tha
thứ, để sống quảng đại và xây dựng cộng đoàn. Như một ngạn ngữ Phi châu nói:
“Muốn đi nhanh, hãy đi một mình; còn nếu muốn đi xa, bạn hãy đi với người
khác”. Chúng ta đừng để mình bị đánh cắp tình huynh đệ.
Trẻ
trung và dấn thân
168. Có
những lúc, nhìn thấy một thế giới đầy bạo lực và ích kỷ, người trẻ có thể bị
cám dỗ rút lui vào trong những nhóm nhỏ, tránh xa những thách đố và những vấn
đề mà đời sống đặt ra trong xã hội và trong cả thế giới. Họ có thể cảm thấy
rằng họ đang kinh nghiệm tình huynh đệ và yêu thương, nhưng cái nhóm nhỏ của họ
thực ra không gì hơn là một sự nới rộng chính cái tôi của họ. Càng nghiêm trọng
hơn nữa nếu họ nghĩ về ơn gọi của giáo dân duy chỉ như một hình thức phục vụ
bên trong Giáo hội: phục vụ trong tư cách là người đọc sách, lễ sinh, giảng
viên giáo lý, vân vân… Họ quên rằng ơn gọi giáo dân trước hết được định hướng
về đức ái trong gia đình và đức ái trong khung cảnh chính trị và xã hội. Đó là
một cam kết cụ thể và dựa trên đức tin, nhằm xây dựng một xã hội mới. Nó đòi
người ta sống giữa lòng xã hội và thế giới để mang Tin Mừng cho khắp nơi, để
góp phần thăng tiến hòa bình, ổn định, công lý, nhân quyền và lòng nhân ái, và
qua đó mở rộng Nước Thiên Chúa trên thế giới này.
169.
Cha kêu gọi các bạn trẻ vượt quá những nhóm nhỏ của mình để xây dựng “tình
huynh đệ trong xã hội, trong đó mọi người đều phục vụ thiện ích chung. Đàng
khác, sự hiềm khích sẽ tàn phá. Các gia đình bị tàn phá bởi hiềm khích. Các
quốc gia bị tàn phá bởi hiềm khích. Thế giới bị tàn phá bởi hiềm khích. Và sự
hiềm khích lớn nhất chính là chiến tranh. Ngày nay chúng ta thấy thế giới đang
tự tàn phá mình bằng chiến tranh… Vì thế, hãy tìm cách xây dựng tình huynh đệ
trong xã hội”. [90] Quả thật không dễ dàng, nó luôn có nghĩa rằng phải từ bỏ
điều gì đó và biết thương lượng, nhưng nếu ta làm thế để giúp ích, thì ta sẽ có
kinh nghiệm tuyệt vời về việc gạt qua những khác biệt để cùng nhau theo đuổi
điều cao quí hơn. Nếu nhờ những cố gắng dù nhỏ hay lớn của mình mà chúng ta có
thể tìm thấy những điểm đồng thuận ở giữa sự xung khắc, có thể xây dựng những
nhịp cầu và đem lại sự bình an cho mọi người, thì chúng ta sẽ kinh nghiệm cái
phép lạ của nền văn hóa gặp gỡ. Đây là một điều mà các bạn trẻ có thể mạnh dạn
và hăng say theo đuổi.
170.
Thượng hội đồng nhìn nhận rằng “dù bằng một cách khác với những thế hệ đi
trước, sự dấn thân xã hội là một nét đặc biệt của giới trẻ ngày nay. Trong khi
một số bạn trẻ thờ ơ, thì nhiều bạn trẻ khác sẵn sàng dấn thân vào những sáng
kiến làm việc thiện nguyện, tích cực trong tư cách công dân và tinh thần liên
đới xã hội. Họ cần được đồng hành và khích lệ để sử dụng các tài năng của mình
cách sáng tạo, và được khích lệ để đảm nhận các trách nhiệm của mình. Việc dấn
thân xã hội và trực tiếp đến với người nghèo vẫn là những cách nền tảng để tìm
thấy hay đào sâu đức tin cũng như phân định ơn gọi của mình… Cũng ghi nhận rằng
người trẻ được chuẩn bị để đi vào đời sống chính trị nhằm xây dựng công ích”.
[91]
171. Ngày
nay, tạ ơn Chúa, nhiều bạn trẻ trong các giáo xứ, các trường học, các phong
trào và các nhóm ở đại học thường đi ra, dành thời giờ gặp gỡ những người già
yếu, hoặc thăm viếng các khu xóm nghèo, hay đáp ứng các nhu cầu của người ta
xuyên qua những “buổi tối từ thiện”. Rất thường, họ nhận ra rằng ở đó họ nhận
nhiều hơn là cho. Chúng ta lớn lên trong khôn ngoan và trưởng thành khi chúng
ta dành thời giờ để tiếp xúc trực tiếp với nỗi đau khổ của người khác. Người
nghèo có một sự khôn ngoan giấu ẩn, và chỉ bằng vài lời nói, họ có thể giúp
chúng ta khám phá những giá trị thật bất ngờ.
172.
Nhiều người trẻ tham gia các chương trình xã hội xây dựng nhà cho người vô gia
cư, hay cải tạo các khu vực bị ô nhiễm, hoặc cung ứng những loại trợ giúp khác
nhau cho những người cần trợ giúp. Sẽ rất có ích nếu sự góp sức này có thể được
tổ chức và vận hành một cách ổn định hơn và với những mục tiêu rõ ràng, để càng
có hiệu quả hơn nữa. Các sinh viên đại học có thể áp dụng kiến thức của mình
một cách liên ngành, cùng với các bạn trẻ của các Giáo hội hay các tôn giáo
khác, để đề ra những giải pháp cho các vấn đề xã hội.
173.
Như trong phép lạ của Chúa Giêsu, bánh và cá được cung cấp bởi người trẻ sẽ có
thể hóa thành nhiều (x. Ga 6,4-13). Như trong dụ ngôn, những hạt giống bé nhỏ
được gieo bởi người trẻ sẽ có thể đem lại một vụ mùa to lớn (x. Mt
13,23.31-32). Tất cả những điều này nhận nguồn mạch sống động nơi Thánh Thể,
trong đó bánh và rượu của chúng ta được chuyển hóa để ban cho ta sự sống vĩnh
cửu. Người trẻ đối mặt với những thách đố to lớn và gay go. Với niềm tin vào
Chúa Phục Sinh, họ có thể đương đầu với các thách đố ấy trong sáng tạo và trong
hy vọng, luôn luôn sẵn sàng phục vụ, như những gia nhân tại đám cưới kia, là
những người cộng tác trong phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu mà chính họ cũng
không ngờ. Họ đã chẳng làm gì ngoài việc vâng theo lời của Đức Mẹ: “Người bảo
gì, hãy làm theo như vậy” (Ga 2,5). Nhân hậu, sáng tạo và hy vọng sẽ làm cho
đời sống triển nở.
174.
Cha muốn khích lệ tất cả các con trong nỗ lực này, vì cha biết rằng “trái tim
trẻ trung của các con muốn xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Cha vẫn theo dõi
những tường thuật tin tức về nhiều bạn trẻ trên khắp thế giới xuống đường để
bày tỏ khát vọng về một xã hội công bằng và huynh đệ hơn. Người trẻ xuống đường!
Người trẻ muốn trở thành những tác nhân chính đem lại sự thay đổi. Xin các con
đừng đùn đẩy cho ai khác vai trò tác nhân của thay đổi. Các con là những người
nắm giữ tương lai! Xuyên qua các con, tương lai đi vào trong thế giới. Cha cũng
mời gọi các con trở thành những tác nhân của cuộc chuyển hóa này. Các con nắm
giữ chìa khóa tương lai! Hãy tiếp tục chiến đấu chống lại sự thờ ơ, và đưa ra
câu trả lời của Kitô giáo cho các hỗn loạn chính trị và xã hội đang nổi lên tại
nhiều vùng trên thế giới. Cha kêu gọi các con xây dựng tương lai, phụng sự cho
một thế giới tốt đẹp hơn. Các bạn trẻ thân mến, cha xin các con đừng làm những
khách bàng quan trong cuộc sống. Các con hãy dấn thân! Đức Giêsu đã không hề là
một kẻ bàng quan. Người đã dấn thân. Các con đừng chỉ đứng xa xa, nhưng hãy lặn
ngụp vào trong thực tế của cuộc sống, như Đức Giêsu đã từng”. [92] Trên hết,
bằng cách này hay cách khác, các con hãy chiến đấu cho thiện ích chung, hãy
phục vụ người nghèo, hãy là những tác nhân chính của cuộc cách mạng yêu thương
và phục vụ, có khả năng đề kháng các căn bệnh của chủ nghĩa tiêu thụ và chủ
nghĩa cá nhân thiển cận.
Những
nhà thừa sai can đảm
175.
Được đổ đầy tình yêu của Đức Kitô, người trẻ được mời gọi làm chứng nhân Tin
Mừng bất cứ nơi đâu mà họ có mặt, bằng chính cách sống của mình. Thánh Alberto
Hurtado có lần nói rằng “trở thành một tông đồ không có nghĩa là đính một huy
hiệu trên ve áo; nó không phải là thuyết lý về sự thật nhưng là sống nó, là
hiện thân của nó, là được biến đổi trong Đức Kitô. Trở thành một tông đồ không
có nghĩa là cầm một bó đuốc trên tay, không sở hữu ánh sáng, nhưng chính là ánh
sáng… Tin Mừng không chỉ là một bài học, mà là một mẫu gương. Một thông điệp
trở thành một đời sống được sống hết mình”. ]93]
176.
Tầm quan trọng của chứng tá không hề muốn nói rằng chúng ta phải thinh lặng và
không lên tiếng. Chúng ta cũng cần nói về Đức Giêsu chứ, chúng ta cũng cần kể
cho người khác rằng Người đã trao cho chúng ta sức mạnh trong cuộc sống, rằng
chúng ta thích thú trò chuyện với Người, rằng chúng ta được di dưỡng nhờ suy
niệm lời của Người… Các bạn trẻ đừng để thế giới lôi kéo các con vào toàn những
thứ sai lầm và hời hợt. Hãy học lội ngược dòng, hãy học biết chia sẻ Đức Giêsu
và đức tin mà Người ban cho các con. Ước gì các con được đánh động bởi cùng sự
thúc đẩy bất khả kháng làm cho Thánh Phaolô đã thốt lên: “Khốn cho tôi, nếu tôi
không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16)!
177.
“Đức Giêsu sai chúng ta đi đâu?” Không có vành đai, không có giới hạn: Người
sai chúng ta đi khắp mọi nơi. Tin Mừng dành cho mọi người, không phải chỉ cho
một số người. Tin Mừng không chỉ dành cho những người có vẻ gần gũi chúng ta,
những người có vẻ dễ sẵn sàng đón nhận hơn. Tin Mừng là cho mọi người. Các con
đừng sợ ra đi đem Đức Kitô đến với mọi cảnh vực của đời sống, đến những vùng
ven của xã hội, thậm chí đến với những ai dường như xa xăm nhất và dửng dưng
nhất. Chúa tìm kiếm mọi người; Người muốn mọi người cảm nhận hơi ấm lòng thương
xót và tình yêu của Người”. [94] Người mời gọi chúng ta trở thành những nhà
thừa sai không biết sợ hãi ở bất cứ nơi nào chúng ta có mặt và trong bất cứ
khung cảnh nào mà mình thuộc về: ở khu xóm của chúng ta, ở trường học hay trong
lãnh vực thể thao hay trong đời sống xã hội, trong các công cuộc thiện nguyện
hay tại nơi làm việc. Bất cứ ở đâu, chúng ta cũng luôn có cơ hội để chia sẻ
niềm vui của Tin Mừng. Chúa cũng đi ra gặp mọi người theo cách đó. Người yêu
thương các con, vì các con là phương tiện nhờ đó Người có thể làm lan tỏa ánh
sáng và hy vọng của Người. Người tin tưởng vào sự can đảm, vào lòng dũng cảm và
hăng hái của các con.
178.
Các con đừng nghĩ rằng sứ mạng này thì nhẹ cân và dễ dàng. Một số người trẻ đã
hiến dâng cuộc đời mình cho công cuộc sứ mạng thừa sai. Như các giám mục Hàn
quốc nói: “Chúng ta hy vọng rằng chúng ta có thể là những hạt lúa mì và những
khí cụ cho ơn cứu độ của nhân loại, theo gương của các vị tuẫn đạo. Dù đức tin
của chúng ta chỉ nhỏ bé như một hạt cải, Thiên Chúa sẽ cho nó lớn lên và dùng
nó như một khí cụ cho công cuộc cứu độ của Ngài”. [95] Các bạn trẻ thân mến,
các con đừng đợi cho đến ngày mai mới đóng góp năng lực, sự gan dạ và sự sáng
tạo của các con cho việc thay đổi thế giới này. Tuổi trẻ của các con không phải
là một “thời gian chuyển tiếp”. Các con là hiện tại của Thiên Chúa, và Ngài
muốn các con sinh hoa quả. [96] Vì “chính khi cho là chúng ta đang nhận”. [97]
Cách tốt nhất để chuẩn bị cho một tương lai rạng rỡ, đó là kinh nghiệm cái hiện
tại này hết sức có thể, với tinh thần dấn thân và quảng đại.
***
CHƯƠNG
SÁU
NGƯỜI
TRẺ VỚI NHỮNG GỐC RỄ
179.
Đôi khi tôi nhìn những cây nho nhỏ xinh xinh, cành chúng vươn lên trời, cứ vươn
lên cao hơn mãi, và thấy chúng như một bài ca hy vọng. Rồi, sau một cơn bão,
tôi thấy chúng ngã gục và đã chết. Chúng thiếu những bộ rễ sâu. Chúng vươn cành
lên trong khi không được cắm chặt dưới đất, và vì thế chúng ngã gục ngay khi
thiên nhiên nổi cơn tam bành. Vì thế tôi ái ngại khi nhìn các bạn trẻ đôi khi
được khuyến khích xây dựng một tương lai mà không có gốc rễ, như thể thế giới
chỉ mới vừa xuất hiện! Vì “chúng ta không thể lớn lên nếu không có bộ rễ mạnh
nâng đỡ và giữ vững mình. Thật dễ trôi giạt, khi không có gì để níu bám vào”.
[98]
Đừng để
mình bị bật rễ
180.
Đây là một vấn đề quan trọng, và tôi muốn dành một chương ngắn để thảo luận về
nó. Nếu chúng ta trân trọng vấn đề này, chúng ta có thể phân biệt niềm vui của
tuổi trẻ với một sự sùng bái tuổi trẻ đầy sai lầm vốn có thể được lợi dụng để
lôi kéo và dẫn dụ người trẻ.
181.
Thử nghĩ, nếu có kẻ nào đó bảo giới trẻ phớt lờ lịch sử của họ, tẩy chay những
kinh nghiệm của các bậc tiền bối, xem thường quá khứ và hướng tới một tương lai
do y vẽ ra cho, thì như vậy há không dễ trở thành chuyện kẻ ấy lôi kéo giới trẻ
để họ chỉ làm điều mà y bảo họ làm đó sao? Kẻ ấy muốn các bạn trẻ nông cạn,
trốc rễ và nghi nan, để họ chỉ tin vào những lời hứa của y và hành động theo
các kế hoạch của y. Đó là cách mà các ý thức hệ khác nhau vận hành: chúng tàn
phá (hay làm phân rã) mọi sự khác biệt để chúng có thể cai trị mà không bị phản
kháng. Tuy nhiên để được vậy, chúng cần những người trẻ coi thường lịch sử,
những người vứt bỏ các kho tàng nhân bản và thiêng liêng thừa hưởng từ các thế
hệ đi trước, những người không ý thức gì về mọi sự xảy ra trước mình.
182.
Những bậc thầy lừa mị này cũng dùng một mánh khóe khác: sự sùng bái nét trẻ, đó
là thái độ loại trừ tất cả những gì không còn trẻ, xem đó như lỗi thời và đáng
khinh. Thân thể thanh xuân trở thành biểu tượng của sự sùng bái này; những gì
gắn với thân thể ấy sẽ được thần tượng hóa và thèm khát, trong khi bất cứ gì
không còn trẻ sẽ bị khinh miệt. Nhưng sự sùng bái nét trẻ này chỉ là một chiêu
bài rốt cục được thấy là hạ cấp đối với giới trẻ; nó tước sạch khỏi người trẻ
mọi giá trị thực, và sử dụng họ cho những lợi ích cá nhân, tài chánh hay chính
trị.
183.
Các bạn trẻ thân mến, các con đừng cho phép người ta khai thác tuổi trẻ của các
con để quảng bá một lối sống nông cạn vốn nhập nhằng lộn xộn giữa cái đẹp và
dáng vẻ bên ngoài. Các con hãy nhận ra rằng có vẻ đẹp nơi người lao động đang
trở về nhà với đầy bụi bẩn và vẻ phờ phạc, nhưng với niềm vui vì đã kiếm sống
cho gia đình mình. Có vẻ đẹp tuyệt vời nơi sự quây quần của một gia đình tại
bàn ăn, quảng đại chia sẻ cho nhau bữa ăn của mình. Có vẻ đẹp nơi người vợ, hơi
nhếch nhác và không còn trẻ nữa, vẫn tiếp tục chăm sóc người chồng ốm đau của
mình, dù cho sức khỏe của chính mình đang sa sút. Rất lâu sau khi đã trôi qua
mùa xuân của thuở mới yêu và tán tỉnh nhau, có vẻ đẹp nơi sự chung thủy của các
đôi vợ chồng vẫn yêu nhau trong mùa thu của cuộc đời, nơi những cụ già vẫn nắm
tay nhau khi sánh bước. Cũng có một vẻ đẹp, không liên quan gì đến ngoại hình
hay thời trang, nơi tất cả những người nam và nữ theo đuổi ơn gọi riêng của
mình với tình yêu, nơi sự phục vụ quên mình đối với cộng đoàn hay đất nước, nơi
công việc cam go là xây dựng một gia đình hạnh phúc, nơi sự nỗ lực không hề dễ
dàng để thăng tiến hòa điệu trong xã hội. Tìm kiếm, bộc lộ và biểu dương vẻ đẹp
này, giống như vẻ đẹp của Đức Kitô trên thập giá, đó là đặt nền tảng cho tình
liên đới xã hội đích thực và cho nền văn hóa gặp gỡ.
184.
Bên cạnh những mưu chước của một sự sùng bái nét trẻ và ngoại hình có tính lừa
mị, chúng ta cũng đang thấy những cố gắng quảng bá một linh đạo mà không có
Thiên Chúa, một sự nhạy cảm mà không có cộng đoàn hay không có mối quan tâm đối
với những người đau khổ, một nỗi sợ người nghèo vì xem người nghèo là mối nguy
hiểm, và rất nhiều hứa hẹn về một thiên đàng tương lai nhưng thiên đàng ấy hóa
ra ngày càng xa vời. Cha không muốn mời chào các con những điều như thế, và với
cả tấm lòng, cha xin các con đừng để mình bị tác động bởi ý thức hệ ấy. Nó
không làm các con trẻ trung hơn chút nào, nhưng thay và đó nó biến các con
thành nô lệ. Cha đề nghị một con đường khác, con đường của tự do, hăng hái,
sáng tạo và những chân trời mới, trong khi đồng thời chăm sóc những gốc rễ nuôi
dưỡng và nâng đỡ mình.
185. Về
phương diện này, tôi muốn ghi nhận rằng “nhiều Nghị phụ Thượng hội đồng đến từ
những bối cảnh không phải phương Tây đã chỉ ra rằng tại các quốc gia của mình
hiện tượng toàn cầu hóa đang mang đến những hình thức thực dân văn hóa, tách
người trẻ ra khỏi các gốc rễ tôn giáo và văn hóa của mình. Giáo hội cần quan
tâm đồng hành với những người trẻ này, để trong tiến trình, họ không đánh mất
cảm thức về những nét quí báu nhất trong căn tính của họ”. [99]
186.
Quả thật, ngày nay chúng ta nhìn thấy một khuynh hướng “đánh đồng” người trẻ,
làm mờ nhạt những gì là bản sắc riêng trong nguồn gốc và bối cảnh của họ, và
biến họ thành một dòng hàng hóa mới dễ uốn ép. Điều này sinh ra một sự tàn phá
văn hóa có tính nghiêm trọng không kém sự diệt chủng các loài động vật hay cây
cỏ. [100] Vì lý do này, khi nói chuyện với các bạn trẻ thổ dân qui tụ ở Panama,
tôi đã khuyến khích họ “chăm sóc các gốc rễ của mình, vì chính từ các gốc rễ ấy
mà các con nhận được sức mạnh giúp các con lớn lên, triển nở và sinh hoa trái”.
[101]
Tương
quan của các con với các bậc cao tuổi
187.
Tại Thượng hội đồng, chúng ta nghe rằng “người trẻ hướng nhìn tương lai và họ
đối diện cuộc sống với đầy sinh lực và sự năng động. Nhưng họ cũng bị cám dỗ…
để không chú ý mấy đến ký ức về quá khứ vốn là nguồn gốc của mình, nhất là về
những ân ban được thông chuyển cho họ qua các bậc cha mẹ, ông bà và kinh nghiệm
văn hóa của xã hội nơi mình sống. Việc giúp người trẻ khám phá những kho tàng
sống động của quá khứ, trân trọng ký ức về các kho tàng đó, và vận dụng chúng
cho các chọn lựa và các cơ hội của mình, đó là hành động yêu thương đích thực
đối với họ, nhằm giúp họ trưởng thành và biết đưa ra các quyết định”. [102]
188.
Lời Chúa khích lệ chúng ta giữ sự gần gũi với người già, để học hỏi từ kinh
nghiệm của các vị: “ Hãy có mặt khi các bậc lão thành hội họp, thấy vị nào khôn
ngoan, hãy hết lòng gắn bó… Thấy người học thức uyên thâm, con hãy năng lui
tới, chân đi mòn ngưỡng cửa nhà họ”. (Hc 6,34.36). Dù gì đi nữa, chiều dài
những tháng năm họ sống và tất cả những gì họ kinh nghiệm trong đời phải làm
cho chúng ta kính trọng họ: “Thấy người đầu bạc, ngươi phải đứng lên” (Lv
19,32). Vì “sức mạnh là niềm tự hào của giới thanh niên, mái đầu bạc là vinh dự
của hàng bô lão” (Cn 20,29).
189.
Thánh Kinh nói với chúng ta: “Hãy lắng nghe cha ngươi, người sinh ra ngươi, và
đừng khinh thường mẹ ngươi khi người già đi” (Cn 23,22). Lệnh truyền tôn kính
cha mẹ “là giới răn đầu tiên có kèm theo lời hứa” (Ep 6,2; x. Xh 20,12; Đnl
5,16; Lv 19,3), và lời hứa đó là: “để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên
mặt đất này” (Ep 6,3).
190.
Điều này không có nghĩa rằng phải đồng ý với bất cứ gì người lớn nói hay phải
chấp nhận mọi hành động của họ. Một người trẻ luôn cần có tinh thần phê bình.
Thánh Basiliô Cả khích lệ người trẻ quí trọng các tác giả Hy lạp cổ, nhưng chỉ
chấp nhận những gì tốt đẹp mà họ dạy. [103] Quả thật quan trọng việc cởi mở để
đón nhận một sự khôn ngoan được chuyển trao từ thế hệ này qua thế hệ khác, một
sự khôn ngoan gần gũi với thân phận con người và không nên bị quên lãng trước
những cái mới lạ của xã hội tiêu thụ và của thị trường.
191.
Thế giới đã và sẽ không bao giờ nhận được ích lợi gì khi xảy ra sự đoạn tuyệt
giữa các thế hệ. Đó chỉ là bài ca ru ngủ về một tương lai không có gốc rễ. Đó
là một sự dối gạt làm cho các con tin rằng chỉ những gì mới thì mới tốt và đẹp.
Khi có các tương quan giữa các thế hệ, một ký ức tập thể sẽ có mặt trong các
cộng đồng, và mỗi thế hệ đón nhận các giáo huấn từ các thế hệ đi trước mình,
rồi đến lượt mình sẽ chuyển trao cho các thế hệ theo sau. Bằng cách này, người
ta có được những khung tham chiếu để xây dựng một xã hội mới cách vững chắc.
Như có câu nói xưa: “Khi người trẻ có hiểu biết và người già có sức mạnh, thì
không có gì mà họ không thể đạt được”.
Các
giấc mơ và các thị kiến
192.
Lời ngôn sứ Giôen có chứa đựng một diễn tả điều này cách tuyệt vời: “Ta sẽ đổ
Thần Khí của Ta trên mọi xác phàm, con trai con gái các ngươi sẽ nói tiên tri,
thanh niên của các ngươi sẽ thấy thị kiến, và người già sẽ mơ những giấc mơ”
(Ge 3,1; x. Cv 2,17). Khi cả người trẻ lẫn người già đều mở ra đón nhận Thánh
Thần, thì đó là một sự kết hợp tuyệt diệu. Người già mơ những giấc mơ, người
trẻ thấy những thị kiến. Hai nhóm bổ sung cho nhau thế nào?
193.
Người cao tuổi có những giấc mơ được dệt từ các ký ức và hình ảnh mang dấu ấn
kinh nghiệm lâu năm của họ. Nếu người trẻ tìm kiếm gốc rễ nơi các giấc mơ ấy,
họ có thể sánh vai đi vào tương lai; họ có thể có những thị kiến mở rộng các
chân trời của mình và chỉ cho mình những nẻo đường mới. Nhưng nếu người già
không mơ, người trẻ sẽ mất khả năng nhìn chân trời.
194. Có
lẽ các bậc cha mẹ của chúng ta đã gìn giữ một ký ức có thể giúp chúng ta hình
dung giấc mơ mà các ông bà nội ngoại đã từng mơ về chúng ta. Tất cả chúng ta,
ngay cả trước khi sinh ra, đã nhận lãnh – như phúc lành từ các ông bà cụ – một
giấc mơ đong đầy tình yêu và hy vọng, giấc mơ về một đời sống tốt đẹp hơn. Nếu
đó không phải là ông bà nội ngoại, thì chắc hẳn các vị ông bà cố tổ trước đó đã
mơ giấc mơ hạnh phúc ấy khi các vị ngắm nhìn con cái hay cháu chắt mình nằm
trong nôi. Giấc mơ đầu tiên là giấc mơ đầy sáng tạo của Thiên Chúa là Cha, nó
đi trước và đồng hành với đời sống của tất cả con cái Ngài. Ký ức về phúc lành
này, chuyển trao từ thế hệ này sang thế hệ khác, là một gia sản quí báu mà
chúng ta phải giữ sống động để rồi chúng ta cũng có thể chuyển trao tiếp tục.
195. Đó
là lý do tại sao phải để cho các bậc bô lão kể những câu chuyện dài của họ,
những câu chuyện đôi khi tưởng chừng như cổ tích hay thần thoại – chúng là
những giấc mơ của người già – nhưng chúng thường chứa đầy các kinh nghiệm phong
phú, các biểu tượng hùng hồn, các thông điệp ẩn chứa. Những câu chuyện này
thường dài, và chúng ta cần sẵn sàng kiên nhẫn lắng nghe và cho phép chúng lắng
đọng, cho dù chúng dài hơn nhiều so với những gì chúng ta thường kinh nghiệm
trên các phương tiện truyền thông xã hội. Chúng ta phải nhận ra rằng sự khôn
ngoan rất cần cho đời sống ấy vượt quá các ranh giới truyền thông hiện nay của
chúng ta.
196.
Trong quyển Chia sẻ sự Khôn ngoan của Thời gian, [104] tôi đã diễn tả một số ý
tưởng trong hình thức câu hỏi. “Tôi đề nghị gì với các người già thuộc nhóm
tuổi của mình? Tôi cho rằng chúng tôi là những người giữ gìn ký ức. Chúng ta,
những ông bà nội ngoại, cần phải lập một ca đoàn. Tôi hình dung những người già
như một ca đoàn thường trực của một cung thánh tâm linh tuyệt vời, ở đó các lời
cầu nguyện khẩn nài và các bài ca tán tạ nâng đỡ cộng đoàn rộng lớn hơn đang
làm việc và chiến đấu trong trường đời”. [105] Thật là điều thú vị khi “nam thanh
và nữ tú, bô lão và nhi đồng, cùng ca tụng thánh danh Đức Chúa” (Tv 148,12-13).
197.
Chúng ta, những người cao tuổi, có thể trao gì cho người trẻ? “Chúng ta có thể
nhắc cho những người trẻ hôm nay, những người đang có những tham vọng táo bạo
lẫn những bất an của riêng họ, rằng một đời sống mà không có tình yêu là một
đời sống khô cằn”. [106] Chúng ta có thể kể cho họ điều gì? “Chúng ta có thể
nói với những người trẻ đang sợ hãi rằng họ có thể vượt qua nỗi lo lắng về
tương lai”. [107] Chúng ta có thể dạy họ điều gì? “Chúng ta có thể dạy những
bạn trẻ đôi khi quá loay hoay với chính mình rằng cho thì vui hơn là nhận, và
rằng tình yêu không chỉ thể hiện nơi lời nói, mà cả nơi hành động nữa”. [108]
Mạo
hiểm cùng nhau
198.
Một tình yêu quảng đại và hướng ra người khác, hành động và mạo hiểm, thì đôi
khi có thể phạm sai lầm. Ở đây chúng ta có thể tìm thấy chứng tá hợp thời của
Maria Gabriella Perin, người đã mất cha mình ít lâu sau khi chào đời. Chị chia
sẻ về cách mà biến cố này ảnh hưởng trên cuộc đời chị, trong một mối quan hệ đã
không kéo dài nhưng qua đó chị đã trở thành người mẹ và nay là một bà ngoại.
“Điều tôi nhận biết, đó là Thiên Chúa làm ra các câu chuyện. Trong quyền năng
và lòng thương xót của Ngài, Ngài dùng các thắng lợi và các thất bại của chúng
ta và dệt nên những tấm thảm tuyệt đẹp chứa đầy sự hài hước. Lật ngược phía
trái, tấm thảm có thể trông lộn xộn với những đường chỉ rối rắm – tức các biến
cố của đời sống chúng ta – và có lẽ đây là phía mà chúng ta kinh nghiệm khi
mình nghi ngờ. Nhưng mặt phải của tấm thảm cho thấy một câu chuyện tuyệt vời,
và đây là phía mà Thiên Chúa nhìn thấy”. [109] Khi những người già chú nhìn đời
sống, họ thường trực giác biết những gì nằm phía sau các đường chỉ rối rắm, và
họ nhận ra những gì Thiên Chúa có thể thực hiện ngay cả từ những sai lầm của
chúng ta.
199.
Nếu chúng ta hành trình cùng với nhau, người trẻ và người già, chúng ta có thể
cắm rễ vững chắc trong hiện tại, và từ chỗ này, chúng ta ôn lại quá khứ và
hướng tới tương lai. Ôn lại quá khứ để học từ lịch sử và để chữa lành các vết
thương cũ đôi khi vẫn còn làm phiền chúng ta. Hướng tới tương lai để nuôi dưỡng
sự hăng hái của chúng ta, để làm cho các giấc mơ hiện lên, đánh thức các tiềm
lực và giúp làm bừng nở hy vọng. Cùng với nhau, chúng ta có thể học hỏi lẫn
nhau, sưởi ấm con tim, khơi động tâm trí với ánh sáng của Tin Mừng, và thêm sức
mạnh mới cho đôi bàn tay mình.
200.
Các gốc rễ không phải là những mỏ neo trói chặt chúng ta vào thời quá khứ, ngăn
cản không cho ta đối diện với hiện tại và sáng tạo điều gì đó mới mẻ. Thay vào
đó, chúng là một điểm ổn định, từ đó chúng ta có thể lớn lên và đương đầu với
các thách đố mới. Không có gì tốt việc “chỉ ngồi đó mà hoài niệm khát mong về
những thời đã qua; chúng ta phải đón nhận nền văn hóa của chúng ta với tinh thần
hiện thực và với tình yêu, và lấp đầy nó với Tin Mừng. Ngày nay chúng ta được
sai rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu cho một thời đại mới. Chúng ta cần yêu mến
thời đại này với tất cả những cơ hội và những rủi ro của nó, với những niềm vui
nỗi buồn, những giàu có và những giới hạn, những thành công và những thất bại
của nó”. [110]
201.
Trong Thượng hội đồng, một trong các bạn trẻ dự thính viên từ Quần đảo Samoa đã
nói về Giáo hội như một chiếc thuyền, trong đó người già giúp giữ đúng lộ trình
bằng việc nhìn hướng các vì sao trên trời, trong khi người trẻ tiếp tục chèo và
hình dung những gì đang chờ đón mình phía trước. Chúng ta đừng để bị lôi kéo
bởi những người trẻ cho rằng người lớn chỉ là một quá khứ không còn ý nghĩa gì,
và những người lớn luôn luôn chắc mẩm họ biết cách mà người trẻ phải làm. Thay
vào đó, tất cả chúng ta hãy lên cùng một chiếc thuyền, và cùng với nhau tìm
kiếm một thế giới tốt đẹp hơn, với sức đẩy không ngừng được đổi mới của Chúa
Thánh Thần.
***
CHƯƠNG
BẢY
MỤC VỤ
GIỚI TRẺ
202.
Việc mục vụ giới trẻ, như được làm trong truyền thống, đã bị chi phối rất nhiều
bởi những thay đổi xã hội và văn hóa. Người trẻ thường không tìm thấy trong các
chương trình thông thường của chúng ta sự đáp ứng các mối quan tâm, các nhu
cầu, các khó khăn và các vấn đề của họ. Sự lan rộng và phát triển của các nhóm
và các phong trào chủ yếu gắn với người trẻ có thể được coi như công trình của
Chúa Thánh Thần, Đấng không ngừng chỉ cho chúng ta những nẻo đường mới. Dù vậy,
vẫn cần phải xem xét những cách thức mà các nhóm ấy tham dự vào toàn cảnh mục
vụ của Giáo hội, cũng như cần có sự hiệp thông nhiều hơn giữa các nhóm, và sự
phối hợp tốt hơn các hoạt động của họ. Mặc dù việc tiếp cận giới trẻ không bao
giờ dễ dàng, có hai khía cạnh đã được thấy ngày càng rõ: sự ý thức rằng toàn
thể cộng đoàn phải liên can vào công cuộc Phúc âm hóa người trẻ, và yêu cầu
khẩn thiết rằng người trẻ phải đảm nhận một vai trò quan trọng hơn trong khung
cảnh mục vụ.
Việc
săn sóc mục vụ có tính liên hợp
203.
Tôi muốn tuyên bố rõ rằng chính người trẻ là tác nhân của sứ vụ giới trẻ. Chắc
chắn họ cần được trợ giúp và hướng dẫn, nhưng đồng thời họ cũng cần được tự do
phát triển các phương thức mới, với tính sáng tạo và với sự táo bạo nào đó. Vì
thế ở đây tôi sẽ không cố gắng nêu ra một loại cẩm nang cho sứ vụ giới trẻ hay
một hướng dẫn mục vụ thực hành. Tôi quan tâm nhiều hơn về việc giúp người trẻ
sử dụng nhận thức, năng khiếu và sự hiểu biết của họ để tiếp cận những vấn đề
và những mối ưu tư của các bạn trẻ khác bằng chính ngôn ngữ của họ.
204. Người
trẻ thúc đẩy chúng ta nhìn thấy nhu cầu cần phải có những phong cách và những
chiến lược mới. Chẳng hạn, trong khi người lớn thường lo lắng sao cho mọi sự
được lên kế hoạch chính xác, với những cuộc họp định kỳ và những thời gian cố
định, thì đa số người trẻ ngày nay không quan tâm mấy đến kiểu tiếp cận mục vụ
này. Mục vụ giới trẻ cần trở nên uyển chuyển hơn: Mời người trẻ đến các sự kiện
hay các dịp cung ứng cơ hội không chỉ cho việc học hỏi, nhưng còn để chuyện
trò, ăn mừng, ca hát, lắng nghe những chuyện thực và kinh nghiệm việc gặp gỡ
Thiên Chúa hằng sống cùng với nhau.
205.
Đồng thời, chúng ta cần xem xét kỹ hơn những thực hành được thấy là có giá trị
– những phương pháp, ngôn ngữ và những mục tiêu tỏ ra hữu hiệu trong việc đem
người trẻ đến với Đức Kitô và Giáo hội. Dù họ đến từ đâu hay được gán nhãn hiệu
gì, “bảo thủ” hay “tự do”, “truyền thống” hay “tiến bộ”. Điều quan trọng là
chúng ta vận dụng những gì đã phát huy hiệu quả và đã chuyển thông hữu hiệu
niềm vui Tin Mừng.
206.
Mục vụ giới trẻ phải có tính liên hợp; nó phải liên can đến một “hành trình
cùng nhau”, với sự trân trọng “các đặc sủng Thánh Thần ban cho, phù hợp với ơn
gọi và vai trò của mỗi thành phần trong Giáo hội, xuyên qua một tiến trình đồng
trách nhiệm… Được thúc đẩy bởi tinh thần này, chúng ta có thể tiến tới một Giáo
hội tham gia và đồng trách nhiệm, một Giáo hội có khả năng trân trọng tính đa
dạng phong phú của mình, hân hoan đón nhận những đóng góp của người tín hữu
giáo dân, gồm những người trẻ và các phụ nữ, những người thánh hiến, cũng như
các nhóm, các hiệp hội và các phong trào. Không ai bị loại trừ, cũng không ai
tự loại trừ chính mình”. [111]
207.
Bằng cách này, qua việc học hỏi lẫn nhau, chúng ta có thể phản ảnh tốt hơn cái
thực tại đa diện kỳ diệu mà Giáo hội của Đức Kitô được dự phóng trở thành. Giáo
hội phải có thể thu hút người trẻ, vì sự hiệp nhất của Giáo hội không cứng
ngắt, nhưng đúng hơn đó là một mạng lưới các ân ban mà Thánh Thần không ngừng
tuôn đổ trên Giáo hội, để đổi mới Giáo hội và nâng Giáo hội lên khỏi sự nghèo
nàn của mình.
208.
Tại Thượng hội đồng, nhiều đề nghị cụ thể được nêu lên liên quan đến việc đổi
mới mục vụ giới trẻ, và việc giải phóng nó khỏi những cách thức không còn hiệu
quả do bởi thiếu khả năng đối thoại với nền văn hóa của giới trẻ thời nay. Dĩ
nhiên, tôi không thể liệt kê tất cả ở đây. Một số đề nghị có thể được tìm thấy
trong Tài liệu Chung kết của Thượng hội đồng.
Các
hoạt động chính yếu
209.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng mục vụ giới trẻ liên hệ đến hai hoạt động chính. Một là
vươn ra, là phương cách mà chúng ta thu hút người trẻ đến với một kinh nghiệm
về Chúa. Hai là phát triển, tức phương cách mà chúng ta giúp những người vốn đã
có kinh nghiệm đó, để họ trưởng thành hơn.
210. Về
việc vươn ra, tôi tin tưởng rằng người trẻ biết cách nào tốt nhất để qui tụ với
nhau. Họ biết cách tổ chức các sự kiện, các cuộc thi đấu thể thao, và những
cách để loan báo Tin Mừng xuyên qua truyền thông xã hội, qua các tin nhắn, các
bài hát, video và những hình thức khác. Họ chỉ cần được khuyến khích và được tự
do để hăng hái Phúc âm hóa các bạn trẻ khác bất cứ nơi nào họ gặp. Khi sứ điệp
được giới thiệu lần đầu tiên, có thể trong một cuộc tĩnh tâm giới trẻ, hay một
cuộc trò chuyện trong quán bar, vào dịp nghỉ lễ ở trường học, hay bất cứ cách
thức kỳ diệu nào của Thiên Chúa, thì sứ điệp ấy có thể đánh thức một kinh
nghiệm đức tin sâu xa. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất, đó là mỗi người trẻ cần
có đủ mạnh dạn để gieo hạt giống của sứ điệp trên mảnh đất màu mỡ là trái tim
của một bạn trẻ khác.
211.
Trong sự vươn ra này, trước hết chúng ta cần dùng ngôn ngữ gần gũi, ngôn ngữ
của tình yêu quảng đại, liên đới và hiện sinh, có sức chạm đến trái tim, tác
động đến đời sống, đánh thức những khát khao và hy vọng. Người trẻ cần được
tiếp cận qua ngả yêu thương, chứ không phải qua thuyết pháp. Người trẻ hiểu thứ
ngôn ngữ của những ai phát tỏa sức sống, những ai ở đó với họ và cho họ – và
những ai, vì tất cả những giới hạn và yếu đuối của mình, cố gắng sống đức tin
của mình một cách đúng đắn hơn. Chúng ta cũng phải suy nghĩ thêm về những cách
thế để đưa lời rao giảng tiên khởi (kerygma) vào ngôn ngữ của giới trẻ ngày
nay.
212. Về
việc phát triển, tôi muốn nêu một điểm quan trọng. Tại một số nơi, người ta
thấy người trẻ được trợ giúp để có kinh nghiệm rõ nét hơn về Thiên Chúa, để có
sự gặp gỡ Đức Giêsu vốn có sức chạm đến trái tim họ. Nhưng rồi bước tiếp theo
chỉ là một loạt các buổi “huấn luyện”, với các bài nói chuyện về các vấn đề tín
lý và luân lý, về những sự xấu xa trong thế giới ngày nay, về Giáo hội, học
thuyết xã hội của Giáo hội, về khiết tịnh, hôn nhân, kiểm soát sinh sản, vân
vân… Kết quả là nhiều người trẻ trở nên chán chường, họ đánh mất ngọn lửa của
việc gặp gỡ Đức Kitô và đánh mất niềm vui của việc đi theo Người; nhiều người
rút lui, nhiều người khác trở thành thất vọng hay tiêu cực. Thay vì quá quan
tâm đến việc truyền thụ một mớ giáo thuyết, trước hết chúng ta hãy thử đánh
thức và gia cố những kinh nghiệm tuyệt vời có sức nâng đỡ đời sống Kitô hữu.
Theo cách nói của Romano Guardii: “Khi chúng ta kinh nghiệm một tình yêu lớn…
thì mọi sự khác sẽ trở thành một phần của tình yêu ấy”. [112]
213.
Bất cứ dự án giáo dục hay con đường phát triển nào cho người trẻ dĩ nhiên cũng
phải bao gồm việc huấn luyện về giáo lý và luân lý Kitô giáo. Cũng thật quan
trọng để ghi nhận rằng nó có hai mục tiêu. Một là sự khai triển lời rao giảng
tiên khởi (kerygma), tức kinh nghiệm nền tảng về việc gặp gỡ Thiên Chúa qua cái
chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Hai là sự phát triển trong tình huynh đệ,
trong đời sống cộng đoàn và trong phục vụ.
214. Đây
là điều tôi đã nhấn mạnh trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng(Evangelii Gaudium),
thiển nghĩ đáng nhắc lại ở đây. Sẽ là sai lầm lớn nếu nghĩ rằng trong mục vụ
giới trẻ “lời rao giảng tiên khởi cần mở đường cho một sự huấn luyện được cho
là ‘vững chắc’ hơn! Không có gì vững chắc, thâm sâu, bảo đảm, có ý nghĩa và
chất chứa khôn ngoan hơn lời rao giảng khởi đầu ấy. Tất cả nền huấn luyện Kitô
giáo cốt ở việc đi sâu hơn vào kerygma” [113] và làm cho nó đi vào máu thịt
mình ngày càng hơn trong cuộc sống của mình. Vì thế, việc mục vụ giới trẻ luôn
phải bao gồm những cơ hội để làm mới lại và đào sâu kinh nghiệm cá nhân về tình
yêu của Thiên Chúa và của Đức Kitô hằng sống. Nó có thể làm điều này bằng những
cách khác nhau: bằng chứng từ, bằng những bài hát, những khoảnh khắc tôn thờ,
bằng việc suy niệm Lời Chúa, và ngay cả bằng việc sử dụng mạng xã hội một cách
trí tuệ. Tuy nhiên, không bao giờ được thay thế kinh nghiệm thú vị này về sự
gặp gỡ Chúa bằng một loại “tuyên giáo” nào đó.
215.
Mặt khác, mọi chương trình mục vụ giới trẻ cần phải hội nhập cách rõ rệt những
phương tiện và những nguồn lực khác nhau có thể giúp người trẻ lớn lên trong
tình huynh đệ, sống như anh chị em với nhau, trợ giúp nhau, xây dựng cộng đoàn,
sẵn sàng phục vụ người khác, gần gũi với người nghèo. Nếu tình huynh đệ là
“điều răn mới” (Ga 13,34), là “sự chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10) và là cách tuyệt
hảo để chúng ta diễn tả tình yêu đối với Thiên Chúa, thì nó phải chiếm chỗ thứ
nhất trong mọi dự án huấn luyện giới trẻ và mọi tiến trình trưởng thành.
Các môi
trường thích hợp
216.
Chúng ta cần làm cho tất cả các cơ chế của chúng ta được trang bị tốt hơn, để
trở nên hấp dẫn hơn đối với người trẻ, vì thực sự rất nhiều người có cảm giác
bị bỏ côi cút. Ở đây tôi không qui chiếu đến những vấn đề gia đình, nhưng là
muốn nói đến một kinh nghiệm nào đó của các chàng trai và các cô gái, của người
trẻ và người trưởng thành, của các bậc cha mẹ và các con cái. Đối với tất cả
những kinh nghiệm ‘mồ côi’ này – có lẽ bao gồm cả chúng ta – thì các cộng đoàn
như giáo xứ hay trường học nên cung ứng các cơ hội để người ta cảm nghiệm tình
yêu vị tha và sự triển nở, sự khẳng định chính mình và trưởng thành. Nhiều
người trẻ ngày nay cảm thấy họ đã kế thừa những giấc mơ bất thành của cha mẹ và
ông bà, những giấc mơ bị phản bội do bất công, do bạo lực xã hội, do ích kỷ và
thiếu quan tâm đến người khác. Nói tắt, họ cảm thấy bị bật rễ. Nếu người trẻ
lớn lên trong một thế giới tan hoang, sẽ rất khó để họ giữ sống động được ngọn
lửa của những giấc mơ và những kế hoạch lớn. Nếu họ lớn lên trong một sa mạc
trống rỗng ý nghĩa, thì làm sao họ nuôi dưỡng được một khát vọng dâng hiến đời
mình để gieo các hạt giống? Kinh nghiệm về sự đứt đoạn, sự trốc rễ và sự sụp đổ
những điểm tựa nền tảng – được nhấn thêm bởi nền văn hóa truyền thông ngày nay
– gây ra một cảm thức mồ côi sâu xa, mà chúng ta phải đáp ứng bằng cách tạo lập
một môi trường huynh đệ có sức lôi cuốn, ở đó những người ta có thể sống có
định hướng.
217.
Nói tóm, dựng một “mái nhà” là dựng một “gia đình”. “Đó là học cảm nhận mình
được nối kết với người khác bằng những mối gắn kết không chỉ thực dụng và vị
lợi, nhưng là được kết hợp sao cho mình cảm thức đời sống của mình có tính nhân
văn hơn. Dựng một mái nhà là cho phép giấc mơ thành hiện thực, và làm cho đời
sống thường ngày của ta bớt lạnh lẽo, bớt thờ ơ và vô danh. Đó là tạo lập các
mối gắn kết bằng những việc đơn giản hằng ngày mà ai cũng có thể làm. Như tất
cả chúng ta đều biết, một mái nhà giả thiết mọi người cùng làm việc với nhau.
Không ai bị thờ ơ hay đứng ngoài, vì mỗi người là một viên đá cần thiết để xây
dựng mái nhà ấy. Điều này cũng giả thiết phải cầu xin Chúa ban ơn sủng để ta
học biết kiên nhẫn, tha thứ cho nhau, và bắt đầu lại mỗi ngày. Tôi phải tha thứ
và bắt đầu lại bao nhiêu lần? Bảy mươi lần bảy, cần bao nhiêu thì cung ứng bấy
nhiêu. Việc tạo lập những mối gắn kết đòi phải có sự tin tưởng được nuôi dưỡng
hằng ngày qua sự kiên nhẫn và tha thứ. Và đó là cách mà phép lạ xảy ra: Chúng
ta cảm thấy rằng ở đây mình được sinh lại, ở đây tất cả chúng ta được sinh lại,
bởi vì chúng ta cảm nhận sự nưng niu của Thiên Chúa giúp ta có thể mơ về một
thế giới đầy tình người hơn, và do đó cũng là một thế giới thuộc về Thiên Chúa
nhiều hơn”. [114]
218.
Trong tinh thần này, các cơ chế của chúng ta cần phải cung cấp cho người trẻ
những nơi chốn mà họ xem như của mình, họ có thể thoải mái đến và đi, cảm thấy
nồng nhiệt và sẵn sàng gặp gỡ các bạn trẻ khác, khi gặp khó khăn chán nản hay
khi vui mừng hân hoan. Một số nơi chốn như vậy đang có sẵn tại các nguyện đường
nhỏ và các trung tâm của giới trẻ, thường cung cấp một khung cảnh thoải mái và
thân thiện giúp tình huynh đệ triển nở, nơi mà các chàng trai và các cô gái có
thể gặp nhau, họ có thể tham gia vào hoạt động âm nhạc, trò chơi, thể thao,
cũng như suy niệm và cầu nguyện. Tại những nơi như thế, người ta có thể được
cung ứng nhiều thứ mà không phải chi trả quá nhiều. Cũng vậy, có thể có sự tiếp
xúc cá nhân, là điều thiết yếu để chuyển trao sứ điệp – nó không thể được thay
thế bởi bất cứ qui trình hay sách lược mục vụ nào.
219.
“Sự giao lưu thân hữu, thường diễn ra bên trong những nhóm ít nhiều có tính cơ
cấu, cung ứng cơ hội để củng cố các kỹ năng xã hội và tương quan, trong một bối
cảnh mà người ta không bị săm soi hay phán xét. Kinh nghiệm nhóm cũng là một cơ
hội lớn cho việc chia sẻ đức tin và trợ giúp nhau để trao chứng tá. Người trẻ
có thể hướng dẫn các bạn trẻ khác, và thi hành một việc tông đồ đích thực giữa
các bạn hữu của mình”. [115]
220.
Điều ấy không có nghĩa rằng họ phải trở thành cô lập và đánh mất mọi tiếp xúc
với các cộng đoàn của giáo xứ, các phong trào và các tổ chức khác trong Giáo
hội. Nhưng họ sẽ được hội nhập tốt hơn vào các cộng đoàn mở ra cho họ, sống đức
tin của mình, thao thức tỏa chiếu Đức Kitô, vui tươi, tự do, đầy tình huynh đệ
và tinh thần dấn thân. Những cộng đoàn này có thể là những khung cảnh giúp họ
cảm thấy rằng mình có thể vun xới những mối quan hệ đáng quí.
Mục vụ
giới trẻ trong các môi trường giáo dục
221.
Các trường học rõ ràng là môi trường thuận tiện để tiếp cận thiếu nhi và giới
trẻ. Chính vì trường học là nơi chốn ưu việt cho sự phát triển con người, nên
cộng đoàn Kitô hữu luôn quan tâm việc đào tạo các thầy cô và những người quản
lý, cũng như thành lập các trường của mình thuộc nhiều cấp loại khác nhau.
Trong lãnh vực giáo dục giới trẻ này, Chúa Thánh Thần đã khơi dậy vô số đặc
sủng và mẫu gương thánh thiện. Tuy nhiên, nếu chúng ta lưu ý đến kết quả về mặt
‘mục vụ vươn ra’ của nó, thì các trường cũng cần biết tự kiểm điểm, bởi nhiều
khi các trường tập chú vào một kiểu dạy đạo chẳng có mấy khả năng nuôi dưỡng
các kinh nghiệm đức tin vững vàng. Một số trường học Công giáo dường như được
cấu trúc chỉ nhằm bảo tồn chính mình. Nỗi sợ thay đổi làm cho các trường ấy
thiên về phòng thủ trước các nguy cơ (cả nguy cơ thực lẫn tưởng tượng) mà bất
cứ sự thay đổi nào đó có thể mang đến. Trường học mà trở thành một “lô-cốt”,
che chắn các học sinh của mình khỏi những sai trái “từ bên ngoài”, đó là một
biếm họa cho xu hướng này. Tuy nhiên, hình ảnh lô-cốt ấy phản ảnh một cách lạnh
lùng điều mà nhiều người trẻ kinh nghiệm khi họ tốt nghiệp từ một số cơ sở giáo
dục: Có một khoảng cách ngàn trùng giữa những gì họ được dạy và thế giới họ
đang sống. Cách mà họ được hướng dẫn về các giá trị tôn giáo và luân lý đã
không giúp họ chống đỡ chúng trong một thế giới chế nhạo chúng, họ cũng không
học những cách cầu nguyện và thực hành đức tin khả dĩ đứng vững được giữa nhịp
sống gấp rút của xã hội hôm nay. Thật vậy, một trong những niềm vui lớn nhất
của nhà giáo dục là nhìn thấy học sinh của mình trở nên một con người mạnh mẽ,
thống nhất, một người tác động và có khả năng trao hiến.
222.
Các trường học Công giáo vẫn là những nơi chốn chính yếu của việc loan báo Tin
Mừng cho người trẻ. Cần phải lưu tâm đến một số nguyên tắc hướng dẫn được giới
thiệu trong Tông hiến Veritatis Gaudiumvề việc phục hồi và canh tân sứ mạng
vươn ra của các trường học. Những nguyên tắc này bao gồm một kinh nghiệm sống
động về lời rao giảng tiên khởi (kerygma), về sự đối thoại rộng rãi, về những
phương thức có tính liên ngành và giao ngành (cross-disciplinary), về sự cổ súy
một nền văn hóa gặp gỡ, về tính khẩn thiết phải kiến tạo các mạng lưới, và về
sự chọn lựa phục vụ những người hèn mọn nhất, những người bị xã hội ruồng bỏ.
[116] Cũng quan trọng tương tự, đó là khả năng hội nhập tri thức của đầu óc,
của trái tim, và của đôi tay.
223.
Đàng khác, chúng ta không thể phân biệt việc đào tạo văn hóa và tâm linh. Giáo
hội vẫn luôn cố gắng tìm cách cung cấp cho người trẻ nền giáo dục tốt nhất có
thể. Và Giáo hội sẽ tiếp tục làm thế, vì giới trẻ có quyền được như vậy. “Ngày
nay, quyền có được giáo dục tốt trước hết có nghĩa là bảo vệ sự khôn ngoan,
nghĩa là sự hiểu biết có tính nhân văn và thăng tiến nhân bản. Rất thường chúng
ta bị chi phối bởi những lối sống hời hợt và tầm thường lôi kéo chúng ta theo
đuổi sự thành công rẻ tiền, ngại hy sinh và tiêm nhiễm cái ý tưởng rằng giáo
dục không còn cần thiết trừ phi nó đem lại hiệu quả cụ thể ngay lập tức. Không,
giáo dục dạy ta biết chất vấn, ngăn ngừa ta khỏi bị ru ngủ bởi cái tầm thường
trống rỗng, và thúc đẩy ta tìm kiếm ý nghĩa trong đời. Chúng ta cần khẳng định
cái quyền không bị lung lạc bởi nhiều thứ quyến rũ ngày nay kéo ta ra khỏi cuộc
tìm kiếm này. Ulysses, để không bị ám bởi bài ca quyến rũ đã mê hoặc các thủy
thủ của mình và làm họ đập đầu vào đá, đã tự trói mình vào cột buồm và bảo các
bạn đồng hành bịt kín tai mình. Orpheus, đàng khác, đã đương đầu với bài ca
quyến rũ kia bằng một cách khác: anh đã hát lên một giai điệu hay hơn và có sức
mê hoặc cả giọng ca kia. Vì thế, thách đố cho chúng ta, đó là đáp lại những điệp
khúc què quặt của trào lưu tiêu thụ về văn hóa bằng những quyết định thận trọng
và chín chắn, với sự khảo sát, hiểu biết và chia sẻ”. [117]
Các
lãnh vực cần phát triển
224.
Nhiều người trẻ đã biết trân trọng sự thinh lặng và sự gần gũi với Chúa. Ngày
càng có nhiều nhóm tập trung với nhau để tôn thờ Thánh Thể hoặc cầu nguyện dựa
trên lời Chúa. Chúng ta không được xem thường khả năng của người trẻ đối với
việc cầu nguyện chiêm niệm. Chỉ cần tìm ra những cách và những phương tiện
thích hợp để giúp họ đi vào kinh nghiệm quí báu này. Liên quan đến việc tôn thờ
và cầu nguyện, “trong nhiều khung cảnh, các bạn trẻ Công giáo đang mong muốn
việc cầu nguyện và cử hành bí tích có thể nối kết với đời sống hằng ngày của
mình xuyên qua một phụng vụ sống động, chân thực và đầy niềm vui”. [118] Thật
quan trọng việc tận dụng những thời khắc đặc biệt của năm Phụng vụ, nhất là
Tuần Thánh, lễ Hiện Xuống và lễ Giáng Sinh. Nhưng những dịp lễ khác cũng có thể
là dịp nghỉ thú vị trong nhịp sống đều đặn thường ngày, giúp họ kinh nghiệm
niềm vui của đức tin.
225.
Những việc phục vụ của Kitô hữu là một cơ hội độc đáo để lớn lên và mở ra đón
nhận quà tặng đức tin và đức ái Chúa ban. Nhiều người trẻ được thu hút bởi các
cơ hội giúp đỡ người khác, nhất là trẻ em và người nghèo. Thường việc phục vụ
này là bước đầu tiên giúp khám phá hoặc tái khám phá đời sống trong Đức Kitô và
trong Giáo hội. Nhiều người trẻ trở nên mệt mỏi với các chương trình huấn luyện
giáo lý và thiêng liêng của chúng ta, và đôi khi họ yêu cầu cơ hội để tham gia
tích cực vào các hoạt động giúp ích người khác.
226.
Chúng ta cũng không thể bỏ qua tầm quan trọng của nghệ thuật, như kịch nghệ,
hội họa, và những thể loại khác. “Âm nhạc có tầm quan trọng cách riêng, bởi đây
vốn là môi trường mà thực tế người trẻ thường xuyên ngụp lặn trong đó, đây cũng
là một văn hóa và một ngôn ngữ có khả năng khơi trào cảm xúc và kiến tạo căn
tính. Ngôn ngữ của âm nhạc cũng là một nguồn lực mục vụ, với mối liên hệ cách
riêng đến phụng vụ và sự canh tân phụng vụ”. [119] Sinh hoạt ca hát có thể là
một lực đẩy quan trọng đối với người trẻ khi họ tìm hướng đi trong đời. Như
Thánh Augustinô nói: “Hãy ca hát, nhưng tiến bước. Đừng uể oải, hãy ca vang,
đường đi sẽ thú vị hơn. Hãy ca hát, và tiến bước… Nếu bạn tiến tới, bạn tiếp
tục hành trình, nhưng hãy bảo đảm rằng sự tiến bộ nằm ở nhân đức, ở tin đúng và
sống tốt. Vậy hãy ca hát, nhưng luôn tiến bước…”. [120]
227.
“Cũng quan trọng không kém, đó là cảm hứng của người trẻ đối với thể thao; Giáo
hội không nên đánh giá thấp tiềm năng của thể thao trong việc giáo dục và đào
tạo, thay vào đó, hãy giữ một sự hiện diện vững chắc trong lãnh vực này. Thế
giới thể thao cần được giúp để vượt qua một số khía cạnh có vấn đề của nó, như
việc thần tượng hóa các nhà vô địch, sự chao đảo trước các mối lợi thương mại,
và thứ ý thức hệ tìm thành công bằng mọi giá”. [121] Ở trung tâm của kinh
nghiệm về thể thao là “niềm vui”: niềm vui tập luyện, niềm vui qui tụ với nhau,
niềm vui sống và đón nhận những quà tặng mà Đấng Sáng Tạo ban cho chúng ta mỗi
ngày”. [122] Một vài Giáo phụ dùng ví dụ về việc huấn luyện các lực sĩ để khích
lệ người trẻ phát triển sức mạnh của mình và vượt qua sự chây ì và chán chường.
Thánh Basiliô Cả, viết cho người trẻ, đã lấy sự nỗ lực mà các lực sĩ phải có để
minh họa giá trị của hy sinh xét như phương thế để lớn lên trong nhân đức: “Các
chàng trai ấy phải chịu khổ vô kể, họ dùng nhiều cách để tăng cường sức mạnh
của mình, họ đẫm mồ hôi khi tập luyện… Nói tóm, họ tuân thủ kỷ luật bản thân
nghiêm ngặt đến nỗi đời sống của họ trước cuộc thi đấu hoàn toàn là một sự
chuẩn bị cho nó… Chúng ta đã được hứa phần thuởng dồi dào và tuyệt diệu đến mức
không lưỡi nào tả được, vậy làm sao chúng ta có thể nghĩ về việc thắng các giải
thuởng ấy nếu chúng ta chẳng làm gì ngoài việc tiêu phí đời mình trong nhàn rỗi
và chỉ làm việc cách hời hợt nửa vời?” [123]
228.
Thiên nhiên đặc biệt hấp dẫn nhiều thanh thiếu niên nhận ra nhu cầu phải quan
tâm chăm sóc môi trường. Đây là trường hợp của phong trào hướng đạo và các nhóm
khác muốn khích lệ sự gần gũi thiên nhiên, khuyến khích những chuyến cắm trại,
đi bộ, thám hiểm, và những chiến dịch cải thiện môi trường. Trong tinh thần của
Thánh Phanxicô Assisi, những kinh nghiệm này có thể là một khởi điểm thực sự
cho trường học sống tình huynh đệ phổ quát và cho cầu nguyện chiêm niệm.
229.
Những cơ hội này, và nhiều cơ hội khác nữa cho việc Phúc âm hóa giới trẻ, không
được làm chúng ta quên rằng bất chấp sự thay đổi của thời thế và của các cảm
thức nơi giới trẻ, có những quà tặng của Thiên Chúa không bao giờ cũ đi, vì
chúng chứa đựng một năng lực vượt trên thời gian và không gian. Đó là lời Chúa,
luôn sống động và hữu hiệu, đó là sự hiện diện của Đức Kitô trong Thánh Thể, và
bí tích Hòa giải, đem lại cho chúng ta tự do và sức mạnh. Chúng ta cũng có thể
đề cập những kho tàng thiêng liêng bất tận được Giáo hội gìn giữ trong chứng tá
của các thánh và trong giáo huấn của các bậc thầy linh đạo có thế giá. Mặc dù
chúng ta phải tôn trọng các giai đoạn khác nhau của tiến trình trưởng thành, và
có những lúc cần phải kiên nhẫn chờ đợi thời điểm thích hợp, chúng ta không thể
không mời gọi các bạn trẻ đến uống từ những nguồn mạch này của sự sống mới.
Chúng ta không có quyền tước khỏi họ những điều tuyệt hảo này.
Mục vụ
giới trẻ “đại chúng”
230.
Bên cạnh sứ vụ mục vụ thông thường, được lập trình chặt chẽ, mà các giáo xứ và
các phong trào thực hiện, cũng quan trọng việc dành chỗ cho một sứ vụ giới trẻ
có tính “đại chúng”, với một phong cách, chương trình, nhịp độ và phương pháp
mới. Nó mở rộng hơn và uyển chuyển hơn, nó mở ra đến với những nơi mà người trẻ
thực tế đang tác động, và nó thúc đẩy những phẩm chất lãnh đạo tự nhiên cũng
như những đặc sủng được Chúa Thánh Thần gieo vãi. Nó cố gắng tránh áp đặt các
chướng ngại, các qui tắc, các sự kiểm soát và những cơ cấu bắt buộc trên các
tín hữu trẻ vốn là những người lãnh đạo tự nhiên trong khu xóm của họ và trong
các khung cảnh khác. Chúng ta chỉ cần đồng hành và khích lệ họ, tin tưởng hơn
vào Chúa Thánh Thần, Đấng hành động như Ngài muốn.
231.
Chúng ta đang nói về những người lãnh đạo có tính “đại chúng” thực sự, không
phải những thành phần ưu tú hay những người đóng kín trong các nhóm nhỏ được
chọn lọc. Để có thể kiến tạo một sứ vụ “đại chúng” cho giới trẻ, “họ cần học
biết lắng nghe cảm thức của dân chúng, trở thành người phát ngôn cho dân chúng
và làm việc phục vụ cho sự thăng tiến dân chúng”. [124] Khi chúng ta nói về
“dân chúng”, chúng ta không đang nói về những cơ cấu xã hội hay Giáo hội, nhưng
về tất cả những con người đang bước đi, không phải như những cá nhân riêng rẽ
mà như một cộng đoàn gắn bó chặt chẽ, bao gồm mọi người và cho mọi người, một
cộng đoàn không chấp nhận bỏ người nghèo và những người yếu đuối lại phía sau.
“Dân chúng muốn mọi người chia sẻ trong thiện ích chung và vì thế chấp nhận
bước theo nhịp của các thành viên bé nhỏ nhất của mình, để mọi người có thể
cùng đi đến nơi”. [125] Những người lãnh đạo “đại chúng”, vì thế, là những
người có thể làm cho mọi người – bao gồm người nghèo, những người yếu đuối,
những người bị thương tích – cùng tham dự vào nhịp bước đi tới của người trẻ. Họ
không lẩn tránh hay sợ những người trẻ đã từng kinh nghiệm thương tổn hay đã
mang vác gánh nặng của thập giá.
232.
Cũng vậy, nhất là đối với những người trẻ không đến từ các gia đình hay các cơ
chế Kitô hữu và đang chậm chạp trong trưởng thành, chúng ta phải khích lệ tất
cả những gì tốt đẹp có thể. [126] Đức Kitô cảnh giác chúng ta đừng chỉ nhìn
thấy hạt giống tốt (x. Mt 13,24-30). Có những lúc, trong cố gắng phát triển một
sứ vụ giới trẻ tinh thuần và hoàn hảo, được đánh dấu bởi những ý tưởng hoàn
hảo, được bảo vệ khỏi thế gian và được giữ khỏi mọi nhược điểm, chúng ta có thể
biến Tin Mừng thành một lời tuyên bố mù mờ, vô nghĩa và chán ngắt. Một sứ vụ
giới trẻ như vậy rốt cục sẽ hoàn toàn bị rứt khỏi thế giới người trẻ, và chỉ
phù hợp với một thành phần người trẻ Kitô giáo ưu tú tự xem mình như khác biệt,
trong khi sống trong một sự cô lập trống rỗng và không có năng lực sinh sản.
Khi tẩy chay các hạt giống, chúng ta cũng làm trốc rễ hay làm ngạt các mầm chồi
đang cố gắng vươn lên bất chấp những giới hạn của chúng.
233.
Thay vì “áp lên người trẻ một mớ luật lệ, làm cho Kitô giáo bị thất đoạt và
nặng tính nệ luật, chúng ta được mời gọi vận dụng sự gan dạ của họ và hướng dẫn
họ đảm nhận các trách nhiệm của mình, trong ý thức rằng lầm lỗi, thất bại và
khủng hoảng là những kinh nghiệm có thể giúp họ phát triển lòng nhân”. [127]
234.
Thượng hội đồng mời gọi phát triển một sứ vụ giới trẻ có tính bao gồm, có chỗ
cho mọi tầng lớp người trẻ, cho thấy rằng chúng ta là một Giáo hội mở rộng cửa.
Người ta cũng không phải chấp nhận tất cả các giáo huấn của Giáo hội thì mới
được tham dự vào một số hoạt động giới trẻ của chúng ta. Chỉ cần mở ra cho tất
cả những ai khát khao và sẵn sàng gặp gỡ chân lý mặc khải của Thiên Chúa. Một
số hoạt động mục vụ của chúng ta giả định rằng một hành trình đức tin vốn đã
bắt đầu, nhưng chúng ta cần một sứ vụ giới trẻ “đại chúng” có thể mở cửa và
dành chỗ cho mọi người, với những nghi nan và chán nản của họ, những vấn đề,
những cố gắng tìm kiếm căn tính, những lỗi lầm trong quá khứ, những kinh nghiệm
tội lỗi và tất cả các nỗi khó của họ.
235.
Cũng cần dành chỗ cho “tất cả những ai có cái nhìn khác về cuộc sống, những
người thuộc các tôn giáo khác hay những ai tự tách mình ra khỏi mọi tôn giáo.
Tất cả mọi người trẻ, không trừ ai, đều ở trong trái tim của Thiên Chúa, và vì
thế họ ở trong trái tim của Giáo hội. Chúng ta thẳng thắn nhìn nhận rằng tuyên
bố này trên môi miệng chúng ta không luôn luôn được thể hiện trong các hoạt
động mục vụ: Chúng ta thường vẫn đóng kín trong các khung cảnh của mình, nơi mà
tiếng nói của họ không vào được, hoặc giả chúng ta miệt mài với những sinh hoạt
dễ dàng hơn và thích thú hơn, kìm nén cái thao thức mục vụ lành mạnh thúc đẩy
mình đi ra khỏi tình trạng được cho là an toàn của mình. Tin Mừng kêu gọi chúng
ta mạnh dạn – và chúng ta muốn – làm chứng cho tình yêu của Chúa và dang rộng
đôi tay đón mọi người trẻ trên thế giới, mà không hề tự phụ, cũng không cố lôi
kéo cải giáo người ta”. [128]
236. Sứ
vụ giới trẻ, khi nó không có tính lựa lọc mà sẵn sàng trở thành “đại chúng”,
thì nó là một tiến trình tiệm tiến, đầy tôn trọng, nhẫn nại, hy vọng, nhiệt
thành và đầy trắc ẩn. Thượng hội đồng gợi ví dụ về các môn đệ Emmau (x. Lc
24,13-35) như một mẫu thức về điều diễn ra trong sứ vụ giới trẻ.
237.
“Đức Giêsu bước đi với hai môn đệ vốn không hiểu ý nghĩa của tất cả những gì đã
xảy ra cho Người, và họ đang bỏ Giêrusalem và cộng đoàn lại đằng sau. Muốn đồng
hành với họ, Người đến với họ trong hành trình. Người hỏi họ những câu hỏi và
kiên nhẫn lắng nghe cách họ tường thuật các biến cố, bằng cách này Người giúp
họ nhận ra những gì mà họ đang kinh nghiệm. Rồi, với tình thương và với uy lực,
Người giảng lời cho họ, hướng dẫn họ diễn dịch các biến cố mà họ đã kinh nghiệm
trong ánh sáng của Thánh Kinh. Người chấp nhận lời họ mời Người ở lại với họ
khi ngày đã sắp tàn; Người đi vào trong đêm tối của họ. Khi họ lắng nghe Người
nói, lòng họ bừng cháy lên và tâm trí họ mở ra; và họ nhận ra Người khi Người
bẻ bánh. Chính họ quyết định lên đường ngay lập tức, nhưng theo hướng ngược
lại, trở về với cộng đoàn và chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Phục Sinh”. [129]
238.
Những cách biểu hiện khác nhau của lòng đạo đức bình dân, nhất là các cuộc hành
hương, hấp dẫn những người trẻ vốn không cảm thấy thoải mái trong các cơ chế
Giáo hội, và đó là một dấu hiệu cụ thể cho thấy lòng tín thác của họ vào Thiên
Chúa. Những cách tìm kiếm Thiên Chúa như vậy được thấy cách riêng nơi các bạn
trẻ nghèo, nhưng cả nơi những người thuộc các tầng lớp khác trong xã hội nữa.
Không được xem thường những cách ấy, trái lại cần khuyến khích và quảng bá.
Lòng đạo đức bình dân “là một cách hợp lệ để sống đức tin” [130] và là “một sự
diễn tả hoạt động sứ mạng thừa sai tự phát của dân Thiên Chúa”. [131]
Luôn
luôn là những nhà thừa sai
239. Ở
đây tôi muốn chỉ ra rằng không quá khó khăn việc biến các bạn trẻ thành những
nhà thừa sai. Ngay cả những bạn trẻ yếu đuối, ‘có vấn đề’ và phiền não nhất
cũng có thể là những nhà thừa sai theo cách của mình, vì điều tốt lành luôn
luôn có thể được chia sẻ, cho dù nó tồn tại bên cạnh nhiều sự giới hạn. Một bạn
trẻ đi hành hương để cầu xin Đức Mẹ giúp đỡ, và mời một người bạn cùng đi, thì
đã tỏ ra là một thừa sai tốt rồi – chỉ bằng cử chỉ ấy thôi! Gắn liền với một sứ
vụ giới trẻ “đại chúng” là một hoạt động sứ mạng thừa sai “đại chúng” vốn luôn
khẩn thiết, hoạt động này thấm nhập vào những cách làm và cách nghĩ thông
thường của chúng ta. Chúng ta hãy đồng hành và khích lệ, nhưng đừng cố can
thiệp quá vào hoạt động như thế.
240.
Nếu chúng ta có thể nghe những gì mà Chúa Thánh Thần đang nói với mình, thì
chúng ta phải nhận ra rằng sứ vụ giới trẻ luôn luôn có tính sứ mạng thừa sai.
Người trẻ trở nên phong phú rất nhiều khi họ vượt qua sự khép kín và dám tới
lui với các gia đình, bằng cách này họ tiếp xúc với cuộc sống của người khác.
Họ học cách nhìn quá phạm vi gia đình và nhóm thân hữu của mình, và họ có được
tầm nhìn xa rộng hơn về đời sống. Đồng thời, đức tin và cảm thức thuộc về Giáo
hội của họ cũng trở nên vững vàng hơn. Các sứ mạng giới trẻ, thường diễn ra
trong các kỳ nghỉ sau một giai đoạn chuẩn bị, có thể dẫn tới một kinh nghiệm
mới mẻ về đức tin và ngay cả những suy nghĩ nghiêm túc về ơn gọi.
241.
Người trẻ có thể tìm thấy những cánh đồng sứ mạng mới trong các khung cảnh đa
dạng nhất. Chẳng hạn, vì họ quá quen thuộc với các mạng xã hội, họ nên được
khuyến khích để đưa Thiên Chúa, tình huynh đệ và nhiệt tâm dấn thân vào tràn
ngập các mạng ấy.
Sự đồng
hành của những người trưởng thành
242.
Người trẻ cần được tôn trọng tự do, nhưng họ cũng cần được đồng hành. Gia đình
phải là nơi thứ nhất của sự đồng hành này. Sứ vụ giới trẻ có thể giới thiệu lý
tưởng của sự sống trong Đức Kitô như tiến trình xây dựng một ngôi nhà trên đá
(x. Mt 7,24-25). Đối với đa số người trẻ, ngôi nhà ấy, cuộc sống của họ, sẽ
được xây dựng trên hôn nhân và tình yêu vợ chồng. Vì thế sứ vụ giới trẻ và việc
săn sóc mục vụ gia đình cần phải được hội nhập và phối kết, nhằm bảo đảm một sự
đồng hành liên tục và thích hợp cho tiến trình ơn gọi.
243.
Cộng đoàn có một vai trò quan trọng trong việc đồng hành với người trẻ; tất cả
cộng đoàn phải cảm thấy trách nhiệm về việc đón nhận, động viên, khích lệ và
thách đố người trẻ. Mọi người nên nhìn người trẻ với sự hiểu biết, trân trọng
và thương yêu, và tránh việc thường xuyên phán xét họ, hay đòi hỏi họ phải hoàn
chỉnh trước tuổi.
244.
Tại Thượng hội đồng, có nhiều ghi nhận về sự thiếu hụt nhân sự có năng lực và
có tinh thần dấn thân cho việc đồng hành. Niềm tin vào giá trị thần học và mục
vụ của sự lắng nghe sẽ dẫn tới việc suy nghĩ lại và đổi mới những cách thức
thực thi sứ vụ linh mục, và duyệt xét lại các mối ưu tiên của sứ vụ ấy. Thượng
hội đồng cũng nhận ra nhu cầu đào tạo những người thánh hiến và các giáo dân
nam nữ, để đồng hành với người trẻ. Đặc sủng lắng nghe mà Chúa Thánh Thần ban
cho trong các cộng đoàn cũng có thể được nhìn nhận như một dạng thức phục vụ
của Giáo hội”. [132]
245.
Cũng có một nhu cầu đặc biệt về việc đồng hành với các bạn trẻ nam nữ tỏ ra có
tiềm năng lãnh đạo, để họ nhận được sự đào tạo và những khả năng cần thiết.
Những bạn trẻ gặp gỡ trước Thượng hội đồng đã kêu gọi rằng cần có “những chương
trình huấn luyện và sự phát triển không ngừng các lãnh đạo trẻ. Một số bạn nữ
cảm thấy rằng đang thiếu các mẫu vai trò lãnh đạo nữ trong Giáo hội, và họ cũng
ước ao cống hiến tài năng trí thức và chuyên môn của mình cho Giáo hội. Chúng
ta cũng tin rằng các chủng sinh và tu sĩ cần có khả năng lớn hơn nữa để đồng
hành với các người lãnh đạo trẻ”. [133]
246.
Cũng các bạn trẻ ấy đã mô tả cho chúng ta các phẩm chất mà họ hy vọng gặp thấy
nơi một người đồng hành với họ, và họ diễn tả điều này thật rõ ràng. “Các phẩm
chất của một người như vậy bao gồm: Phải là một Kitô hữu trung thành, dấn thân
cho Giáo hội và cho thế giới; phải là một người không ngừng theo đuổi sự thánh
thiện; một người bạn tâm giao mà không phán xét. Tương tự, đó cũng phải là một
người tích cực lắng nghe các nhu cầu của người trẻ và đáp ứng cụ thể; một người
yêu thương sâu sắc và có ý thức về chính mình; một người nhìn nhận các giới hạn
của mình và hiểu biết các niềm vui nỗi buồn của hành trình tâm linh. Một phẩm
chất đặc biệt quan trọng nơi những người đồng hành, đó là ý thức thân phận con
người của mình – tức sự thật rằng họ là những con người có phạm sai lầm: không
phải những con người hoàn hảo nhưng là những tội nhân được thứ tha. Đôi khi
những người đồng hành được đặt trên bệ, và khi họ vấp ngã, có thể có một tác
động tàn phá trên khả năng người trẻ tiếp tục dấn thân trong Giáo hội. Những
người đồng hành không nên dẫn dắt người trẻ như những kẻ đi theo một cách thụ
động, nhưng nên sánh bước với họ, cho phép họ trở thành những thành viên tích
cực trong cuộc hành trình. Họ cần biết tôn trọng sự tự do trong tiến trình phân
định của người trẻ, và trang bị cho người trẻ những công cụ để làm tốt công
việc phân định ấy. Một người đồng hành cần hết lòng tin vào khả năng của một
người trẻ trong việc tham dự vào đời sống Giáo hội. Vì thế, người đồng hành
phải nuôi dưỡng những hạt giống đức tin nơi người trẻ, mà không kỳ vọng nhìn
thấy ngay lập tức các kết quả hoạt động của Chúa Thánh Thần. Vai trò này không
– và không thể – chỉ giới hạn nơi các linh mục và những người thánh hiến, mà
các giáo dân cũng cần được bồi đắp để đảm nhận vai trò này. Tất cả những người
đồng hành như thế nên được huấn luyện kỹ, và được cung cấp sự huấn luyện thường
xuyên”. [134]
247.
Các cơ sở giáo dục của Giáo hội rõ ràng là một khung cảnh tập thể cho việc đồng
hành; chúng có thể cung cấp sự hướng dẫn cho nhiều người trẻ, nhất là khi chúng
“đón nhận mọi người trẻ, không phân biệt tôn giáo, nguồn gốc văn hóa, hoàn cảnh
cá nhân, gia đình và xã hội. Bằng cách này, Giáo hội đóng góp một cách căn bản
vào công cuộc giáo dục toàn diện cho người trẻ ở nhiều vùng khác nhau trên thế
giới”. [135] Các cơ sở giáo dục ấy sẽ cắt mất vai trò này nếu như đặt ra những
tiêu chuẩn nghiêm ngặt cho việc tuyển sinh và việc tiếp tục theo học tại nơi
của mình, vì như vậy chúng tước mất của nhiều người trẻ sự đồng hành vốn có thể
giúp làm phong phú đời sống của họ.
***
CHƯƠNG
TÁM
ƠN GỌI
248. Từ
“ơn gọi” có thể được hiểu theo nghĩa rộng là một tiếng gọi của Thiên Chúa, gồm
tiếng gọi vào hiện hữu, tiếng gọi vào tình bạn với Ngài, tiếng gọi nên thánh,
vân vân. Cách hiểu này thật hay, vì nó đặt toàn thể đời sống chúng ta trong
liên hệ với Thiên Chúa, Đấng yêu thương ta. Nó làm chúng ta nhận ra rằng không
có gì là kết quả của ngẫu nhiên thuần túy, nhưng mọi sự trong đời ta đều có thể
trở thành một cách đáp lại tiếng Chúa, Đấng có một kế hoạch tuyệt vời cho chúng
ta.
249.
Trong Tông huấn Hãy Vui Mừng Hoan Hỉ (Gaudete et Exsultate),tôi đã nói về ơn
gọi của mọi người là lớn lên và trưởng thành vì vinh quang của Thiên Chúa; tôi
đã muốn “nhắc lại tiếng mời gọi nên thánh một cách thực tiễn cho thời đại chúng
ta, với tất cả những nguy hiểm, những thách đố và những cơ hội của nó”. [136]
Công đồng Vatican II giúp chúng ta ý thức lại tiếng gọi này, vốn được trao cho
mỗi người chúng ta: “Tất cả các tín hữu, dù hoàn cảnh hay bậc sống nào, đều
được Chúa kêu gọi, mỗi người theo cách của mình, đạt tới sự thánh thiện hoàn
hảo như Chúa Cha là Đấng hoàn hảo”. [137]
Tiếng
Chúa gọi đi vào tình bạn
250.
Điều đầu tiên chúng ta cần phân định và khám phá là: Đức Giêsu muốn làm bạn với
mọi người trẻ. Sự phân định này là cơ sở của mọi điều khác. Trong cuộc đối
thoại của Chúa Phục Sinh với Simon Phêrô, câu hỏi quan trọng của Người là:
“Simon, con Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,16). Nói cách khác, anh
có yêu mến Thầy như một người bạn không? Sứ mạng mà Phêrô nhận lãnh để chăm sóc
đoàn chiên của Đức Giêsu sẽ luôn được nối kết với tình yêu nhưng không này,
tình yêu thân hữu.
251.
Đàng khác, đã có cuộc gặp gỡ không thành công của Đức Giêsu với người thanh
niên giàu có, cho thấy rõ rằng người bạn trẻ ấy không cảm nhận được cái nhìn
trìu mến của Chúa (x. Mc 10,21). Anh buồn rầu bỏ đi, cho dù anh đã có những
thiện chí ban đầu, vì anh không thể quay lưng lại với mớ của cải của anh (x. Mt
19,22). Anh bắt hụt cái cơ hội mà rất có thể là một tình bạn tuyệt vời. Anh
thanh niên ấy, Đức Giêsu đã trìu mến nhìn anh và đã mở rộng vòng tay mời gọi
anh, chúng ta sẽ không bao giờ biết anh rất có thể đã trở thành gì cho chúng
ta, anh rất có thể đã cống hiến những gì cho nhân loại, nếu anh không bắt hụt
cơ hội đó.
252.
“Sự sống mà Đức Giêsu trao cho chúng ta là một chuyện tình, một sự sống muốn
hòa vào cuộc sống của chúng ta và đâm rễ trong mảnh đất cuộc đời chúng ta. Sự
sống ấy không phải là một sự cứu độ được ‘up’ lên ‘đám mây’ và chờ được tải
xuống, không phải là một ‘ứng dụng’ mới chờ được khám phá, hay một kỹ thuật tự
cải thiện tâm thần. Sự sống ấy càng không phải là một ‘tutorial’ (công thức
hướng dẫn thao tác) để tìm ra bản tin mới nhất. Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho
chúng ta là lời mời gọi đi vào một câu chuyện tình đan kết với những câu chuyện
riêng của chúng ta; nó sống động và muốn được sinh ra giữa chúng ta, để ta có
thể sinh hoa trái tại nơi của mình, theo cách của mình, và với mọi người xung
quanh mình. Chúa đến để gieo và để được gieo”. [138]
Hiện
hữu cho người khác
253.
Giờ đây tôi muốn nói về ơn gọi theo nghĩa hẹp, như một tiếng gọi thi hành sứ
mạng phục vụ tha nhân. Chúa gọi chúng ta tham dự vào công trình tạo dựng của
Ngài và đóng góp cho thiện ích chung, bằng cách sử dụng những quà tặng mà mình
đã nhận lãnh.
254. Ơn
gọi thừa sai này, vì thế, có liên hệ với sự phục vụ. Vì đời sống chúng ta trên
dương thế này đạt được tầm vóc sung mãn của nó khi nó trở thành một sự dâng
hiến. Ở đây tôi muốn nhắc lại rằng “sứ mạng của việc hiện hữu giữa người ta
không phải chỉ là một phần đời sống mình, hay như một phù hiệu mà tôi có thể gỡ
ra; nó không phải là một cái gì gắn thêm vào, hay chỉ là một khoảnh khắc trong
đời. Thay vào đó, nó là một cái gì mà tôi không thể nhổ rễ khỏi hiện hữu của
mình, vì như vậy là hủy diệt chính bản ngã của tôi. Tôi là một sứ mạng trên
trái đất này; đó là lý do vì sao tôi có mặt ở đây trong thế giới”. [139] Như
vậy, mọi hình thức hoạt động mục vụ, huấn luyện và linh đạo phải được nhìn
trong ánh sáng của ơn gọi Kitô hữu chúng ta.
255. Ơn
gọi riêng của bạn không hệ tại duy chỉ ở công việc bạn làm, dù đó là một sự
diễn tả của nó. Ơn gọi riêng của bạn là một cái gì hơn thế: đó là một đường lối
giúp cho các nỗ lực và hành động của bạn được điều hướng về phía phục vụ người
khác. Vì thế trong việc phân định ơn gọi, thật quan trọng việc xác định xem bạn
có thấy nơi mình những khả năng cần thiết để làm công việc phục vụ chuyên biệt
ấy cho xã hội hay không.
256.
Điều đó đem lại giá trị nhiều hơn cho mọi việc bạn làm. Công việc của bạn không
còn chỉ là để kiếm tiền, để khỏi nhàn cư hay để làm vui lòng người khác. Nó trở
thành ơn gọi của bạn bởi vì bạn được gọi đảm nhận nó; nó không chỉ là một quyết
định có tính thực dụng. Cuối cùng, nó cho thấy lý do vì sao tôi được dựng nên,
vì sao tôi ở đây trên đời, và đâu là kế hoạch của Chúa cho cuộc đời tôi. Chúa
sẽ không chỉ cho tôi thấy mọi nơi chốn, thời gian và chi tiết, vì tôi sẽ phải
đưa ra các quyết định thận trọng của mình về những điều này. Nhưng Chúa sẽ chỉ
cho tôi một chiều hướng trong đời, vì Ngài là Đấng Sáng Tạo và tôi cần lắng
nghe Ngài, để cũng như đất sét trong tay thợ gốm, tôi có thể để Ngài đúc nặn và
hướng dẫn mình. Như vậy tôi sẽ trở thành điều mà tôi được nhắm đến, trung thành
với sự thật của mình.
257. Để
đáp lại ơn gọi riêng, chúng ta cần củng cố và phát triển tất cả hiện hữu của
mình. Điều này không liên hệ gì với việc phát minh hay sáng tạo con người mình
từ số không. Nó liên hệ với việc tìm ra con người thực của mình trong ánh sáng
của Thiên Chúa và cho phép đời sống mình triển nở và sinh hoa quả. “Trong kế
hoạch của Thiên Chúa, mọi người nam nữ được đặt định để hoàn thành chính mình,
vì mọi cuộc sống con người đều được Thiên Chúa kêu gọi đảm nhận phần việc gì
đó”. [140] Ơn gọi của bạn truyền cảm hứng cho bạn phát huy chính mình cách tốt
nhất, vì vinh quang Thiên Chúa và vì thiện ích của tha nhân. Nó không chỉ là
vấn đề làm những việc gì đó, nhưng là làm các việc ấy với ý nghĩa và với định
hướng. Thánh Alberto Hurtado bảo các bạn trẻ hãy nghiêm túc nghĩ về chiều hướng
mà cuộc đời họ nên theo: “Nếu người lái tàu bất cẩn, anh ta sẽ bị sa thải ngay
vì không nghiêm túc chu toàn trách nhiệm thánh thiêng của mình. Đối với cuộc
đời mình, chúng ta có ý thức đầy đủ về đường hướng mình đang đi không? Đời bạn
đang đi theo hướng nào? Nếu cần phải suy nghĩ thêm về điều này, cha tha thiết
xin mỗi người các con hãy xem xét nó cách kỹ nhất, vì ở đây chuyện đúng hay sai
cũng là chuyện thành hay bại”. [141]
258.
Trong đời sống của mỗi người trẻ, sự “hiện hữu cho người khác” này thường liên
quan tới hai vấn đề: lập một gia đình mới và làm việc. Các bảng thăm dò người
trẻ thường xuyên xác nhận rằng đây là hai vấn đề chính yếu làm cho họ vừa lo
lắng vừa thích thú. Hai vấn đề này phải được xem xét đặc biệt. Chúng ta hãy
nhìn thoáng qua mỗi vấn đề.
Tình
yêu và gia đình
259.
Người trẻ cảm thấy tiếng gọi của tình yêu rất mãnh liệt; họ ước mơ gặp đúng
người để có thể xây dựng một gia đình và tạo lập một đời sống chung với nhau.
Đây rõ ràng là một ơn gọi mà chính Thiên Chúa tỏ cho họ biết xuyên qua các cảm
nghĩ, các khát vọng và mơ ước của họ. Tôi đã đề cập chủ đề này cách đầy đủ hơn
trong Tông huấn Niềm Vui Yêu Thương (Amoris Laetitia). Tôi muốn khích lệ tất cả
các bạn trẻ đặc biệt đọc kỹ Chương Bốn và Chương Năm của Tông huấn ấy.
260.
Tôi thích nghĩ rằng “hai Kitô hữu cưới nhau thì đã nhận ra tiếng gọi của Chúa
trong chuyện tình yêu của họ, đó là ơn gọi từ hai người, nam và nữ, làm nên một
xương một thịt và một đời sống. Bí tích Hôn phối bao bọc tình yêu này trong ân
sủng của Thiên Chúa; nó cắm rễ tình yêu ấy trong chính Thiên Chúa. Với ân ban
này, và với sự chắc chắn của tiếng gọi này, các bạn có thể an tâm bước tới, các
bạn không có gì phải sợ; các bạn có thể đối diện mọi sự cùng với nhau!” [142]
261. Ở
đây, chúng ta cần nhớ rằng Thiên Chúa dựng nên chúng ta như những hữu thể có
giới tính. Chính Ngài “đã tạo dựng tính dục, là quà tặng kỳ diệu cho thụ tạo
của Ngài”. [143] Trong ơn gọi hôn nhân, chúng ta cần trân trọng và ý thức rằng
“tính dục, phái tính là một quà tặng của Thiên Chúa. Nó không phải điều cấm kỵ.
Nó là một món quà do Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta. Nó có hai mục đích: để
yêu thương và để sinh sản. Nó là sự say mê, là tình yêu đam mê. Tình yêu đích
thực thì say mê. Tình yêu giữa một người nam và một người nữ, khi say mê, luôn
dẫn tới việc trao sự sống. Luôn luôn như vậy. Trao sự sống với thân xác và linh
hồn”. [144]
262.
Thượng hội đồng nhấn mạnh rằng “gia đình vẫn là điểm qui chiếu chính yếu cho
người trẻ. Con cái trân trọng tình yêu và sự săn sóc của cha mẹ, chúng gán tầm
quan trọng cho các mối ràng buộc gia đình, và chúng hy vọng khi đến lượt, chúng
sẽ thành công trong việc thành lập một gia đình. Thật rõ ràng, sự gia tăng của
các vụ ly thân, ly dị, tái hôn và những gia đình chỉ có cha hay mẹ… có thể gây
đau khổ lớn lao và một khủng hoảng căn tính nơi người trẻ. Đôi khi họ phải đảm
nhận những trách nhiệm không tương xứng với lứa tuổi của mình, và điều này buộc
họ phải trở thành những người lớn trước tuổi. Rất thường, các bậc ông bà là một
trợ giúp quan trọng về tâm cảm và giáo dục tôn giáo: với sự khôn ngoan của
mình, họ là một kết nối sống động trong tương quan giữa các thế hệ”. [145]
263.
Quả thật là những khó khăn được kinh nghiệm trong gia đình của mình có thể làm
nhiều người trẻ ái ngại liệu có đáng để lập gia đình hay không, có đáng để
trung thành, để quảng đại hay không. Cha có thể nói với các con rằng chắc chắn
là rất đáng. Thật đáng để mọi cố gắng của các con được dành cho gia đình; ở đó
các con sẽ tìm thấy những động lực tốt nhất để trưởng thành và tìm thấy những
niềm vui lớn nhất để kinh nghiệm và chia sẻ. Đừng để mình bị tước mất một tình
yêu rất tuyệt vời. Đừng để mình bị lung lạc bởi những kẻ rủ rê sống theo chủ
nghĩa cá nhân phóng túng mà cuối cùng dẫn tới sự cô lập và cô đơn khủng khiếp
nhất.
264.
Ngày nay, một nền văn hóa của những thứ phù du thống trị, nhưng đó là một ảo
tưởng. Ý nghĩ rằng không gì có thể dứt khoát là một ý nghĩ có tính lừa dối.
“Ngày nay có những người nói rằng hôn nhân là chuyện lỗi thời… Trong một nền
văn hóa của chủ nghĩa tương đối và của sự phù phiếm, nhiều người rao giảng tầm
quan trọng của việc “hưởng thụ” khoảnh khắc hiện tại. Họ nói rằng thật không
đáng để đưa ra một cam kết trọn đời, một quyết định dứt khoát… Thay vào đó, cha
kêu gọi các con trở thành những nhà cách mạng. Cha kêu gọi các con lội ngược
dòng; vâng, cha muốn các con nổi loạn chống lại nền văn hóa này, nền văn hóa
nhìn thấy mọi sự đều tạm bợ, và cuối cùng nó tin rằng các con không có khả năng
trách nhiệm, không có khả năng để yêu thương đích thực”. [146] Cha rất tin
tưởng các con, và vì thế, cha thúc đẩy các con chọn hôn nhân.
265.
Hôn nhân đòi phải chuẩn bị, và điều này giả thiết sự lớn lên trong ý thức về
chính mình, phát triển những đức tính tốt hơn, nhất là yêu thương, nhẫn nại,
cởi mở để đối thoại và giúp đỡ người khác. Nó cũng đòi phải trưởng thành trong
tính dục của các con, để bớt nguy cơ coi hôn nhân là phương tiện sử dụng người
khác, và gia tăng cái khả năng ký thác chính mình hoàn toàn cho một nhân vị
khác, một cách độc hữu và quảng đại.
266.
Như các giám mục Colombia khuyến dụ: “Đức Kitô biết rằng những người vợ chồng
không hoàn hảo và họ cần vượt qua sự yếu đuối và sự thiếu chung thủy của mình,
để tình yêu của họ có thể lớn lên và bền vững. Vì thế, Người ban cho các người
vợ chồng ân sủng của Người, đó vừa là ánh sáng vừa là sức mạnh giúp họ có thể
đạt được ngày càng hơn lý tưởng đời sống hôn nhân của mình theo như kế hoạch
của Thiên Chúa”. [147]
267.
Đối với những ai không được kêu gọi sống đời sống hôn nhân hay đời sống thánh
hiến, người ta phải luôn luôn nhớ rằng ơn gọi thứ nhất và quan trọng nhất là ơn
gọi chúng ta đã nhận lãnh trong Phép Rửa. Những người độc thân, cho dù không do
mình chọn lựa, có thể trao một chứng tá đặc biệt về ơn gọi Phép Rửa xuyên qua
nẻo đường trưởng thành riêng của họ.
Công
việc
268.
Các giám mục Mỹ đã chỉ ra rằng “giai đoạn ở ngưỡng trưởng thành của một người
thường báo hiệu về lối đi vào thế giới công việc. ‘Bạn làm nghề gì?’ là một chủ
đề thường xuyên trong trò chuyện, vì công việc là phần chủ yếu trong đời sống
của họ. Đối với người ở ngưỡng trưởng thành, kinh nghiệm này rất hay thay đổi
vì họ đi từ công việc này đến công việc khác, và thậm chí từ lãnh vực này đến
lãnh vực khác. Công việc có thể ràng buộc họ về thời biểu và có thể ấn định khả
năng họ có thể làm gì hay mua gì. Nó cũng có thể ấn định chất lượng và số lượng
thời gian giải trí. Công việc xác định và ảnh hưởng đến căn tính của một người
trẻ, cũng như ý thức về chính mình, và là nơi chính yếu để các tình bạn và các
mối tương quan khác phát triển, bởi vì nói chung người ta không làm việc một
mình. Các bạn trẻ nam nữ nói về công việc như là sự chu toàn một chức vụ và như
một cái gì đem lại ý nghĩa. Công việc cho phép người ở ngưỡng trưởng thành đáp
ứng các nhu cầu thực tiễn của mình nhưng quan trọng hơn nữa, nó cho phép tìm
kiếm ý nghĩa và thực hiện các giấc mơ và các dự phóng. Mặc dù công việc có thể
không giúp đạt được những giấc mơ của họ, thật quan trọng việc người ở ngưỡng
trưởng thành nuôi dưỡng một dự phóng, học biết làm việc trong một cách thức có
tính nhân vị đích thực và với tinh thần vui sống, và tiếp tục phân định tiếng
gọi của Thiên Chúa”. [148]
269.
Tôi kêu gọi những người trẻ đừng kỳ vọng sống mà không làm việc, dựa dẫm vào sự
giúp đỡ của người khác. Điều đó không tốt, vì “làm việc là một nhu cầu, là một
phần của ý nghĩa đời sống trên mặt đất, là một nẻo đường đạt tới trưởng thành,
đạt sự phát triển nhân bản và sự hoàn thành con người mình. Theo nghĩa này,
việc giúp đỡ người nghèo về tiền bạc phải luôn luôn là một giải pháp lâm thời,
khi đứng trước những nhu cầu cấp bách”. [149] Vì thế, “cùng với sự chiêm ngắm
đầy cảm kích trước thế giới thụ tạo mà chúng ta tìm thấy nơi Thánh Phanxicô
Assisi, truyền thống linh đạo Kitô giáo cũng đã phát triển một nhận hiểu phong
phú và quân bình về ý nghĩa của lao động, chẳng hạn, như nơi cuộc đời Chân
phước Charles de Foucauld và các môn đệ của ngài”. [150]
270.
Thượng hội đồng đã ghi nhận rằng trong lãnh vực lao động, người trẻ có thể
“kinh nghiệm những hình thức loại trừ và gạt ra rìa, trong đó nghiêm trọng nhất
là tình trạng thất nghiệp của người trẻ, đạt tới những mức quá cao tại một số
quốc gia. Thất nghiệp làm người ta nghèo, nó cũng tác động tiêu cực trên khả
năng ước mơ và hy vọng của người trẻ, và nó tước khỏi họ cơ hội đóng góp cho sự
phát triển xã hội. Tại nhiều nước, tình hình này do bởi một số bộ phận giới trẻ
thiếu những kỹ năng chuyên môn thích đáng, có lẽ vì những khiếm khuyết trong hệ
thống giáo dục và đào tạo. Rất thường, sự mất ổn định về việc làm nơi người trẻ
có nối kết với những lợi nhuận kinh tế bóc lột lao động”. [151]
271.
Đây là một vấn đề phức tạp và tế nhị mà các chính trị gia phải ưu tiên quan
tâm, nhất là hiện nay, khi tốc độ phát triển công nghệ và mối bận tâm giảm chi
phí lao động có thể nhanh chóng dẫn đến việc dùng máy móc thay thế nhân công.
Đây cũng là một vấn đề xã hội nhức nhối, vì công việc làm đối với một người trẻ
đâu chỉ là một phương cách kiếm tiền. Lao động là một thể hiện phẩm giá con
người, một nẻo đường để phát triển và hội nhập xã hội. Nó là một động lực
thường xuyên thúc đẩy lớn lên trong tinh thần trách nhiệm và khả năng sáng tạo,
một sự bảo vệ chống lại xu hướng chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ. Đồng thời, nó
là một cơ hội để tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phát triển các khả năng của
mình.
272.
Người trẻ không luôn luôn có cơ hội để quyết định mình sẽ làm công việc nào,
hay sẽ sử dụng các tài năng của mình như thế nào. Bởi vì, bên cạnh những cảm
hứng của họ, những khả năng và những sự lựa chọn của họ, còn có thực tế khắc
nghiệt của thị trường lao động. Quả thực là các con không thể sống mà không làm
việc, và đôi khi các con phải chấp nhận bất cứ công việc nào có sẵn, nhưng cha
xin các con đừng bao giờ buông bỏ các giấc mơ của mình, đừng bao giờ chôn vùi
hẳn một tiếng gọi, và đừng bao giờ chấp nhận thua cuộc. Hãy tiếp tục tìm kiếm
những cách thức cho dù chưa trọn vẹn để sống điều mà các con đã phân định và
nhận ra đó là tiếng gọi thực sự dành cho mình.
273.
Khi chúng ta khám phá rằng Thiên Chúa đang kêu gọi chúng ta điều gì đó, rằng
việc này hay việc kia chính là ơn gọi của mình – dù đó là công việc điều dưỡng
hay ở xưởng mộc, hay truyền thông, cơ khí, dạy học, mỹ thuật, hay bất cứ loại
công việc nào khác – thì chúng ta sẽ có thể huy động các khả năng tốt nhất của
mình để sẵn sàng hy sinh, quảng đại và cống hiến. Biết rằng chúng ta không làm
việc chỉ để làm việc, nhưng đúng hơn chúng ta trao cho nó ý nghĩa, như một lời
đáp trả tiếng gọi vang vọng trong sâu thẳm hữu thể của mình, tiếng gọi mời
chúng ta cống hiến một cái gì đó cho người khác: đó là điều làm cho những công
việc ấy mang lại một cảm thức mãn nguyện sâu xa. Như chúng ta đọc trong Sách
Giảng Viên của Cựu Ước: “Tôi thấy rằng không có gì tốt hơn là hưởng những thú
vui do công việc chính mình làm ra” (3,22).
Ơn gọi
thánh hiến đặc biệt
274.
Nếu thực sự xác tín rằng Chúa Thánh Thần tiếp tục khơi dậy những ơn gọi linh
mục và tu sĩ, chúng ta có thể “một lần nữa tung lưới” nhân danh Chúa, một cách
hoàn toàn tin tưởng. Chúng ta có thể dám – vì quả thật là cần – khích lệ mỗi
người trẻ tự nhủ phải chăng đây là nẻo đường dành cho họ.
275.
Lúc này hay lúc khác, tôi nêu điều này với các bạn trẻ, và họ trả lời hơi có vẻ
nghịch ngợm: “Ồ không, cái đó không phải cho con!” Nhưng rồi ít năm sau, vài
người trong họ có mặt trong chủng viện. Chúa không thể quên lời Ngài hứa ban
cho Giáo hội các mục tử, vì nếu không có các mục tử thì Giáo hội không thể sống
và thi hành sứ mạng của mình. Nếu quả thực một số linh mục không trao chứng tá
tốt, thì điều đó không hề có nghĩa rằng Chúa ngừng kêu gọi. Trái lại, Ngài đặt
cược gấp đôi, vì Ngài không bao giờ ngừng săn sóc Giáo hội yêu dấu của Ngài.
276.
Trong việc phân định ơn gọi, các con đừng loại trừ khả năng dâng hiến cho Thiên
Chúa trong chức linh mục, trong đời sống tu sĩ hay trong các hình thức thánh
hiến khác. Tại sao không? Các con có thể nắm chắc rằng nếu các con thực sự nhận
ra và đi theo một tiếng gọi của Thiên Chúa, thì các con sẽ tìm thấy sự hoàn
thành cho mình.
277.
Đức Giêsu đang bước đi giữa chúng ta, như Người đã bước đi ở Galilê. Người bước
đi xuyên qua các đường phố chúng ta, và Người lặng lẽ dừng lại, nhìn vào mắt
chúng ta. Tiếng gọi của Người đầy hấp lực và thật thú vị. Nhưng ngày nay sự
căng thẳng và nhịp sống vội vã của một thế giới thường xuyên dội trên chúng ta
những sự kích động có thể không còn chỗ cho sự thinh lặng nội tâm, trong đó
chúng ta có thể cảm nhận ánh nhìn của Đức Giêsu và nghe tiếng gọi của Người.
Trong khi đó, nhiều món hàng được đóng gói rất hấp dẫn đón chờ các con. Chúng
có thể trông thật quyến rũ và đem lại sự phấn khích, nhưng rồi về sau chúng chỉ
để lại nơi các con cảm giác trống rỗng, mệt mỏi và cô đơn. Đừng để điều này xảy
ra với các con, vì dòng xoáy của thế giới có thể kéo các con theo một tuyến
đường không có ý nghĩa thực sự, không có hướng, không có những mục tiêu rõ
ràng, và do đó phá vỡ nhiều cố gắng của các con. Tốt hơn, nên tìm kiếm sự an
tĩnh có thể giúp các con suy tư, cầu nguyện, nhìn ngắm thế giới xung quanh mình
một cách rõ hơn, và rồi với Đức Giêsu, các con nhận ra ơn gọi của mình trong
thế giới này.
***
CHƯƠNG
CHÍN
PHÂN ĐỊNH
278.
Trong Tông huấn Hãy Vui
Mừng Hoan Hỉ (Gaudete et Exsultate), tôi đã nói cách hơi khái
quát về phân định. Ở đây tôi muốn lấy lại một số suy tư ấy và áp dụng chúng cho
cách chúng ta phân định ơn gọi của mình trong thế giới.
279.
Tôi đã đề cập rằng tất cả chúng ta, “nhất là những người trẻ, bị nhận chìm
trong một nền văn hóa vồ vập hối hả. Chúng ta có thể cùng một lúc lướt qua hai
hay ba màn hình và tương tác đồng thời với hai hay ba chuyện ảo. Không có sự
khôn ngoan phân định, chúng ta dễ dàng trở thành mồi ngon cho mọi trào lưu rẻ
tiền”. [152] Thật vậy, “điều này càng quan trọng hơn khi một cái gì mới mẻ bỗng
xuất hiện trong đời sống. Bấy giờ chúng ta phải xác định xem nó có phải là rượu
mới do Thiên Chúa đem lại, hay chỉ là một ảo ảnh đánh lừa được tạo ra bởi tinh
thần thế tục hay tinh thần của ma quỉ”. [153]
280. Sự
phân định như thế, “ngay cả dù nó bao gồm lý trí và sự khôn ngoan, nó vẫn vượt
quá những điều ấy, vì nó tìm cách để có một cái nhìn thoáng kế hoạch nhiệm mầu
và độc đáo mà Thiên Chúa định cho mỗi chúng ta… Nó liên hệ tới ý nghĩa cuộc
sống của tôi trước mặt Chúa, Đấng biết và yêu tôi, và liên hệ tới mục đích thực
sự của đời tôi, mà không ai biết rõ hơn chính Chúa”. [154]
281. Ở
đây chúng ta thấy tầm quan trọng của việc đào tạo lương tâm, nó cho phép sự
phân định trở nên thâm sâu hơn và trung tín hơn với Thiên Chúa: “Đào tạo lương
tâm của chúng ta là công việc của cả đời, trong đó chúng ta học phát huy chính
những cảm thức của Đức Giêsu Kitô, vận dụng các tiêu chuẩn ẩn sau các sự chọn
lựa của Người, và những ý hướng đằng sau các hành động của Người (x. Pl 2,5)”.
[155]
282.
Trong tiến trình đào tạo này, chúng ta cho phép chính mình được biến đổi bởi
Đức Kitô, ngay cả khi chúng ta phát triển “thói quen làm điều tốt, cũng là một
phần của việc khảo sát lương tâm mình. Chúng ta không chỉ nhận diện tội lỗi, mà
cũng nhận ra hoạt động của Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày của mình, trong
các biến cố của lịch sử đời mình và của thế giới xung quanh, và trong chứng tá
của tất cả những người nam nữ đi trước chúng ta hay đồng hành với chúng ta với
sự khôn ngoan của họ. Điều này giúp chúng ta lớn lên trong đức khôn ngoan và
đem lại một chiều hướng chung cho đời sống chúng ta xuyên qua những sự chọn lựa
cụ thể, trong ý thức rõ ràng cả về những ân ban lẫn những giới hạn của mình”.
[156]
Phân
định ơn gọi của bạn
283.
Một hình thức đặc biệt của phân định, đó là việc cố gắng khám phá ra ơn gọi của
mình. Vì đây là một quyết định rất riêng tư mà người khác không thể làm cho
chúng ta, nó đòi một mức cô tịch và thinh lặng nào đó. “Chúa nói với chúng ta
bằng nhiều cách, ví dụ, tại sở làm, qua những người khác, và vào bất cứ lúc
nào. Nhưng rõ ràng chúng ta cần có sự thinh lặng của việc cầu nguyện thâm sâu,
trong đó chúng ta dễ nắm hiểu tiếng nói của Chúa hơn, dễ diễn dịch ý nghĩa thực
của những gợi ý mà ta tin rằng mình nhận được, dễ xua tan những lo lắng của
mình và nhìn thấy toàn thể hiện hữu của mình cách mới mẻ trong ánh sáng của
Chúa”. [157]
284.
Nhưng sự thinh lặng này không làm cho chúng ta đóng lại nơi chính mình. “Chúng
ta phải nhớ rằng việc phân định trong bầu khí cầu nguyện phải xuất phát từ một
thái độ sẵn sàng lắng nghe: nghe Chúa, nghe người khác, và lắng nghe chính thực
tại, vốn luôn thách đố chúng ta bằng những cách mới mẻ. Chỉ khi chúng ta đã sẵn
sàng lắng nghe, thì chúng ta mới có đủ tự do để gác qua một bên những ý tưởng
bất cập hay phiến diện của mình… Nhờ đó, chúng ta trở nên thực sự mở lòng ra để
đón nhận một tiếng gọi có thể làm xáo trộn sự an toàn của mình, nhưng dẫn mình
tới một đời sống tốt hơn. Thật không đủ duy chỉ sự kiện rằng mọi sự êm xuôi và
ổn thỏa. Thiên Chúa có thể trao cho chúng ta một cái gì đó hơn thế, nhưng nếu
cứ không chú tâm, thì chúng ta không thể nhận ra”. [158]
285.
Khi tìm cách phân định ơn gọi của chúng ta, có một số câu hỏi ta phải đặt ra.
Chúng ta không nên bắt đầu với việc tự hỏi ở đâu mình có thể kiếm thêm tiền,
hay đạt được danh tiếng và địa vị xã hội cao hơn. Thậm chí cũng không nên hỏi
loại công việc nào sẽ làm mình vui thích nhất. Nếu không muốn đi lạc, chúng ta
cần một điểm xuất phát khác. Chúng ta cần hỏi: Tôi có biết chính mình, ngoài
những ảo tưởng và những cảm xúc của mình không? Tôi có biết cái gì đem lại niềm
vui hay nỗi buồn cho lòng mình không? Đâu là những điểm mạnh và những điểm yếu
của tôi? Những câu hỏi này ngay lập tức khơi lên những câu hỏi khác: Bằng cách
nào tôi có thể phục vụ người khác tốt hơn và cho thấy mình có ích nhất cho thế
giới và cho Giáo hội? Đâu là chỗ thực sự của tôi trong thế giới này? Tôi có thể
cống hiến gì cho xã hội? Những câu hỏi thậm chí hiện thực hơn sẽ theo sau: Tôi
có các khả năng cần thiết để cống hiến loại phục vụ này không? Tôi có thể phát
triển những khả năng ấy không?
286.
Những câu hỏi này nên tập trung ít hơn về chính mình và những xu hướng của
mình, nhưng về người khác, để cho việc phân định sẽ giúp chúng ta nhìn đời sống
của mình trong liên hệ đến đời sống của họ. Đó là lý do tại sao cha muốn nhắc
các con về câu hỏi quan trọng nhất trong tất cả. “Rất thường trong đời sống,
chúng ta phí thời gian để tự hỏi ‘Tôi là ai?’ Các con có thể tiếp tục hỏi mãi
‘Tôi là ai?’ trong suốt cuộc sống còn lại của mình. Nhưng câu hỏi thực là: ‘Tôi
sống cho ai?’”. [159] Dĩ nhiên, các con sống cho Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã
quyết định rằng các con phải sống cho tha nhân nữa, và Ngài đã ban cho các con
nhiều phẩm chất, khuynh hướng, ân ban và đặc sủng không phải cho các con, nhưng
để chia sẻ cho anh chị em xung quanh các con.
Tiếng
gọi của Đức Giêsu, bạn của chúng ta
287. Để
phân định ơn gọi của mình, chúng ta phải nhận ra rằng đó là tiếng gọi từ một
người bạn, là Đức Giêsu. Khi chúng ta trao tặng cái gì cho các bạn mình, chúng
ta trao cho họ cái tốt nhất mình có. Đó sẽ không nhất thiết là cái gì đắt tiền
nhất hay khó sắm nhất, nhưng là cái mà chúng ta biết sẽ làm họ vui thích. Những
người bạn rất nhạy về điều này đến nỗi họ có thể hình dung nụ cười trên khuôn
mặt bạn mình khi mở món quà. Loại phân định thường diễn ra giữa những người bạn
như thế chính là điều cha đề nghị các con lấy làm kiểu mẫu cho việc khám phá
thánh ý Thiên Chúa trên cuộc đời các con.
288.
Cha muốn các con biết rằng khi Chúa nghĩ về mỗi người các con và về điều Ngài
muốn ban cho các con, Ngài xem các con như bạn thân thiết của Ngài. Và nếu Ngài
có kế hoạch ban cho các con một ơn, một đặc sủng sẽ giúp các con sống tận lực
và trở thành một người hữu ích cho người khác, một người để lại một dấu ấn
trong đời sống, thì đó chắc chắn sẽ là một ân ban có sức đem lại cho các con
niềm vui và niềm phấn khích hơn bất cứ gì khác trên thế giới này. Đấy chẳng
phải bởi vì ân ban ấy hiếm hoi hay phi thường, nhưng bởi vì nó sẽ hoàn toàn phù
hợp với các con. Nó sẽ hoàn toàn khớp với toàn thể đời sống các con.
289. Ơn
gọi là một ân ban, nhưng rõ ràng nó cũng là đòi hỏi nữa. Các quà tặng của Thiên
Chúa có tính tương tác; để cảm thụ chúng, ta phải sẵn sàng mạo hiểm. Nhưng
những đòi hỏi ở đây không phải là một sự bắt buộc được áp đặt từ bên ngoài, mà
là một sự thúc đẩy cho phép ân ban ấy lớn lên và phát triển, rồi sẽ trở thành
một quà tặng cho người khác. Khi Chúa đánh thức một ơn gọi, Ngài không chỉ nghĩ
về con người của bạn cho đến nay, nhưng Ngài nghĩ về điều mà bạn sẽ trở thành,
trong sự bầu bạn của Ngài và của người khác.
290.
Sức sống mãnh liệt và nghị lực của nhân cách kết hợp lại trong trái tim người
trẻ để thúc đẩy họ không ngừng hướng lên cao hơn. Sinh lực dồi dào này sẽ được
tôi luyện bởi thời gian và bởi những kinh nghiệm đau đớn, nhưng “niềm khát khao
này đối với cái vô hạn, một niềm khát khao mang chất trẻ và chưa được kiểm
chứng” [160], cần phải gặp gỡ tình bạn vô điều kiện mà Đức Giêsu mời gọi chúng
ta. Không đơn giản chỉ là những qui tắc và bổn phận, sự chọn lựa mà Đức Giêsu
đặt ra trước chúng ta hệ tại ở việc đi theo Người, như những người bạn đi theo
nhau, tìm kiếm sự bầu bạn của nhau và dành thời gian với nhau, được thúc đẩy
bởi tình bạn tinh thuần. Mọi sự khác sẽ đến trong quá trình, và ngay cả những
thất bại trong đời sống cũng có thể là một cách rất giá trị để kinh nghiệm cái
tình bạn không bao giờ đánh mất ấy.
Lắng
nghe và đồng hành
291. Có
nhiều linh mục, nam nữ tu sĩ, giáo dân, các chuyên viên, và cả những người trẻ
có năng lực có thể giúp các bạn trẻ trong việc phân định ơn gọi. Khi chúng ta
được mời gọi giúp những người khác phân định đường đời, thì điều vô cùng quan
trọng là khả năng lắng nghe. Khả năng lắng nghe yêu cầu phải có ba loại nhạy
cảm có tính bổ sung cho nhau:
292.
Loại nhạy cảm thứ nhất hướng về cá nhân người ấy. Điều quan trọng ở đây là lắng
nghe một người đang chia sẻ chính con người của họ. Một dấu hiệu của sự sẵn
sàng lắng nghe, đó là sự sẵn sàng dành thời gian cho người khác. Không chỉ là
lượng thời gian tôi bỏ ra, đây là chuyện làm cho người khác cảm thấy rằng thời
gian của tôi là thời gian của họ, rằng họ có tất cả thời gian họ cần để nói mọi
sự mà họ muốn. Người ấy phải cảm thấy rằng tôi đang lắng nghe một cách vô điều
kiện, không khó chịu hay bị sốc, không mệt mỏi hay chán chường. Chúng ta thấy
ví dụ về loại lắng nghe này nơi Chúa; Người bước đi với các môn đệ trên đường
về Emmau, ngay cả dù họ đang đi sai hướng (x. Lc 24,13-35). Khi Đức Giêsu nói
Người sẽ đi xa hơn, họ nhận ra rằng Người đã trao cho họ món quà là thời gian
của Người, vì thế họ quyết định đáp lại Người bằng chính thời gian của họ, qua
việc cống hiến lòng hiếu khách. Sự lắng nghe cách hoàn toàn chú tâm là một dấu
hiệu của lòng tôn trọng đối với người khác, bất kể các ý kiến và các sự chọn
lựa của họ trong đời là gì.
293.
Loại nhạy cảm thứ hai được đánh dấu bởi phân định. Nó cố nắm hiểu chính xác ơn
phúc hay sự cám dỗ đang có mặt ở đâu, vì đôi khi những thứ lướt ngang qua tâm
trí chúng ta chỉ là những cám dỗ có thể kéo ta ra khỏi lối đi đích thực. Tôi
cần tự hỏi người kia đang muốn nói với tôi điều gì, họ muốn tôi nhận biết điều
gì đang xảy ra trong đời sống của họ. Việc hỏi những câu hỏi như thế sẽ giúp
tôi trân trọng suy nghĩ của họ và những tác động của nó trên cảm xúc của họ.
Loại lắng nghe này muốn phân định những gợi ý bổ ích của Thần khí tốt lành,
giúp ta đón nhận sự thật của Chúa, nhưng cũng phân định các cạm bẫy do thần dữ
đặt ra, tức những hành động và những hứa hẹn trống rỗng của nó. Cần có sự dũng
cảm, nồng nhiệt và tinh tế để giúp người khác phân biệt sự thật khỏi những ảo
tưởng hay những bao biện lấp liếm.
294.
Loại nhạy cảm thứ ba là khả năng cảm nhận điều gì đang thúc đẩy người kia. Khả
năng này cần một sự lắng nghe sâu xa hơn, có thể phân định chiều hướng mà người
ấy thật sự muốn bước đi. Vấn đề không phải là họ cảm thấy gì hay nghĩ gì lúc
này, cũng không phải là điều gì đã xảy ra trong đời họ cho tới nay, vấn đề thực
sự là họ muốn trở thành gì. Điều này đòi hỏi họ khảo sát không phải những ước
mơ và khao khát hời hợt của mình, nhưng thay vào đó họ cần xem xét điều gì làm
vui lòng Chúa nhất, tức xem xét các kế hoạch của Chúa cho cuộc đời họ. Và điều
đó được thấy trong một sự nghiêng chiều sâu xa hơn của tâm hồn, vượt quá những
gì họ thích hay cảm giác ở mặt ngoài. Loại lắng nghe này nhằm phân định ý hướng
cuối cùng của người ta, cái ý hướng có vai trò quyết định dứt khoát ý nghĩa đời
sống của họ. Đức Giêsu biết và trân trọng cái ý hướng cuối cùng này của tâm
hồn. Người luôn luôn ở đó, sẵn sàng trợ giúp mỗi chúng ta nhận ra nó. Chúng ta
cần nói với Người: “Lạy Chúa, xin cứu con! Xin thương xót con!”
295.
Bằng cách ấy, sự phân định trở thành một phương tiện thực sự của cuộc chiến đấu
thiêng liêng, giúp chúng ta đi theo Chúa cách trung tín hơn. [161] Khát vọng
hiểu biết ơn gọi của mình, như vậy, có một cường độ vô cùng mãnh liệt, có một
phẩm chất khác và ở bình diện cao hơn, khát vọng ấy tôn trọng phẩm giá con
người chúng ta và cuộc đời chúng ta nhiều hơn. Cuối cùng, sự phân định tốt là
một nẻo đường tự do có sức đem lại hoa trái mỹ mãn cho những gì là độc đáo nơi
mỗi người, một cái gì đó riêng tư đến nỗi chỉ có Thiên Chúa biết. Người khác
không thể hiểu hết, cũng không thể đoán trước từ bên ngoài về cách mà khát vọng
ấy sẽ được phát triển.
296.
Khi chúng ta lắng nghe người khác theo cách này, vào một lúc nào đó chính chúng
ta phải biến đi để cho phép người kia đi theo nẻo bước mà họ đã khám phá. Chúng
ta phải biến đi như Chúa đã biến đi khỏi ánh nhìn của các môn đệ Emmau, để họ
lại một mình, với trái tim bừng cháy và với khao khát mãnh liệt muốn lên đường
ngay lập tức (x. Lc 24,31-33). Khi trở lại với cộng đoàn, hai môn đệ Emmau đã
nghe xác nhận tin vui rằng Chúa đã sống lại thực (x. Lc 24,34).
297.
Bởi vì “thời gian quan trọng hơn không gian”, [162] chúng ta cần khích lệ và
đồng hành với các tiến trình, mà không áp đặt các bản đồ lộ trình của chúng ta.
Vì những tiến trình ấy liên hệ đến những con người luôn mãi độc đáo và tự do.
Không hề có công thức dễ dàng, ngay cả khi mọi dấu hiệu dường như tích cực, “vì
chính các yếu tố tích cực cũng cần được phân định kỹ, để chúng không trở thành
cô lập và mâu thuẫn nhau, trở thành những cái hoàn toàn rời rạc và không ăn
khớp với nhau. Điều tương tự cũng đúng đối với các yếu tố tiêu cực, vốn không
nên bị loại bỏ trọn gói mà không phân biệt, vì trong mỗi yếu tố ấy vẫn có thể
tàng ẩn một giá trị nào đó chờ được giải phóng và được phục hồi sự thật đầy đủ
của nó”. [163]
298.
Nếu bạn muốn đồng hành với những người khác trên con đường này, bạn phải là
người đầu tiên bước đi trên con đường, ngày này qua ngày khác. Đó là điều Đức
Maria đã làm, trong tuổi trẻ của ngài, khi đối diện với những dấu hỏi và những
khó khăn của riêng mình. Xin Mẹ canh tân sự tươi trẻ của các con, nhờ quyền lực
chuyển cầu của Mẹ, và xin Mẹ luôn đồng hành với các con bằng sự hiện diện từ
mẫu của Mẹ.
Để kết
luận, một ước mong…
299.
Các bạn trẻ thân mến, cha khấp khởi hy vọng nhìn thấy các con tiếp tục chạy
trên đường đua phía trước các con, vượt qua tất cả những ai chậm chạp hay sợ
hãi. Hãy chạy tiếp, “bằng lực hút từ khuôn mặt Đức Kitô, Đấng mà chúng ta rất
yêu mến, Đấng mà chúng ta tôn thờ trong Thánh Thể, và Đấng mà chúng ta nhận ra
trong tấm thân các anh chị em đau khổ của mình. Xin Chúa Thánh Thần thúc đẩy
các con trong cuộc chạy đua này. Giáo hội cần sức mạnh, trực giác và đức tin
của các con. Chúng ta cần những điều ấy! Và khi các con đi tới nơi mà cha và
mọi người khác chưa đạt tới, thì các con hãy kiên nhẫn chờ đợi nhé”. [164]
Ban
hành tại Loreto, Đền thờ Nhà Thánh,
ngày 25 tháng 3, Lễ Truyền Tin,
năm 2019,
năm thứ bảy triều Giáo hoàng
của tôi.
Phanxicô
________________________________________
[1] Từ Hy lạp, thường được dịch
là “mới”, cũng có nghĩa là “trẻ”.
[2] Tự thú, X, 27: PL 32, 795.
[3] Thánh Irênê, Chống lạc
giáo, 22, 4: PG 7, 784.
[4] Tài liệu Chung kết Hội nghị
Toàn thể Thường kỳ thứ 15 của Hội đồng Giám mục, 60. Sẽ ký hiệu là FD. Tài liệu
có thể được tìm thấy ở:
http://www.vatican.va/roman_curia/synod/documents/rc_synod_doc_20181027_doc-final-instrumentum-xvassemblea-giovani_en.html.
[5] Giáo lý Giáo hội Công giáo,
515.
[6] Ibid., 517.
[7] Bài Giáo lý (27.6.1990),
2-3: Insegnamenti 13, 1 (1990), 1680-1681.
[8] Tông huấn Hậu Thượng hội
đồng Amoris Laetitia (19.3.2016), 182: AAS 108 (2016), 384.
[9] FD 63
[10] Công đồng Vatican II, Sứ
điệp cho Giới trẻ (7.12.1965): AAS 58 (1966), 18.
[11] Ibid.
[12] FD 1
[13] Ibid., 8.[14] Ibid., 50.
[15] Ibid., 53
[16] Cf. Công đồng Vatican II,
Hiến chế Dei Verbum, 8.
[17] FD 150.
[18] Bài nói chuyện tại buổi
Canh thức với Giới trẻ , Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV ở Panama
(26.01.2019): L’Osservatore Romano, 28-29.01.2019, 6.
[19] Lời nguyện Kết thúc Đàng
Thánh Giá , Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV ở Panama (26.01.2019):
L’Osservatore Romano, 27.01.2019, 12.
[20] FD 65.
[21] Ibid., 67.
[22] Thánh Gioan Phaolô II, Nói
chuyện với Giới trẻ ở Turin (13.4.1980), 4: Insegnamenti 3, 1 (1980), 905.
[23] Giáo hoàng Biển Đức XVI,
Sứ điệp cho Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ (15.3.2012): AAS 194 (2012), 359.
[24] FD 8.
[25] Ibid.
[26] Ibid., 10.
[27] Ibid., 11.
[28] Ibid., 12.
[29] Ibid., 41.
[30] Ibid., 42.
[31] Nói chuyện với Giới trẻ ở
Manila (18.01.2015): L’Osservatore Romano, 19-20.01.2015, 7.
[32] FD 34.
[33] Tài liệu họp Trù bị chuẩn
bị cho Hội nghị Tòan thể Thường kỳ thứ 15 của Thượng Hội đồng Giám mục, Rome
(24.3.2018), I, 1.
[34] FD 39.
[35] Ibid., 37.
[36] Cf. Thông điệp Laudato Si’
(24.5.2015), 106: AAS 107 (2015), 889-890.
[37] FD 37.
[38] Ibid., 67.
[39] Ibid., 21.
[40] Ibid., 22.
[41] Ibid., 23.
[42] Ibid., 24.
[43] Tài liệu họp Trù bị chuẩn
bị cho Hội nghị Tòan thể Thường kỳ thứ 15 của Thượng Hội đồng Giám mục, Rome
(24.3.2018), I, 4.
[44] FD 25.
[45] Ibid.
[46] Ibid., 26.
[47] Ibid., 27.
[48] Ibid., 28.
[49] Ibid., 29.
[50] Diễn văn Bế mạc Hội nghị
về Bảo vệ Người Vị Thành Niên trong Giáo hội (24.02.2019): L’Osservatore
Romano, 25-26.02.2019, 10.
[51] FD 29.
[52] Thư gửi Dân Chúa
(20.8.2018), 2: L’Osservatore Romano, 21-21.8.2018, 7.
[53] FD 30.
[54] Diễn văn Khai mạc Hội nghị
Tòan thể Thường kỳ thứ 15 của Thượng Hội đồng Giám mục (3.10.2018): L’Osservatore
Romano, 5.10.2018, 8.
[55] FD 31.
[56] Ibid.
[57] Công đồng Vatican II, Hiến
chế Gaudium et Spes, 1.
[58] FD 31.
[59] Ibid.
[60] Diễn văn Bế mạc Hội nghị
về Bảo vệ Người Vị Thành Niên trong Giáo hội (24.02.2019): L’Osservatore
Romano, 25-26.02.2019, 11.
[61] FRANCISCO LUIS BERNÁRDEZ,
“Soneto”, trong Cielo de tierra, Buenos Aires, 1937.
[62] Tông huấn Gaudete et
Exsultate (19.3.2018), 140.
[63] Bài giảng Thánh lễ, Ngày
Giới trẻ Thế giới lần thứ 31 tại Krakow: AAS 108 (2016), 963.
[64] Diễn văn Khai mạc , Ngày
Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV ở Panama (26.01.2019): L’Osservatore Romano,
26.01.2019, 12.
[65] Tông huấn Evangelii
Gaudium (24.11.2013), 1: AAS 105 (2013), 1019.
[66] Ibid., 3: AAS 105 (2013),
1020.
[67] Bài nói chuyện tại buổi
Canh thức với Giới trẻ , Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV ở Panama
(26.01.2019): L’Osservatore Romano, 28-29.01.2019, 6.
[68] Bài nói chuyện tại Cuộc
Gặp gỡ Giới trẻ trong thời gian Thượng hội đồng (6.10.2018): L’Osservatore
Romano, 8-9.10.2018, 7.
[69] Giáo hoàng Biển Đức XVI,
Thông điệp Deus Caritas Est (25.12.2005), 1: AAS 98 (2006), 217.
[70] PEDRO ARRUPE, Enamórate.
[71] Thánh Phaolô VI, Nói
chuyện dịp Tuyên Chân phước Nunzio Sulprizio (1.12.1963): AAS 56 (1964), 28.
[72] FD 65.
[73] Bài giảng Thánh lễ với Giới
trẻ tại Sydney (2.12.1970): AAS 63 (1971), 64.
[74] Tự thú, I, 1, 1: PL 32,
661.
[75] Thiên Chúa trẻ trung. Thảo
luận với Thomas Leoncini, New York, Random House, 2018, 4.
[76] FD 68.
[77] Họp mặt Giới trẻ tại
Cagliari (22.9.2013): AAS 105 (2013), 904-905.
[78] Năm Chiếc Bánh và Hai Con
Cá, Pauline Books and Media, 2003, pp. 9, 13.
[79] Hội Đồng Giám mục Thụy Sĩ,
Hãy dành thời gian: cho bạn, cho tôi, cho chúng ta, 2.02.2018.
[80] Cf. Thánh Tôma Aquino,
Summa Theologiae, II-II, q. 23, art. 1.
[81] Nói chuyện với các Thiện
nguyện viên , Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV ở Panama (27 January 2019):
L’Osservatore Romano, 28-29.01.2019, 11.
[82] Thánh Oscar Romero, Giảng
lễ (6.11.1977), trong Su Pensamiento, I-II, San Salvador, 2000, p. 312.
[83] Diễn văn Khai mạc Ngày
Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV ở Panama (24.01.2019): L’Osservatore Romano,
26.01.2019, 12.
[84] Cf. Gặp gỡ Giới trẻ tại
Đền thánh Quốc gia Maipú, Santiago de Chile (17.01.2018): L’Osservatore Romano,
19.01.2018, 7.
[85] Cf. ROMANO GUARDINI, Die
Lebensalter. Ihre ethische und pädagogische Bedeutung, Würzburg, 3rd ed., 1955,
20.
[86] Tông huấn Gaudete et
Exsultate (19.3.2018), 11.
[87] Khúc Linh Ca, Red. B,
Prologue, 2.
[88] Ibid., XIV-XV, 2.
[89] Hội đồng Giám mục Rwanda,
Thư của các Giám mục Công giáo Rwanda gửi các Kitô hữu trong Năm thánh ngoại
thường Hòa giải, Kigali (18.01.2018), 17.
[90] Bài chào mừng Giới trẻ của
Cha Félix Varela Trung tâm Văn hóa ở Havana (20.9.2015): L’Osservatore Romano,
21-22.9.2015, 6.
[91] FD 46.
[92] Nói chuyện tại Buổi Canh
thức Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXVIII tại Rio de Janeiro (27.7.2013): AAS
105 (2013), 663.
[93] Ustedes son la luz del
mundo. Address in Cerro San Cristóbal, Chile, 1940. Bản văn có thể được tìm
thấy ở: https://www.padrealbertohurtado.cl/escritos-2/.
[94] Giảng lễ tại Ngày Giới trẻ
Thế giới lần thứ XXVIII tại Rio de Janeiro (28.7.2013): AAS 105 (2013), 665.
[95] Hội đồng Giám mục Hàn
Quốc, Thư Mục vụ dịp Kỷ niệm 150 năm cuộc Tuẫn đạo trong thời bách hại
Byeong-in (30.3.2016).
[96] Cf. Giảng lễ tại Ngày Giới
trẻ Thế giới lần thứ XXXIV ở Panama (27.01.2019): L’Osservatore Romano,
28-29.01.2019, 12.
[97] “Lạy Chúa, xin hãy biến
con nên một kênh chuyển thông hòa bình của Chúa”, Lời nguyện được gán cho Thánh
Phanxicô Assisi.
[98] Nói chuyện tại Buổi Canh
thức Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV ở Panama (26.01.2019): L’Osservatore
Romano, 28-29.01.2019, 6.
[99] FD 14.
[100] Cf. Thông điệp Laudato
Si’ (24 May 2015), 145: AAS 107 (2015), 906.
[101] Sứ điệp Video cho Đại hội
Giới trẻ Thổ dân Thế giới tại Panama (17-21.01.2019): L’Osservatore Romano,
19.01.2019, 8.
[102] FD 35.
[103] Cf. Ad Adolescentes, I,
2: PG 31, 566.
[104] Cf. Giáo hoàng Phanxicô
và Các Bạn, Chia sẻ sự Khôn ngoan của Thời gian, Chicago, Loyola Press, 2018.
[105] Ibid., 12.
[106] Ibid., 13.
[107] Ibid.
[108] Ibid.
[109] Ibid., 162.
[110] EDUARDO PIRONIO, Sứ điệp
cho Giới trẻ Argentina (12-15.9.1985), 2.
[111] FD 123.
[112] Das Wesen des
Christentums. Die neue Wirklichkeit des Herrn, Mainz, 7th ed., 1991, 14.
[113] No. 165: AAS 105 (2013),
1089.
[114] Nói chuyện tại chuyến
viếng thăm Casa Hogar del Buen Samaritano, Panamá, (27.01.2019): L’Osservatore
Romano, 28-29.01.2019, 10.
115] FD 36.
[116] Cf. Tông hiến Veritatis
Gaudium (8.12.2017), 4: AAS 110 (2018), 7-8.
[117] Nói chuyện tại Cuộc gặp
gỡ Sinh viên Học sinh và các Đại biểu Thế giới Học thuật tại Piazza San
Domenico, Bologna (1.10.2017): AAS 109 (2017), 1115.
[118] FD 51.
[119] Ibid., 47.
[120]Sermo 256, 3: PL 38, 1193.
[121] FD 47.
[122] Nói chuyện với một Phái
đoàn Olympic Đặc biệt Quốc tế (16.02.2017): L’Osservatore Romano, 17.02.2017,
8.
[123] Ad Adolescentes, VIII,
11-12: PG 31, 580.
[124] Hội đồng Giám mục
Argentina, Declaración de San Miguel, Buenos Aires, 1969, X, 1.
[125] RAFAEL TELLO, La nueva
evangelización, II (Appendices I and II), Buenos Aires, 2013, 111.
[126] Cf. Tông huấn Evangelii
Gaudium (24.11.2013), 44-45: AAS 105 (2013), 1038-1039.
[127] FD 70.
[128] Ibid., 117.
[129] Ibid., 4.
[130] Tông huấn Evangelii
Gaudium (24.11.2013), 124: AAS 105 (2013), 1072.
[131] Ibid., No. 122, 1071.
[132] FD 9.
[133] Tài liệu họp Trù bị chuẩn
bị cho Hội nghị Tòan thể Thường kỳ thứ 15 của Thượng Hội đồng Giám mục, Rome
(24.3.2018), 12.
[134] Ibid., 10.
[135] FD 15.
[136] Tông huấn Gaudete et
Exsultate (19.3.2018), 2.
[137] Hiến chế Lumen Gentium,
11.
[138] Bài nói chuyện tại buổi
Canh thức với Giới trẻ , Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXXIV ở Panama
(26.01.2019): L’Osservatore Romano, 28-29.01.2019, 6.
[139] Tông huấn Evangelii
Gaudium (24 November 2013), 273: AAS 105 (2013), 1130.
[140] Thánh Phaolô VI, Thông
điệp Populorum Progressio (26.3.1967), 15: AAS 59 (1967), 265.
[141] Meditación de Semana
Santa para jóvenes, viết trên một tàu chở hàng khi trở về từ Mỹ năm 1946. Bản
văn có thể được tìm thấy tại: https://www.padrealbertohurtado.cl/escritos-2/.
[142] Gặp gỡ Giới trẻ Umbria ở
Assisi (4.10.2013): 105 (2013), 921.
[143] Tông huấn Hậu Thượng hội
đồng Amoris Laetitia (19.3.2016), 150: AAS 108 (2016), 369.
[144] Nói chuyện với Giới trẻ
Giáo phận Grenoble-Vienne (17.9.2018): L’Osservatore Romano, 19.9.2018, 8.
[145] FD 32.
[146] Gặp gỡ các Thiện nguyện
viên Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXVIII tại Rio de Janeiro (28.7.2013):
Insegnamenti 1, 2 (2013), 125.
[147] Hội đồng Giám mục
Colombia, Sứ điệp Kitô giáo về Hôn Nhân(14.5.1981).
[148] Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ,
Con cái của Ánh sáng: Một kế hoạch mục vụ cho Sứ vụ với Người ở ngưỡng trưởng
thành, 12.11.1996, Phần I, 3.
[149] Thọng điệp Laudato Si’
(24.5.2015), 128: AAS 107 (2015), 898.
[150] Ibid., 125: AAS 107
(2015), 897.
[151] FD 40.
[152] Tông huấn Gaudete et
Exsultate (19.3.2018), 167.
[153] Ibid., 168.
[154] Ibid., 170.
[155] FD 108.
[156] Ibid.
[157] Tông huấn Gaudete et
Exsultate (19.3.2018), 171.
[158] Ibid., 172.
[159] Bài nói chuyện của Giáo
hoàng Phanxicô tại Buổi Cầu nguyện Canh thức chuẩn bị cho Ngày Giới trẻ Thế
giới lần thứ XXXIV, Đền thờ Đức Bà Cả (8.4.2017): AAS 109 (2017), 447.
[160] ROMANO GUARDINI, Die
Lebensalter. Ihre ethische und pädagogische Bedeutung, Würzburg, 3rd ed., 1955,
20.
[161]Cf. Tông huấn Gaudete et
Exsultate (19.3.2018), 169.
[162] Tông huấn Evangelii
Gaudium (24.11.2013), 222: AAS 105 (2013), 1111.
[163] Thánh Gioan Phaolô II,
Tông huấn Pastores Dabo Vobis (25.3.1992), 10: AAS 84 (1992), 672.
[164] Cầu nguyện Canh thức với
Giới trẻ Ý (11.8.2018): L’Osservatore Romano, 13-14.8.2018, 6.