BÀI 2
III
Nét vẻ riêng biệt của Đức
Thánh Cha Beneđictô trong Tông huấn « Bí Tích Tình Yêu »
Tông Huấn này là của Đức Thánh Cha và do
Đức Thánh Cha công bố cho toàn thể Giáo hội. Tuy nhiên chúng ta có thể nhận ra
trong đó lối suy tư thần học và trình bày giáo huấn theo cách riêng của Ngài.
Điều này cũng áp dụng cho các vị Giáo hoàng tiền nhiệm của Ngài[2]. Để giúp đọc
Tông huấn « Bí Tích Tình Yêu », chúng ta thử đưa ra một vài điểm cho
thấy cách suy tư cũng như cách trình bày của Đức Thánh Cha Beneđictô XVI. Văn
là người, cách trình bày cùng một vấn đề, nhưng mỗi người có phương pháp, cách
diễn đạt khác nhau. Vậy đâu là những nét vẻ đặc biệt của cách trình bày của Đức
đương kim Giáo hoàng.
1) Trước tiên chúng ta nhận ra nét vẻ
riêng biệt của lối trình bày giáo huấn như trong cách xếp đặt bố cục của văn
kiện mà chúng ta vừa nói trên đây : đi từ giáo huấn, tới áp dụng vào thực
tế của con người. Mà thực tế này bao gồm mọi khía cạnh của đời sống con
nguời : đi từ tâm linh, đến thể xác, lý trí, ý chí, văn hóa, xã hội, kinh
tế, cảnh nghèo đói, túng thiếu, những cảnh bóc lột, thiếu công bằng, những vấn
đề môi sinh của thế giới. Sau này khi đọc từng phần, chúng ta sẽ nhận ra điều
này cách rõ ràng hơn.
Thông Điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” gồm
hai phần :
Phần I (ss. 2-18) : sự thống nhất của
tình yêu trong sáng tạo và lịch sử cứu độ.
Phần II (ss. 19- 39), nói về tình yêu
qua hoạt động bác ái của Hội thánh như là một cộng đoàn của tình yêu.
Tông Huấn “Bí Tích Tình Yêu” gồm ba
phần :
Phần I : Mầu nhiệm để tin (ss. 6-33)
Phần II : Mầu nhiệm để cử hành (ss.
34-69)
Phần III : Mầu nhiệm để sống (ss.
70-94).
Trong Tông Huấn này, chúng ta có thể coi
phần I và Phần II như là phần trình bày về giáo huấn liên hệ tới Bí tích Thánh
Thể ; còn phần II và III nói về Thánh Thể cũng như thực hành và các áp
dụng trong cuộc sống giữa các thực tại trần gian :
Chúng ta lưu ý nhiều hơn về bản liệt kê
các thực tại trần gian được Đức Giáo Hoàng Beneđictô XVI đề cập tới trong hai
văn kiện.
Trong Thông Điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu”,
chúng ta nhận ra Đức Thánh Cha đã đề cập tới các thực tại trần gian sau
đây : các hoạt động bác ái cụ thể (s. 19) ; đau khổ (s. 19), nhu cầu
vật chất và tinh thần (s. 19) ; của cải (s. 20) ; nghèo đói (s.
20) ; túng quẫn (s. 22. 25)) ; nhân phẩm (s. 20) ; sự bình đẳng
(s. 21), cảnh góa bụa (s. 21) ; cảnh mồ côi (s. 21) ; tù tội (s. 22),
bệnh tật (s. 22) ; công bằng (s. 26) ; trật tự xã hội (s. 26) ;
lao động (s. 26) ; lương bổng (s. 26) ; tư bản (s. 26) ; quyền
lợi (s. 26) ; sự bóc lột người nghèo (s. 26) ; công bằng xã hội (s.
27) ; giáo dục (s. 27) ; vấn đề xã hội (s. 27) ; cuộc cách mạng
thế giới (s. 27) ; việc tập thể hóa (s. 27) ; con người và thế giới
(s. 27) ; Nhà nước (s. 28) ; tự do (s. 28) ; chính trị (s.
28) ; trật tự công cộng (s. 28) ; trách nhiệm (s. 28); cuộc đấu tranh
cho công bằng (s. 28) ; đau khổ ; thiếu thốn vật chất (s. 28) ;
đời sống cộng đồng (s. 29) ; kinh tế (s. 29), xã hội (s. 29) ; luật
pháp (s. 29) ; hành chánh (s. 29) ; văn hóa (s. 29) ; công ích
(s. 29) ; khoa học (s. 30) ; kỹ thuật (s. 30) ; phương tiện
truyền thông xã hội (s. 30) ; toàn cầu hóa (s. 30) ; lương thực (s.
30. 31), quần áo (s. 30. 31) ; nơi trú ngụ (s. 30) ; việc giảm thuế
(s. 30) ; tài chánh (s. 30) ; xã hội dân sự (s. 30) ; cơ quan
dân sự (s. 30) ; nhân đạo (s. 30) ; hình thức tự nguyện (s.
30) ; tình liên đới (s. 30) ; ma túy (s. 30) ; văn hóa của sự
sống (s. 30) ; sự phát triển (s. 30) ; thế giới tốt đẹp hơn (s.
30) ; bệnh nhân (s. 31), chữa trị (s. 31) ; nghề nghiệp (s.
31) ; đảng phái (s. 31) ; ý thức hệ (s. 31) ; bộ mặt trần gian
(s. 31), chiến lược trần thế (s. 31) ; thuyết Macxít (s. 31), tiến bộ
thống trị (s. 31) ; triết học vô thần (s. 31) ; kẻ vô gia cư (s.
32) ; sự cuồng tín (s. 37), nạn khủng bố (s. 37).
Tông Huấn “Bí Tích Tình Yêu” nói về các
thực tại trần thế trong tương quan với bí tích Thánh Thể một cách rất mạnh mẽ
như sau: «Không gì đích thực thuộc về con người – tư tưởng, tình cảm, lời nói
và hành động – mà không nhận ra được trong bí tích Thánh Thể một hình thức
thích hợp để sống một cách trọn vẹn » (s. 71). Các thực tại trần gian là
những thực tại nào? Đức Thánh Cha đã nói tới như sau trong Tông Huấn Bí Tích
Tình Yêu : gia đình (s. 19) ; bệnh tật (s. 22); hôn phối (s.
27) ; tình yêu hôn nhân (s. 27); vẻ đẹp (s. 35) ; lời nói, cử điệu,
ngôn ngữ chuyển động thân xác (s. 40) ; các phương tiện truyền thông xã
hội (s. 56); người tàn tật (s. 58); kiến thức (s. 58) ; tù nhân (s.
59) ; di dân (s. 60); sự hiện hữu kitô giáo (s. 70. 70. 84) ; thân
xác, thịt máu con người (s. 70) ; các thực tại con người (s. 70) ;
tất cả các khía cạnh của cuộc sống con người (s. 71); mọi hoạt động của người
tín hữu (s. 71) ; những gì thuộc phạm vi con người (s. 71) ; sự hiện
hữu con người (s. 71. 81s) ; nhân phẩm con người (s. 71) ; đời sống
con người (s. 72) ; lối sống, mô hình sống (s. 72) ; hoạt động thường
ngày (s. 72) ; nhịp sống hằng ngày (s. 72) ; hạnh kiểm sống (s.
72) ; lương tâm kitô giáo (s. 73) ; vui mừng (s. 73) ; nghỉ ngơi
(s. 73) ; việc bác ái (s. 73) ; ý nghĩa của thời gian (s. 73), các
mối liên hệ ; việc làm, lao động (s. 73), sự sống và sự chết (s.
73) ; các cuộc gặp gỡ bạn hữu (s. 73) ; giáo dục con cái, người trẻ,
người lớn, các cuộc hành hương (s. 73) ; ý nghĩa của nghỉ ngơi và lao động
(s. 74) ; xã hội dân sự (s. 74) ; việc làm (s. 74) ; lao động
hằng ngày (s. 74) ; nô lệ (s. 74) ; sự phát triển (s. 74) ; nhân
phẩm con người (s. 74) ; lợi ích chung (s. 74) ; sự dữ
(s.76) ; sự hiệp thông giữa con người (s. 76) ; đời sống hằng
ngày (s. 77) ; tục hóa (s. 77) ; cách thức suy nghĩ và sống (s.
77) ; văn hóa (s. 78) ; lịch sử con người (s.78) ; hình thức
diễn tả văn hóa (s. 78) ; giá trị các sự vật (s. 79) ; hoàn cảnh
sống, tình trạng đời sống (s. 79) ; thực tại đời sống (s. 79) ; giáo
dục nhân bản (s. 81) ; chăm sóc người nghèo khổ, bệnh nhân (s. 81) ;
sự tự do (s. 82. 82. 85) ; giá trị luân lý (s. 82) ; các hành động và
các lối hành xử của con người (s. 82. 85) ; các liên hệ xã hội (s.
83) ; địa vị xã hội (s. 83), địa vị chính trị (s. 83) ; giá trị căn
bản (s. 83) ; tôn trọng và bảo vệ sự sống con người (s. 83) ; thụ
thai (s. 83) ; gia đình (s. 83) ; hôn nhân giữa người nam và người nữ
(s. 83) ; quyền tự do giáo dục con cái (s. 83) ; chính trị gia (s.
83) ; nhà luật pháp dân sự (s. 83) ; trách nhiệm trong xã hội (s.
83) ; lương tâm (s. 83. 89) ; luật lệ (s. 83) ; bản tính con
người (s. 83) ; các giá trị (s. 83) ; trách nhiệm (s. 83) ; thế
giới (s. 85. 86) ; tự do phụng tự (s. 87) ; tình liên đới (s. 87);
bách hại bắt bớ (s. 87) ; sự cảm thông (s. 88), tâm tình nhân loại (s.
88) ; mối liên hệ xã hội (s. 89) ; dấn thân xã hội (s. 89) ; bức
tường thù hận (s. 89) ; tranh chấp (s. 89) ; hòa giải (s. 89) ;
đối thoại (s. 89) ; công bằng (s. 89) ; hòa bình (s. 89) ; trách
nhiệm (s. 89) ; cuộc chiến đấu chính trị (s. 89) ; xã hội (s.
89) ; trách nhiệm xã hội (s. 89) ; bạo lực (s. 89) ; chiến tranh
(s. 89), khủng bố (s. 89), tham nhũng kinh tế (s. 89); hiện tượng hoàn cầu
hóa (s. 90) ; cấp bậc toàn cầu (s. 90), người giầu và người nghèo (s.
90) ; tài nguyên của trái đất (s. 90) ; bất bình đẳng (s. 90), người
tị nạn (s. 90) ; trại tị nạn (s. 90) ; lương tâm con người (s.
90) ; việc vũ trang (s. 90) ; mức độ nghèo khó (s. 90) ; các mối
liên hệ quốc tế chính trị, thương mại, văn hóa (s. 90) ; tình trạng không
xứng đáng với con người (s. 90) ; xây dựng văn minh tình thương (s.
90) ; chia sẻ của cải (s. 90) ; các mối liên hệ mới (s. 90) ;
các cơ chế quốc tế, công cộng và tư nhân (s. 91) ; gương mù của sự nghèo
đói (s. 91) ; thiếu dinh dưỡng (s. 91) ; phát triển (s. 91), trách
nhiệm chính trị và xã hội (s. 91) ; hoàn vũ (cosmos s. 92) ; lịch sử
con người (s. 92) ; thế giới (s. 92) ; hành động và cố gắng của con
người (s. 92) ; thực tại trung lập (s. 92) ; tạo vật (s. 92) ;
các lo lắng về các điêu kiện môi sinh (s. 92) ; liên đới (s. 94) ;
thực tại con người cụ thể (s. 94).
Nhìn qua hai bảng liệt kê các thực tại
trần gian được nói tới trong hai văn kiện, tuy với mục đích khác nhau, đã có
những giống nhau về số lượng, về chính các thực tại này. Trong Thông Điệp
“Thiên Chúa là Tình Yêu”, Đức Giáo Hoàng đã muốn các tín hữu hãy sống bác ái
qua các thực tại này và trong chính các thực tại này. Còn trong Tông Huấn “Bí
Tích Tình Yêu”, Đức Thánh Cha đã cho thấy mối liên hệ giữa bí tích Thánh Thể và
các thực tại này; Thánh Thể giúp tín hữu sống các thực tại này, và giữa các
thực tại này và cũng như sống trọn vẹn các đòi hỏi đức tin do Thánh Thể gợi ra
trong môi trường họ đang sống. Có như thế họ mới là các “con người thánh
thể “ (BTTY, s. 96).
2) Một điểm khác cho thấy nét vẻ đặc biệt
của Đức Thánh Cha Beneđicto XVI trong Tông Huấn “Bí Tích Tình Yêu”, đó là việc
xử dụng nhiều lần đại danh từ ngôi thứ I: “TÔI”. Chúng ta có được bản liệt kê
như sau :
trong phần thứ I : 6 lần ;
trong phần thứ II : 21 lần
trong phần thứ III : 8 lần
Khi dùng đại danh từ “TÔI”, Đức Thánh Cha
muốn nhấn mạnh một điều nào đó, ngoài tầm quan trọng về giáo huấn như vừa được
trình bày. Thường việc nhấn mạnh này có tầm mức mục vụ. Ngài xin các phần tử
trong Giáo Hội, hay một loại phần tử nào đó thi hành, chú ý nhiều hơn tới điều
được nêu ra. Nhưng có trường hợp có tầm mức giáo huấn thật quan trọng. Chúng ta
đưa ra một thí dụ như sau: s. 19 : “Tôi muốn nhấn mạnh tới tầm quan trọng của
dịp rước lễ lần đầu. Đối với rất nhiều người tín hữu, ngày này ghi lại trong ký
ức của họ như là thời điểm, cho dù chỉ rất đơn sơ, họ nhận ra tầm quan trọng
của việc gặp gỡ Chúa Giêsu. Mục vụ giáo xứ bằng cách thế thích hợp phải làm nổi
bật cơ hội thật ý nghĩa này”. Một lần khác, Ngài nhấn mạnh tới tầm mức quan
trọng về giáo lý được nhận ra, khi Đức Thánh Cha nói tới luật độc thân của linh
mục. Ngài nói như sau: “ Vậy không thể coi là đủ khi người ta hiểu việc độc
thân linh mục trong những ngôn từ hoàn toàn có tính cách theo chức vụ. Quả vậy,
đây là một sự nên đồng hình dạng một cách đặc biệt với cung cách sống của chính
Chúa Kitô. Việc chọn lựa này trước tiên là một việc chọn lựa có tính cách hôn
nhân; đó là một sự đồng hóa với Chúa Kitô là vị hôn phu, là Vị đã thí mạng sống
mình cho Vị hôn thê của mình. Hiệp nhất với truyền thống cao cả của Giáo Hội,
với Công đồng Vaticanô II và với các vị Giáo hoàng tiền nhiệm của tôi, tôi nhắc
lại vẻ đẹp xinh và tầm quan trọng của một đời sống linh mục thể
hiện trong bậc độc thân như là dấu chỉ biểu lộ sự trao ban chính mình cách hoàn
toàn và chỉ dành cho Chúa Kitô, cho Giáo Hội và cho Nước Thiên Chúa, và tôi xác
quyết lại tính cách bắt buộc trong truyền thống của Giáo Hội La tinh. Việc giữ
độc thân được thể hiện trong mức độ trưởng thành, trong niềm hân hoan và trong
sự tận tâm, là một phúc lành rất lớn lao cho Giáo Hội và cho chính xã hội nữa”
(s. 24). Trong Thông Điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” chúng ta cũng thấy cách dùng
“TÔI”, nhưng ít hơn, với mục đích khuyến dụ, như khi Đức Thánh Cha nói: “Với
Thông Điệp này, Tôi muốn mời anh chị em sống tình yêu và nhờ đó đem ánh sáng
của Thiên Chúa vào trong thế giới này” (TCLTY, số 39).
Về khía cạnh nội dung, chúng ta thấy hai
điểm đặc biệt trong tư tưởng thần học của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nổi bật
trong Tông Huấn “Bí Tích Tình Yêu”: đó là sự nhấn mạnh tới “chân lý” (vérité),
và “vẻ đẹp” (beauté). Hai điều này thường được nhắc tới trong các bài diễn văn
hoặc các huấn từ khác của Đức Thánh Cha Beneđictô XVI. Trong Thông Điệp “Thiên
Chúa là Tình Yêu” Đức Thánh Cha đã nói tới tình yêu như là chân lý được nhìn
ngắm (s. 12); Ngài cũng đã nói tới vẻ đẹp trinh nguyên của Đức Mẹ Maria (s.
42). Trong một chỗ khác Đức Thánh Cha nói như sau: “Tùy theo hoàn cảnh, con
người có thể nhận ra vẻ đẹp của các sự vật hoặc chỉ nhận ra tính cách hữu ích
của chúng thôi” (Joseph Ratzinger, Il Cammino pasquale, edizione Ancora, Rôma
2006, tr. 114).
Ngay từ đầu Tông Huấn, Đức Thánh Cha đã
nói tới ở số 2 về “của ăn chân lý” rồi ở số 90: “Của ăn chân lý và sự thiếu
thốn của con người” (x. Thư Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI gửi cho Tuần báo “Gia
đình Kitô” (Famiglia Cristiana) để giải thích một vài điểm của Thông Điệp
“Thiên Chúa là Tình Yêu” và giúp đọc Thông Điệp này cách dễ dàng. Khi Linh mục
Giáo sư thần học Joseph Ratzinger được chọn làm Tổng giám mục Munich (Đức
Quốc), Ngài đã chọn cho mình khẩu hiệu “Cộng tác viên của chân lý” (Thư thứ ba
của thánh Gioan, câu 8: Ut cooperatores simus veritatis). Ngài đã nói lý do tại
sao Ngài chọn khẩu hiệu này: vì Kitô giáo phải nói cho thế giới về Thiên Chúa,
về thế giới và về chính mình, mà phải nói sự thật. Nhưng ngày nay người ta
không còn nghe được sự thật. Vì thế với tất cả sự khiêm nhường, mỗi người hãy
tự nhận lấy sự tự phụ hão huyền nắm chắc được chân lý, và phải tự đặt
mình như là “người cộng tác của chân lý”. Điều này áp dụng cho tín hữu, linh
mục, giám mục và bây giờ cả trong vai trò Giáo hoàng (x. Joseph Ratzinger, Dio
e il Mondo. Essere cristiani nel nuovo millennio. In colloquio con Peter
Seewald, Edizione San Paolo, bản dịch tiếng Ý 2001, tr. 237-238). Trong bài
diễn văn đọc trước Ủy ban thần học quốc tế họp ngày 01-12-2005, Đức Thánh Cha
cũng đã nhấn mạnh về “chân lý”: “Thần học chỉ có thể phát sinh ra nếu biết vâng
theo sự thúc đẩy của chân lý và của tình yêu là muốn biết người mình yêu thương,
trong trường hợp này là chính Thiên Chúa, mà chúng ta nhận biết lòng tốt của
Ngài trong hành động đức tin”. Tôn trọng công lý; dấn thân cho chân lý
tạo nền tảng và sức mạnh cho quyền lợi có tự do; dấn thân cho chân lý mở đường
cho tha thứ và hòa giải.
Ngài trình bày Thánh Thể là của ăn chân lý
(s. 2. 11. 90); Ngài nói về chân lý của tình yêu (s. 2); chân lý của Tin Mừng
(s. 2); Thánh Thần của chân lý (s. 12); tình yêu đối với chân lý (s. 29).
Còn vẻ đẹp : Đức Thánh Cha nói về vẻ đẹp
trong phụng vụ, về việc làm cho tốt đẹp hơn vẻ đẹp của buổi cử hành phụng vụ
(s. 4); vẻ đẹp của phụng vụ (x. số 35); vẻ đẹp nội tại của phụng vụ (s. 36);
nói về vẻ đẹp và sự hài hòa của phụng vụ trong việc tuân theo thứ tự các phận
vụ của buổi cử hành (s. 53); nói về sự sáng ngời và vẻ đẹp chiếu giãi ra từ
nghi thức phụng vụ, và đó là dấu chỉ của vẻ đẹp vô tận mầu nhiệm thánh của Thiên
Chúa (s. 97). Đức Thánh Cha cũng muốn rằng vẻ đẹp của phụng vụ trên trời cũng
phải chiếu giãi trong cộng đoàn của chúng ta và vẻ đẹp phụng vụ phải được nhận
ra như một tấm gương phản chiếu trung thành phụng vụ trên trời này. vẻ đẹp có
một mối dây liên hệ sâu xa với phụng vụ, vì thế cần làm cho người ta nhận ra vẻ
đẹp trong tất cả những gì liên hệ tới Thánh Thể (s. 41); Ngài đã xin Mẹ Maria,
là Đấng tuyệt mỹ và toàn mỹ (Tota pulchra) giúp chúng ta cử hành phụng vụ để
việc cử hành trở nên điều làm đẹp lòng Thiên Chúa (s. 96). Từ cái nhìn về vẻ
đẹp của phụng vụ, Đức Thánh Cha đã nói tới thái độ của chúng ta trước vẻ đẹp
của phụng vụ là “sự ngỡ ngàng” trước mầu nhiệm Thánh Thể (s. 1. 6. 97 [2 lần]).
Tông Huấn cũng bày tỏ thái độ này qua những thuật ngữ như : bí tích lạ lùng (s.
1. 3); bí tích cao cả lớn lao nhất (s. 1); là một sự lạ lùng (s. 1); phải chiêm
ngắm thán phục (s. 14). Nơi khác Ngài cũng so sánh vẻ đẹp và điều hữu ích nơi
sự vật, và nhiều khi con người chỉ nhìn ra điều hữu ích mà không thấy được vẻ đẹp
(x. Joseph Ratzinger, Il Cammino pasquale, bản dịch tiếng Ý, Anrora, Roma 2006,
tr. 114). Trong mấy lời cám ơn các nghệ sĩ và những người khác trong buổi hòa
nhạc để mừng Thượng thọ bát tuần của Ngài vào ngày 16-04-2007 vừa qua Ngài đã
nói tới vẻ đẹp của âm nhạc. Ngài nói: “Tôi xác tín rằng âm nhạc... quả thực là
ngôn ngữ phổ quát của vẻ đẹp, có khả năng nối kết con người thiện chí trên khắp
mặt đất lại với nhau và đem họ hướng cái nhìn lên Đấng Tối Cao và mở rộng mình
ra cho Sự Thiện và Vẻ Đẹp tuyệt đối, có nguồn gốc nguyên thủy trong chính Thiên
Chúa” (L’Osservatore Romano, 17-18, tr. 14; ghi đậm là của tôi).
Kết luận
Đó là mấy điểm giúp chúng ta đọc và hiểu
biết dễ dàng hơn khi đọc Tông Huấn Bí Tích Tình yêu của Đức Thánh Cha Beneđicto
XVI. Sau phần nhập đề tổng quát này chúng ta sẽ lần lượt nói sơ qua về nội dung
của Tông Huấn. Tôi sẽ bàn tới một số điểm và để mỗi người tự đọc và nhận ra
giáo huấn của Đức Thánh Cha Beneđictô XVI và của các giám mục trong Thượng Hội
Đồng Giám mục Thế giới kỳ XI.
IV
THÁNH THỂ VÀ CHÚA BA NGÔI
Đọc Tông Huấn “Bí Tích Tình Yêu”, chúng ta
nhận thấy lối trình bày nội dung thần học giống với một số văn kiện của Công
Đồng chung Vaticanô II, đó là trình bày bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi.
Hiến chế về phụng vụ số 5 và 6 đã trình bày Chúa Cha là căn nguyên của chương
trình cứu rỗi loài người. Kế đồ này được Chúa Con thực hiện trong hy tế thánh
giá và hy tế trên bàn thờ. Chúa Thánh Thần trợ giúp Chúa Kitô và ngày nay còn
làm cho những sự kiện cứu rỗi được tái diễn lại dưới các dấu hiệu bí tích. Hiến
chế về Giáo hội “Ánh sáng muôn dân” đã trình bày cách rõ rệt công việc cứu rỗi
nhân loại và thiết lập Giáo Hội trong tương quan với Chúa Ba Ngôi. Số 2 của
Hiến chế nói về kế đồ cứu rỗi phổ quát của Chúa Cha. Số 3 nói về sứ mạng và
công cuộc của Chúa Con và sau cùng số 4 nói về sự thánh hóa Giáo hội do Chúa
Thánh Thần. Sắc lệnh về việc truyền giáo của Giáo Hội cũng theo một lược đồ
này. Số 2 nói về ý định cứu rỗi của Chúa Cha. Số 3 nói về sứ mệnh của Chúa Con
và sau cùng số 4 nói về sứ mệnh của Chúa Thánh Thần. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II đã trình bày riêng rẽ giáo lý về từng Ngôi Thiên Chúa trong ba thông điệp
đầu tiên của Ngài: “Thiên Chúa là Đấng giầu lòng từ bi” (30-11-1980), “Đấng cứu
chuộc con người” (4-03-1979) và “Đấng ban sự sống và thánh hóa” (18-05-1986).
Trong phương cách trình bày thần học như trên đây, Tông Huấn “Bí Tích Tình Yêu”
cũng đã trình bày mối liên hệ giữa Ba Ngôi Thiên Chúa với Bí tích Thánh Thể,
trong các số 8-13.
1. Chúa Cha và Thánh Thể
Trước tiên Tông Huấn nói về mối liên hệ
giữa Chúa Cha và Bí tích Thánh Thể. Bí tích này là ơn huệ nhưng không Chúa Cha
ban cho Giáo Hội. Điều này được thể hiện và nhận ra trong tiến trình của toàn
thể kế đồ yêu thương, qua đó, Thiên Cbúa muốn cứu rỗi nhân loại. Chính trong Bí
tích Thánh Thể Giáo hội nhận ra Chúa Ba Ngôi dấn thân hoàn toàn cho con người
trong thân phận đích thực của con người. Và thân phận đích thực này là gì? Là
thân phận con người bị tội lỗi phá hủy hoàn toàn, nếu không có sự can thiệp của
Thiên Chúa, thì con người không thể trở lại tình trạng vẹn tuyền của thuở ban
đầu, không thể có được sự sống của Thiên Chúa. Vì thế sự can thiệp này là một
hồng ân nhưng không, nghĩa là hoàn toàn do lòng nhân từ thương xót của Thiên
Chúa, mà không phải do công trạng của con người. Khi chúng ta cử hành Thánh Thể
với hình bánh và hình rượu, chúng ta nhận ra ơn sự sống siêu nhiên của Thiên
Chúa ban cho chúng ta qua các dấu hiệu hữu hình này. Khi được tạo dựng, cách
nào đó con người đã được mời gọi vào sự hiệp thông với sự sống vĩnh cửu của
Thiên Chúa, nhưng ngày nay với sự chết và sống lại của Chúa Kitô và ơn của Chúa
Thánh Thần chúng ta lãnh nhận được sự sống này một cách trọn vẹn. Chính Chúa
Thánh Thần đã thúc đẩy Chúa Kitô tự hiến mình nên hy tế dâng lên Chúa Cha, và
từ hy tế này Chúa Cha ban cho chúng ta sự sống của Ngài. Như vậy Thánh Thể là
bí tích yêu thương, chúng ta tin, cử hành và thờ lạy ơn huệ cao quý này. Chúng
ta cũng được mời gọi để tham dự vào việc cử hành bí tích tình yêu này, như là một
cách thế đáp trả tình yêu tuyệt đối nhưng không của Chúa Cha ban cho chúng ta
và để lãnh nhận sự sống dồi dào từ Thánh Thể. Vì thế việc tham dự Thánh Thể
trong các ngày Chúa Nhật không phải là do luật Giáo hội buộc, nhưng là một hành
động của một tín hữu trưởng thành, hiểu biết và sống chiêm niệm sâu xa, vì như
lời Thánh Augustinô nói: “Ai thấy tình yêu là thấy Chúa Ba Ngôi”.
Tóm lại: mối liên hệ giữa Chúa Cha và
Thánh Thể được diễn tả như sau trong Tông Huấn “Bí Tích Tình Yêu”:
Chúa Cha yêu thương chúng ta và muốn cứu
rỗi chúng ta.
Trong Thánh Thể, qua dấu hiệu bí tích bánh
và rượu, chúng ta nhận được diễn tả trọn vẹn ơn huệ nhưng không Thiên Chúa yêu
thương chúng ta.
Thánh Thể ban cho chúng ta sự sống trọn
vẹn của Thiên Chúa mà chúng ta đã nhận được cách nào đó qua việc tạo dựng và
qua các bí tích khác.
Giáo hội lãnh nhận ơn bí tích Thánh Thể từ
tình yêu vô biên và nhưng không của Chúa Cha. Ơn huệ lớn lao hơn mọi ơn huệ
khác.
Giáo hội cử hành, thờ lạy ơn huệ Thánh Thể
với lòng biết ơn và chúc tụng Thiên Chúa.
Tín hữu đi lễ Chúa Nhật là do ý thức sâu
xa về ơn huệ thánh thể cao cả này, thay vì nhìn đó là một sự bắt buộc.
2. Chúa Kitô và Thánh Thể
Trong phần này Tông Huấn đã nói tới mấy
điểm sau đây về liên hệ giữa Chúa Kitô và Thánh Thể, hay nói cách khác, Thánh
Thể là chính hành động của Chúa Kitô, thực hiện theo ý Chúa Cha, theo kế đồ cứu
rỗi của Chúa Cha [3][1].
a) Thánh Thể kết thúc giao ước cũ và thiết
lập giao ước mới và đời đời trong Máu Chúa Kitô. Giao ước này là cuộc gặp gỡ
giữa sự tự do hoàn toàn của Thiên Chúa và sự tự do của con người.
Ở đây người ta nhận ra sự “trái ngược và
mâu thuẫn” của chính Thiên Chúa vì đã thể hiện tình yêu của mình cách tột bậc
nơi Chúa Kitô chịu chết và bây giờ được tưởng nhớ lại trong bí tích tình yêu
này. Nhờ giao ước thánh thể mọi tội lỗi của trần gian được tẩy xóa.
Tất cả các việc này đã được gói gém trong
hình ảnh con chiên bị hiến tế: hình ảnh này nhắc lại hy lễ thời xưa và ngày nay
bị thay thế bằng hy tế của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể. Hình ảnh Chúa
Giêsu như con chiên bị sát tế không chỉ nói tới hy tế của Chúa Kitô nhưng còn
cho thấy sự việc chính Chúa Kitô đã tự hiến mình bị sát tế và hy tế của Ngài vì
thế đem lại một sự mới mẻ tận căn cho việc hiến tế của nhân loại và cho mọi
thực tại khác. Như thế Thánh Thể, hy tế của Chúa Kitô quả thực có giá trị vô
cùng.
b) Việc Chúa Kitô lập phép Thánh Thể trong
bữa tối tiệc ly ngày xưa.
Đức Thánh Cha đã suy diễn từ ý nghĩa của
bữa tiệc vượt qua ngày xưa của Dân Do Thái. Bữa tiệc này liên hệ tới việc Thiên
Chúa cứu Dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập và được đưa về Đất Hứa như một dân
hoàn toàn được tự do. Nhưng trong thực tế việc giải thoát này không hoàn tất,
vì Dân còn vướng mắc bao cảnh nô lệ khác. Vì thế họ còn mong chờ một sự giải
thoát sẽ do một Đấng Messia đưa tới. Vậy bữa tối trong nhà Tiệc ly là chính bữa
tiệc giải thoát hoàn toàn Dân Do Thái và toàn thể nhân loại khỏi cảnh tội lỗi
và sự dữ. Thánh Thể chứa đựng sức mạnh từ sự chết và sống lại của Chúa Kitô và
đem lại sức mạnh giải thoát. Mọi thực tại sẽ không còn rên xiết chờ ngày được
giải thoát, nhưng ngày giải thoát đã tới. Mỗi lần tín hữu tham dự Thánh lễ, họ
tham dự vào công cuộc giải thoát cứu rỗi của Chúa Kitô, cho chính họ và cho mọi
người trong mọi hoàn cảnh cuộc đời của họ.
c) Trong Thánh Thể có một sự biến đổi căn
gốc và sâu xa hơn, đó là sự biến đổi từ bánh nên Mình Thánh Chúa Kitô và từ
rượu nên Máu Thánh Chúa Kitô (Tông Huấn đã dùng thuật ngữ “conversion
substantielle”, “changement radical”, “transsubstantiation”). Đây là một sự
biến đổi tận căn, mà các giáo phụ gọi là “hình bóng chuyển sang sự thật”
(Figura transit in veritatem). Từ sự biến đổi nguyên thủy, và theo mệnh lệnh
của Chúa, Giáo Hội được sinh ra từ hy tế của Chúa, sẽ đón nhận hồng ân này,
phát triển dưới dự trợ giúp của Chúa Thánh Thần một hình thức phụng vụ để cử
hành Thánh Thể trong suốt thời gian trần thế của Giáo Hội cho đến khi Chúa lại
đến. Và mỗi lần cử hành phụng vụ Thánh Thể người ta đi vào chính hành động của
Chúa Giêsu, mà không phải là nhớ lại hay lặp lại theo thói quen việc cử hành
này. Và từ sự biến đổi tận căn này, Giáo Hội cũng làm cho mình thực sự biến đổi
như tấm bánh và chén rượu để mỗi ngày mang hình thức thánh thể hoàn toàn hơn.
Các tín hữu cũng thể hiện cuộc biến đổi thực sự trong cuộc đời kitô hữu của họ
và trong môi trường họ sống. Điều này Đức Thánh Cha sẽ nói tới và cụ thể hơn về
sau.
3. Chúa Thánh Thần và Thánh Thể
Sau cùng là liên hệ giữa Thánh Thể và Chúa
Thánh Thần. Sự thực theo như sự trình bày trên đây, hoạt động của Ba Ngôi Thiên
Chúa được nhận ra trong mỗi sự việc, mỗi giai đoạn của Thánh Thể. Nhưng Tông
Huấn đã muốn nói riêng về mối liên hệ giữa Thánh Thể và Chúa Thánh Thần. Tông
Huấn nhắc lại Chúa Thánh Thần làm cho tín hữu hiểu biết và đi sâu vào mầu nhiệm
Thánh Thể, đồng thời Chúa Thánh Thần cũng giúp Giáo Hội để qua các thời đại,
nhất là trong giai đoạn đầu, Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn Giáo hội thành lập
những cách thức cử hành Thánh Thể, mỗi khi Tin mừng được loan truyền tới các
nền văn hóa khác nhau. Điều này làm sao có thể được? Đức Thánh Cha đã gợi lại
vai trò của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời Chúa Giêsu, từ khi nhập thể, thụ
thai trong lòng Đức Mẹ Maria, trong thời rao giảng, trong cuộc thương
khó. Và chính Chúa Kitô đã hứa ban Thánh Thần cho Giáo Hội như trong bài diễn
văn từ biệt trong bữa tiệc ly. Ngày lễ Hiện xuống, Thánh Thần đã được ban
xuống trên các thánh Tông đồ để các Ngài sẽ ra đi rao giảng Tin mừng và hoạt
động trong ý thức Chúa Kitô luôn hiện diện giữa Giáo Hội. Niềm tin này khởi
phát từ Thánh Thể. Nếu nhìn trong chính buổi cử hành phụng vụ Thánh Thể, các
Giáo phụ đã nói là Giáo Hội khẩn cầu Chúa Thánh Thần xuống trên các lễ vật được
dâng tiến lên, vì điều gì Chúa Thánh Thần đụng tới, thì sẽ được thánh hiến. Vì
thế trong Kinh nguyện thánh thể chúng ta có hai lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần
trước và sau khi truyền phép (epiclesis): với lời cầu khẩn trước truyền phép
Giáo Hội cầu xin để Chúa Thánh Thần thánh hiến bánh và rượu làm cho trở nên
Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Còn Lời cầu khẩn sau truyền phép, Giáo Hội cầu xin
để những người lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kitô sẽ hợp nhất với nhau nên
một thân thể.
Như vậy Tông Huấn “Bí Tích Tình Yêu” đã
đem chúng ta vào trong nơi thẳm sâu của Chúa Ba Ngôi và ở đó chúng ta tìm ra
Thánh Thể, vì ở đó chúng ta tìm ra tình yêu. Như vậy ai tìm ra tình yêu là thấy
Chúa Ba Ngôi và ai thấy Chúa Ba Ngôi là được đón nhận ơn huệ cao cả là Thánh
Thể.
[2] Xem Joseph Ratzinger – Benedetto XVI,
Giovanni Paolo II, il mio amato predecessore, Edizione Paoline,
Roma, 2007, tr. 27-28: trong phần này Đức Beneđictô XVI đã nhận định về các
thông điệp đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, mang tính cách suy tư
cá nhân nhiều hơn và rõ nét hơn.
[3] Trong Thông Điệp về Chúa Thánh Thần “Dominum et
Vivificantem”, (18-5-1986), số 62, của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II,
Thánh Thể được coi như là cách diễn tả đầy đủ nhất của việc Chúa Kitô trở lại
và sống giữa Dân của Ngài.
ĐÔ. Phanxicô Borgia Trần Văn Khả