BÀI 3
V
THÁNH THỂ VÀ CÁC BÍ TÍCH
Thánh Thể là một bí tích nhưng là bí tích
như điểm quy tụ của các bí tích khác như Tông Huấn “Bí Tích Tình Yêu” đã nói
khi lấy lại lời của Công đồng chung Vaticanô II: “Công đồng chung Vaticanô II
đã nhắc lại rằng, ‘còn về các bí tích khác và tất cả các thừa tác vụ trong Giáo
Hội và các việc tông đồ, tất cả đều liên kết chặt chẽ với Thánh Thể và quy
hướng về đó. Quả vậy Phép Thánh Thể cực thánh chứa đựng toàn thể những ơn huệ
thiêng liêng của Giáo Hội, vì Thánh Thể là chính Chúa Kitô, là Vượt qua của
chúng ta, là bánh hằng sống, vì nhờ Thịt của Ngài, được làm cho sống động và có
sức ban sự sống nhờ Thánh Thần, đem lại sự sống cho con người, mời gọi và hướng
dẫn chính họ cũng tự hiến dâng mình họ, hiến dâng các công việc của họ và mọi
sự vật được tạo dựng nên trong khi hợp nhất với Ngài. Mối liên hệ mật thiết
giữa Thánh Thể và các bí tích khác cũng như với sự hiện hữu của Kitô hữu được
hiểu từ căn gốc khi chúng ta chiêm ngắm chính mầu nhiệm Giáo Hội như một bí
tích”(Hiến chế về Giáo Hội, s. 16).
Số 16 này trình bày tổng quát về mối liên
hệ giữa Thánh Thể và các bí tích qua những điểm sau đây:
Thánh thể và các bí tích có liên hệ mật
thiết với nhau.
Mối liên hệ này có nguồn gốc từ sự việc
Giáo Hội là bí tích phổ quát của ơn cứu rỗi.
Thánh Thể chứa đựng tất cả mọi ơn huệ
thiêng liêng, vì trong đó là chính Chúa Kitô.
Từ Thánh thể và các bí tích có sức thiêng
để biến đổi con người toàn diện và làm cho đời sống con người nên việc phụng tự
xứng đáng dâng lên Thiên Chúa và được Ngài thương chấp nhận.
Từ những xác quyết này, Tông Huấn trình
bày mối liên hệ của Thánh Thể với 6 bí tích kia. Trong việc trình bày này, Tông
Huấn đã theo thứ tự xếp đặt các bí tích như trong Sách Giáo lý của Hội Thánh
Công giáo, đó là:
Ba bí tích khai tâm kitô giáo: Rửa tội,
Thêm sức và Thánh Thể.
Hai bí tích chữa lành: Thống hối và Hòa
giải và Xức dầu bệnh nhân.
Hai bí tích mang tính cách xã hội: Bí tích
Truyền chức thánh và bí tích Hôn phối.
Đây là gương cho các giáo lý viên hãy tìm
hiểu cách xếp đặt các bí tích như trong Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo và
trình bày theo đó, thay vì trình bày theo các thứ tự thời xưa, theo từng bí
tích mà không có liên hệ gì với nhau. Cách xếp đặt này đã dựa theo thần học về
các bí tích.
Trong Tông Huấn “Bí Tích Tình Yêu”, Thánh
Thể được đặt ở nguồn gốc và tột đỉnh của đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội, là
nguồn mạch các ơn trong Giáo Hội và trong các bí tích (s. 16 và 84). Trong Sắc
lệnh về đời sống linh mục và thừa tác vụ linh mục, Thánh Thể được coi là tột
đỉnh các bí tích và các bí tích phải quy về đó (Presbyterorum ordinis, s. 7).
Hiến chế Giáo Hội “Ánh sáng muôn dân” (s. 11) thì coi Thánh Lễ là nguồn mạch và
chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô hữu. Còn Hiến chế về phụng vụ (s. 7) thì nói
cách Tổng quát hơn coi phụng vụ như là tột đỉnh và nguồn suối của mọi hoạt động
của Giáo Hội cũng như là tột đỉnh mà mọi hoạt động của Giáo Hội phải nhắm tới.
Như vậy Giáo Hội luôn đánh giá đúng mức Thánh Thể và việc tham dự Thánh lễ. Từ
đó chúng ta sẽ hiểu dễ dàng hơn liên hệ giữa Thánh Thể và các bí tích khác.
Trong mỗi trường hợp Tông Huấn đã nói tới mối liên hệ, sau đó cho thấy những
điểm liên hệ này cách cụ thể, rồi đem ra một vài điểm cụ thể cần được lưu ý đặc
biệt trong hoạt động mục vụ về bí tích.
Nhưng mối liên hệ này cũng có cấp bậc khác
nhau:
Liên hệ nội tại (lien intrinsèque) như
Thánh thể và bí tích Rửa tội và Thêm sức, vì cùng là cửa ngõ và khởi đầu đời
sống Kitô hữu (s. 17); như Thánh Thể và bí tích Thống hối và Hòa giải (s. 20);
như Thánh Thể và bí tích Truyền chức thánh (s. 23).
Liên hệ đặc biệt : như Thánh Thể và bí
tích Hôn phối có liên hệ đặc biệt (s. 27).
Liên hệ bình thường: như Thánh Thể với bí
tích Xức dầu bệnh nhân (s. 22).
Bây giờ chúng ta nói một số điểm về liên
hệ giữa Thánh Thể và từng bí tích.
1) Thánh Thể và các bí tích Khai tâm Kitô
giáo (s. 17-19).
Mối liên hệ này mang tính cách nội tại
nghĩa là Thánh Thể cùng với hai bí tích Rửa tội và Thêm sức làm nên nền tảng
cho đời sống Kitô hữu, nhưng chính Thánh Thể hoàn tất công việc khai tâm này và
trở nên trung tâm và cùng đích của đời sống bí tích (s. 17).
Trong phần này Tông Huấn đã nói tới thứ tự
của ba bí tích này (s. 18) và thói quen mục vụ của Giáo Hội Tây phương (Rửa
tội, Rước lễ lần đầu và sau đó mới là Thêm sức) và Đông phương (Rửa tội, Thêm
sức và Thánh Thể, cả cho trẻ con). Trong vấn đề này, Tông Huấn đưa ra hai vấn
dề: xem thứ tự nào giúp đỡ tín hữu nhận ra rõ ràng hơn tính cách trung tâm của
Thánh Thể; và xin các Hội đồng giám mục xem tiến trình cử hành các bí tích khai
tâm để cho thấy tính cách hữu hiệu giáo dục tín hữu nhận ra Thánh Thể là trung
điểm của đời sống và cùng với các bí tích khác giúp tín hữu sống chân thực
trong thế giới ngày nay (s. 18).
Tông Huấn nhắc nhở tín hữu lưu tâm làm cho
việc khai tâm Kitô giáo đi vào môi trường gia đình thực sự, chứ không chỉ là
việc làm cho em bé hay cho người dự tòng. Đàng khác, Đức Thánh Cha (dùng đại
danh từ “TÔI”) lưu tâm đặc biệt tới việc rước lễ lần đầu như một tác động tôn
giáo đầu tiên cho em bé nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu trong suốt đời sống
của em (s. 19). Lưu ý Đức Thánh Cha đã chuyển từ giáo huấn chung tới lời nhắn
nhủ riêng của Ngài, khi Ngài dùng chữ “TÔI”: Tôi muốn nhấn mạnh tới tầm quan
trọng của dịp rước lễ lần đầu. Đối với rất nhiều người tín hữu, ngày nay
ghi lại trong ký ức của họ như là thời điểm, cho dù chỉ rất đơn sơ, họ nhận ra
tầm quan trọng của việc gặp gỡ Chúa Giêsu. Mục vụ giáo xứ bằng cách thế thích
hợp phải làm nổi bật cơ hội thật ý nghĩa này” (s. 19).
2) Thánh Thể và bí tích Thống Hối và Hoà
giải (số 20-21).
Bí tích Thống Hối và hòa giải cũng có một
liên hệ nội tại với Thánh Thể. Vì Thánh Thể giúp tín hữu đánh giá nhiều hơn bí
tích Thống Hối và Hòa giải. Vì nhờ Thánh Thể, các tín hữu nhận ra cách sâu xa
tình yêu của Thiên Chúa và nhờ ý thức về tình yêu này họ sẽ nhận ra ý nghĩa của
tội để xa tránh. Khi sạch tội họ sẽ được trở về với sự hiệp thông với Hội Thánh
và hiệp thông với Chúa Thánh Thể. Vì thế Bí tích này được các giáo phụ gọi là
bí tích rửa tội được thực hiện cách sâu xa hơn (s. 20: laboriosus quidam
baptismus: Thánh Gioan Damasceno, Thánh Gregorio de Nazianze, Công đồng Trento)
như một cuộc thanh tẩy trọn vẹn lương tâm tín hữu, như một phép rửa mới.
Về phương diện mục vụ, Tông Huấn các điểm
sau đây:
Hãy lo xưng tội thường xuyên hơn. Cần lấy
lại tập quán đạo đức này. Vì thế các tòa giải tội cần được mở ra và có cha giải
tội ngồi tòa để tín hữu đến xưng tội cách dễ dàng.
Việc giải tội tập thể chỉ được cử hành
trong những trường hợp rất khác thường như luật Giáo Hội đã quy định. Ở đây Đức
Thánh cha cũng dùng thuật ngữ “TÔI” để cho thấy mối lo lắng của Ngài về những
lạm dụng khi cử hành việc giải tội tập thể quá dễ dàng.
Đức Thánh Cha nhân dịp này nhắc lại việc
lãnh nhận Ơn xá mà lâu nay vì một số quan niệm thần học sai lầm đã không còn
nhắc tới nữa và cho là những điều thuộc về thời trung cổ xa xưa. Việc lãnh nhận
Ơn xá cho thấy sự hiệp thông trong Hội Thánh qua các công nghiệp và ơn phúc. Và
khi lãnh nhận Ơn xá cũng phải lo xưng tội và xa tránh tội cũng như những hướng
chiều về tội.
3) Thánh thể và Bí tích Xức dầu bệnh nhân
(s. 22).
Chúa Giêsu đã thiết lập trong Giáo
Hội bí tích Xức dầu bệnh nhân. Điều này đã được các tín hữu đầu tiên nhận ra và
hưởng dùng như chúng ta thấy trong thư của Thánh Giacobê Tông đồ. Trong Thánh
Thể sự đau khổ và sự chết của Chúa Kitô đã được biến đổi thành hy tế cứu đời.
Từ đây bí tích Xức dầu cũng đã làm cho tín hữu đang phải đau khổ vì bệnh tật
biến các đau khổ của mình để nên phương thế cứu rỗi cho mình và cho thế giới.
Điều này càng có giá trị và hiệu nghiệm khi họ lãnh nhận Mình Thánh Chúa, nhất
là khi lãnh nhận như Của Ăn Đàng. Mình Thánh Chúa Kitô đem lại ơn chữa lành thể
xác và nhất là sự sống đời đời. Vì thế cộng đoàn giáo xứ hay các cộng đoàn khác
cần lưu tâm lo lắng mục vụ cho các bệnh nhân.
4) Thánh Thể và Bí tích Truyền chức thánh
(số 23-26).
Bây giờ Tông Huấn bàn về hai bí tích
có tính cách xã hội, vì liên hệ tới việc điều hành cộng đoàn và thăng tiến cộng
đoàn bằng tình yêu hôn nhân. Phần này được Tông Huấn bàn cách sâu rộng hơn.
Thánh Thể có liên hệ nội tại với bí tích Truyền chức thánh vì trong bữa tiệc ly
Chúa Giêsu đã lập Phép Thánh Thể và chức linh mục tư tế để làm lại việc Ngài đã
làm trong bữa tiệc này. Qua Thánh Thể Chúa Giêsu thiết lập một giao ước mới
hoàn toàn và đời đời. Ngài muốn việc này được làm lại. Nhưng không ai khác có
thể làm được ngoài linh mục. Chỉ có linh mục khi đọc lời này nhân danh Chúa
Kitô, “Này là Mình Thày” và “Này là chén Máu Thày”, thì mới có thể làm
cho bánh nên Thịt Chúa và rượu nên Máu Chúa. Trong Tông Huấn này các giám mục
đã đề cập tới chính mối liên hệ giữa linh mục và Thánh Thể (s. 23).
Từ đây, Đức Thánh Cha, khi dùng thuật ngữ
“TÔI” đã lưu ý mấy điểm sau đây (s. 23):
Chỉ có linh mục được truyền chức cách hợp
pháp mới có thể làm nên Thánh Thể và cử hành Thánh Lễ.
Linh mục cử hành Thánh Thể trong tư thế
là hiện thân của chính Chúa Kitô (in persona Christi), nên Thánh Thể
không là của riêng Ngài mà của Chúa Kitô và Giáo Hội. Vì thế các linh mục không
đặt mình là chủ của hành động thánh thiện này, nhưng là đầy tớ. Do đó linh mục
cần tuân thủ Lễ nghi cử hành Thánh Lễ, không thêm bớt những lễ nghi văn bản mà
Giáo Hội đã định liệu.
Để được như thế Đức Thánh Cha (dùng đại
danh từ “TÔI”) khuyên các linh mục hãy học hỏi về phận vụ này và đào sâu nó như
một “phận vụ yêu thương” (amoris officium, Thánh Augustino) và tôn kính với
Chúa Kitô, với Giáo Hội và với lo lắng của vị mục tử (s. 23).
Một yếu tố khác trong đời sống linh mục
được suy tư thêm trong liên hệ với Thánh Thể: đó là việc giữ luật độc thân linh
mục (s. 24). Đây là việc thuộc phạm vi kỷ luật của Giáo Hội Latinh – với sự tôn
trọng truyền thống của Giáo hội Đông phương – và Tông Huấn nhắc lại kỷ luật này
với sự xác tín dựa vào truyền thống cao cả và các giáo huấn của các vị Giáo
Hoàng. Ý nghĩa của luật độc thân không nằm trong khía cạnh thi hành chức vụ,
nhưng phải được nhìn cách sâu rộng hơn trong chính sự nên đồng hình dạnh với
Chúa Kitô Thánh Thể để trao ban trọn vẹn chính mình cho Thiên Chúa và Giáo Hội.
Vì thế Đức Thánh Cha (TÔI”) xác định lại tính cách bắt buộc của luật độc thân
trong Giáo Hội Latinh. Ở đâu thuật ngữ “TÔI” có tính cách trang trọng và gần
như lúc Đức Giáo Hoàng công bố một điều quan trọng.
Từ đây Tông Huấn đã nói tới một số vấn đề
thời sự trong Giáo Hội liên hệ tới thừa tác vụ linh mục:
Trước tiên là vấn đề thiếu linh mục và
thiếu ơn gọi linh mục tại một số nơi. (s. 25). Việc này cần được giải quyết do
sự phân phối đồng đều và hợp lý các linh mục. Các nghị phụ cũng xin các dòng tu
dấn thân trong việc phục vụ tại các nơi này, cũng xin các giáo sỹ sẵn sàng giúp
đỡ khi cần tới tại các nơi này. Các gia đình cũng được khuyến khích hơn trong
việc mục vụ ơn gọi và sẵn sàng quảng đại dâng con cho Chúa. Đàng khác cũng cần
thẳng thắn nói với người trẻ về tiếng Chúa gọi trong thiên chức linh mục và tính
cách tận căn của đời sống linh mục. Tuy nhiên không nên vì thiếu linh mục mà
truyền chức cho các ứng viên không đủ các điều kiện đầy đủ (s. 25).
Nhân dịp này Đức Thánh Cha (dùng đại danh từ
“TÔI”) cũng nhân danh Giáo Hội ca ngợi và cám ơn các linh mục đã quảng đại phục
vụ trong chức vụ của mình, như các linh mục “fidei donum” (được sai đi phục vụ
một thời gian tại các nơi thiếu linh mục ). Ngài cũng cám ơn các linh mục đã hy
sinh tất cả, ngay mạng sống để sống và phục vụ tín hữu. Đức Thánh Cha nhắc nhủ,
cho dù thiếu linh mục, nhưng hãy tin rằng Chúa thửa ruộng sẽ lo sai các thợ gặt
tới làm việc trong ruộng của mình (s. 26).
5) Thánh Thể và Bí tích Hôn phối (s. 27-
29).
Đây là phần cuối cùng bàn về liên hệ
giữa Thánh Thể và các bí tích. Thánh Thể và bí tích Hôn phối có một liên hệ đặc
biệt (s. 27). Trong Thánh Thể Chúa Kitô trao ban chính mình cho Giáo Hội, như
hình ảnh vợ chồng yêu thương nhau và trao ban chính mình cho nhau cách vĩnh viễn.
Thánh thể là bí tích của Hôn phu thánh là Chúa Kitô, và của Hôn thê thánh là
Giáo Hội. Chính khi sự hợp nhất giữa vợ với chồng đem vào trong sự hiệp nhất
của Thánh Thể, thì nhờ đó mà trở nên bền chặt vững bền. Giáo Hội lưu tâm và quý
trọng các hôn phối được cử hành trong bí tích này. Giáo Hội quý trọng và lo cho
gia đình. Ở đây Thượng Hội Đồng Giám Mục lưu tâm tới sứ mệnh của người phụ nữ
trong gia đình và trong xã hội. Vậy cần bảo vệ, nâng đỡ họ thi hành sứ mệnh này
cách trọn vẹn và đem nhiều lợi ích cho gia đình (s. 27).
Từ đây Tông Huấn bàn tới một vài vấn đề cụ
thể liên hệ tới hôn nhân công giáo, như Thánh Thể và tính cách một vợ một chồng
(s. 28). Môi liên hệ không thể hủy bỏ và duy nhất nối kết giữa Chúa Kitô và
Giáo Hội soi sáng cho việc người đàn ông chỉ cưới một người đàn bà và đối lại,
người đàn bà chỉ cưới một người đàn ông. Những nơi nào có vấn đề đa thê,
thì cần rao giảng Tin mừng để có thể đem lại ánh sáng Chúa Kitô cho những vùng
này.
Rồi vấn đề bất khả hủy khế ước hôn nhân
cũng là một lo lắng mục vụ trong Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới. Các giám
mục đã lưu ý tới những hoàn cảnh đau thương như những cặp vợ chồng cưới hỏi
trong nhà thờ, nhưng sau đó lý do và đi lại lập hôn phối với một người khác (s.
29). Một điều xảy ra thường xuyên trong xã hội ngày nay. Trong hoàn cảnh này
tuy rất lo lắng cho họ, nhưng vì tôn trọng chân lý, Giáo Hội không thể cho phép
những người này lên rước lễ. Lý do vì hoàn cảnh này đã làm sai lạc ý nghĩa sự
hiệp thông giữa vợ và chồng, theo gương Chúa Kitô hiệp nhất với Giáo Hội. Tuy
nhiên Giáo Hội vẫn khuyến khích họ sinh hoạt trong cộng đoàn, đi tham dự Thánh
Lễ, giáo dục con cái trong đức tin, nhưng không lên rước lễ.
Khi có những nghi ngờ về dây hôn phối
trước, thì các Tòa án hôn phối tại các cấp bậc khác nhau tìm hiểu xem sự thật
thế nào và giúp cho các người trong hoàn cảnh này được thanh thản lương tâm nếu
có lý do xác thực về hôn phối trước đây không thành. Giáo hội cũng khuyến khích
các người trong hoàn cảnh này, nếu không bỏ nhau được vì những lý do đặc biệt thì
sống như anh chị em hoặc như bạn hữu (s. 29). Đây là công tác mục vụ rất khó
khăn.
Vì thế cần huấn luyện kỹ lưỡng các đôi trẻ
đính hôn trước khi cưới nhau để họ trưởng thành trong sự chọn lựa và dấn thân
sống cho nhau và bên nhau suốt đời (s. 29).
Cho tới đây chúng ta biết được rõ ràng hơn
những mối liên hệ giữa Thánh Thể và các bí tích. Vì thế các buổi cử hành bí
tích trong Thánh Lễ mang ý nghĩa sâu xa này. Chúng ta cũng nhận ra các người
lãnh nhận các bí tích khác được soi sáng bởi chân lý về Thánh Thể để tránh
những gì làm sai lạc việc lãnh nhận bí tích và việc tham dự Thánh Lễ.
VI
THÁNH THỂ VÀ CÁNH CHUNG
Thánh Thể và cánh chung là điều hiển nhiên
trong giáo lý của Giáo Hội. Hiến chế về phụng vụ nói như sau: “Trong bữa Tiệc
Ly sau hết, vào đêm bị trao nộp, Đấng cứu chuộc chúng ta đã thiết lập hy tế tạ
ơn bằng Mình Máu Người, để nhờ đó Hy tế khổ giá kéo dài qua các thời đại cho
tới khi Người lại đến...” (Hiến chế phụng vụ số 47). Còn trong Thánh Lễ chúng
ta vẫn tuyên xưng: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên
xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”. Về mối liên hệ giữa Thánh Thể và
cánh chung, hay nói kiểu khác tính cách cánh chung của Thánh Thể, được Tông
Huấn “Bí Tích Tình Yêu” bàn tới trong các số 30-32. Vậy đây là một đề tài cổ
điển trong thần học. Các hình ảnh trong Cựu Ước tiên báo thời cánh chung được
dùng tới và bây giờ đã thực hiện trong việc Chúa Kitô đến trong trần gian, khai
mào thời cánh chung này.
Xét về chỗ đứng của mục bàn về cánh chung,
chúng ta thấy có sự giống nhau giữa bố cục của Hiến chế về Giáo Hội “Ánh Sáng
Muôn Dân” và Tông Huấn này. Đó là đi từ bản tính của Giáo Hội, rồi tới bí tích,
sau đó tới ơn gọi phổ quát nên thánh, tính cách cánh chung, và Đức Mẹ Maria
(Hiến chế Ánh sáng muôn dân, số 1-69). Tông Huấn “Bí Tích Tình Yêu”, cũng đi từ
Giáo lý về Thánh Thể, các bí tích, cánh chung và Đức Mẹ Maria (BTTY, số 6-33).
Cách bố cục này cũng giúp chúng ta hiểu thêm phần nào ý nghĩa của từng vấn đề.
Vậy vấn đề cánh chung và Thánh Thể được
bàn thế nào trong Tông Huấn này? (s. 30-32). Phần này cũng có một trình bày
giáo lý (s. 30-31) và một áp dụng mục vụ (s. 33).
Trong phần giáo lý, Tông Huấn đã nói tới:
Con người đang sống trong cuộc lữ hành
tiến về trời để đạt tới vinh quang sau cùng trong Nước Thiên Chúa (s. 30).
Nhưng vì tự do của con người bị tổn thương
và làm điều tội lỗi nên con người không thể tự mình tiến trên con đường lữ hành
này và đạt tới hạnh phúc muôn đời (s. 30).
Chính trong hoàn cảnh này Thánh Thể của
Chúa Kitô được ban cho tín hữu để họ có sức trong cuộc hành trình về trời,
nhưng cũng được nếm thử hạnh phúc vinh quang ngay từ đời này. Vì trong Thánh
Thể là chính Chúa Kitô đã chiến thắng sự dữ và sự chết, cũng như Ngài là vinh
quang đời đời. Thân xác Ngài đã sống lại và hưởng vinh quang bất diệt của Thiên
Chúa. Vì thế ai lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, đã được hưởng vinh quang này của
Chúa Kitô và được hy vọng hưởng trọn vẹn vinh quang này trong ngày sau hết (s.
30).
Một khía cạnh khác cũng được lưu ý tới, đó
là bàn tiệc cánh chung (s. 31). Tiệc cánh chung được nói tới nhiều trong Cựu
Ước. Trong Phúc âm, nhiều dụ ngôn cũng được mô tả trong bối cảnh bàn tiệc cánh
chung. Phụng vụ cầu nguyện trong Lời nguyện hiệp lễ han ơn cho tín hữu khi tham
dự bàn tiệc Thánh Thể cũng được tham dự bàn tiệc thiên quốc đời đời. Như vậy
Chúa Thánh Thể cho chúng ta tham dự bàn tiệc của Ngài khi lãnh nhận Mình và Máu
Thánh Chúa. Ngài gợi ra cho chúng ta sự mong chờ được tham dự bàn tiệc cánh
chung. Đàng khác ngày nay khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể chúng ta cũng được
Chúa ban cho nếm thử trước niềm hoan lạc của bàn tiệc cánh chung. Vậy việc Chúa
Kitô đến trong trần gian và việc Ngài ban Thánh Thể đã mở màn cho thời đại cánh
chung. Tất cả chúng ta và tạo vật đều ngong ngóng đón chờ ngày tỏ hiện của Chúa
Kitô trong vinh quang của thời cánh chung. Ngài thiết lập cộng đoàn các tông đồ
như những ngôn sứ thu tập Dân Chúa thời cánh chung. Ngày nay mỗi lần tín hữu
đến tham dự Thánh Thể, họ đang cùng nhau sống trong tình hiệp nhất của đoàn dân
mới và đón chờ thời cánh chung sẽ đến, với niềm hy vọng cánh chung. Bàn tiệc
Thánh Thể là việc chúng ta nếm thử trước bàn tiệc cánh chung (s. 31).
Đi vào trong phạm vi mục vụ, Tông Huấn đã
muốn lưu tâm chúng ta về việc cử hành Thánh Thể cầu cho các người đã qua đời và
cầu nguyện cho họ được vào hưởng tôn nhan Chúa (s. 32). Những người này đã chết
nhưng chưa được tham dự hoàn toàn vào bàn tiệc cánh chung. Họ cần lời cầu
nguyện của chúng ta và nhất là qua cử hành Thánh Thể cầu cho họ. Với chúng ta
khi làm việc đạo đức này chúng ta cũng tăng cường niềm hy vọng của chúng ta
mong chờ Ngày của Chúa sẽ đến, để rồi trong ngày đó chúng ta sẽ được gặp lại
những người đã ra đi trước chúng ta. Ngoài ra như trên đây (s. 21), Tông Huấn
cũng đã nhắc tới việc hưởng các Ơn xá để chỉ cho các linh hồn nơi luyện ngục.
Vậy Thánh Thể đem chúng ta vào sự hiệp
thông với Chúa Ba Ngôi với các thánh và các đẳng linh hồn. Chúng ta ca tụng
những thánh nhân là gương mẫu cho chúng ta và là các vị quan thày của chúng ta.
Chúng ta trợ giúp các anh chị em còn đang phải thanh luyện trước khi được nhận
vào trong việc chiêm ngắm hồng phúc Chúa Ba Ngôi. Chúng ta tăng cường niềm hy
vọng nơi chúng chúng ta sẽ được hiệp cùng các Ngài trong ngày sau hết, ngày của
trời mới đất mới.
Đ.Ô. Phanxicô Borgia Trần Văn Khả