HỌC HỎI TÔNG HUẤN LOAN BÁO TIN MỪNG

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI

8.12.1975

Lm. Nguyễn Phước Ofm và Lm Trần Đình, Dalat

 

DẪN NHẬP

1.      Đức giáo hoàng Phao-lô VI nhắm mục đích gì khi viết Tông huấn loan báo Tin Mừng?

Đ/     Ngài muốn khuyến khích các ki-tô hữu trong sứ mệnh phúc âm hóa để họ thêm lòng yêu mến, nhiệt thành và hân hoan mà chu toàn sứ mệnh này.

 

2.      Tông huấn ra đời để kỷ niệm những biến cố nào?

Đ/     Để kỷ niệm ba biến cố :

·      kết thúc năm thánh 1975;

·      kỷ niệm năm thứ 10 ngày bế mạc công đồng Va-ti-ca-nô II;

·      một năm sau Đại hội lần thứ ba của Thượng hội đồng Giám Mục (1974) bàn về vấn đề phúc âm hóa.

 

3.      Chủ đề phúc âm hóa thường được ngài nhấn mạnh như thế nào?

Đ/     Ngài nhấn mạnh hai điểm :

·      Bổn phận gìn giữ cho tinh tuyền di sản đức tin của Giáo hội;

·      Bổn phận trình bày cho người thời đại chúng ta một cách hết sức dễ hiểu và có tính thuyết phục.

 

4.      Ba vấn nạn nóng bỏng mà Thượng hội đồng Giám mục 1974 luôn thấy trước mắt là gì?

Đ/     Đó là

·      Năng lực tiềm ẩn của Tin mừng vốn có sức đánh động sâu xa ý thức con người, năng lực ấy ngày nay ra sao?

·      Sức mạnh Tin mừng đó liệu có khả năng biến đổi con người thời đại này đến mức nào và như thế nào?

·      Phải công bố Tin mừng theo những phương pháp nào để quyền năng của Tin mừng có hiệu quả?

 

5.      Xét cho cùng, đâu là vấn nạn căn bản mà Giáo hội tự đặt cho mình ngày nay?

Đ/     Vấn nạn đó có thể được diễn đạt như sau: Sau Công đồng và nhờ Công đồng vốn là giờ của Thiên Chúa ở khúc quanh lịch sử này, Giáo hội có thấy mình thích hợp hơn hay không với việc loan báo Tin mừng và đưa Tin mừng vào trong lòng dạ con người một cách xác tín, tự nguyện và hiệu quả không?

 

6.      Tại sao việc loan báo Tin mừng là công việc chủ yếu của Giáo hội?

Đ/     Vì đó là:

·      bổn phận Chúa ủy thác, chứ không phải là một đóng góp tùy hứng;

·      vấn đề cứu độ con người.

 

7.      Tông huấn Loan báo Tin mừng gồm mấy chương?

Đ/     Tông huấn gồm 7 chương:

1.      Từ Đức Ki-tô sứ giả Tin mừng đên một Giáo hội sứ giả Tin mừng

2.      Phúc âm hóa là gì?

3.      Vội dung của việc phúc âm hóa

4.      Các đường lối phúc âm hóa

5.      Phúc âm hóa cho những ai?

6.      Những người rao giảng Tin mừng

7.      Tinh thần của việc phúc âm hóa

 

CHƯƠNG MỘT

TỪ ĐỨC KITÔ SỨ GIẢ TIN MỪNG

ĐẾN MỘT GIÁO HỘI SỨ GIẢ TIN MỪNG

 

8.      Nhiều lần, trong khóa họp Thượng-hội-đồng, các Giám Mục đã nhắc lại sự thật gì?

Đ/     Đó là: “Chính Chúa Giê-su, Tin Mừng của Thiên Chúa,15 đã là sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất. Người đã rao giảng đến cùng : đến mức tuyệt hảo, đến hy sinh cả sự sống trần thế của mình.”

 

9.      Thánh Lu-ca ghi lại lời chứng nào của Chúa Giê-su về sứ mạng của mình?

Đ/     Đức Giê-su nói: “Ta phải loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa” (Lc 4,43). Người đã áp dụng cho chính mình lời tiên tri I-sai-a: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18 ; x. Is 61,1).

 

10.    Kể lại vài khía cạnh chính yếu của việc phúc âm hóa như Đức Giê-su đã quan niệm và thực hiện?

Đ/     Đó là:

·      loan báo Triều đại Nước Thiên Chúa

·      loan báo Ơn cứu độ giải thoát

·      bằng cách rao giảng không mệt mỏi

·      và bằng vô vàn dấu chỉ.

 

11.    Là sứ giả Tin mừng, trước hết Đức Ki-tô loan báo điều gì?

Đ/     Người loan báo một Triều đại, Triều đại của Thiên Chúa:

·      Triều đại ấy quan trọng đến nỗi, đối chiếu với nó thì tất cả đều trở thành “phụ thuộc”, và được “ban thêm cho”;

·      Hạnh phúc cho ai được thuộc về Triều đại này, một hạnh phúc nghịch thường làm bằng những gì thế gian chê bỏ.

 

12.    Người còn mô tả những gì liên quan đến Triều đại Nước Thiên Chúa?

Đ/     Người còn mô tả:

·      những đòi hỏi và hiến chương của Triều Đại (Mt 5–7);

·      những sứ giả (Mt 10);

·      những mầu nhiệm (Mt 13);

·      những con cái của Triều Đại (Mt 18) ;

·      sự tỉnh thức và trung tín phải có nơi bất cứ ai trông chờ ngày Triều Đại ấy đến (Mt 24-25).

 

13.    Điều gì là nòng cốt và trung tâm của Tin Mừng?

Đ/     Đó là ơn cứu độ.

 

14.    Ơn cứu độ là gì?

Đ/     Đó là là giải thoát khỏi tất cả những gì áp bức con người, nhất là giải thoát khỏi tội lỗi và Ác thần, trong niềm vui nhận biết Thiên Chúa và được Người biết tới, thấy Người, được phó thác cho Người.

 

15.    Làm thế nào để nhận được Nước Trời và ơn cứu độ?

Đ/     Người nào cũng có thể nhận được Triều Đại và ơn cứu độ đó như ân sủng và tình thương xót, tuy nhiên mỗi người phải chiếm lấy bằng sức mạnh, tức là:

·      trước hết phải hoán cải, “metanoia”, nghĩa là một cuộc trở lại triệt để, một cuộc thay đổi sâu xa cách nhìn và lòng dạ;

·      phải sống theo Tin Mừng, từ bỏ và vác thập giá và sống theo tinh thần các mối phúc thật.

 

16.    Người hoàn tất, bổ túc và xác nhận mạc khải như thế nào?

Đ/     Người hoàn tất mạc khải, bổ túc và xác nhận mạc khải bằng tất cả những gì Người làm để bày tỏ bản thân mình, bằng lời nói và việc làm, bằng những dấu chỉ và phép lạ, và đặc biệt hơn nữa là bằng việc Người chịu chết, và sống lại và việc gửi Thần Khí Sự Thật đến.

 

17.    Tại sao những ai đón nhận Tin mừng, những ai được Tin mừng quy tụ vào cộng đoàn cứu độ, đều có thể và phải chuyển đạt và truyền bá Tin mừng?

Đ/     Tại vì:

·      lệnh truyền cho Mười Hai tông đồ: “Hãy đi ! Hãy rao giảng Tin mừng” cũng có giá trị đối với mọi tín hữu, tuy là một cách khác. Chính vì thế mà Phê-rô gọi các tín hữu là “một dân tuyển chọn để loan báo những kỳ công” của Thiên Chúa;

·      Tin mừng về Triều đại đang đến và đã bắt đầu là Tin mừng cho mọi người thuộc mọi thời đại.

 

18.    Hội nghị Thượng hội đồng Giám mục 1974 tái khẳng định điều gì?

Đ/     Hội nghị tuyên bố: “Chúng tôi muốn xác định một lần nữa rằng nhiệm vụ rao giảng Tin mừng cho mọi người là sứ mệnh chính yếu của Giáo Hội”.

 

19.    Tại sao loan báo Tin mừng là ân huệ và ơn gọi đặc biệt của Giáo hội, là chân tính sâu xa nhất của Giáo hội?

Đ/     Bởi vì Giáo hội hiện hữu để loan báo Tin mừng, nghĩa là để rao giảng và dạy dỗ, làm kênh rạch chuyển thông ơn thánh, giải hòa tội nhân với Thiên Chúa, làm cho cuộc tế hiến của Đức Kitô vẫn tồn tại mãi trong thánh lễ là lễ tưởng niệm việc Người chịu chết và sống lại vinh quang.

 

20.    Đâu là mối tương quan giữa Giáo hội và việc loan báo Tin mừng?

Đ/     Đó là:

·      Giáo hội phát sinh từ hoạt động phúc âm hóa của Đức Giêsu và Mười Hai tông đồ;

·      Giáo hội nối dài và tiếp tục sự hiện diện của Đức Giêsu, nhưng tiên vàn được kêu gọi tiếp tục sứ vụ và cương vị rao giảng Tin mừng của Người;

·      là người rao giảng Tin mừng, Giáo hội bắt đầu bằng việc phúc âm hóa chính mình;

·      Giáo hội được giao cho gìn giữ Tin mừng, như một của ký thác sống động và quý báu, không phải để giấu kín nhưng để truyền đạt;

·      chính Giáo hội lại sai phái những kẻ loan báo Tin mừng.

 

21.    Tại sao Giáo hội cần phúc âm hóa chính mình?

Đ/     Bởi vì:

·      là cộng đồng những kẻ tin, là cộng đồng sống và chuyển thông niềm cậy trông, là cộng đồng tình thương yêu huynh đệ, Giáo hội cần luôn lắng nghe điều mình phải tin, những lý do để trông cậy, điều răn mới của tình thương yêu.

·      là Dân Thiên Chúa chìm ngập trong trần gian và thường bị các thần tượng cám dỗ, Giáo hội luôn cần được nghe công bố những kỳ công của Thiên Chúa.  Chính những kỳ công đó đưa cộng đoàn trở về cùng Chúa.

·      Tóm lại, Giáo hội luôn luôn cần được phúc-âm-hóa nếu muốn giữ được vẻ tươi mát, sinh khí và và sức mạnh để loan báo Tin mừng.

 

22.    Người ta có thể yêu mến, nghe và thuộc về Đức Kitô mà không cần đến Giáo hội được không?

Đ/     Không được, vì :

·      Chúa nói : “Ai khước từ anh em là khước từ Thầy”.

·      Và Thánh Phao-lô đã làm chứng: “Đức Ki-tô đã yêu mến Giáo hội và phó mình cho Giáo hội”.

 

CHƯƠNG HAI

PHÚC ÂM HÓA LÀ GÌ?

 

23.    Phúc âm hóa là gì?

Đ/     Phúc âm hóa là một công việc phức tạp gồm nhiều yếu tố khác nhau:

·      đổi mới nhân loại và những khu vực nhân sinh,

·      làm chứng rõ rệt,

·      gắn bó lòng dạ,

·      gia nhập vào cộng đồng,

·      tiếp nhận các dấu chỉ,

·      bắt tay vào việc tông đồ.

 

24.    Mục đích của việc phúc âm hóa là gì?

Đ/     Mục đích của việc phúc âm hóa là biến đổi từ bên trong, đổi mới chính nhân loại. Giáo hội tìm cách hoán cải:

·      lương tâm cá nhân và tập thể của con người,

·      sinh hoạt trong đó con người đang dấn thân,

·      đời sống và hoàn cảnh cụ thể của con người.

 

25.    Ngày nay, khi cảnh vực sống của nhân loại đang biến đổi, Giáo hội cần làm gì?

Đ/     Giáo hội cần dùng sức mạnh của Tin mừng mà đảo lộn những tiêu chuẩn phán đoán, những giá trị nhân đạo, những bận tâm chính yếu, những trào lưu tư tưởng, những nguồn cảm hứng, những mẫu mực sống của nhân loại, khi những điều ấy ngược lại với Lời Chúa và chương trình cứu độ.

 

26.    Tại sao phải dồn mọi nỗ lực để phúc âm hóa các nền văn hoá?

Đ/     Bởi vì, như Đức Phao-lô VI nhấn mạnh: “Sự đoạn giao giữa Tin mừng và văn hóa quả là một thảm trạng của thời đại chúng ta cũng như đã từng là thảm trạng của một số thời đại khác”.

 

27.    Tin mừng phải được công bố bằng cách nào?

Đ/     Phải công bố:

·      bằng đời sống chứng tá: cách thầm lặng mà rất mạnh mẽ và hiệu quả.

·      bằng Lời ban sự sống: “Không có phúc âm hóa thực sự nếu danh tánh, lời giảng dạy, đời sống, lời hứa, Triều đại, mầu nhiệm của Đức Giê-su Na-da-rét Con Thiên Chúa không được công bố.

 

28.    Kết quả đầu tiên của việc phúc âm hóa là gì?

Đ/     Là sự gắn bó lòng dạ với Tin mừng, được thể hiện qua việc gắn bó:

·      với những chân lý mà Chúa đã nhân từ mạc khải;

·      với chương trình sống mà Chúa đề nghị: với Triều đại, nghĩa là với “thế giới mới”, với tình huống mới, với cách hiện hữu mới, cách sống mới, cách sống với nhau mới;

·      với một cộng đồng tín hữu;

·      với các bí tích ban ân sủng.

 

29.    Kết quả thứ đến của việc phúc âm hóa là gì?

Đ/     Đó là dấn thân vào một nỗ lực tông đồ mới.

 

30.    Để kết thúc những nhận định này về ý nghĩa của việc phúc âm hóa, Tông huấn còn đưa ra nhận xét nào nữa?

Đ/     Phúc âm hóa là một công việc phức tạp gồm nhiều yếu tố khác nhau, nhưng chúng bổ túc cho nhau và làm phong phú cho nhau.

 

CHƯƠNG BA

NỘI DUNG CỦA VIỆC PHÚC ÂM HÓA

 

31.    Đâu là những nội dung chính yếu của việc phúc âm hóa?

Đ/     Đó là:

·      làm chứng cho lòng yêu thương của Chúa Cha: trong Ngôi Lời nhập thể, Người đã cho vạn vật hiện hữu và kêu gọi mọi người đến cuộc sống đời đời.

·      công bố sứ điệp trọng tâm: trong Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, chịu chết và sống lại, ơn cứu độ được ban cho mọi người, như tặng phẩm của ân sủng và lòng nhân lành của Thiên Chúa.

·      tiên báo về một thế giới bên kia: bên kia thời gian và lịch sử, bên kia thực tại của thế giới này mà bộ mặt đang qua đi, và bên kia mọi sự của thế giới này mà một chiều kích ẩn khuất ngày kia sẽ được biểu lộ; bên kia chính con người mà vận mệnh đích thực không chỉ ở khuôn mặt trần thế, nhưng sẽ được mạc khải trong cuộc sống mai sau.

 

32.    Vậy việc phúc âm hóa bao hàm rao giảng những điều gì?

Đ/     Đó là rao giảng:

·      niềm hy vọng vào các lời Chúa hứa trong giao ước mới nơi Đức Giêsu-Kitô ;

·      tình thương yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta và tình yêu thương của chúng ta đối với Thiên Chúa ;

·      tình thương yêu huynh đệ đối với mọi người: khả năng hiến tặng và tha thứ, từ bỏ, giúp đỡ anh em;

·      mầu nhiệm sự ác và việc tích cực tìm kiếm sự thiện.

·      cuộc tìm kiếm chính Thiên Chúa bằng cách cầu nguyện và hiệp thông với Giáo hội qua các bí tích và hoạt động trong Giáo hội.

 

33.    Vì việc phúc âm hóa phải để ý tới những quan hệ cụ thể và thường xuyên giữa Tin mừng và đời sống, cá nhân và xã hội, của con người, nên còn bao gồm những sứ điệp nào?

Đ/     Đó là những sứ điệp:

·      về các quyền lợi và nghĩa vụ của tất cả mọi người,

·      về đời sống gia đình,

·      về đời sống chung trong xã hội,

·      về đời sống quốc tế,

·      về hòa bình, công lý và phát triển,

·      về vấn đề giải phóng. 

 

34.    Đâu là những mối quan hệ sâu xa giữa việc phúc âm hóa và việc thăng tiến con người?

Đ/     Đó là những quan hệ:

·      có tính cách nhân văn, bởi vì con người cần được phúc âm hóa không phải là một hữu thể trừu tượng, mà gắn liền với những vấn đề xã hội và kinh tế;

·      có tính cách thần học, vì không thể tách rời bình diện tạo thành với bình diện Cứu Chuộc, mà bình diện này đụng tới tận những hoàn cảnh rất cụ thể trong đó phải đánh dẹp sự bất công và phải khôi phục công lý;

·      có tính cách Tin mừng hơn cả là tính cách bác ái: làm sao có thể công bố lệnh truyền mới mà không xúc tiến trong công lý và hoà bình sự phát triển thực sự và đích thực của con người ?

 

35.    Trong việc giải phóng con người, có những giản lược nào mà ta phải tránh?

Đ/     Đó là tránh giản lược:

·      sứ mệnh Giáo hội vào những kích thước của một dự phóng thuần tuý trần thế ;

·      các mục đích của Giáo hội vào một mục tiêu nhân loại ;

·      ơn cứu độ mà Giáo hội là sứ giả và là bí tích vào một sung túc vật chất ;

·      sinh hoạt Giáo hội vào những sáng kiến thuộc lãnh vực chính trị hay xã hội mà quên mọi mối quan tâm thiêng liêng và tôn giáo.

 

36.    Sự giải phóng mà Tin mừng loan báo và ra sức thực hiện là gì?

Đ/     Đó là sự giải phóng:

·      theo ý nghĩa tin mừng;

·      có trục là Triều đại Thiên Chúa và cái nhìn của Tin mừng về con người;

·      bao hàm một sự  trở lại cần thiết;

·      loại trừ bạo lực. 

 

37.    Sự giải phóng theo ý nghĩa tin mừng là gì?

Đ/     Sự giải phóng đó:

·      không thể chỉ thu gọn lại trong kích thước kinh tế, chính trị, xã hội hay văn hóa hạn hẹp, nhưng nó phải nhắm tới con người toàn diện, trong toàn bộ các kích thước của con người, thậm chí và kể cả trong hướng mở ra về phía tuyệt đối, ngay cả về phía Tuyệt Đối của Thiên Chúa;

·      được gắn liền với một quan niệm về con người, với một nhân sinh quan mà nó không bao giờ được hy sinh cho những đòi hỏi của một chiến lược nào, của một thực hành hay một sự hữu hiệu ngắn hạn nào.

 

38.    Đâu là đóng góp đặc biệt của Giáo hội trong công cuộc giải phóng con người?

Đ/     Giáo hội ngày càng tìm cách huấn luyện nhiều ki-tô hữu hiến thân cho công cuộc giải phóng người khác. Giáo hội đem lại cho các ki-tô hữu này sự cổ xúy của đức tin, một lý do hành động là tình thương yêu huynh đệ, một giáo huấn về xã hội.

 

CHƯƠNG BỐN

CÁC ĐƯỜNG LỐI PHÚC ÂM HÓA       

 

39.    Đâu là những đường lối Phúc âm hóa quan trọng hơn cả?

Đ/     Đó là:

·      Làm chứng bằng đời sống;

·      Rao giảng;

·      Phụng vụ Lời Chúa;

·      Huấn giáo;

·      Sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng;

·      Tiếp xúc cá nhân;

·      Vai trò các bí tích;

·      Lòng đạo bình dân.

 

40.    Tại sao làm chứng bằng đời sống là phương thế thứ nhất và quan trọng hơn cả?

Đ/     Vì, như nhận định của Đức Giáo hoàng Phao-lô VI: “Người đương thời sẵn sàng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe các thầy dạy, bởi vì chính các thầy dạy cũng là những chứng nhân”.

 

41.    Tạo sao rao giảng, tức là dùng lời nói công bố một sứ điệp, vẫn luôn luôn cần thiết?

Đ/     Bởi vì:

·      Lời nói mang quyền năng của Thiên Chúa;

·      “Có đức tin là nhờ nghe giảng” (Rm 10,17): chính nhờ Lời đã nghe dẫn tới đức tin.

 

42.    Làm thế nào để bài diễn giảng Tin mừng đạt được tất cả hiệu quả mục vụ của nó?

Đ/     Thưa:

·      Người rao giảng phải xác tín bài diễn giảng Tin mừng là một dụng cụ có giá trị và rất thích hợp để phúc âm hóa và đem hết lòng yêu mến vào đó;

·      nó phải giản dị, sáng sủa, trực tiếp, thích hợp, nó gắn bó sâu xa với lời dạy của Tin mừng và trung thành với Giáo huấn của Giáo hội.

 

43.    Tông huấn lưu ý đến những điểm gì khi đề cập đến huấn giáo?

Đ/     Đó là:

·      Dạy giáo lý là việc dạy đạo có hệ thống để học biết những điều căn bản hơn, nội dung sống động của chân lý mà Thiên Chúa muốn truyền lại và Giáo hội đã tìm cách diễn đạt một cách phong phú;

·      Dạy giáo lý nhắm đến việc giáo dục nếp sống ki-tô hữu, chứ không phải chỉ là chuyện tri thức mà thôi;

·      Các người dạy giáo lý cần có sẵn những tài liệu thích hợp, được cập nhật hoá một cách khôn ngoan bởi những người có năng lực, dưới quyền các Giám mục;

·      Các  phương pháp phải thích nghi với lứa tuổi, với văn hóa, với khả năng những người học, mà luôn cố ghi vào trí nhớ, trí khôn và lòng dạ các chân lý cốt yếu cần thấm nhuần trọn cả đời sống;

·      Cần đào tạo những người dạy tốt – giáo lý viên giáo xứ, giáo viên, cha mẹ;

·      Cần quan tâm đến việc dạy giáo lý cho thanh niên và người lớn.

 

44.    Tại sao Giáo hội sẽ cảm thấy mình mắc tội với Chúa nếu không sử dụng những phương tiện truyền thông đại chúng?

Đ/     Bởi vì:

·      Đây là những phương tiện rất hiệu lực: chúng có khả năng mở rộng hầu như vô tận phạm vi nghe Lời Chúa và chúng đưa Tin mừng đến tận hàng triệu người.

·      Đây là một tòa giảng theo kiểu hiện đại và hiệu nghiệm, nhờ đó mà Giáo hội nói được với đại chúng.

 

45.    Tại sao việc tiếp xúc cá nhân vẫn có giá trị và vẫn là quan trọng?

Đ/     Bởi vì:

·      chính Chúa và các tông đồ đã thường dùng hình thức này;

·      loan báo Tin mừng tự căn bản là chuyển giao cho người khác kinh nghiệm bản thân của mình về đức tin.

 

46.    Tại sao công cuộc phúc âm hóa không chấm dứt ở việc giảng và dạy một giáo thuyết?

Đ/     Bởi vì công cuộc phúc âm hóa phải đạt tới đời sống:

·      đời sống tự nhiên để đem lại cho nó một ý nghĩa mới mẻ;

·      đời sống siêu nhiên: được biểu lộ một cách sống động trong bảy bí tích và trong ân sủng cùng sự thánh thiện tỏa ra từ các bí tích.

 

47.    Đâu là những giá trị phong phú của lòng đạo bình dân?

Đ/     Chính lòng đạo này:

·      biểu lộ một lòng khao khát Thiên Chúa mà chỉ những kẻ đơn sơ và nghèo khó mới có được;

·      khiến người ta có thể đại độ và hy sinh đến mức anh hùng khi cần chứng tỏ đức tin;

·      bao hàm một ý thức sắc bén về những phẩm tính sâu thẳm của Thiên Chúa, như : tình phụ tử, sự quan phòng, sự hiện diện yêu thương và chung thủy;

·      nuôi dưỡng những thái độ nội tâm như: lòng kiên nhẫn, ý thức về thánh giá trong cuộc sống hằng ngày, sự siêu thoát, sự cởi mở đối với người khác, lòng sùng mộ.

 

CHƯƠNG NĂM

PHÚC ÂM HÓA CHO NHỮNG AI?

 

48.    Giáo hội phúc âm hóa cho những ai?

Đ/     Cho tất cả mọi người, không giới hạn, như Chúa dạy: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”.

 

49.    Trải qua hai mươi thế kỷ lịch sử, các thế hệ kitô hữu đã phải chạm trán với những trở ngại nào?

Đ/     Đó là:

·      môït đàng, chính những người rao giảng Tin mừng, bị cám dỗ viện cớ này nọ để thu hẹp phạm vi hoạt động truyền giáo của mình;

·      đàng khác, từ phía những người được phúc âm hóa, có những sức chống cưỡng mà theo thường tình không thắng vượt được.

·      Ngoài ra, công cuộc phúc âm hóa của Giáo hội bị cản trở nặng nề ở một vài nơi, nếu không nói là bị ngăn cấm.

 

50.    Tông huấn nêu lên một số khu vực, một số hạng người nào cần được phúc âm hóa?

Đ/     Đó là :

·      cho thế giới vô đạo; 

·      cho các tôn giáo ngoài Kitô giáo;

·      cho các tín hữu;

·      cho những người không tin;

·      cho những người không giữ đạo;

·      cho các cộng đồng giáo hội ở cơ sở.

 

51.    Có những phương thế nào có thể được vận dụng để loan báo đầu tiên cho những kẻ xa lạ?

Đ/     Không những việc rao giảng minh bạch, mà còn phải kể tới nghệ thuật, lối tiếp cận khoa học, nghiên cứu triết học, và cả sự kêu gọi chính đáng tới tình cảm của lòng con người nữa.

 

52.    Khi dùng từ “thế giới vô đạo”, tông huấn ám chỉ những ai?

Đ/     Đó là:

·      những ai chưa hề nghe biết Tin mừng của Chúa Giêsu hoặc cho các trẻ em,

·      đông đảo những người đã được thanh tẩy nhưng sống bên ngoài mọi nếp sống Kitô giáo,

·      cho những người chất phác vẫn có đức tin cách nào đó nhưng lại chỉ biết lờ mờ về các nền tảng của đức tin,

·      cho những nhà trí thức đang cảm thấy nhu cầu hiểu biết Đức Giêsu Kitô dưới một ánh sáng khác với những gì đã được học khi còn bé,

·      và cho nhiều người khác nữa.

 

53.    Lý do nào thúc đẩy Giáo hội loan báo Đức Giêsu Kitô cho những người ngoài Kitô giáo?

Đ/     Giáo hội nghĩ rằng thành phần đông đảo các người này có quyền biết sự phong phú của mầu nhiệm Đức Kitô, trong đó toàn thể nhân loại có thể tìm thấy, một cách đầy đủ không thể ngờ được, tất cả những gì họ dò dẫm tìm tòi về Thiên Chúa, về con người và mệnh con người, về sự sống và sự chết, về chân lý.

 

54.    Tại sao thấy mình vẫn phải không ngừng chăm lo cho cả những người đã lãnh nhận đức tin?

Đ/     Bởi vì đức tin của các kitô hữu ngày nay hầu như luôn luôn đương đầu với chủ nghĩa tục hóa, hay với chủ nghĩa vô thần đấu tranh : nó là một đức tin gặp phải những thử thách và bị đe dọa, hơn nữa, là một đức tin bị bao vây và đánh phá. Đức tin có nguy cơ bị nghẹt thở hay bị kiệt sức mà chết, nếu nó không được nuôi dưỡng và nâng đỡ hằng ngày.

 

55.    Thượng hội đồng 1974 còn có một mối bận tâm đối với hai phạm vi nào?

Đ/     Đó là:

·      sự gia tăng vô tín ngưỡng trong thế giới hiện đại: chống cự lại việc phúc âm hóa bằng sự từ khước;

·      những người không giữ đạo: chống cự bằng sự bất động.

 

56.    Chủ nghĩa tục hoá thực sự là gì?

Đ/     Là một quan niệm về thế giới theo đó thế giới tự nó có thể giải thích được mà không cần tới Thiên Chúa; vì vậy Thiên Chúa đã trở thành thừa thãi và choán chỗ vô ích. Tục hóa kiểu này, để nhìn nhận quyền năng của con người, rốt cuộc đưa tới chỗ bỏ qua Thiên Chúa và thậm chí chối bỏ Thiên Chúa nữa.

 

57.    Chủ nghĩa tục hoá vô thần đề nghị cho con người điều gì?

Đ/     Nó đề nghị cho con người, dưới đủ thứ hình thức khác nhau, một nền văn minh tiêu thụ, cái chủ trương lấy khoái lạc làm giá trị tối thượng, một ý muốn sức mạnh và thống trị, đủ thứ kỳ thị.

 

58.    Có những hình thức cộng đồng cơ sở nào?

Đ/     Có hai hình thức:

·      Các cộng đồng cơ sở mọc lên và phát triển bên trong Giáo hội, liên đới với đời sống Giáo hội, được giáo huấn của Giáo hội nuôi dưỡng, gắn bó với các chủ chăn;

·      Các cộng đồng cơ sở họp nhau trong một tinh thần chỉ trích gay gắt Giáo hội : chúng sẵn sàng kết án Giáo hội là “định chế” và để đối lại, chúng tự coi mình như những cộng đồng đặc sủng, thoát khỏi các cơ cấu, chỉ lấy Tin mừng làm nguồn hứng chỉ đạo mà thôi.

 

59.    Đâu là những điều kiện để một cộng đồng cơ sở trở nên một chỗ để phúc âm hóa, để giúp ích cho những cộng đồng rộng lớn hơn, đặc biệt là những Giáo hội địa phương và chúng sẽ là niềm hy vọng cho Giáo hội phổ quát?

Đ/     Các cộng đồng cơ sở phải:

·      tìm cách nuôi dưỡng mình bằng Lời Thiên Chúa và không để mình bị giam hãm mình trong sự phân cực chiùnh trị hay trong những ý thức hệ đúng mốt đang sẵn sàng khai thác tiềm lực mênh mông về người của chúng ;

·      tránh khỏi chước cám dỗ luôn luôn đe dọa chúng là óc phản đối cố chấp và tinh thần chỉ trích quá đáng;

·      luôn gắn bó chặt chẽ với Giáo hội địa phương của mình và với Giáo hội phổ quát;

·      chân thành hiệp thông với các Chủ Chăn mà Chúa ban cho Giáo hội và với Quyền Giáo huấn đã được Thần Khí của Đức Kitô ký thác cho các ngài ;

·      không bao giờ cho rằng chỉ riêng mình đáng được phúc âm hóa, có quyền làm công việc phúc âm hóa – hay cả quyền bảo toàn Tin mừng !

·      ngày càng lớn lên về mặt ý thức, nhiệt thành, đà dấn thân và tầm ảnh hưởng trong việc truyền giáo ;

·      tỏ ra có tinh thần đại đồng và không bao giờ mang óc bè phái.

 

CHƯƠNG SÁU

NHỮNG NGƯỜI RAO GIẢNG TIN MỪNG

 

60.    Do đâu mà có những người công bố Tin mừng cứu độ trong thế giới?

Đ/     Đó là do lệnh truyền, nhân danh và với ân sủng của Đức Kitô Cứu Thế: “Làm sao mà rao giảng nếu không được sai đi ?” (Rm 10,15)

 

61.    Những ai có sứ mệnh phúc âm hóa?

Đ/     Công Đồng Vaticanô II đã trả lời rõ rệt : “Do ủy nhiệm của Thiên Chúa, Giáo hội có trách nhiệm đi khắp cả thiên hạ và loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”; và “Toàn thể Giáo hội phải truyền giáo, công cuộc phúc âm hóa là một nghĩa vụ căn bản của dân Thiên Chúa”.

 

62.    Phải có những xác tín nào khi rao giảng Tin mừng?

Đ/     Phải có hai xác tín :

·      rao giảng Tin mừng không phải là một hành động cá nhân và riêng lẻ của ai hết, nhưng là một hành động có tính giáo hội sâu sắc: trong sự hiệp nhất với sứ mệnh của Giáo hội và nhân danh Giáo hội;

·      không một ai làm công việc ấy lại làm chủ tuyệt đối hành động phúc âm hóa của mình, với quyền quyết đoán, để thực hiện công việc ấy theo những tiêu chuẩn và viễn tượng cá nhân chủ nghĩa, nhưng phải là trong sự hiệp thông với Giáo hội và với các Chủ Chăn của mình.

 

63.    Chúa muốn một Giáo hội như thế nào?

Đ/     Người muốn một Giáo hội phổ quát, như cây lớn đến nỗi chim trời đến nương náu trên cành, như lưới vớt đủ thứ cá, như đàn chiên chỉ có một kẻ chăn. Tóm lại, Người muốn một Giáo hội phổ quát không giới hạn, không biên cương.

 

64.    Thế nào là một Giáo hội địa phương?

Đ/     Là Giáo hội phổ quát được nhập thể, được đâm rễ trong những mảnh đất văn hóa, xã hội, nhân sinh khác nhau, nên mang những khuôn mặt khác nhau và có những biểu hiện bên ngoài khác nhau.

 

65.    Giáo hội địa phương có bổn nào trong việc rao giảng Tin mừng?

Đ/     Giáo hội địa phương có bổn phận:

·      Thích nghi: nghĩa là hấp thụ và chuyển nguyên vẹn cái cốt yếu của Tin Mừng sang ngôn ngữø con người hiểu được, rồi loan báo trong ngôn ngữ này. Công cuộc phúc âm hóa sẽ mất đi rất nhiều sức mạnh và hiệu quả nếu không để ý đến dân tộc cụ thể mà nó nhắm tới.

·      Trung thành : công cuộc phúc âm hóa có thể đánh mất linh hồn mình và tiêu tan,  nếu người ta làm cho nó không còn nội dung hay chỉ còn là một nội dung đã biến chất.

 

66.    Đâu là những nguy cơ nếu Giáo hội địa phương tự cắt đứt với Giáo hội phổ quát và với trung tâm sống động và hữu hình của Giáo hội?

Đ/     Có hai nguy cơ:

·      nguy cơ bị khô cằn đi vì tự cô lập hoá rồi chẳng bao lâu lại bị tan vỡ, vì mỗi thành phần của nó lại tách lìa nó như nó đã tách lìa trung tâm;

·      nguy cơ mất tự do vì một khi đã bị cắt đứt với trung tâm và với các Giáo hội khác trước kia vẫn chuyền sức mạnh và năng lực sang nó, nó sẽ thấy bị bỏ mặc một mình cho đủ thứ thế lực nô lệ hóa và lợi dụng.

 

67.    Đâu là những lợi ích của việc gắn bó với Giáo hội phổ quát?

Đ/     Một Giáo hội địa phương mà càng gắn bó với Giáo hội phổ quát bằng những mối hiệp thông vững chắc thì:

·      Giáo hội ấy càng có khả năng diễn đạt kho tàng đức tin bằng những cách thức đa dạng mà chính đáng  trong việc tuyên xưng đức tin, cầu nguyện và phụng thờ, trong nếp sống và động thái kitô-hữu, trong sự tỏa ảnh hưởng của dân tộc liên hệ;

·      Giáo hội ấy cũng càng là sứ giả Tin mừng, nghĩa là biết lấy từ gia sản ra những gì có ích cho dân tộc mình cũng như biết truyền kinh nghiệm và sức sống của dân tộc mình sang Giáo hội phổ quát, để mọi người đều được hưởng.

 

68.    Khi kết thúc Thượng hội đồng, Đức Giáo hoàng nhấn mạnh đến trách nhiệm nào của các chủ chăn?

Đ/     Đó là trách nhiệm gìn giữ nguyên vẹn nội dung đức tin công giáo mà Chúa đã ký thác cho các Tông Đồ : tuy được diễn đạt trong tất cả các thứ tiếng, nội dung ấy vẫn không bị nhấm bớt, cắt xén ; tuy mặc lấy những biểu tượng đặc thù của mỗi dân tộc, được diễn giải bằng một ngôn ngữ thần học chú trọng đến các môi trường xã hội, văn hóa và ngay cả chủng tộc khác nhau, nó phải còn là nội dung đức tin công giáo đúng như Quyền Giáo Huấn của Giáo hội đã lãnh nhận và truyền đạt.

 

69.    Đâu là nhiệm vụ của Đấng kế vị Thánh Phêrô?

Đ/     Đó là dạy dỗ chân lý mặc khải và phái đi rao giảng Tin mừng cứu độ.

 

70.    Đâu là nhiệm vụ của các Giám mục?

Đ/     Hiệp nhất với người Kế Vị Phêrô, các Giám mục, những người kế vị các Tông Đồ, nhờ thụ phong chức giám mục, đã nhận quyền dạy dỗ chân lý mạc khải trong Giáo hội. Các ngài là những thầy dạy đức tin.

 

71.    Đâu là nhiệm vụ của các Linh mục?

Đ/     Được cộng tác với các Giám mục trong sứ vụ phúc âm hóa với tư cách là những người có trách nhiệm một cách đặc biệt, các linh mục “thay mặt Đức Kitô” giáo dục Dân Thiên Chúa trong đức tin, giảng Lời Chúa, cũng như cử hành Thánh Thể và các bí tích khác.

 

72.    Đâu là nhiệm vụ của các tu sĩ?

Đ/     Đời sống thánh hiến là một phương kế tốt đẹp đặc biệt để phúc âm hóa:

·      Làm chứng qua một đời sống thánh thiện qua việc tuân giữ các lời khuyên Phúc âm khó nghèo, trinh khiết và vâng phục;

·      Dấn thân vào việc loan báo Tin mừng.

 

73.    Đâu là nhiệm vụ của người giáo dân?

Đ/     Vì ơn gọi đặc thù của họ là giữa lòng đời và ở hàng đầu những nhiệm vụ trần thế đa dạng nhất, nên các giáo dân phải vận dụng tất cả các khả năng Kitô giáo và Tin mừng còn tiềm ẩn nhưng lại đã có mặt và tác động trong thế sự. Phạm vi dành riêng cho hoạt động phúc âm hóa của họ là thế giới rộng rãi và phức tạp chẳng những của các sinh hoạt chính trị, xã hội, kinh tế, mà còn của văn hoá, các khoa học và các nghệ thuật, đời sống quốc tế, các phương tiện truyền thông đại chúng, và cũng là một số thực tại khác đang chờ được phúc âm hóa như tình yêu, gia đình, giáo dục trẻ em và thiếu niên, nghề nghiệp, đau khổ.

 

74.    Đâu là nhiệm vụ của gia đình, “Giáo hội tại gia”?

Đ/     Gia đình có nghĩa vụ làm một không gian cho Tin mừng được truyền đạt tới và để Tin mừng từ đó tỏa ra.

 

75.    Còn giới trẻ thì sao?

Đ/     Các người trẻ đã được đào tạo kỹ lưỡng về đức tin và việc cầu nguyện, phải càng ngày càng trở thành những tông đồ cho giới trẻ.

 

76.    Ngoài ơn gọi hiện diện tích cực trong những thực tại trần thế, người giáo dân còn có thể có ơn gọi nào khác?

Đ/     Đó là ơn gọi công tác với các Chủ Chăn vào việc phục vụ cộng đồng giáo hội, để cộng đồng này lớn lên và sống, bằng việc thi hành những thừa tác vụ rất khác nhau, tùy theo ân sủng và các đoàn sủng mà Chúa muốn ban cho họ.

 

77.    Trong việc tìm kiếm cách khôn ngoan và đưa ra ánh sáng những thừa tác vụ mà Giáo hội đang cần đến, tông huấn nêu lên hai điểm trục căn bản nào?

Đ/     Đó là:

·      Kinh nghiệm cổ kính của Giáo hội về vấn đề các thừa tác vụ;

·      Nhu cầu hiện thời của loài người và của Giáo hội.

 

78.    Đâu là những điều kiện để các thừa tác vụ có một giá trị mục vụ thật sự?

Đ/     Đó là:

·      tôn trọng tuyệt đối sự hiệp nhất;

·      theo phương pháp của các Chủ Chăn.

 

79.    Đức Giáo hoàng lưu ý điều gì với những người làm công tác rao giảng Tin Mừng?

Đ/     Đó là:

·      tất cả những người làm công việc phúc âm hóa phải được chuẩn bị nghiêm chỉnh;

·      những người có sứ mệnh truyền đạt Lời Chúa phải hết sức lo sao cho ngôn ngữ của mình thật trang nghiêm, chính xác và thích ứng.

 

CHƯƠNG BẢY

TINH THẦN CỦA VIỆC PHÚC ÂM HÓA

 

80.    Động lực của việc rao giảng Tin mừng là gì?

Đ/     Là lòng yêu thương đối với những người được mình phúc âm hóa.

 

81.    Đâu là những dấu chỉ của lòng yêu thương ấy?  

Đ/     Đó là:

·      Mối quan tâm trao tặng cho người khác chân lý và dẫn đưa vào sự hiệp nhất;

·      Sự hi sinh trọn vẹn và dứt khoát cho việc loan báo Đức Giêsu Kitô;

·      Sự tôn trọng hoàn cảnh tôn giáo và tinh thần của những con người đang được phúc âm hóa: tôn trọng nhịp điệu riêng của họ, tôn trọng lương tâm và những xác tín của họ;

·      Tránh làm tổn thương người khác, nhất là khi họ còn yếu đức tin;

·      Truyền đạt những điều chắc chắn, được neo vào Lời Thiên Chúa.

 

82.    Một trở ngại trầm trọng trong việc phúc âm hóa là gì?

Đ/     Đó là sự thiếu nhiệt tình.

 

83.    Tại sao trầm trọng?

Đ/     Bởi lẽ nó phát xuất từ bên trong: nó biểu lộ trong sự mệt mỏi và chán nản, sự làm lấy lệ và hờ hững.

 

84.    Để có được sự nhiệt tình, trước hết chúng ta phải làm gì?

Đ/     Trước hết chúng ta biết thoát khỏi những lối bào chữa, viện cớ có thể khiến chúng ta tránh việc phúc âm hóa.

 

85.    Đó là những viện cớ nào?

Đ/     Đó là những lối biện bạch:

·      áp đặt một chân lý, dù là chân lý Tin mừng, áp đặt một con đường, dù là con đường cứu độ, đều chỉ có thể là vi phạm thô bạo tự do tôn giáo;

·      cần gì phải loan báo Tin mừng, vì mọi người đều được cứu độ nhờ lòng dạ ngay thẳng?

·      người ta thừa rõ là thế giới và lịch sử tràn đầy những “hạt giống Lời”: vậy há không phải là một ảo tưởng khi đòi đem Tin mừng đến chỗ nó đang ở sẵn trong những hạt giống mà chính Chúa đã gieo vãi hay sao?

 

86.    Gương cuả các thánh trong việc rao giảng Tin Mừng là gì?

  Đ/- Đó là sự nhiệt tình.

 

87. Đâu là những thái độ không thích hợp?

   Đ/ - Những lối bào chữa để tránh việc phúc âm hóa, như  :

·      Không áp đặt chân lý, lấy cớ làm như thế làø vi phạm tự do của con người.

·      Mọi người được cứu độ nhờ lòng dạ ngay thẳng.

·      Thế giới và lịch sử đầy dâỹ những “ hạt giống Lời “.

 

88. Những biện luận như vậy có đúng không?

  Đ/ - Không đúng, bởi vì đề nghị người ta đón nhận ĐK và triều đại của Người

          không vi phạm tự do của họ, nhưng còn làquyền và nghĩa vụ của

          sứ giả Tin Mừng.

      - Ngoài ra, thoái thác là phản bội lời kêu gọi của Thiên Chúa , Đấng muốn nhờ tiếng nói của các thừa tác viên mà làm cho hạt giống nảy mầm.

 

KẾT LUẬN

 

89. Đối với ĐGH, tông huấn “ Loan báo Tin Mừng này là gì?

  Đ/ - Là tiếng nói vang lên từ đáy lòng của ngài.

      -  Là tiếng vọng lại  của đại hội lần thứ ba Thượng Hội Đồng Giám Mục.

 

90. Ai là ngôi sao sáng của việc phúc âm hóa?

  Đ/ - Đức Maria , khi ngài chủ tọa buổi khởi sự công cuộc phúc âm hóa dưới tác động của Chúa Thánh Thần.