TÔNG HUẤN
VUI MỪNG VÀ HÂN HOAN
CỦA ĐỨC THÁNH CHA
PHANXICÔ
VỀ TIẾNG GỌI NÊN
THÁNH TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Lm. Trăng Thập Tự xem lại
1. “HÃY
VUI MỪNG VÀ HÂN HOAN” (Mt 5,12). Đó là lời Chúa Giêsu nhắc bảo những
người bị bách hại hoặc bị sỉ nhục vì Ngài. Chúa đòi mọi sự của ta, và đổi lại
Ngài ban cho ta sự sống thật, là hạnh phúc Ngài muốn dành cho ta khi dựng nên
ta. Ngài muốn ta phải là những vị thánh chứ không chỉ hài lòng với một cuộc
sống tẻ nhạt và tầm thường. Ngay từ những trang đầu của Kinh thánh đã có tiếng
gọi nên thánh theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn nơi lời Chúa phán với ông
Abraham: “Hãy đi trước mặt Ta, và hãy nên trọn lành” (St 17,1).
2. Những
điều sau đây không phải là một tiểu luận về sự thánh thiện, với những định
nghĩa và những phân biệt hữu ích để hiểu chủ đề quan trọng này, hoặc với những
phân tích về các phương tiện thánh hoá. Mục tiêu khiêm tốn của tôi là lặp lại
tiếng gọi nên thánh cách thực tế cho thời đại chúng ta, với tất cả những rủi
ro, thách đố và thuận lợi. Vì Chúa đã chọn mỗi người trong chúng ta để được
“nên thánh và trọn lành trước mặt Ngài trong tình yêu” (Ep 1, 4).
3. Thư
gửi tín hữu Do Thái nêu cho thấy có biết bao nhân chứng đang khích lệ ta “hãy
kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta” (12,1). Cụ thể như ông Abraham, bà
Sara, ông Môsê, ông Ghiđêôn và những người khác (x. 11,1-12,3). Trên hết, ta
cần nhận ra rằng có cả “một đám mây khổng lồ các nhân chứng” (12,1) đang không
ngừng thúc đẩy ta tiến bước hướng về mục tiêu. Những nhân chứng ấy có thể là
chính mẹ hay bà của ta hoặc những người thân yêu khác (x. 2 Tm 1,5). Cuộc sống
của họ có thể không phải lúc nào cũng hoàn hảo, nhưng ngay cả giữa những khi
lỗi lầm và thất bại, họ vẫn tiến về phía trước và sống đẹp lòng Chúa.
4. Các
thánh hiện đang sống trước nhan Thiên Chúa nhưng vẫn giữ mối liên kết yêu
thương và tình hiệp thông với ta. Sách Khải Huyền xác nhận điều ấy khi nói các
vị tử vì đạo đang chuyển cầu cho ta: “Tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những
người đã bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng. Họ lớn tiếng
kêu: “Lạy Chúa chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không
xét xử ’ ” (6,9-10). Mỗi chúng ta đều có thể nói mình “được các bạn hữu của
Thiên Chúa bao quanh, dẫn dắt và định hướng... Tôi không phải một mình vác lấy
điều mà thật ra, tôi chẳng bao giờ có thể vác nổi một mình. Đoàn ngũ các thánh
của Thiên Chúa đang ở đó để bảo vệ, đỡ nâng và đưa tôi đi” [1].
5. Khi
xúc tiến phong chân phước và hiển thánh cho ai, Hội thánh nhìn nhận nơi người
ấy những dấu chỉ về nhân đức anh hùng, việc hy sinh chịu chết vì đạo, và trong
một số trường hợp khác là liên lỉ hiến dâng cuộc sống cho tha nhân, cho đến
chết. Sự hiến dâng ấy cho thấy người đó đã noi theo gương Chúa Kitô cách điển
hình, đáng cho các tín hữu ngưỡng mộ[2]
. Chẳng hạn, ta có thể nhắc đến Chân phước Maria Gabriella Sagheddu, người đã
hiến đời mình cho sự hiệp nhất các Kitô hữu.
6. Không
phải chỉ riêng những vị đã được phong chân phước và hiển thánh. Chúa Thánh Thần
tuôn tràn sự thánh thiện khắp dân Chúa là dân tộc thánh thiện và trung tín, vì
“Thiên Chúa đã muốn thánh hóa và cứu độ con người, không phải như những cá nhân
riêng rẽ không chút liên đới với nhau, nhưng Ngài muốn làm cho họ thành một dân
tộc để họ nhận biết Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong sự thánh thiện”[3]
. Trong lịch sử cứu độ, Chúa đã cứu một dân tộc. Chúng ta chẳng bao giờ trọn
vẹn là chính mình mà lại không thuộc về một dân tộc. Đó là lý do tại sao không
ai được cứu một mình, như một cá nhân cô lập. Trái lại, Thiên Chúa kéo chúng ta
đến với Ngài, với đủ thứ liên hệ phức tạp giữa người với người trong cộng đồng
nhân loại. Thiên Chúa muốn bước vào cuộc sống và lịch sử đầy năng động của một
dân tộc.
7. Tôi
thích chiêm ngưỡng sự thánh thiện trong cuộc sống kiên nhẫn của dân Chúa: nơi
những bậc cha mẹ đang nuôi dạy con cái với tình yêu thương bao la, nơi những
người nam nữ đang chăm chỉ làm việc để nuôi sống gia đình, nơi người bệnh tật,
nơi các tu sĩ già cả mà lúc nào cũng cười tươi. Nơi những cảnh đời hàng ngày
đang kiên trì tiến tới như thế, tôi nhìn thấy sự thánh thiện của Hội thánh
chiến đấu. Rất thường thì đó là một sự thánh thiện được tìm thấy nơi những
người sát ngay bên nhà chúng ta, những người đang sống giữa chúng ta, đang phản
ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta có thể gọi họ là “tầng lớp trung lưu
của sự thánh thiện” [4].
8. Ta hãy
để cho mình được khích lệ bởi những dấu chỉ của sự thánh thiện mà Chúa cho
chúng ta thấy qua các phần tử khiêm tốn nhất của đoàn dân ấy, là đoàn dân “cũng
chia sẻ chức năng ngôn sứ của Đức Kitô, thể hiện khắp nơi chứng từ sống động về
Ngài, đặc biệt là bằng đời sống đức tin và đức ái” [5].
Theo cách nói của Thánh nữ Têrêsa Bênêđicta Thánh Giá đề nghị, ta cần để ý rằng
chính là nhờ rất nhiều người như thế mà lịch sử đang thực sự trở thành lịch sử.
Chị viết: “Chính từ giữa đêm tối sâu thẳm nhất đã xuất hiện những khuôn mặt
ngôn sứ và thánh nhân vĩ đại nhất. Nhưng phần lớn dòng chảy đang làm nên cuộc
sống thần bí như thế lại vô hình, không thấy được. Có những tâm hồn chẳng bao
giờ được sách sử nào nhắc đến nhưng lại có ảnh hưởng quyết định tại những khúc
ngoặt trong lịch sử hoàn vũ. Phải đợi đến ngày mà tất cả những gì ẩn giấu đều
tỏ lộ, ta mới biết mình mắc nợ những ai tại những khúc ngoặt quyết định của đời
ta” [6].
9. Sự
thánh thiện là vẻ mặt đẹp nhất của Hội thánh. Thế nhưng ngay cả bên ngoài Hội
thánh Công giáo và cả nơi những môi trường rất khác biệt, Chúa Thánh Thần vẫn
làm nổi bật lên “những dấu chỉ của sự hiện diện của Ngài, để giúp cho chính các
môn đệ của Đức Kitô” [7].
Thánh Gioan Phaolô II nhắc nhở chúng ta rằng “chứng nhân cho Đức Kitô phải chịu
ngay cả việc đổ máu đã trở thành một gia sản chung của người Công Giáo, Chính
Thống, Anh giáo và Tin Lành” [8].
Trong cuộc tưởng niệm đại kết cảm động được tổ chức tại Hý trường Colosseum
trong năm Đại Toàn xá 2000, ngài đã tuyên bố rằng các vị tử đạo là “một di sản
đang lên tiếng mạnh mẽ hơn tất cả những gì đã gây nên chia rẽ” [9].
10. Ở đây
mọi chuyện đều quan trọng. Tuy nhiên, với Tông Huấn này, tôi muốn đặc biệt nhấn
mạnh đến lời mời gọi nên thánh mà Chúa đang nói thẳng với mỗi chúng ta, cũng là
lời mời gọi Ngài đang đích thân nói với bạn: “Hãy nên thánh, vì Ta là thánh” (Lv
11,44; xem 1Pr 1,16). Công đồng Vaticanô II đã nói rõ điều này: “Được
trao ban nhiều phương tiện cứu độ dồi dào và cao quý như thế, tất cả mọi tín
hữu, dù trong hoàn cảnh hay bậc sống nào, cũng đều được Chúa mời gọi, để mỗi
người một cách, vươn tới sự thánh thiện trọn lành như chính Chúa Cha là Đấng
trọn lành” [10].
11. Công
đồng nói, “mỗi người một cách”. Chúng ta không nên nản chí trước những mẫu
gương thánh thiện có vẻ như không thể đạt được. Có một số chứng từ có thể hữu
ích và gợi hứng cho chúng ta, nhưng không phải là để chúng ta sao chép, vì sao
chép lắm khi còn có thể dẫn chúng ta đi sai con đường riêng mà Chúa có ý dành
cho chúng ta. Điều quan trọng là mỗi tín hữu nhận rõ được con đường riêng của
mình, rút ra được những điều tốt nhất của chính mình, những hồng ân cá nhân
nhất mà Thiên Chúa đã đặt trong lòng họ (xem 1Cr 12,7), thay vì cố gắng bắt
chước vô vọng một điều gì đó không dành cho họ. Tất cả chúng ta đều được mời
gọi làm nhân chứng, nhưng có nhiều cách thực tế để làm nhân chứng [11].
Thật vậy, khi nhà thần bí vĩ đại, Thánh Gioan Thánh Giá, viết quyển Ca Khúc Tâm Linh, ngài thường tránh đem
những quy tắc cố định áp dụng chung cho mọi người. Ngài giải thích rằng các vần
thơ của ngài được sáng tác để mỗi người có thể rút ra bài học “theo một cách
riêng” [12].
Vì sự sống của Thiên Chúa được truyền cho “kẻ thì cách này, người thì cách
khác” [13].
12. Giữa
những hình thức khác nhau ấy, tôi xin nhấn mạnh rằng “tài hoa nữ giới” cũng nổi
rõ trong những phong cách thánh thiện đậm nữ tính, và cũng là những điều rất
cần có để phản ảnh sự thánh thiện của Thiên Chúa trên trần gian này. Ngay cả
trong những thời mà người ta có khuynh hướng gạt phụ nữ sang một bên, không
nhìn đến, Chúa Thánh Thần vẫn làm nổi bật lên những vị thánh tỏa chiếu hào
quang, tạo nên những năng động tinh thần mới mẻ và những cải cách quan trọng
trong Hội thánh. Ta có thể nhắc đến Thánh Hildegard thành Bingen, Thánh
Bigitta, Thánh Catarina thành Siena, Thánh Têrêxa thành Avila và Thánh Têrêxa
thành Lisieux. Tôi còn muốn nói đến tất cả các phụ nữ vô danh hoặc bị quên
lãng, mỗi người một cách, đã nâng đỡ và biến đổi các gia đình và cộng đồng bằng
năng lực mà đời sống làm chứng của họ đem lại.
13. Điều
ấy phải đem lại phấn khởi và phải khuyến khích ta dâng hiến tất cả và ôm lấy kế
hoạch có một không hai mà Thiên Chúa đã muốn cho mỗi chúng ta từ muôn thủơ:
“Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi” (Gr 1,5).
14. Ðể
nên thánh không cần phải là một giám mục, một linh mục hay một tu sĩ. Chúng ta
thường bị cám dỗ để nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành cho những ai có thể rút
lui khỏi công việc bình thường để dành nhiều thời gian cầu nguyện. Không phải
thế. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh bằng cách sống đời mình với
tình yêu và bằng cách làm chứng trong mọi việc mình làm, ở bất cứ nơi nào mình
sống. Bạn được mời gọi sống đời thánh hiến ư? Hãy nên thánh bằng cách sống sự
dấn thấn ấy cách thật vui tươi. Bạn đã kết hôn ư? Hãy nên thánh bằng cách yêu
thương và chăm sóc cho chồng hay vợ mình, như Đức Kitô chăm sóc cho Hội thánh.
Bạn phải làm việc để kiếm sống ư? Hãy nên thánh bằng cách làm việc thật tận tụy
và chu đáo để phục vụ anh chị em mình. Bạn là cha mẹ hoặc ông bà ư? Hãy nên
thánh bằng cách kiên nhẫn dạy dỗ con cháu biết theo Chúa Giêsu. Bạn đang ở một
địa vị có quyền lực ư? Hãy nên thánh bằng cách quên lợi riêng để phục vụ ích
chung [14].
15. Hãy
để ân sủng bạn đã nhận lúc lãnh bí tích Rửa Tội sinh hoa kết quả trên đường nên
thánh. Hãy để mọi thứ được mở ra cho Thiên Chúa; dù ở tình huống nào vẫn hướng
về Chúa. Đừng nản lòng, vì quyền năng của Chúa Thánh Thần đang giúp bạn làm
điều ấy, và cuối cùng, sự thánh thiện chính là hoa trái của Chúa Thánh Thần
trong đời bạn (x. Ga 5,22-23). Khi bạn cảm thấy bị cám dỗ ở lỳ trong sự yếu
đuối của mình, thì hãy ngước mắt nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh và thưa: “Lạy
Chúa, con là một kẻ tội lỗi đáng thương, nhưng Chúa có thể làm phép lạ để khiến
con tốt hơn một chút”. Trong Hội thánh, tuy thánh thiện, nhưng bao gồm những
người tội lỗi, bạn sẽ tìm thấy mọi điều bạn cần để lớn lên theo hướng thánh
thiện. Chúa đã ban tặng cho Hội thánh đủ thứ ơn lành nơi Kinh thánh, các bí
tích, các đền thánh, nơi các cộng đoàn sống động, chứng từ của các thánh và nơi
vẻ đẹp muôn màu, bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, khiến Hội thánh khác nào
“một cô dâu điểm trang lộng lẫy” (Is 61,10).
16. Sự
thánh thiện Chúa đang mời gọi bạn như thế sẽ lớn lên bằng những cử chỉ nho nhỏ.
Đây là một thí dụ: một phụ nữ đi mua sắm, gặp một người hàng xóm và bắt đầu nói
chuyện, rồi việc bép xép bắt đầu. Nhưng chị ấy tự nhủ lòng: “Không, tôi sẽ
không nói xấu ai cả”. Đây là một bước tiến trong sự thánh thiện. Sau đó, ở nhà,
một đứa con của chị muốn nói chuyện với chị về những điều nó hy vọng và ước mơ,
và mặc dù mệt mỏi, chị vẫn ngồi xuống kiên nhẫn và ưu ái lắng nghe. Đó là một
sự hy sinh khác mang lại sự thánh thiện. Sau đó, chị gặp đôi điều khiến phải lo
âu, nhưng nhớ lại tình yêu của Đức Trinh Nữ Maria, chị lấy tràng hạt ra và cầu
nguyện bằng đức tin. Lại một nẻo đường nên thánh nữa. Lát sau ra đường, gặp một
người nghèo, chị dừng lại nói với người ấy một lời dịu dàng tử tế. Ấy là thêm
một bước nữa.
17. Đôi
khi, cuộc sống đặt ra những thách đố lớn, qua đó, một lần nữa Chúa lại mời gọi
chúng ta hoán cải để ân sủng Ngài có thể nổi rõ hơn giữa đời ta “để chúng ta
được thông phần vào sự thánh thiện của Ngài” (Hr 12,10). Lắm lúc, ta chỉ cần
tìm cách hoàn hảo hơn để làm điều đang làm. “Nhiều lúc Chúa ban ơn soi sáng chỉ
nhằm giúp ta làm những việc thông thường của đời mình với một sự hoàn thiện phi
thường” [15].
Khi Hồng y Phanxicô Xavier Nguyễn văn Thuận bị tù, ngài đã nhất định không để
lãng phí thời giờ ngồi chờ ngày được trả tự do. Thay vào đó, ngài đã chọn “sống
giây phút hiện tại, đong đầy tình thương vào đó”. Ngài quyết định: “Tôi sẽ nắm
lấy những cơ hội đến với tôi mỗi ngày, để hoàn thành mọi hành vi bình thường
một cách phi thường” [16].
18. Cứ
thế, nhờ ơn Chúa hướng dẫn, từ nhiều cử chỉ nhỏ bé, ta sẽ dệt nên sự thánh
thiện mà Thiên Chúa đã muốn cho ta, không phải với sự tự hào tự mãn nhưng như
“những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1Pr
4,10). Các giám mục Tân Tây Lan thật chí lý khi dạy rằng chúng ta có khả năng
yêu thương với tình yêu vô điều kiện của Chúa, bởi vì chính Chúa Phục sinh đã
chia sẻ sự sống mãnh liệt của Ngài với những mảnh đời yếu ớt của chúng ta:
“Tình yêu của Ngài không giới hạn và, khi đã ban cho ta rồi, Ngài không bao giờ
lấy lại. Đó là tình yêu không điều kiện và luôn trung tín. Để yêu được như thế
không phải dễ, bởi vì chúng ta thường quá yếu đuối. Thế nhưng hãy cứ thử yêu
như Đức Kitô yêu thương rồi sẽ thấy Đức Kitô đã chia sẻ sự sống lại của Ngài
với ta như thế nào. Bằng cách ấy, cuộc sống của ta sẽ cho thấy quyền năng của
Ngài đang hoạt động - ngay giữa sự yếu đuối của con người” [17].
19. Là
Kitô hữu, hễ nghĩ đến sứ vụ của mình trên trần gian, ta phải thấy nó như một
nẻo đường để nên thánh, vì “ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh” (1 Tx
4,3). Chúa Cha muốn sắp đặt để mỗi vị thánh là một sứ vụ, phản ánh và tiêu biểu
một khía cạnh nào đó của Tin mừng, vào một thời điểm cụ thể trong lịch sử.
20. Sứ vụ
ấy có được ý nghĩa trọn vẹn nhất trong Đức Kitô, và chỉ có thể hiểu được qua
Ngài. Tự cốt lõi, thánh thiện chính là sống những mầu nhiệm của cuộc đời Đức
Kitô, trong sự kết hợp với Ngài. Sự thánh thiện kết nối ta với cái chết và sự
phục sinh của Chúa một cách đích thân và độc đáo, liên tục chết và sống lại với
Ngài. Điều này có thể còn đòi hỏi ta phải tái thể hiện nơi đời mình những khía
cạnh khác nhau nơi cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu: nếp sống ẩn dật của Chúa,
nếp sống của Ngài trong cộng đồng, sự gần gũi với những kẻ bị bỏ rơi, nghèo đói
và những cách diễn tả khác được Ngài dùng để nói lên tình yêu tự hiến của Ngài.
Theo giáo huấn của Thánh Ignatiô thành Loyola, sự chiêm niệm những mầu nhiệm ấy
của Chúa đưa ta đến chỗ, qua những sự việc ấy, đích thân ta lặp lại những lựa
chọn và thái độ của mình [18].
Bởi vì “mọi sự trong đời sống của Chúa Giêsu đều là dấu chỉ về mầu nhiệm của
Ngài”[19], “toàn
thể đời sống của Đức Kitô đều là mặc khải về Chúa Cha”[20],
“toàn thể cuộc đời của Đức Kitô là một mầu nhiệm cứu chuộc” [21],
‘toàn thể cuộc đời Đức Kitô là một mầu nhiệm về sự quy tụ muôn loài nơi Đức
Kitô”[22].
“Đức Kitô cho phép ta được sống nơi Ngài tất cả những gì chính Ngài đã sống và
vẫn còn đang sống nơi ta” [23].
21. Kế
hoạch của Chúa Cha là chính Đức Kitô và cả chúng ta trong Đức Kitô. Cuối cùng,
sẽ là chính Đức Kitô yêu thương trong chúng ta, vì “sự thánh thiện không gì
khác hơn là đức ái được sống thật tròn đầy” [24].
Kết quả là, “tầm vóc sự thánh thiện nơi ta được đo theo tầm vóc của Đức Kitô mà
ta đạt được nơi bản thân, là mức độ mà, dưới tác động của quyền năng Chúa Thánh
Thần, ta đã khuôn đúc đời mình theo mẫu mực cuộc đời của Chúa” [25].
Mỗi vị thánh là một sứ điệp được Chúa Thánh Thần múc lấy từ sự sung mãn của
Chúa Giêsu Kitô để ban cho dân Ngài.
22. Để
nhận ra đâu là lời Chúa muốn nói với ta qua một vị thánh của Ngài, ta đừng bận
tâm đến các chi tiết, vì ở đó vẫn có thể gặp những sai lầm và thất bại. Không
phải mọi lời một vị thánh nói ra đều chắc chắn trung thành với Tin mừng; không
phải tất cả những gì ngài làm đều đích xác hay hoàn hảo. Điều ta cần chiêm ngắm
là toàn thể cuộc đời ngài, toàn thể bước tiến của ngài trên đường lớn lên trong
sự thánh thiện, là khuôn mặt ngài phản chiếu dung nhan Chúa Giêsu Kitô và lộ rõ
khi ta hiểu ra ý nghĩa tối hậu ngài đã đạt được như một ngôi vị [26].
23. Đó là
một lời hiệu triệu quyết liệt gửi đến tất cả chúng ta. Cả bạn nữa, bạn cũng cần
phải nhìn toàn bộ đời mình như một sứ vụ. Hãy cố gắng làm điều ấy qua việc lắng
nghe Thiên Chúa trong cầu nguyện và qua việc nhận ra các dấu chỉ Ngài đang ban
cho bạn. Hãy luôn hỏi Chúa Thánh Thần xem Chúa Giêsu đang mong đợi gì nơi bạn ở
từng giây phút đời bạn và từng quyết định bạn đang phải đắn đo, để nhận rõ vị
trí của nó trong sứ vụ bạn đã lãnh nhận. Hãy để Chúa Thánh Thần rèn đúc nơi bạn
cái mầu nhiệm ngôi vị có thể phản chiếu cho thế giới ngày nay nhận biết Chúa
Giêsu Kitô.
24. Mong
sao bạn nhận ra lời ấy, nhận ra thông điệp của Chúa Giêsu mà Thiên Chúa muốn
dùng đời bạn để nói với thế giới. Hãy để cho chính bạn được biến đổi. Hãy để
Chúa Thánh Thần đổi mới bản thân bạn để điều ấy có thể thành hiện thực và bạn
khỏi bị thất bại trong sứ vụ cao quý của mình. Dù bạn có lỗi lầm hay sơ suất,
Chúa sẽ vẫn đưa nó đến hoàn tất, miễn là bạn đừng từ bỏ con đường yêu thương
nhưng luôn cho lòng rộng mở trước ân sủng siêu nhiên của Ngài, ân sủng luyện
lọc và soi sáng.
25. Bạn
không thể hiểu được Đức Kitô nếu tách Ngài khỏi vương quốc Ngài mang đến. Cũng
vậy, sứ vụ của bản thân bạn không thể tách khỏi việc xây dựng vương quốc ấy:
“Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt6,33). Việc bạn
tự đồng hoá với Đức Kitô và ý muốn của Ngài đòi bạn phải cam kết cùng Ngài xây
dựng vương quốc Ngài, một vương quốc của yêu thương, công lý và hòa bình phổ
quát. Chính Đức Kitô muốn cùng với bạn cảm nghiệm điều ấy trong tất cả những nỗ
lực và hy sinh mà vương quốc ấy đòi hỏi, đồng thời trong tất cả niềm vui và sự
phong phú mà vương quốc ấy mang đến. Bạn không thể lớn lên trong sự thánh thiện
mà không đích thân hiến cả thân xác lẫn linh hồn, hiến hết tất cả những gì tốt
đẹp nhất của bạn.
26. Thật
không lành mạnh khi nhân danh sự thinh lặng để tránh gặp gỡ người khác, khi vì
cầu an mà tránh hoạt động, vịn cớ cầu nguyện để khỏi phục vụ. Mọi sự đều có thể
chấp nhận được và hòa nhập vào cuộc sống của ta trong thế giới này, để trở nên
một phần của nẻo đường giúp ta nên thánh. Ta được mời gọi sống chiêm niệm ngay
giữa hoạt động và được mời gọi lớn lên trong sự thánh thiện bằng cách thi hành
sứ vụ riêng của mình cách hào hiệp và đầy trách nhiệm.
27. Liệu
Chúa Thánh Thần có thúc giục ta thi hành một sứ vụ rồi liền sau đó lại đòi ta
từ bỏ nó, hoặc thôi tích cực tham gia vào đó, để giữ lấy sự bình an nội tâm
chăng? Thế nhưng lắm lúc chúng ta bị cám dỗ để đẩy lùi nhiệt tình mục vụ cũng
như sự dấn thân vào đời xuống hàng thứ yếu, như thể chúng khiến chúng ta bị
“sao nhãng” trên nẻo đường nên thánh và bình an nội tâm. Có lẽ ta đã quên mất
rằng “cuộc sống không có một sứ vụ, mà chính nó là một sứ vụ” [27].
28. Chẳng
cần phải nói, bất cứ điều gì chỉ làm vì lo âu, tự hào hoặc do nhu cầu gây ấn
tượng với những người khác sẽ không dẫn đến sự thánh thiện. Thách đố của sự
thánh thiện là ở chỗ phải cho thấy được mình đã dấn thân đến độ mọi sự mình làm
đều thấm nhuần tinh thần Tin mừng và khiến mình ngày càng nên giống Chúa Giêsu
Kitô hơn. Chẳng hạn, ta thường nói về đường nên thánh của giáo lý viên, của
linh mục triều, hoặc của công việc. Cũng vì lý do đó, trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng tôi đã kết luận bằng
cách nói về một đường nên thánh của sứ vụ, trong tông huấn Chúc Tụng Chúa (Laudato Si') về một đường nên thánh qua môi sinh,
và trong tông huấn Niềm Vui Yêu Thương
về một đường nên thánh của đời sống gia đình.
29. Nói
thế không có nghĩa là bỏ qua sự cần thiết của những giây phút yên tĩnh, cô tịch
và im lặng trước Thiên Chúa. Ngược lại là khác. Chính vì lúc nào cũng có những
vật dụng mới, sự lôi cuốn của du lịch và đủ thứ mặt hàng tiêu thụ thường không
còn trừ lại chỗ nào cho ta nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Đâu đâu cũng
tràn ngập những lời nói, những thú vui hời hợt và tiếng động ồn ã càng lúc càng
tăng. Thay vì được đong đầy bằng niềm vui, ta lại thấy bị chất chứa cái bất mãn
của những kẻ sống mà chẳng biết sống để làm gì. Làm sao ta không thấy cần kíp
phải chặn ngay cuộc đua cuồng vội này để tìm lại không gian thân thiết cần có
để đối thoại chân thành với Thiên Chúa? Có thể phải trầy vi tróc vảy mới tìm
được khoảng không gian ấy nhưng bao giờ nó cũng đầy hoa trái. Sớm hay muộn, ta
cũng phải đối diện với chính con người thật của mình và để cho Chúa vào chiếm
ngự. Có thể ta sẽ chẳng gặp được điều ấy nếu như “không thấy như mình đang phải
nhìn chằm chằm vào hố thẳm của một cám dỗ đáng sợ, hoặc cảm thấy chóng mặt bên
cạnh bờ vực của tuyệt vọng, hoặc thấy mình hoàn toàn cô đơn và bị bỏ rơi” [28].
Chính là trong những hoàn cảnh như vậy, ta mới tìm được động lực sâu xa nhất để
dấn thân sống trọn vẹn cho những bổn phận của mình.
30. Cũng
chính những trò vui tiêu khiển đang lan khắp thế giới ngày nay như vậy khiến ta
có khuynh hướng coi thời gian rảnh rỗi như là chuyện bất khả xâm phạm, để rồi
đắm mình cách vô độ vào những thứ chỉ giúp giải trí bằng những thú vui hời hợt
chóng qua [29].
Hậu quả
là, cuối cùng, ta cảm thấy sứ vụ cũng như sự dấn thân của mình bị bốc hơi dần,
nghĩa khí và tinh thần phục vụ bị sa sút. Nó khiến cảm nghiệm tâm linh của ta
bị biến chất. Rồi khi nhiệt tình loan Tin mừng và phục vụ người khác đã bạc
nhược đến thế, hỏi liệu còn nhiệt huyết linh thiêng nào có thể đứng vững?
31. Ta
cần một tinh thần thánh thiện có khả năng lấp đầy cả sự cô tịch lẫn việc phục
vụ của ta, lấp đầy cả đời tư lẫn những nỗ lực loan Tin mừng của ta, để mỗi giây
phút đều có thể là một biểu hiện của tình yêu tự hiến trong mắt Chúa. Có thế,
mỗi giây phút đời ta mới có thể là một bước trên nẻo đường dẫn đến sự trưởng
thành về thánh thiện.
32. Đừng
sợ sự thánh thiện. Nó sẽ không lấy mất chút năng lượng, sức sống hay niềm vui
nào của bạn. Trái lại, bạn sẽ trở thành điều Chúa Cha đã nghĩ đến khi tạo thành
bạn, và sẽ trung thành với chính con người sâu thẳm nhất của mình. Sự lệ thuộc
vào Thiên Chúa giải thoát ta khỏi mọi hình thức nô lệ và đưa ta đến chỗ nhận ra
phẩm giá cao quý của mình. Ta thấy rõ điều ấy nơi Thánh Giôsêphina Bakhita: “Bị
bắt cóc và bị bán làm nô lệ khi mới lên bảy, chị đã phải chịu đựng rất nhiều
trong tay của những chủ nhân độc ác. Thế nhưng rồi chị đã hiểu được chân lý sâu
xa rằng không phải con người nhưng Thiên Chúa mới là Chủ Nhân thật của mọi hữu
thể người, của mọi mạng sống con người. Kinh nghiệm ấy đã thành một nguồn khôn
ngoan thật lớn lao cho cô gái Phi châu khiêm nhường bé bỏng” [30].
33. Càng
lớn lên trong sự thánh thiện, mỗi Kitô hữu càng mang lại hoa trái lớn hơn cho
thế giới của chúng ta. Các giám mục Tây Phi đã ghi nhận: “Trong tinh thần Tân
Phúc âm hóa chúng tôi đang được mời gọi để cho chính mình được phúc âm hóa đồng
thời phúc âm hóa thế giới qua những trách nhiệm Chúa đã giao cho tất cả các anh
chị em, là những người đã lãnh phép Thánh tẩy, trong vai trò làm muối đất và
ánh sáng thế gian ở bất cứ nơi nào anh chị em sống” [31].
34. Đừng
sợ nhìn lên cao hơn, để cho phép mình được Thiên Chúa yêu thương và giải phóng.
Đừng sợ để cho mình được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Sự thánh thiện sẽ không
khiến bạn trở thành kém chất người đi, vì nó là một cuộc gặp gỡ giữa sự yếu đuối
của bạn và quyền năng của ân sủng Thiên Chúa. Cuối cùng, như Léon Bloy đã nói,
“trên đời chỉ có một bi kịch lớn nhất, ấy là không trở thành một vị thánh” [32].
35. Trong
khung cảnh ấy, tôi muốn lưu ý đến hai thứ thánh thiện giả mạo có nguy cơ khiến
chúng ta lầm lạc: thuyết ngộ đạo và thuyết Pêlagiô [Ghi chú
của người dịch: Ngộ đạo, nói tắt là những người chạy theo sự bừng ngộ, tự
cho là mình nhận được những hiểu biết sâu nhiệm và đặc biệt, hơn hẳn mọi người.
Lạc thuyết Pelagiô là thái độ không tha thiết với ơn Chúa, chỉ dựa trên sức
riêng mình]. Hai lạc thuyết này đã có từ thời
Kitô giáo sơ khai, nhưng hiện vẫn hết sức đáng quan tâm. Ngay ở thời nay rất
nhiều Kitô hữu vẫn bị những ý tưởng dối trá này lôi cuốn mà có lẽ không hề ngờ.
Chúng được trá hình như là chân lý của Công Giáo nhưng thực ra chỉ là một thái
độ nội tâm lấy con người làm chuẩn [33].
Hai dạng trú ẩn an toàn cả về học thuyết lẫn thực hành này làm nảy sinh một chủ
nghĩa ưu tuyển tự say mê mình và độc đoán, thay vì rao giảng Tin mừng, người ta
tìm phân tích và xếp loại người khác, và thay vì mở lòng cho ân sủng, người ta
dốc hết tâm lực ra để theo dõi và kiểm chứng. Trong cả hai trường hợp, người ta
không thực sự quan tâm đến Chúa Giêsu Kitô hoặc tha nhân” [34].
36. Người
ta rơi vào thuyết ngộ đạo khi chạy theo "một đức tin đóng kín trong cái
chủ quan của mình, chỉ bận tâm đến một kinh nghiệm cụ thể nào đó hoặc một loạt
các ý tưởng và một mớ kiến thức được coi là có sức nâng
đỡ và soi sáng, nhưng lại nhốt kín người ta trong những tư tưởng hay cảm xúc
riêng của họ" [35].
37. Cảm
tạ Thiên Chúa, rõ ràng là suốt lịch sử Hội thánh bao giờ sự hoàn hảo của một
người cũng được đo lường không phải bằng lượng thông tin hay kiến thức người ấy có được, nhưng bằng chiều sâu đức ái của người ấy. Những người “ngộ đạo” nhầm lẫn về điều đó, họ đánh giá người khác dựa vào khả năng hiểu được sự phức tạp của một học thuyết nào đó. Họ hình dung ra tinh thần như một thứ gì tách khỏi xác thịt, do đó không
có khả năng chạm đến xác thịt đau khổ của Đức Kitô nơi những người khác, như
thể bị giam hãm trong một cái rọ lý thuyết của những tư tưởng trừu tượng. Tách
rời mầu nhiệm ra khỏi phận người có xác phàm, họ thích chạy theo “một Thiên
Chúa không có Đức Kitô, một Đức Kitô không có Hội thánh, và một Hội thánh không
có dân của mình” [36].
38. Cứ
thế thì chắc chắn chỉ còn là một sự hời hợt hão huyền: có lắm biến chuyển ngoài
bề mặt, nhưng tâm trí không hề được đánh động hoặc biến cải gì sâu xa. Tuy
nhiên, tham vọng ngộ đạo lại cuốn hút khiến lắm người ngây ngất trong lầm lạc,
vì nó khởi đầu cách nhặt nhiệm và thuần khiết, và hầu như cũng có một sự hài
hòa hoặc trật tự nào đó bao gồm tất cả mọi sự.
39. Thế
nhưng, xin lưu ý. Ở đây tôi không nhắm nói đến những người duy lý thù nghịch
với đức tin Kitô giáo, hiện vẫn có thể đang có trong Hội thánh, cả nơi hàng ngũ
giáo dân tại các giáo xứ lẫn nơi những giảng viên triết học và thần học ở các
trung tâm đào tạo. Những người ngộ đạo nghĩ rằng các giải thích của họ có thể
làm cho toàn bộ đức tin và Tin mừng trở nên hoàn toàn dễ hiểu. Họ tuyệt đối hóa
các thuyết của họ và buộc những người khác phải chấp nhận cách suy nghĩ của họ.
Sử dụng lý trí lành mạnh và khiêm tốn để suy tư về giáo huấn thần học và luân
lý của Tin mừng là một chuyện. Còn chủ trương giản lược giáo huấn của Chúa
Giêsu xuống thành một lý luận lạnh lùng và cứng nhắc nhằm tìm cách thống trị
mọi sự lại là chuyện khác [37].
40.
Thuyết ngộ đạo là một trong những hệ tư tưởng tệ hại nhất, bởi vì, nó vừa tán
dương một kiến thức hoặc một kinh
nghiệm cụ thể, vừa coi cái nhìn riêng ấy về thực tại là tiêu biểu cho sự hoàn thiện. Như thế, có thể là người theo hệ tư tưởng này không hề ý thức được điều ấy, cứ tự loay hoay với
mình, đến độ ngày càng trở nên thiển cận hơn. Hệ tư tưởng này có thể còn trở
nên viển vông hơn nữa khi khoác lớp áo một nẻo đường tâm linh thoát tục. Thật
vậy, “tự bản chất của nó thuyết ngộ đạo tìm cách uốn nắn để làm chủ mầu nhiệm” [38],
dù đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa và ân sủng của Ngài, hay là những điều huyền
nhiệm nơi cuộc đời những người khác.
41. Khi
một người nào đó có một câu trả lời chung cho mọi vấn đề, đó là một dấu chỉ cho
thấy họ không đi đúng đường. Họ có thể là ngôn sứ giả, những kẻ dùng tôn giáo
cho mục đích riêng của họ, để quảng bá các lý thuyết riêng của họ về tâm lý
hoặc về trí tuệ. Thiên Chúa cao vượt trên chúng ta đến vô cùng vô tận. Ngài đầy
bất ngờ. Chẳng phải chúng ta là những người quyết định mình sẽ gặp Ngài khi nào
và thế nào. Thời gian và địa điểm chính xác của cuộc gặp gỡ ấy không phụ thuộc
vào chúng ta. Ai muốn đòi mọi sự đều phải rõ ràng và chắc nịch, ấy là đang đòi
kiểm soát sự siêu việt của Thiên Chúa.
42. Chúng
ta cũng không có quyền nói là nơi nào không có Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa
hiện diện cách mầu nhiệm trong cuộc sống mỗi người, theo một cách mà chính Ngài
chọn lựa, và chúng ta không thể loại trừ điều này bằng những điều mình cho là
chắc chắn. Ngay cả khi đời sống của một người có vẻ hoàn toàn tan nát, ngay cả
khi chúng ta thấy đời sống ấy bị các tật xấu hoặc nghiện ngập tàn phá, thì
Thiên Chúa vẫn hiện diện ở đó. Nếu chúng ta để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn
thay vì để cho các định kiến của chính mình khống chế, thì chúng ta có thể và phải cố
gắng tìm kiếm Chúa trong mọi đời sống con người. Đây là một phần của mầu nhiệm
mà một não trạng ngộ đạo không thể nào chấp nhận được, vì nằm ngoài sự kiểm
soát của nó.
43. Chúng
ta chỉ hiểu được rất nghèo nàn về chân lý mà chúng ta đã nhận được từ Chúa.
Diễn tả được chân lý ấy lại càng khó hơn nữa. Vì vậy, chúng ta không thể tự cho
phép mình dùng cách hiểu của mình để giám sát chặt chẽ cuộc sống của những
người khác. Ở đây, tôi xin lưu ý rằng trong Hội thánh những cách giải thích
khác nhau về nhiều khía cạnh của học thuyết và đời sống Kitô hữu có thể cùng
tồn tại bên nhau cách hợp pháp; nhờ đa dạng như thế, chúng “giúp diễn đạt rõ
ràng hơn về sự phong phú vô tận của Lời Chúa”. Quả tình, “đối với những người
mơ ước một học thuyết toàn khối được tất cả mọi người răm rắp nghe theo, sự đa
dạng như thế có lẽ không đáng mong ước và còn dẫn đến chỗ mập mờ” [39].
Thật vậy, một số luồng tư tưởng ngộ đạo đã chế nhạo cái đơn giản cụ thể của Tin
mừng và cố gắng thay thế Thiên Chúa Ba Ngôi và Nhập Thể bằng một Nhất Thể tối
cao, ở đó sự đa dạng phong phú lịch sử của chúng ta bị biến mất.
44. Trên
thực tế, học thuyết của Hội thánh, hay đúng hơn, sự hiểu biết và sự diễn tả của
chúng ta về học thuyết ấy, “không phải là một hệ thống khép kín, gạt hết cái
năng động có khả năng đặt câu hỏi, nêu lên những điểm hoài nghi và thắc mắc...
Những câu hỏi dân chúng nêu lên, những đau khổ của họ, những chiến đấu của họ,
những ước mơ, những thử thách và những lo âu của họ, tất cả đều có giá trị giải
thích mà ta không thể bỏ qua nếu muốn theo đuổi nguyên tắc nhập thể một cách
nghiêm chỉnh. Thắc mắc của họ giúp ta suy nghĩ, các câu hỏi của họ chất vấn ta”
[40].
45. Có
một nhầm lẫn nguy hiểm vẫn thường xảy ra. Đó là, nghĩ rằng bởi vì mình biết một
điều gì đó, hoặc có thể giải thích nó một cách nào đó, nên mình đã thành thánh
thiện, hoàn hảo và tốt hơn “đám đông thiếu hiểu biết”. Thánh Gioan Phaolô II đã
cảnh báo những người may mắn có học thức cao trong Hội thánh cần tỉnh táo trước
cám dỗ “cảm thấy một cách nào đó mình cao vượt hơn các thành phần tín hữu khác”
[41].
Thực ra, điều chúng ta nghĩ rằng mình biết phải luôn luôn thúc đẩy chúng ta đáp
lại tình yêu của Thiên Chúa một cách trọn vẹn hơn. Quả thật, “anh chị em học
như thế là để sống: thần học và sự thánh thiện không thể tách rời nhau được” [42].
46. Khi Thánh Phanxicô thành Assisi thấy một số môn đệ của ngài tham gia việc giảng dạy, ngài muốn giúp họ tránh chước cám dỗ của thuyết ngộ đạo. Ngài đã viết cho Thánh Antôn thành Pađôva: “Cha vui mừng khi con dạy thần học thánh
cho các anh em, với điều kiện là ... đang khi nghiên cứu như thế, con đừng dập
tắt tinh thần cầu nguyện và lòng đạo đức ” [43].
Thánh nhân đã nhận ra cái cám dỗ biến kinh nghiệm Kitô giáo thành một loạt thực
tập về trí tuệ, có nguy cơ tách ta khỏi sự tươi mát của Tin mừng. Mặt khác,
Thánh Bonaventura đã chỉ ra rằng lẽ khôn ngoan Kitô giáo chân chính không bao
giờ được tách khỏi lòng khoan dung với người bên cạnh ta: “Lẽ khôn ngoan lớn
nhất cốt ở chỗ chia sẻ cách hữu hiệu những gì ta có để cho đi, những gì ta được
trao ban để dâng hiến ... Cũng tựa như lòng thương xót là bạn đồng hành của lẽ
khôn ngoan thế nào, thì tính hà tiện cũng là kẻ thù của nó thế ấy” [44].
Có những hoạt động, khi được kết hợp với chiêm niệm, chẳng những không ngăn cản
việc chiêm niệm, mà lại tạo thuận lợi cho nó, chẳng hạn như những việc thương
xót và việc sùng mộ” [45].
47.
Thuyết ngộ đạo đã mở đường cho một lạc thuyết khác, cũng đang ảnh hưởng nhiều
trong thời đại chúng ta. Theo thời gian, nhiều người nhận ra rằng không phải
kiến thức khiến ta trở nên tốt hơn hoặc khiến ta nên thánh, mà là cách ta sống. Thế nhưng rồi điều này đã tinh vi đưa người ta quay về lại với sai lầm cố hữu của những người theo thuyết ngộ đạo, một sai lầm chỉ đơn thuần biến đổi chứ không bị loại trừ.
48. Cái
sức mạnh mà những người theo ngộ đạo đã gán cho kiến thức, thì giờ đây một số
người khác bắt đầu gán cho ý chí của con người, cho nỗ lực cá nhân. Đây là
trường hợp những người theo thuyết Pelagiô và thuyết Palagiô-nửa-vời. Giờ đây
không phải là trí thông minh thay thế cho mầu nhiệm và ân sủng, mà là ý chí của
con người. Người ta đã quên rằng mọi sự “không tùy thuộc vào ý muốn hay nỗ lực
của con người, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng tỏ lòng thương xót” (Rm 9,16) và
“Ngài đã yêu thương chúng ta trước” (x. 1 Ga4,19).
49. Những
người nặng đầu óc Pelagiô hoặc Pêlagiô-nửa-vời này, mặc dù vẫn nhiệt thành nói
về ân sủng của Thiên Chúa, nhưng “chung cuộc chỉ tin cậy vào sức riêng của họ
và cảm thấy mình vượt hơn người khác bởi vì họ tuân giữ một số quy luật nào đó
hoặc vẫn tuyệt đối trung thành với một kiểu Công giáo đặc thù” [46].
Khi có ai đó trong họ nói với những người yếu đuối rằng với ơn Chúa mọi sự đều
có thể xong cả thì, tự sâu xa họ vẫn muốn mớm ý cho những người ấy rằng mọi sự
đều có thể làm được nhờ ý chí của con người, như thể ý chí này là một điều gì
đó thuần khiết, hoàn hảo, vạn năng sẵn rồi, còn ân sủng chỉ được thêm vào đó
thôi. Họ không nhận ra rằng “không phải ai cũng có thể làm được mọi sự” [47],
và rằng trong cuộc đời này, những yếu đuối của con người không được chữa lành
hẳn cách dứt khoát bằng ân sủng [48].
Trong mọi trường hợp, như thánh Augustinô dạy, Thiên Chúa truyền cho bạn làm
những gì có thể làm được còn những gì không thể làm được thì xin ơn Chúa giúp [49],
và hãy cầu nguyện với Ngài cách khiêm tốn: “Xin ban cho con những gì Chúa
truyền dạy, và truyền dạy con những gì Chúa muốn” [50].
50. Cuối
cùng, nếu không biết chân thành, đau đớn và thành khẩn nhìn nhận những giới hạn
của mình, chúng ta sẽ cản trở không cho ân sủng hoạt động trong chúng ta hiệu
quả hơn, vì không còn chỗ để thể hiện sự tốt lành tiềm tàng, vẫn hằng góp phần
vào một cuộc hành trình tăng trưởng hồn nhiên và chân thực [51].
“Ân sủng, hẳn vẫn tôn trọng bản tính tự nhiên của ta, chứ đâu có biến ta thành
siêu nhân ngay tức thì”. Nghĩ như vậy sẽ là quá tin vào mình. Ở đây đàng sau vẻ
chính thống, có thể chúng ta đang có những thái độ không tương ứng với lời mình
nói về sự cần thiết của ân sủng, và trong những tình huống nhất định có thể
chúng ta sẽ không còn tin tưởng gì mấy vào ân sủng. Nếu không biết nhìn nhận
thực tế cụ thể và giới hạn của mình, chúng ta sẽ không thể thấy được những bước
đi thật sự và khả thi Chúa đang đòi hỏi chúng ta trong mọi lúc, sau khi đã dùng
ân tứ của Ngài để chinh phục ta và ban khả năng cho ta. Ân sủng hành động theo
dòng lịch sử; thông thường thì ân sủng nắm lấy ta và biến đổi ta cách từ từ [52].
Nếu ta gạt bỏ thực tại lịch sử và tiệm tiến ấy, thì trong thực tế ta có thể sẽ
rơi vào chỗ từ chối và ngăn chặn ân sủng, mặc dù ngoài miệng thì vẫn bô bô tán
dương ân sủng.
51. Khi
Thiên Chúa nói với ông Abraham, Ngài bảo ông: “Ta là Thiên Chúa Toàn Năng, hãy
đi trước mặt Ta, và hãy nên trọn lành” (St 17,1). Để được nên trọn lành, như
Ngài muốn cho ta, ta cần phải sống khiêm tốn trong sự hiện diện của Ngài, được
che phủ trong vinh quang của Ngài; ta cần bước đi trong sự hiệp nhất với Ngài,
ý thức rằng tình yêu Ngài hằng liên lỉ suốt đời ta. Ta cần phải không còn sợ
hãi trước sự hiện diện của Đấng chỉ hiện diện vì ích lợi của ta. Thiên Chúa là
Người Cha đã ban cho ta sự sống và hằng yêu thương ta biết bao. Một khi đã đón
nhận Ngài, không còn tìm cách sống cuộc sống không có Ngài, thì nỗi thống khổ
của cô đơn sẽ biến mất (x. Tv 139,23-24). Bằng cách ấy, ta sẽ biết được ý muốn
hoàn hảo của Chúa, ý muôn đẹp lòng Ngài (x. Rm 12,1-2) và để cho Ngài nhào nặn
ta như một thợ gốm (x. Is 29,16). Ta thường nói rằng Thiên Chúa ngự trong ta,
nhưng tốt hơn nên nói rằng ta ở trong Ngài, để Ngài có thể giúp ta sống trong
ánh sáng và tình yêu của Ngài. Ngài là đền thờ của ta; ta cầu xin được ở trong
nhà Chúa mọi ngày đời ta (x. Tv 27,4). “Một ngày tại khuôn viên thánh điện quý
hơn cả ngàn ngày” (Tv 84,10). Chính ở trong Ngài ta được nên thánh.
52. Hội
thánh đã nhiều lần dạy rằng chúng ta được nên công chính không nhờ các việc làm
hay nỗ lực riêng của mình, nhưng nhờ ân sủng của Chúa, Đấng luôn luôn chủ động.
Các Giáo Phụ, ngay cả trước Thánh Augustinô, đã bày tỏ rõ ràng niềm tin cơ bản
ấy. Thánh Gioan Kim Khẩu nói rằng Thiên Chúa đổ vào chúng ta chính nguồn mạch
mọi hồng ân của Ngài thậm chí trước khi chúng ta bước vào trận chiến [53].
Thánh Basiliô Cả lưu ý rằng các tín hữu chỉ được vinh quang nơi một mình Thiên
Chúa, vì “họ nhận ra mình thiếu sự công chính đích thực và chỉ được công chính
hoá nhờ đức tin vào Đức Kitô” [54].
53. Công
Đồng Orange II đã dạy cách đầy thẩm quyền rằng không ai trong nhân loại có thể
đòi hỏi, đáng được hoặc mua sắm được món quà ân sủng của Thiên Chúa, và rằng
mọi sự hợp tác với ân sủng cũng là một ơn do ân sủng ấy ban trước rồi: “Ngay cả
ước muốn được thanh tẩy cũng là do chính Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào lòng ta và
tác động trong ta” [55].
Sau đó, Công Đồng Trentô, khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự hợp tác của
chúng ta trong việc phát triển tâm linh, cũng đã khẳng định lại giáo huấn tín
lý ấy: “Bảo rằng chúng ta được công chính hoá một cách “cho không” vì trước khi
được công chính hoá thì không có gì xứng đáng với ơn công chính hoá, cho dù là
đức tin hay việc làm; vì ‘đã nhờ ân sủng, thì không còn dựa vào việc làm; bằng
không thì ân sủng sẽ không còn là ân sủng nữa’ (Rm 11,6)” [56].
54. Sách
Giáo Lý của Hội thánh Công Giáo cũng nhắc nhở ta rằng món quà ân sủng “vượt
trên sức mạnh của trí tuệ và ý chí của con người” [57]
và “trước nhan Thiên Chúa, con người tuyệt đối không có quyền hay công trạng
gì. Giữa Thiên Chúa và chúng ta có một sự bất bình đẳng khôn lường” [58].
Tình bạn Ngài dành cho ta cao vượt trên ta vô hạn; ta không thể mua tình bạn ấy
bằng các việc làm của ta, nó chỉ có thể là một quà tặng phát sinh từ sáng kiến yêu thương của Ngài. Điều ấy mời gọi ta sống trong niềm tri ân vui mừng vì món quà mà ta không hề xứng đáng, vì “sau khi một người có được ân sủng, thì ân sủng này đã có sẵn đâu thể nói do công trạng của người ấy mà có được ” [59].
Các Thánh luôn tránh cậy dựa vào việc làm của mình: “Khi cuộc sống về chiều,
con sẽ ra trước mặt Chúa với hai bàn tay trắng: bởi lẽ, lạy Chúa, con không xin
Chúa đếm những việc con làm... Trước mắt Chúa, mọi sự công chính của chúng con
đều đầy tì vết! ” [60].
55. Đây
là một trong những xác tín lớn mà Hội thánh đã kiên quyết giữ vững. Nó được
diễn tả rõ ràng trong Lời Chúa mà không ai có thể thắc mắc gì được. Giống như
giới luật yêu thương tối cao, ta phải để cho chân lý này ảnh hưởng lên toàn bộ
cách sống của ta, bởi lẽ nó chảy ra từ tâm điểm của Tin mừng và đòi ta không
những chấp nhận nó về mặt trí tuệ mà còn phải biến nó thành một nguồn vui có
sức lan tỏa. Nhưng ta chỉ có thể mừng hồng ân do tình bạn của Chúa “ban không”
như thế, khi nhìn nhận rằng cuộc đời trần thế và cả khả năng tự nhiên của mình
cũng là hồng ân của Ngài. Ta cần “hân hoan nhìn nhận rằng sự sống của ta chủ
yếu là một ơn ban, và ý thức rằng tự do của ta là một ân huệ. Ngày nay nhìn
nhận như thế thật không dễ, giữa một thế giới vẫn nghĩ rằng nó có thể giữ một
điều gì đó cho phần nó, như thành quả do chính nó sáng tạo hoặc tự do định
đoạt” [61].
56. Chỉ
khi nào khởi đi từ hồng ân Thiên Chúa ban và nhận lấy hồng ân ấy trong tự do và
khiêm nhường, ta mới có thể nỗ lực cộng tác vào việc dần dần biến đổi mình [62].
Trước hết, ta phải thuộc về Thiên Chúa, bằng cách hiến dâng chính mình cho
Ngài, là Đấng đã ở đó trước, và trao phó cho Ngài mọi khả năng và nỗ lực của ta
cũng như cuộc chiến đấu của ta chống lại sự dữ và mọi sáng kiến của ta, thì
hồng ân Ngài ban không mới có thể lớn lên và phát triển trong ta: “Thưa anh em,
vì Thiên Chúa thương xót ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm
của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Về vấn đề ấy,
Hội thánh luôn luôn dạy rằng chỉ có đức mến mới làm cho việc lớn lên trong đời
sống ân sủng xảy ra, vì “mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì” (1 Cr
13,2).
57. Tuy
nhiên, vẫn có một số Kitô hữu cứ nhất quyết đi theo một con đường khác, đòi tự
công chính hoá bằng sức riêng, vẫn cứ tôn thờ ý chí nhân loại và khả năng riêng
của họ. Kết quả là một sự tự mãn quy về mình và tự coi mình là ưu tú, mất hẳn
tình yêu chân thật. Điều này được diễn tả bằng nhiều cách suy nghĩ và hành động
có vẻ rời rạc khác nhau: việc bám chặt vào luật lệ, việc quá bận tâm với các
lợi thế xã hội và chính trị, một sự bận tâm chi li về phụng vụ, tín lý và uy
tín của Hội thánh, một sự huênh hoang về khả năng quản lý các vấn đề thực tiễn,
và say sưa tìm đủ cách tự hoàn thiện nhằm đạt được thành tựu cá nhân. Một số
Kitô hữu dành hết thời giờ và sức lực cho những điều ấy thay vì để cho Chúa
Thánh Thần hướng dẫn theo con đường tình yêu, say mê truyền đạt vẻ đẹp và niềm
vui của Tin mừng và tìm kiếm những anh em bị mất hút giữa đám đông vô số những
người đang khao khát Đức Kitô [63].
58. Đi
ngược với những thúc đẩy của Thần Khí, đời sống của Hội thánh thường trở thành
một tác phẩm trong viện bảo tàng hoặc vật sở hữu của một số ít người ưu tuyển.
Điều này có thể xảy ra khi một số nhóm Kitô hữu quá coi trọng một số luật lệ,
thói quen hoặc cách hành động nào đó. Như thế Tin mừng có khuynh hướng bị giảm
thiểu và thu hẹp lại, bị tước mất tính đơn giản, sức quyến rũ và hương vị của
nó. Đó có thể là một hình thức tinh tế của thuyết Pêlagiô, vì nó có vẻ bắt đời
sống ân sủng lệ thuộc vào một số cấu trúc nhân loại. Nó có thể ảnh hưởng đến
các nhóm, các phong trào và các cộng đồng, và nó giúp ta hiểu tại sao những
người ấy thường hay bắt đầu với một cuộc sống mãnh liệt trong Thần Khí, rồi kết
cục lại bị hóa thạch ... hoặc hư hoại.
59. Khi
nghĩ rằng mọi sự tùy thuộc vào nỗ lực của con người truyền tải qua những luật
lệ và cấu trúc của Hội thánh, chúng ta vô tình biến Tin mừng thành phức tạp và
thành nô lệ cho một kế hoạch chi tiết, chỉ còn vài lỗ hổng cho tác động của ân
sủng. Thánh Tôma Aquinô nhắc nhở chúng ta rằng các giới luật được Hội thánh
thêm vào Tin mừng phải được áp dụng một cách vừa phải “nếu không thì cuộc sống
các tín hữu sẽ trở nên nặng nề”, lúc ấy tôn giáo của chúng ta sẽ trở thành một
hình thức nô lệ [64].
60. Để
tránh điều ấy, tốt nhất là ta hãy thường xuyên tự nhắc nhở mình rằng có một cấp
bậc các nhân đức đang mời gọi chúng ta tìm kiếm điều cốt yếu. Trước hết và trên
hết phải là các nhân đức hướng thần, là những nhân đức bắt nguồn từ Thiên Chúa
và hướng đến Thiên Chúa. Ở chính giữa là đức ái. Thánh Phaolô nói rằng điều
thật sự đáng kể là “đức tin hoạt động qua đức ái” (Gl 5,6). Ta được mời gọi cố
gắng hết sức để bảo tồn đức ái: “Vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật… yêu
thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10). “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn
trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”
(Gl 5,14).
61. Nói
cách khác, giữa một rừng giới luật và mệnh lệnh, Chúa Giêsu đã dọn sạch một con
đường để nhìn thấy hai khuôn mặt, là khuôn mặt của Chúa Cha và của anh chị em
chúng ta. Chẳng phải Ngài ban cho ta thêm hai công thức hoặc hai giới luật.
Ngài cho ta hai khuôn mặt, hay đúng hơn nữa, một khuôn mặt duy nhất: khuôn mặt
của Thiên Chúa được phản chiếu nơi rất nhiều khuôn mặt khác. Vì nơi mỗi anh chị
em của ta, đặc biệt là những người bé nhỏ nhất, những người dễ bị tổn thương
nhất, những người không có khả năng tự vệ và những người túng thiếu, ta thấy lộ
rõ chính hình ảnh của Thiên Chúa. Thật vậy, với những mảnh vụn của nhân tính
dòn mỏng này, Chúa sẽ hình thành tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của Ngài. Vì
“điều gì sẽ tồn tại, điều gì có giá trị trong cuộc sống, những điều phong phú
mà không biến mất? Chắc chắn là hai điều này: Chúa và người bên cạnh chúng ta.
Đó là hai sự phong phú sẽ không biến mất!” [65].
62.
Nguyện xin Chúa giải thoát Hội thánh khỏi những hình thức ngộ đạo và Pelagiô
mới này, là những điều đang đè nặng và ngăn chặn sự tiến bộ của Hội thánh trên
con đường nên thánh! Những lầm lạc này có nhiều hình thức khác nhau, theo khí
chất và cá tính của mỗi người. Vì vậy, tôi khuyến khích mọi người hãy suy nghĩ
và phân định trước mặt Thiên Chúa xem chúng có thể đang dần dần lộ rõ nơi cuộc
sống của mình hay không.
63. Có
thể có nhiều lý thuyết về bản chất sự thánh thiện, với nhiều cách giải thích và
phân biệt khác nhau. Những suy tư ấy có thể hữu ích, nhưng không gì có thể soi
sáng hơn là quay về với những lời của Chúa Giêsu và xem cách Ngài giảng dạy
chân lý. Chúa Giêsu đã giải thích hết sức giản dị về ý nghĩa của việc nên thánh
khi Ngài dạy cho ta biết các mối Phúc thật (xem Mt5,3-12; Lc6,20-23). Các mối
Phúc tựa như cái thẻ chứng minh của Kitô hữu. Vì vậy, nếu được hỏi: “Ta phải
làm gì để là một Kitô hữu tốt?”, ta có thể trả lời ngay: Cần phải thực hành, ai
theo phận nấy, điều Chúa Giêsu đã nói với ta trong Bài giảng trên núi [66].
Qua các mối Phúc, ta nhận ra chân dung của Thầy chúng ta, chân dung mà ta được
mời gọi phản chiếu lại trong cuộc sống hàng ngày của mình.
64. Hai
tiếng “hạnh phúc” hay “phúc thay” trở thành đồng nghĩa với “thánh thiện”. Nó
diễn tả sự kiện ai hiến mình để sống trung thành với Thiên Chúa và Lời Ngài, sẽ
đạt được hạnh phúc đích thật.
65. Mặc
dù những lời của Chúa Giêsu có thể nghe như thi vị, nhưng rõ ràng là chúng
ngược hẳn với cách mọi việc vẫn thường diễn ra trong thế giới của chúng ta. Cho
dù chúng ta thấy mình được sứ điệp của Chúa Giêsu cuốn hút, thế gian vẫn đẩy
chúng ta tới một cách sống khác. Các mối Phúc không hề là cái gì tầm thường hay
dễ thoả mãn, mà hoàn toàn ngược lại. Ta chỉ có thể sống được các mối Phúc ấy
nếu Chúa Thánh Thần đổ đầy sức mạnh của Ngài trên ta và giải thoát ta khỏi sự
yếu đuối, ích kỷ, tự mãn và kiêu hãnh của mình.
66. Ta
hãy lắng nghe Thầy Giêsu một lần nữa bằng tất cả tình yêu và lòng tôn kính mà
Thầy đáng được. Hãy để cho những lời của Thầy chạm thẳng đến ta, thách thức ta
và đòi ta phải thật sự thay đổi cách sống. Nếu không, sự thánh thiện sẽ vẫn chỉ
là một từ rỗng. Nào, ta hãy quay về với từng mối Phúc một trong Tin mừng theo
Thánh Matthêu (x. Mt5,3-12) [67].
67. Tin
mừng mời ta nhìn kỹ vào tận đáy lòng mình, để xem ta đặt chỗ dựa an toàn cho
đời mình ở đâu. Thường thì những người giàu cảm thấy an toàn trong của cải họ
có, và nghĩ rằng, nếu của cải ấy bị đe dọa, thì toàn bộ ý nghĩa cuộc đời trần
thế của họ cũng sụp đổ. Chính Chúa Giêsu nói với ta điều ấy qua dụ ngôn người
phú hộ điên rồ: Ông ta tự tin lắm, nhưng thật ra rất điên rồ, vì không tính đến
chuyện mình có thể chết ngay chính hôm ấy (x. Lc 12,16-21 ).
68. Sự
giàu có không đảm bảo được gì cả. Thật vậy, một khi ta nghĩ mình giàu có, ta có
thể trở nên tự mãn, không còn dành chỗ cho Lời Chúa, cho tình nghĩa với anh chị
em mình, và cả cho việc thưởng thức những điều quan trọng nhất trong đời. Và
thế là, ta bỏ lỡ mất kho báu lớn hơn tất cả mọi kho báu. Đó là lý do tại sao
Chúa Giêsu gọi những người có tinh thần nghèo khó, những người có tấm lòng đơn
nghèo là có phúc, vì Chúa có thể bước vào trong tấm lòng ấy với sự mới mẻ mãi
mãi của Ngài.
69. Sự
nghèo khó tinh thần này liên quan mật thiết đến những gì Thánh Ignatiô Loyola
gọi là “sự thờ ơ thánh thiện” [Ghi chú của người dịch:
Cũng có thể nói là: sự dửng dưng, sự bình tâm, sự không màng], là điều mang lại cho chúng ta
một tự do nội tâm kỳ diệu: “Để được như thế, chúng ta cần đào luyện cho mình
biết thờ ơ với tất cả các thụ tạo, với tất cả những gì mà ý chí tự do của
mình được phép chọn và không bị cấm; ngõ hầu về phần mình, chúng ta không bận
tâm với chuyện có sức khoẻ nhiều hay ít, giàu có hơn là nghèo khổ, được khen
ngợi hơn là bị chê bai, sống lâu hơn là chết sớm, và tương tự như thế đối với
tất cả những gì còn lại” [68].
70. Thánh
Luca không đề cập tới sự nghèo khó trong “tinh thần” mà chỉ đơn giản nói về
những người đang “nghèo” (x. Lc 6,20). Và như thế, ngài cũng mời gọi ta sống
giản dị và khắc khổ. Ngài kêu gọi ta chia sẻ với cuộc sống của những người
nghèo khổ nhất, cuộc sống mà các Tông Đồ đã sống, và cuối cùng trở nên đồng
hình đồng dạng với Chúa Giêsu, Đấng mặc dù giàu sang, nhưng “đã trở nên nghèo
khó” (2 Cr 8,9).
Trở nên
nghèo trong tinh thần: đó là sự thánh thiện.
71. Đây
là một diễn tả mạnh mẽ trong một thế giới mà ngay từ đầu đã từng là nơi xung
đột, tranh chấp và thù hận khắp mọi phía, nơi mà ta liên tục xếp loại người
khác dựa trên ý tưởng và tập tục của họ, và thậm chí còn dựa trên cách nói năng
hoặc ăn mặc của họ. Cuối cùng, đó là vương triều của kiêu hãnh và hư danh, nơi
mà mỗi người đều nghĩ mình có quyền đè bẹp người khác. Tuy nhiên, dù có vẻ
không khả thi, Chúa Giêsu lại đề nghị một đường lối khác: đường lối hiền lành.
Đó là đường lối ta đã thấy Ngài xử sự với các môn đệ của Ngài. Đó là điều ta
chiêm ngắm khi Ngài vào Giêrusalem: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi
hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5, x. Dc9,9).
72. Đức
Kitô nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt
11,29). Nếu ta luôn bực tức và mất kiên nhẫn với người khác, ta sẽ mệt mỏi và
kiệt sức. Nhưng nếu ta nhìn vào những lỗi lầm và giới hạn của người khác với sự
dịu dàng và hiền lành, không tỏ ra mình hơn họ, ta có thể thật sự giúp đỡ họ và
ngừng phí phạm sức lực của mình trong việc phàn nàn vô ích. Thánh Têrêxa thành
Lisieux nói với ta rằng “Đức ái hoàn hảo hệ tại việc dung thứ lầm lỗi của người
khác, và không ngạc nhiên vì những yếu đuối của họ” [69].
73. Thánh
Phaolô nói về sự hiền lành như một trong những hoa quả của Chúa Thánh Thần (x.
Gl 5,23). Ngài đề nghị rằng, nếu có khi nào ta nặng lòng vì một hành vi sai
trái của một anh chị em nào đó của mình, thì ta nên cố gắng sửa sai họ, nhưng
“với một tinh thần hiền lành”, vì chính ta “cũng có thể bị cám dỗ” (Ga 6,1).
Ngay cả khi bảo vệ đức tin và các xác tín của mình, ta cũng phải làm thế “cách
hiền hòa” (x. 1 Pr 3,16). Cả với những kẻ chống báng, ta cũng phải đối xử “cách
hiền hòa” (2 Tm 2,25). Trong Hội thánh, biết bao lần ta đã sai lầm vì không
chịu đón nhận đòi hỏi ấy của Lời Chúa.
74. Sự
hiền lành là một cách diễn tả khác về tinh thần nghèo khó nội tâm của những
người chỉ tin cậy nơi một mình Thiên Chúa. Quả thực, trong Kinh thánh người ta
thường dùng cùng một từ - anawim – để nói về cả người nghèo và người hiền lành.
Một số người có thể phản đối: “Nếu tôi quá hiền lành, người ta sẽ nghĩ là tôi
ngốc, tôi khùng hoặc nhu nhược”. Chuyện ấy có thể xảy ra, nhưng hãy để mặc kẻ
khác nghĩ như thế. Phần ta, tốt hơn, cứ luôn luôn hiền lành, rồi những ước muốn
sâu xa của ta sẽ thành tựu. Người hiền lành “sẽ được đất làm gia nghiệp”, họ sẽ
thấy những lời Thiên Chúa hứa được hoàn thành ngay trong đời họ. Dù trong hoàn
cảnh nào, người hiền lành vẫn đặt niềm hy vọng vào Chúa, và những ai hy vọng
vào Ngài sẽ được đất ... và tận hưởng sự bình an trọn vẹn (x. Tv 37,9,11). Đồng
thời Chúa cũng tin tưởng nơi họ: “Kẻ được Ta đoái nhìn: đó là người nghèo khổ,
người có tâm hồn tan nát, người nghe lời Ta mà run sợ” (Is 66,2).
Phản ứng
với lòng hiền lành và khiêm nhường: đó là sự thánh thiện.
75. Thế
gian đề nghị với ta điều ngược hẳn lại: giải trí, giải khuây, vui chơi và tiêu
khiển rồi bảo ta rằng những điều ấy làm cho cuộc sống được tốt đẹp. Người thuộc
về thế gian phớt lờ, quay mắt không nhìn những vấn đề đau ốm hay buồn phiền
trong gia đình hoặc chung quanh. Thế gian không muốn khóc lóc; họ muốn làm ngơ
trước những cảnh đau đớn, muốn che đậy hoặc giấu đi. Người ta tốn nhiều công
sức để chạy trốn những tình trạng đau khổ, tự cho rằng có thể che giấu được
thực tại. Thế nhưng làm sao tránh khỏi thập giá?
76. Người
biết nhìn mọi sự đúng theo thực tế của chúng, biết để cho khổ đau và than khóc
xuyên thấu cõi lòng, sẽ có khả năng chạm đến những gì sâu thẳm nhất của cuộc
đời và gặp được hạnh phúc đích thực [70].
Họ được an ủi, không phải bởi thế gian mà bởi Chúa Giêsu. Và như thế họ có can
đảm chia sẻ nỗi khổ của người khác và không còn chạy trốn những hoàn cảnh đau
thương. Nhờ đó, họ nhận ra cuộc đời này thật ý nghĩa khi biết giúp đỡ những
người đang đau khổ, biết cảm thông với những người đang âu lo phiền muộn, biết
cứu giúp tha nhân. Họ cảm nhận rằng người khác là xương là thịt của mình, và
không sợ lại gần, thậm chí còn sờ vào những vết thương của người ấy. Họ thấy
cảm thương cho người khác đến nỗi mọi khoảng cách đều biến mất. Và như thế, họ
có thể thấu triệt lời khuyên của Thánh Phaolô: “Hãy khóc với những kẻ khóc” (Rm
12,15).
Biết cách
cùng than khóc với người khác: đó là sự thánh thiện.
[Ghi chú của người dịch: Ở đây, cả tiếng Pháp và tiếng
Anh đều cùng một từ là “justice” nhưng bên tiếng Việt tùy trường hợp sẽ được dịch
là “công bằng”/ hay “công bình” (khi trao đổi hoặc phân chia: của ai trả nấy, mỗi
người phải nhận được đúng phần của mình), “ công lý” (=lẽ công bằng = công bằng
trước pháp luật: phần ai nấy hưởng, tội ai nấy chịu) hoặc “công chính” (về xã hội
tôn giáo: người không vướng mắc tội ác hoặc lỗi lầm nào). Cũng có những chỗ khó
phân biệt rõ, sẽ được dịch là “công lý”, xin độc giả lưu ý để dễ hiểu theo từng
trường hợp.]
77. Đói
và khát là những cảm nghiệm mãnh liệt, dội lại từ những nhu cầu cốt yếu và bản
năng sống còn của ta. Có những người ao ước công lý và khao khát sự công chính
cách mãnh liệt như thế. Chúa Giêsu nói rằng họ sẽ được no thoả, vì sớm hay
muộn, công lý sẽ đến. Ta có thể cùng góp phần làm cho công lý mau đến, cho dù
chẳng phải lúc nào ta cũng được nhìn thấy hoa quả các nỗ lực của mình.
78. Công
lý Chúa Giêsu nêu lên khác với thứ công lý của thế gian, thường bị những quyền
lợi nhỏ nhen làm vẩn đục và bị người ta lèo lái cách này cách khác. Thực tế cho
thấy thứ công lý này rất dễ bị sa lầy trong tham nhũng, bị vướng vào cái khôn
khéo có đi có lại (quid pro quo) thường ngày, mọi sự đều thành mua bán đổi
chác. Bao nhiêu người hứng chịu bất công, bất lực đứng bên lề đang khi những
người khác chia nhau những điều tốt đẹp của cuộc đời này. Lắm người buông xuôi,
thôi chiến đấu cho công lý đích thật và chọn nhảy lên đoàn tàu của kẻ chiến
thắng. Chuyện ấy chẳng liên quan gì đến sự đói khát công lý mà Chúa Giêsu ca
tụng.
79. Công
lý đích thực là chuyện trong đời thường của dân chúng khi chính họ thể hiện
công bình trong các quyết định của họ; công lý đích thực cũng được hiểu là việc
theo đuổi công lý cho những người nghèo và người cô thế. Đành rằng “công chính”
(công lý) có thể là một từ đồng nghĩa với việc trung thành với Thánh Ý của
Thiên Chúa trong mọi khía cạnh của cuộc sống mình, nhưng đừng vì ý nghĩa quá
tổng quát ấy, mà quên rằng công lý còn được dùng riêng để chỉ lẽ công bình đối
với những người dễ bị tổn thương nhất: “Hãy tìm kiếm lẽ công bình, hãy sửa phạt
người áp bức; xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ” (Is 1,17).
Khát khao
lẽ công bình: đó là sự thánh thiện.
80.
Thương xót có hai khía cạnh. Một bên nhấn mạnh tới sự trao tặng (cho), giúp đỡ
và phục vụ người khác, và một bên nhấn mạnh sự tha thứ và cảm thông. Thánh
Matthêu tóm lược điều ấy vào một luật vàng: “Vậy tất cả những gì anh em muốn
người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (7,12). Sách
Giáo lý nhắc ta nhớ rằng luật này được áp dụng “trong mọi trường hợp” [71],
đặc biệt là khi chúng ta “đối diện với những tình huống khiến các phán đoán về
luân lý không được chắc chắn và khó quyết định” [72].
81. Cho
và tha thứ chính là cố gắng thể hiện lại nơi đời ta một mức cỏn con về sự hoàn
thiện của Thiên Chúa, Đấng cho và tha thứ nhiều vô cùng vô tận. Vì lý do ấy,
trong Tin mừng Thánh Luca, ta không nghe dạy “Hãy nên hoàn thiện” (Mt 5,48),
nhưng thay vào đó là: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân
từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em
đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được
Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại.” (Lc
6,36-38). Tiếp đó, Thánh Luca thêm một điều mà ta không được bỏ qua: “Vì anh em
đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc
6,38). Tiêu chuẩn mà ta dùng để hiểu và tha thứ cho người khác sẽ được dùng để
đong sự tha thứ dành cho ta. Tiêu chuẩn ta dùng để cho sẽ được dùng để đong
những gì ta nhận lại. Ta không bao giờ được quên điều ấy.
82. Chúa
Giêsu không nói, “Phúc cho những kẻ tìm cách báo thù”. Ngài gọi những người tha
thứ và tha thứ “bảy mươi lần bảy lần” (Mt 18,22) là những người “được chúc
phúc”. Chúng ta chẳng khác nào một đạo quân những người được tha thứ. Tất cả
chúng ta đã được đoái nhìn với lòng từ bi của Thiên Chúa. Nếu ta thật lòng đến
gần Chúa và chăm chú lắng nghe, có thể lắm lúc ta cũng nghe được lời Ngài quở
trách: “Vậy ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót
ngươi sao?” (Mt 18,33).
Thấy và
hành động với lòng thương xót: đó là sự thánh thiện.
83. Mối
Phúc này nói về những người có tâm hồn đơn sơ, thanh sạch và không ô uế, vì một
con tim biết yêu không chấp nhận những gì có thể làm hại, làm suy yếu hoặc gây
nguy hiểm cho tình yêu ấy. Kinh thánh sử dụng trái tim để mô tả những ý định
thật sự của chúng ta, những điều chúng ta thật sự tìm kiếm và mong muốn, vượt
xa tất cả những vẻ bề ngoài. “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa
thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16,7). Thiên Chúa muốn nói với cõi lòng của ta (x.
Hs 2,16); ở đó Ngài muốn ghi Lề Luật của Ngài (x. Gr 31,33). Nói cách khác,
Ngài muốn cho chúng ta một quả tim mới (x. Ed 26,26).
84. “Hãy
gìn giữ tim con cho thật kỹ” (Cn 4,23). Không có gì bị sự giả dối vấy bẩn mà có
được giá trị thật sự trong mắt Chúa. Ngài “tránh thói lọc lừa, rời xa những lý
luận ngu dốt” (Kn 1,5). Chúa Cha, “Đấng thấu suốt những gì kín ẩn” (Mt 6,6),
nhận ra điều gì thiếu tinh khiết và không chân thành, mà chỉ nặng phần trình
diễn hay có vẻ bề ngoài; Chúa Con cũng thế, Ngài là Đấng biết “có gì trong lòng
con người” (x. Ga 2,25).
85. Chắc
hẳn không thể có tình yêu mà không có những nghĩa cử yêu thương, nhưng Mối phúc
này nhắc ta nhớ rằng Chúa đòi hỏi sự quên mình phục vụ anh chị em mình phải đến
từ con tim. Vì “giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả
thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho
tôi” (1 Cr 13,3). Trong Tin mừng theo Thánh Matthêu, ta còn thấy rằng cũng từ
con tim phát xuất những điều khiến người ta thành ô uế (x. 15,18), vì từ con
tim phát ra những ý định giết người, trộm cắp, làm chứng dối, và những việc làm
gian ác khác (x. 15,19). Từ những ý định của con tim phát sinh những ham muốn
và những quyết định sâu xa nhất định đoạt các hành động của ta.
86. Một
con tim thật sự yêu mến Thiên Chúa và người bên cạnh (x. Mt 22,36-40), chứ
không chỉ nói suông, là một con tim trong sạch; nó có thể thấy Thiên Chúa.
Trong bài ca đức ái, Thánh Phaolô nói rằng “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như
trong một tấm gương” (1 Cr 13,12), nhưng sự thật và tình yêu càng thắng thế, ta
càng có thể nhìn thấy “tận mắt”. Chúa Giêsu hứa rằng những ai có lòng trong
sạch “sẽ thấy Thiên Chúa”.
Giữ cho
lòng mình khỏi vướng tất cả những gì làm cho tình yêu hoen ố: đó là sự thánh
thiện.
87. Nhắc
tới mối Phúc này, ta thấy nặng lòng vì những hoàn cảnh không ngừng đưa tới
chiến tranh trong thế giới ngày nay. Tuy nhiên, nhìn lại bản thân chúng ta vẫn
thường là nguyên nhân tạo nên xung đột hoặc ít ra là hiểu lầm. Thí dụ, tôi nghe
được một điều gì về một người nào đó và tôi ra ngoài kể lại cho người khác.
Thậm chí có thể tôi còn thêm mắm thêm muối thành một câu chuyện mới rồi tiếp
tục loan truyền nó ... Và hình như câu chuyện càng gây thêm tai hại, tôi càng
hài lòng về nó. Thế giới của những tin đồn, bị những kẻ tiêu cực và phá hoại
chiếm đóng, không mang lại hòa bình. Những kẻ như vậy thật đúng là kẻ thù của
hòa bình; họ không sao “được chúc phúc” [73].
88. Những
người kiến tạo hòa bình là nguồn bình an; họ xây dựng hòa bình và tình bạn
trong xã hội. Đối với những người gieo vãi hòa bình, Chúa Giêsu đã hứa cho họ
một ơn kỳ diệu: “Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Ngài đã dặn các
môn đệ rằng, hễ vào bất cứ nhà nào cũng đều nói: “Bình an cho nhà này!” (Lc
10,5). Lời Chúa khuyến khích mọi tín hữu đều phải mưu tìm hoà bình “cùng những
ai kêu cầu Chúa với tấm lòng trong sạch” (2 Tm 2,22). “Người xây dựng hoà bình
thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính.” (Gc
3,18). Và nếu có lúc nào ta phân vân tự hỏi phải làm gì trong cộng đồng, thì
“ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an” (Rm 14,19), vì hiệp nhất đáng ưa
chuộng hơn là xung đột [74].
89. Để “tạo
ra” thứ hòa bình theo Tin mừng này không dễ, vì đây là thứ hoà bình không loại
trừ ai, nhưng bao gồm cả những người hơi kỳ cục, gây phiền toái phức tạp, cả
những người ưa đòi hỏi, lập dị, bị bầm dập vì cuộc sống hoặc chỉ là những kẻ
bất cần đời. Đó là việc rất khó, đòi phải mở rộng cả tâm và trí, bởi vì nó
không phải là việc lập ra một “sự đồng thuận trên giấy tờ hoặc một hòa bình tạm
bợ vừa ý một nhóm nhỏ” [75],
cũng không phải là một dự phóng “của một ít người hướng tới một ít người” [76].
Nó cũng không cố lờ đi hoặc xí xóa các xung đột; trái lại, nó phải “đối diện
trực tiếp với xung đột, giải quyết nó và làm cho nó thành một mắt xích trong
dây chuyền của một tiến trình mới” [77].
Nó đòi phải có những người xây dựng hòa bình, vì xây dựng hoà bình là một nghệ
thuật đòi hỏi sự bình thản, sáng tạo, nhạy cảm và kỹ năng.
Gieo vãi
hoà bình quanh chúng ta: đó là sự thánh thiện.
90. Chính
Chúa Giêsu cảnh báo ta rằng đây là con đường lội ngược dòng đời, thậm chí biến
ta thành những kẻ dám lấy cách sống của mình để thách đố xã hội, và kết quả là
trở thành những kẻ gây phiền toái. Ngài nhắc ta nhớ đến biết bao người đã và
đang bị bách hại chỉ vì đấu tranh cho công lý, vì dám sống đúng theo trách
nhiệm đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nếu ta đã không muốn chìm vào cái tầm
thường tăm tối, thì đừng theo đuổi một cuộc sống dễ dàng, bởi lẽ “ai muốn cứu
mạng sống mình thì sẽ mất” (Mt 16,25).
91. Khi
sống Tin mừng, ta không thể mong đợi mọi sự sẽ thuận lợi, bởi vì những tham
vọng quyền lực và lợi ích thế tục thường chống lại ta. Thánh Gioan Phaolô II đã
lưu ý rằng “Một xã hội mà trong đó các hình thức tổ chức, sản xuất và tiêu thụ,
đều gây khó khăn cho việc quên mình để xây dựng tình liên đới giữa con người,
thì đã hoàn toàn đánh mất chính mình” [78].
Trong một xã hội đánh mất chính mình như vậy, sự rối mù về chính trị, truyền
thông, kinh tế, văn hoá và thậm chí cả tôn giáo nữa…. trở thành một trở ngại không cho con người và
xã hội được phát triển đích thực. Kết quả là người ta khó mà sống các mối Phúc
thật; bất cứ nỗ lực nào nhằm sống như thế đều bị nhìn một cách tiêu cực, bị ngờ
vực và nhạo báng.
92. Dù ta
có vất vả và đau đớn đến đâu khi sống giới luật yêu thương và đi theo con đường
công lý, Thánh giá vẫn là nguồn mạch giúp ta trưởng thành và nên thánh. Chúng
ta không bao giờ được quên rằng khi Tân ước nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ
phải chịu đau khổ vì Tin mừng, là nói rõ về những cuộc bách hại (x. Cv5,41,
Pl1,29, Cl1,24, 2 Tm1,12, 1 Pr2,20, 4,14-16, Kh2,10).
93. Nhưng
ở đây chúng ta nói về những cuộc bách hại không thể tránh được, chứ không phải
loại bách hại mà chúng ta có thể tự gây ra cho mình khi đối xử với những người
khác một cách tồi tệ. Các thánh không phải là những người kỳ quặc, xa cách, mà
không ai chịu nổi vì sự hợm mình, sự tiêu cực và sự cay đắng của họ. Các Tông
đồ của Đức Kitô không giống như thế. Sách Công vụ các Tông đồ lặp đi lặp lại
rằng các ngài được lòng “tất cả mọi người” (2,47; x. 4,21.33;5,13), ngay cả khi
một số nhà cầm quyền đã sách nhiễu và bách hại các ngài (xem 4,1-3;5,17-18).
94. Những
cuộc bách hại không phải là chuyện quá khứ, vì ngày nay chúng ta vẫn đang trải
nghiệm, cho dù bằng cách đổ máu, như biết bao vị tử vì đạo hiện nay, hoặc bằng
những phương cách tế nhị hơn, bằng vu khống và lừa dối. Chúa Giêsu bảo rằng
chúng ta có phúc khi người ta “vu khống cho anh em đủ điều xấu xa vì Thầy”
(Mt5,11). Lắm lúc, nó có thể mang hình thức những sự chế nhạo cố gắng châm biếm
đức tin của ta và biến ta thành ra có vẻ lố bịch.
Chấp nhận
hàng ngày con đường Tin mừng, dù nó có thể gây khó khăn cho chúng ta: đó là
thánh thiện.
95. Trong
chương hai mươi lăm của Tin mừng Thánh Matthêu (câu 31-46), Chúa Giêsu nói rộng
thêm về mối Phúc tuyên bố những người có lòng thương xót là có phúc. Thương xót
chính là sự thánh thiện làm đẹp mắt Thiên Chúa, và đoạn văn này nêu cao cái
chuẩn mực rõ ràng Chúa sẽ dựa trên đó mà xét xử ta. “Vì xưa Ta đói, các ngươi
đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp
rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho
mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi
han”(các câu 35-36).
96. Như
thế, nên thánh không có nghĩa là mê mẩn trong trạng thái xuất thần huyền bí.
Như Thánh Gioan Phaolô II đã nói: “Nếu chúng ta thật sự xuất phát lại từ việc
chiêm ngắm Đức Kitô, chúng ta phải học cách nhìn thấy Ngài đặc biệt là trên
khuôn mặt những kẻ mà chính Ngài muốn tự đồng hoá mình với họ” [79].
Đoạn văn Matthêu 25,35-36 “không phải chỉ giản dị mời gọi sống đức ái: đó còn
là một trang Kitô học đang chiếu một tia sáng lên mầu nhiệm Đức Kitô” [80].
Khi kêu gọi ta nhận ra Ngài nơi những người nghèo và đau khổ ấy, chính Thánh
Tâm Đức Kitô tỏ cho ta thấy những cảm xúc và sự chọn lựa sâu thẳm nhất của
Ngài, mà mỗi vị thánh tìm cách noi gương.
97. Vì
những đòi hỏi ấy của Chúa Giêsu rất quyết liệt, tôi có nhiệm vụ phải yêu cầu
các Kitô hữu thừa nhận và chấp nhận chúng với một tinh thần hết sức cởi mở,
sine glossa, tức là không nêu một chữ “nếu”, chữ “nhưng” nào có thể làm giảm
sức mạnh của chúng. Chúa chúng ta đã nói rất rõ rằng sự thánh thiện không thể
hiểu hay sống ngoài những đòi hỏi ấy, vì lòng thương xót là “con tim đang đập
của Tin mừng” [81].
98.Gặp
một người ngủ ngoài trời giữa một đêm lạnh lẽo, tôi có thể coi người ấy như một
điều phiền nhiễu, quấy rầy, trở ngại trên đường của tôi, một cảnh tượng phiền
toái, một vấn đề để cho các chính trị gia giải quyết, hoặc thậm chí một đống
rác bừa bãi nơi công cộng. Hoặc tôi đáp lại với đức tin và đức ái, thấy nơi
người ấy một con người có cùng một phẩm giá như tôi, một thụ tạo được Chúa Cha
yêu thương vô cùng, một hình ảnh của Thiên Chúa, một anh chị em được Chúa Giêsu
cứu chuộc. Thế mới là Kitô hữu! Nếu không nhìn nhận cách sống động về phẩm giá
của mỗi con người như thế liệu sự thánh thiện còn có ý nghĩa gì chăng? [82].
99. Đối
với các Kitô hữu, điều này ấp ủ một thao thức lành mạnh và khôn nguôi. Dù rằng
chỉ an ủi nâng đỡ được một người thôi cũng đã đáng với tất cả những cố gắng của
ta, nhưng như thế chưa đủ. Các giám mục Canađa đã làm sáng tỏ điều ấy khi các
ngài nhấn mạnh, chẳng hạn qua giáo huấn Kinh thánh về Năm thánh, rằng vấn đề
không chỉ làm cho xong một số việc lành nhưng còn phải tìm cách thay đổi xã
hội: “Để cho các thế hệ sau này cũng được giải thoát, rõ ràng mục tiêu phải là
khôi phục lại các hệ thống công bằng về xã hội và kinh tế, để không còn ai bị
loại trừ nữa” [83].
100. Tôi
tiếc rằng đôi khi có những cách suy nghĩ dẫn chúng ta đến hai sai lầm nguy hại.
Một đàng, là cái sai lầm của những Kitô hữu tách hẳn những đòi hỏi ấy của Tin
mừng ra khỏi mối liên hệ của bản thân từng người với Chúa, ra khỏi sự kết hợp
nội tâm của họ với Ngài, ra khỏi sự mở lòng ra cho ân sủng. Như thế, Kitô giáo
trở thành một loại tổ chức từ thiện phi chính phủ (NGO), bị tước mất chiều kích
thần bí sáng ngời được chứng tỏ trong đời sống của Thánh Phanxicô thành Assisi,
Thánh Vincentê đệ Phaolô, Thánh Têrêxa thành Calcutta và nhiều vị thánh khác.
Đối với những vị thánh lớn này, việc nguyện ngắm, việc yêu Chúa và việc đọc Tin
mừng không hề làm giảm bớt sự dấn thân nồng nhiệt và hữu hiệu dành cho những
người bên cạnh mình, hoàn toàn ngược lại
là khác.
101. Cách
suy nghĩ sai lầm và nguy hại khác là của những kẻ hoài nghi việc dấn thân vào
xã hội của người khác, coi đó như là chuyện hời hợt, phàm tục, trần thế, vật
chất, cộng sản hay dân túy. Hoặc họ tương đối hoá nó, như thể là còn có những
vấn đề khác quan trọng hơn, hoặc như thể chỉ có điều duy nhất đáng kể là vấn đề
đạo đức cụ thể nào đó hoặc một vụ việc nào đó mà họ đang bảo vệ. Chẳng hạn như,
việc bảo vệ các trẻ em vô tội chưa sinh ra của chúng ta cần phải dứt khoát rõ
ràng, chắc chắn và say mê, vì chạm thẳng đến phẩm giá của một sự sống con
người, là điều luôn thánh thiêng và đến lòng yêu quý phải dành cho mỗi ngôi vị
con người, không kể con người ấy phát triển tới giai đoạn nào. Tuy nhiên, cả sự
sống của những người đã được sinh ra cũng thánh thiêng không kém, như sự sống
của những người nghèo, những người bị bỏ rơi và bị thiệt thòi, những người
khuyết tật dễ bị tổn thương, những người già cả dễ làm mồi cho việc giết chết
êm dịu khéo che đậy, những nạn nhân của nạn buôn người, những hình thức nô lệ
mới và mọi hình thức loại trừ [84].
Chúng ta không thể chủ trương một lý tưởng về thánh thiện không bận tâm gì đến
những bất công trong một thế giới mà một số người vui vẻ ăn uống say sưa, chi
tiêu bừa bãi và sống chỉ để hưởng những món hàng tiêu thụ mới nhất, đang khi
những người khác chỉ nhìn từ bên ngoài, và sống lây lất suốt đời trong nghèo
đói thê thảm.
102. Ta
thường nghe nói rằng, đem so với thuyết tương đối và những sai lỗi nơi thế giới
hiện tại của ta, thì tình trạng di dân
chẳng hạn, chỉ là một vấn đề thứ yếu. Một số người Công giáo coi đó là đề tài
phụ so với những vấn đề về sinh học “nghiêm trọng”. Một chính trị gia đang kiếm
phiếu phát biểu như thế thì có thể hiểu được, nhưng một Kitô hữu thì không, vì
thái độ đúng đắn duy nhất là đứng vào vị trí của các anh chị em chúng ta, những
người liều mất cả mạng sống để bảo đảm cho con cái mình có được một tương lai.
Liệu ta có thể không nhận ra rằng đây chính là điều Chúa Giêsu đòi hỏi ta, khi
Ngài bảo rằng mỗi lần ta đón tiếp khách lạ là
đón tiếp Ngài chăng (x. Mt 25,35)? Thánh Bênêđictô đã chấp nhận điều ấy
không chút dè dặt, cho dù nó có thể khiến cuộc sống của các tu sĩ thành “phức
tạp”, ngài đã ra lệnh rằng tất cả các khách gõ cửa tu viện đều phải được đón
tiếp “như Đức Kitô” [85],
với một cử chỉ tôn kính[86];
người nghèo và người hành hương phải được cư xử với “sự chăm sóc ân cần nhất” [87].
103. Cựu
ước cũng dạy tương tự như thế: “Người
ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là
ngoại kiều ở đất Ai-cập. ” (Xh 22,20). “Khi có ngoại kiều cư ngụ với các ngươi
trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. Các ngươi phải đối xử với người
ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các
ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều
tại đất Ai-cập. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19,33-34). Đó
không phải là một khái niệm được một số Giáo
hoàng phát minh, hoặc một mốt nhất thời ngắn ngủi. Cũng trong thế giới hôm nay,
chúng ta được mời gọi đi theo nẻo đường tâm linh khôn ngoan mà ngôn sứ Isaia đề
ra để cho thấy điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. “Chẳng phải là chia cơm cho người
đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì
cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ
ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông” (58,7-8).
104. Ta
có thể nghĩ rằng chỉ cần làm việc thờ phượng và cầu nguyện là đã tôn vinh Thiên
Chúa, hoặc chỉ cần tuân giữ một số quy tắc đạo đức nào đó là đã đủ. Đúng là mối
liên hệ của ta với Thiên Chúa vẫn ưu tiên hơn, thế nhưng ta không thể quên rằng
tiêu chuẩn cuối cùng Chúa sẽ dựa vào để xét xử đời ta là những gì ta đã làm cho
người khác. Cầu nguyện là điều quý giá nhất, vì nó giúp ta trung thành dấn thân
sống yêu thương mỗi ngày. Việc thờ phượng của ta đẹp lòng Thiên Chúa khi ta tự
nguyện sống hào hiệp, biết để cho món quà Thiên Chúa ban cho ta trong cầu
nguyện biến bản thân ta thành món quà cho anh chị em mình.
105.
Tương tự như thế, cách phân định tốt nhất để biết được lời cầu nguyện của ta có
chân thực hay chăng là xét xem cuộc sống ta có đang được biến đổi trong ánh
sáng của lòng thương xót hay chăng. Thật vậy, “lòng thương xót không chỉ là
hành động của Chúa Cha; mà còn trở thành một tiêu chuẩn để biết được ai là con
cái thật của Ngài” [88].
Lòng thương xót “chính là nền tảng của đời sống của Hội thánh” [89].
Về vấn đề này, tôi muốn nhắc lại rằng lòng thương xót không loại trừ công bằng
và sự thật; quả thực “chúng ta phải nói rằng lòng thương xót là sự tròn đầy của
đức công chính và là biểu lộ rực rỡ nhất về sự thật của Thiên Chúa” [90].
Đó là “chìa khóa Thiên Đàng” [91].
106. Ở
đây, tôi nhớ đến câu hỏi Thánh Tôma Aquinô đã nêu ra khi xét xem nơi những hành
động của ta đâu là những hành động cao quý nhất, đâu là những việc làm bề ngoài
cho thấy rõ nhất là ta yêu mến Thiên Chúa. Thánh Tôma đã không ngần ngại trả
lời rằng đó là những việc thương xót đối với người bên cạnh chúng ta [92],
thậm chí còn hơn cả các hành vi thờ phượng của ta: “Ta thờ phượng Thiên Chúa
bằng những hy sinh và của lễ bên ngoài, không nhắm lợi ích gì cho Ngài, nhưng
chỉ vì lợi ích của chính chúng ta và những người bên cạnh chúng ta. Vì Ngài
không cần những hy lễ của ta, nhưng muốn chúng được dâng lên Ngài, để khơi dậy
lòng sùng kính của ta và sinh ích cho những người bên cạnh ta. Vì thế, lòng
thương xót đã khiến ta chu cấp cho những nhu cầu của người khác, là một sự hy
sinh dễ được Chúa vui nhận hơn cả, vì trực tiếp hướng đến hạnh phúc của những
người bên cạnh chúng ta hơn” [93].
107.
Những người thực sự muốn làm vinh danh Thiên Chúa bằng cuộc sống mình, những
người thực sự ao ước thánh hóa bản thân để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Thánh,
được mời gọi bền tâm vững chí thực hành các việc thương xót. Thánh Têrêxa thành
Calcutta đã ý thức điều ấy rất rõ: “Vâng, tôi có nhiều yếu đuối lỗi lầm và khốn
cùng của phận người ... Nhưng Thiên Chúa cúi xuống và dùng chúng ta, bạn và
tôi, để chúng ta trở thành tình yêu và lòng thương xót của Ngài trên thế gian;
Ngài gánh lấy tội lỗi ta, những khó khăn và lỗi lầm của ta. Ngài lệ thuộc vào
ta để yêu thế gian và để cho thế gian thấy Ngài yêu nó đến mức nào. Nếu ta quá
bận tâm đến bản thân mình, ta sẽ không còn thời giờ cho người khác nữa” [94].
108. Chủ
nghĩa hưởng thụ và tiêu thụ có thể quật ngược lại ta, bởi vì khi ta bị ám ảnh
lo cho khoái cảm riêng của mình, ta sẽ trở nên quá quan tâm đến bản thân và các
quyền lợi của mình, và ta cảm thấy bức bách phải có thời giờ rảnh rỗi để vui
hưởng. Ta sẽ thấy khó mà đồng cảm, khó mà thực sự quan tâm tới những kẻ túng
cùng, nếu ta không biết tự vun trồng lấy một chút giản dị cho cuộc sống, chống
lại cơn sốt nhu cầu mà xã hội tiêu thụ đang đè nặng lên ta, đang biến ta thành
nghèo nàn và bị ức chế, bồn chồn muốn có ngay tất cả và thử hết mọi thứ ngay
bây giờ. Tương tự như thế, khi ta để mình bị cuốn vào những tin tức hời hợt,
truyền thông chớp nhoáng và thực tế ảo, ta có thể lãng phí hết thời giờ quý báu
và trở nên thờ ơ với những vết thương của anh chị em mình. Tuy nhiên, ngay cả
giữa cơn lốc náo hoạt ấy, Tin mừng vẫn tiếp tục vang lên, đề ra cho ta lời hứa
hẹn một cuộc sống khác, một cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc hơn.
109. Sức
mạnh nơi chứng từ của các thánh là tuân giữ các mối Phúc thật và chuẩn mực của
cuộc phán xét cuối cùng. Chúa Giêsu chỉ nói mấy lời đơn giản nhưng rất thiết
thực và có giá trị đối với hết mọi người, vì trên tất cả mọi sự, Kitô giáo
chính yếu là để đem ra thực hành. Nó cũng có thể là một đối tượng nghiên cứu và
suy niệm, nhưng điều này chỉ có giá trị khi giúp ta sống Tin mừng tốt hơn trong
cuộc sống hàng ngày của mình. Tôi đề nghị mọi người đọc lại những đoạn văn Kinh
thánh quan trọng ấy, thảo luận về chúng, cầu nguyện với chúng, cố gắng biến
chúng thành sự sống. Chúng sẽ có ích cho ta; chúng sẽ làm cho ta được thực sự
hạnh phúc.
110. Giữa
bức tranh toàn cảnh của sự thánh thiện được các mối Phúc thật và đoạn 25,31-46
của thánh Matthêu đưa ra, tôi muốn lưu ý riêng đến vài nét đặc thù tiêu biểu về
đàng tâm linh, mà tôi cho là rất cần thiết để hiểu được cách sống Chúa đang mời
gọi ta. Tôi sẽ không dừng lại để giải thích những phương tiện thánh hóa mà ta
đã biết: các phương pháp cầu nguyện khác nhau, các Bí tích Thánh Thể và Hòa
giải vô giá, việc dâng những hy sinh của mình, các hình thức sùng kính khác nhau,
việc linh hướng và bao nhiêu việc khác nữa. Tôi sẽ chỉ nói về một số khía cạnh
của ơn gọi nên thánh mà tôi hy vọng sẽ âm vang một cách đặc biệt.
111.
Những nét tiêu biểu tôi muốn nhấn mạnh không phải là tất cả những gì có thể tạo
thành một mô hình nên thánh, nhưng chúng là năm diễn tả nổi bật về tình yêu đối
với Thiên Chúa và tha nhân mà tôi cho là có tầm quan trọng đặc biệt do một số
nguy cơ và giới hạn riêng của văn hoá ngày nay. Giữa cái văn hóa ấy ta cảm thấy
một nỗi lo lắng bực bội gần như muốn bạo động, khiến ta quẫn trí và suy nhược;
sự tiêu cực và buồn rầu; tính tự mãn được nuôi dưỡng bằng chủ nghĩa tiêu thụ;
chủ nghĩa cá nhân; và đủ thứ hình thức tâm linh lệch lạc, không ăn nhập gì với
Thiên Chúa, hiện đang thống trị cái chợ đời hỗn độn về tôn giáo thời nay.
112. Nét
đầu tiên trong những nét tiêu biểu trổi vượt này là sự tập trung vào Thiên Chúa
và bám chặt vào Chúa là Đấng yêu thương và nâng đỡ ta. Đây là nguồn sức mạnh
nội tâm giúp ta kiên trì giữa những thăng trầm của cuộc đời, mà cũng giúp ta
chịu đựng được sự thù ghét, phản bội và thất bại của người khác. “Nếu Thiên
Chúa giúp ta, thì ai chống lại được ta?” (Rm 8,31): Đây là nguồn bình an ta gặp
được nơi các thánh. Sức mạnh nội tâm như vậy khiến ta có thể làm chứng về sự
thánh thiện qua việc kiên nhẫn và kiên định làm việc lành trong cái thế giới
đầy biến động, ồn ào và năng nổ của ta. Đó là lòng trung thành phát sinh từ
tình yêu, vì chỉ những ai tín thác vào Thiên Chúa (pístis) mới có thể trung tín
với tha nhân (pistós). Họ không bỏ rơi người khác trong những lúc khó khăn; họ
đồng hành với những người ấy trong cơn ưu phiền và sầu khổ của họ, mặc dù làm
như thế có thể không gặp được sự vui thoả tức thì.
113.
Thánh Phaolô đã xin các tín hữu Rôma đừng “lấy ác báo ác” (x. Rm 12,17), đừng
tự mình báo oán (x. 19), đừng để bị sự dữ khuất phục, nhưng lấy điều lành mà
khuất phục sự dữ (x. 21). Thái độ này không phải là dấu chỉ của sự yếu đuối
nhưng là của sức mạnh thật sự, bởi vì chính Thiên Chúa “chậm bất bình nhưng rất
quyền năng” (Nh1,3). Lời Chúa dạy ta “đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy
giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác” (Ep 4,31).
114. Ta
cần phải vật lộn với các khuynh hướng hung hăng và ích kỷ của mình, và đề phòng
đừng để cho chúng bén rễ. “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời
lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Khi cảm thấy bị đuối sức, ta vẫn luôn có
thể bám chặt lấy sự cầu nguyện như chiếc mỏ neo đưa chúng ta về lại với vòng
tay Thiên Chúa là nguồn bình an của ta. “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong
mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước
mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình
an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức
Kitô Giêsu” (Pl 4,6-7).
115.
Người Kitô hữu cũng có thể bị cuốn vào mạng lưới bạo lực bằng lời nói qua mạng
internet và các diễn đàn truyền thông kỹ thuật số khác nhau. Ngay cả nơi những
phương tiện truyền thông Công Giáo, người ta vẫn có thể đi quá mức, chuyện phỉ
báng và vu khống có thể thành cơm bữa, có thể gạt bỏ mất mọi tiêu chuẩn đạo đức
và tôn trọng thanh danh người khác. Kết quả là một sự phân cực nguy hiểm, vì ở
đó người ta nói những chuyện không thể nào chấp nhận được khi nói trước công
chúng, và người ta tìm cách bù đắp cho sự bất mãn của mình bằng cách mạ lỵ
người khác. Điều đáng quan tâm là đôi khi, có những người tự cho là mình giữ
các điều răn khác, nhưng lại hoàn toàn bỏ qua điều răn thứ tám, “chớ làm chứng
dối”, và tàn nhẫn huỷ hoại thanh danh người khác. Họ mặc sức chứng tỏ cho thiên
hạ thấy rằng “cái lưỡi là thế giới của sự ác” và “đốt cháy vòng xoay cuộc đời,
vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy”(Gc 3,6).
116. Cần
có sức mạnh nội tâm, là công trình của ân sủng, ta mới tránh khỏi bị cuốn theo
bạo lực, hiện đang tràn ngập đời sống xã hội ngày nay, bởi vì ân sủng làm giảm
bớt tính ham danh và giúp ta dễ trở nên hiền lành trong lòng. Các thánh không
phí sức than phiền về những sai sót của người khác; các ngài có thể nín câm
trước những lỗi lầm của anh chị em mình, và tránh những hành động bạo lực bằng
lời nói hạ nhục và ngược đãi người khác, bởi vì các ngài cho là mình không xứng
đáng để đối xử khắc nghiệt với tha nhân, nhưng luôn coi kẻ khác “hơn mình”
(Pl2,3).
117. Thật
không tốt nếu ta đóng vai những quan toà tàn nhẫn, nhìn xuống người khác, coi
họ là không xứng đáng và luôn tìm cách dạy họ những bài học. Đó chính là một
hình thức bạo lực tinh vi [95].
Thánh Gioan Thánh Giá đã đề nghị một con đường khác: “Bạn hãy thích được mọi
người dạy khôn bạn hơn là mong muốn được dạy khôn một người nào, dù là người bé
nhỏ nhất”[96].
Và ngài thêm một lời khuyên để đuổi xa ma quỷ: “Bạn hãy vui mừng vì sự may lành
của người khác như thể đó là sự may lành của chính bạn, ao ước cho họ được trổi
vượt hơn bạn trong mọi chuyện, và ao ước như vậy với tất cả tấm lòng. Làm như
thế, bạn sẽ lấy sự lành mà thắng sự dữ (Rm 12, 21), bạn sẽ đuổi ma quỷ chạy xa
và lòng bạn sẽ đầy an vui hạnh phúc. Bạn càng ít thiện cảm với người nào thì
càng phải cố gắng thực tập như vậy với người ấy. Hãy nhớ rằng nếu bạn không bắt
mình làm như vậy, bạn sẽ chẳng đạt được đức ái đích thật và cũng sẽ không tiến
bước được gì trên đường đức ái” [97]
118.
Khiêm tốn chỉ có thể bén rễ trong lòng qua những sự hạ nhục. Không có sỉ nhục,
thì không có khiêm tốn hay thánh thiện. Nếu bạn không thể chịu đựng và dâng lên
một vài nhục nhã, thì bạn chưa khiêm tốn và chưa phải là đang trên con đường
nên thánh. Để ban sự thánh thiệncho Hội thánh Ngài, Thiên Chúađã đành phải cho
Con Ngài chịu nhục nhã. Chúa Giêsu là đường. Sự sỉ nhục làm cho bạn giống Ngài;
đó là một khía cạnh không thể tránh được của việc noi gương Đức Kitô. “Thật
vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi
bước theo Ngài.” (1 Pr 2,21). Ngài đã tỏ lộ sự khiêm tốn của Chúa Cha, Đấng đã
hạ mình xuống đồng hành với dân mình, chịu đựng sự bất trung và ta thán của họ
(x. Xh 34,6-9; Kn 11,23-12,2; Lc 6,36). Cũng chính vì thế mà các Tông Đồ, sau
khi chịu sỉ nhục, đã vui mừng “bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh
Đức Giêsu” (Cv 5,41).
119. Ở
đây tôi không chỉ nói về những tình cảnh bi thảm của việc tử vì đạo, nhưng còn
nói về những sự nhục nhã hàng ngày của những người giữ im lặng để cứu gia đình
họ, những người muốn ca tụng người khác hơn là tự hào về chính mình hoặc những
người chọn những công việc không được ai hoan nghênh, đôi khi thậm chí còn chọn
chịu sự bất công để dâng lên Chúa. “Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn
kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban” (1 Pr 2,20). Điều ấy không có
nghĩa là đi loanh quanh với cặp mắt nhìn xuống, không nói lời nào và chạy trốn
xã hội. Đôi khi, chính vì được thoát khỏi ích kỷ, họ có thể dám ôn tồn phản
bác, đòi hỏi công lý hoặc bảo vệ những kẻ yếu đuối trước mặt những người quyền
thế, ngay cả khi việc ấy có thể gây thiệt hại cho họ hoặc danh tiếng của họ.
120. Tôi
không bảo những sỉ nhục như vậy là dễ chịu, vì nói thế chẳng khác nào chủ
trương tìm khoái cảm trong khổ nhục, nhưng đây là một cách để noi gương Chúa
Giêsu và lớn lên trong sự hiệp nhất với Ngài. Trên bình diện thuần túy tự
nhiên, điều ấy không thể hiểu được, và thế gian chế giễu bất kỳ khái niệm nào
như thế. Thế nhưng, đây là một ân sủng ta cần phải cầu xin: “Lạy Chúa, khi sự
sỉ nhục đến, xin giúp con biết rằng con đang theo bước chân Chúa”.
121. Muốn
có thể ứng xử như thế, cần có một con tim được Đức Kitô ban bình an và giải
thoát khỏi sự hung hăng phát sinh từ việc quá coi trọng mình. Cũng chính ơn
bình an mà ân sủng đem lại cho ta như thế giữ cho ta được vững tâm, sẵn lòng
chịu đựng và kiên trì trong điều lành, “dù đi qua thung lũng tối tăm của sự
chết” (Tv 23,4) hoặc “Dù cả một đạo quân vây đánh” (Tv 27,3). Đứng vững trong
Chúa, là Đá Tảng, chúng ta có thể hát: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì
chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn.” (Tv 4,8). Tắt một
lời, Đức Kitô, “là bình an của ta” (Ep 2,14); Ngài đã đến “để dẫn ta bước vào
đường nẻo bình an” (Lc 1,79). Như Ngài đã nói với Thánh Faustina Kowalska, “Loài
người sẽ không có hòa bình cho đến khi họ quay lại tín thác vào lòng thương xót
của Ta” [98].
Vì vậy, ta đừng để mình rơi vào cám dỗ tìm kiếm sự an toàn trong sự thành công,
trong những thú vui vô bổ, chiếm hữu của cải, chứng tỏ quyền lực trên người
khác hoặc địa vị xã hội. Chúa Giêsu phán rằng: “Thầy ban cho anh em bình an của
Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.” (Ga 14,27).
122.
Những điều vừa nói trên không hề ngụ ý một tinh thần nhút nhát, đắng cay hoặc u
sầu, hoặc một vẻ mặt thê lương bạc nhược. Các thánh vui tươi và rất biết đùa.
Mặc dù không xa rời thực tế, các ngài tỏa ra tinh thần tích cực và đầy hy vọng.
Sống đời Kitô hữu là sống “hoan lạc trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14,17), vì “tình
bác ái nhất thiết sẽ đem lại niềm vui; hễ đã yêu thì bao giờ cũng vui mừng khi
được kết hợp với người mình yêu mến... hoa quả của lòng bác ái là niềm vui” [99].
Khi nhận
được quà tặng cao đẹp của Lời Chúa, ta ôm chặt lấy “giữa bao gian khổ, với niềm
vui của Chúa Thánh Thần” (1 Tx1,6). Nếu ta biết để cho Chúa kéo ra khỏi cái vỏ
cố hữu và thay đổi cuộc sống cho ta, ta có thể sống như Thánh Phaolô đã nói với
ta: “Hãy luôn vui mừng trong Chúa. Tôi nhắc lại, hãy vui lên!” (Pl 4,4).
123. Các
ngôn sứ đã công bố thời đại của Chúa Giêsu, mà hiện ta đang sống, như một mặc
khải về niềm vui. “Hãy reo hò mừng rỡ!” (Is 12,6). “Hỡi kẻ loan tin mừng cho
Sion, hãy trèo lên núi cao; hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng
lên cho thật mạnh!” (Is 40,9). “Hỡi núi non hãy bật tiếng hò reo! Vì Đức Chúa
ủi an dân Ngài đã chọn, và chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Ngài” (Is
49,13). “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy
vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Ngài là Đấng
Chính Trực, Đấng Toàn Thắng” (Dc 9,9). Chúng ta cũng đừng quên lời khuyên của
ông Nêhêmia: “Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ
anh em” (8,10).
124. Đức
Maria, khi nhận ra điều mới lạ mà trẻ Giêsu mang đến, đã hát lên: “Thần trí tôi
hớn hở vui mừng” (Lc 1,47). Chính Chúa Giêsu “hớn hở vui mừng trong Chúa Thánh
Thần” (Lc 10,21). Khi Ngài đi ngang qua, “toàn thể đám đông vui mừng” (Lc
13,17). Sau khi Chúa Phục sinh, các môn đệ đi bất cứ nơi nào cũng đều “vui
mừng” (Cv 8,8). Chúa Giêsu bảo đảm với ta rằng: “Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi
buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui…
Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em
không ai lấy mất được” (Ga 16,20.22). “Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để
niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của các con được nên trọn” (Ga
15,11).
125. Vẫn
có những lúc khó khăn, những thời khắc của thập giá, nhưng không gì có thể huỷ
diệt niềm vui siêu nhiên là niềm vui “tự thích ứng và thay đổi, nhưng nó luôn
tồn tại, dù chỉ như một ngọn đèn leo lét phát sinh từ niềm xác tín của ta, tin
chắc rằng, bất luận thế nào, chúng ta vẫn được Thiên Chúa thương yêu vô cùng” [100].
Niềm vui ấy đem lại một sự vững tâm, một sự thanh thản đầy hy vọng đem lại một
sự no thoả tinh thần không thể hiểu được theo tiêu chuẩn thế gian.
126. Niềm
vui Kitô giáo thường được đi kèm với một cảm thức hài hước, nổi bật nơi Thánh
Tôma More, Thánh Vincentê đệ Phaolô và Thánh Philipê đệ Neri chẳng hạn. Sự khôi
hài bệnh hoạn không phải là dấu chỉ của sự thánh thiện. “Hãy đẩy lui sầu não
khỏi tâm hồn anh em” (Gv 11,10). Chúng ta nhận được rất nhiều từ Chúa “để vui
hưởng” (1 Tm6,17), cho nên đôi khi buồn rầu có thể là dấu hiệu của sự vô ơn, vì
chúng ta chỉ biết nghĩ đến mình nên không thể nhận ra hồng ân của Thiên Chúa [101].
127. Với tình
yêu của một người Cha, Thiên Chúa mời gọi ta: “Con ơi, hãy đối xử tốt với mình
... Đừng từ chối hưởng một ngày vui” (Hc 14,11.14). Ngài muốn ta tích cực, biết
ơn và không quá phức tạp: “Trong ngày thịnh vượng, hãy vui vẻ ... Thiên Chúa đã
tạo ra con người vốn đơn sơ ngay thẳng, nhưng chính họ lại đi tìm đủ chuyện rắc
rối quanh co” (Gv7,14.29). Trong mọi hoàn cảnh, phải giữ một tinh thần linh
động và bắt chước Thánh Phaolô: “Tôi đã học cách hài lòng với những gì tôi có”
(Ph4,11). Đó là cách Thánh Phanxicô Assisi sống; ngài có thể tràn ngập lòng
biết ơn trước một mẩu bánh mì cứng ngắc, hoặc hân hoan chúc tụng Thiên Chúa chỉ
vì một ngọn gió nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt ngài.
128. Tôi
không nói về niềm vui tiêu thụ và cá nhân chủ nghĩa hiện đang lan rộng trong
một số môi trường văn hoá ngày nay. Thực ra, chủ nghĩa tiêu thụ chỉ biến con
tim thành nặng nề. Nó có thể mang lại cho ta những khoái cảm ngẫu hứng và chóng
qua, nhưng không phải là niềm vui. Điều tôi nhắm nói đến là niềm vui trong tình
hiệp thông, là chia sẻ và dự phần, vì “cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20,35)
và “ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr9,7). Tình yêu
huynh đệ làm tăng khả năng vui mừng, vì nó làm cho ta có thể vui vì điều tốt
lành của người khác: “Hãy vui với người vui” (Rm 12,15). “Chúng tôi vui mừng
khi chúng tôi yếu mà anh em lại mạnh” (2 Cr 13,9). Mặt khác, nếu ta “chỉ biết
nghĩ đến các nhu cầu của mình thôi, ta tự kết án mình phải sống một cuộc sống
ít hạnh phúc” [102].
129. Sự
thánh thiện đồng thời cũng là parrhesía (dũng cảm), tức là sự mạnh dạn, một
động lực thúc đẩy việc phúc âm hoá và để lại dấu ấn trên thế gian này. Để ta
được mạnh dạn, chính Chúa Giêsu đến gặp ta và lại nói với ta một lần nữa, bình
thản mà chắc nịch: “Đừng sợ!” (Mc 6,50). “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến
tận thế” (Mt 28,20). Những lời ấy cho ta được bước đi và phục vụ với cùng một
lòng can trường mà Chúa Thánh Thần đã khuấy lên trong các Tông Đồ, thúc đẩy họ
loan báo về Chúa Giêsu Kitô. Sự mạnh dạn, sự hăng say, dám ăn nói, nhiệt tình
tông đồ, tất cả những điều ấy được bao gồm trong từ dũng cảm. Đây cũng là từ mà
Kinh thánh dùng để mô tả sự tự do của một cuộc sống rộng mở cho Thiên Chúa và
cho người khác (x. Cv4,29;9,28; 28,31; 2 Cr3,12; Ep 3,12; Dt3,6, 10,19).
130. Chân
Phước Phaolô VI khi nói đến những trở ngại cho việc rao giảng Tin mừng, đã nêu
rõ sự thiếu dũng cảm là điều “trầm trọng hơn cả bởi vì nó xuất phát từ bên
trong” [103].
Ta thường bị cám dỗ để quanh quẩn gần bờ! Thế nhưng Chúa lại gọi ta chèo ra chỗ
nước sâu và thả lưới (x. Lc5,4). Ngài mời ta hiến thân phục vụ Ngài. Bám chặt
vào Ngài, ta quả cảm đem hết mọi đặc sủng của mình ra phục vụ tha nhân. Ước gì
ta luôn cảm thấy được tình yêu của Ngài thúc đẩy (2 Cr5,14) và cùng thốt lên
với Thánh Phaolô: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng!” (1 Cr9,16).
131. Ta
hãy nhìn Chúa Giêsu. Lòng cảm thương sâu xa thúc đẩy Ngài đến với người khác.
Nó không khiến Ngài ngập ngừng, bị tê liệt, hoặc xấu hổ như đã từng xảy ra với
ta biết bao lần. Quả là ngược hẳn. Lòng thương cảm thúc đẩy Ngài ra khỏi chính
mình để mạnh mẽ rao giảng và sai người khác đi chữa lành và giải thoát. Ta hãy
nhìn nhận sự yếu đuối của mình, rồi để cho Chúa Giêsu đưa tay nắm lấy nó và sai
ta đi truyền giáo. Ta yếu đuối thật đấy, nhưng ta lại mang sẵn một kho báu có
sức làm cho ta lớn lên và làm cho những người đón nhận nó trở nên tốt hơn và
hạnh phúc hơn. Sự mạnh dạn và lòng can đảm tông đồ là một trong những nét tiêu
biểu của sứ vụ.
132. Dũng cảm là dấu ấn của Chúa Thánh Thần;
xác nhận cho việc rao giảng của ta. Nó là một đảm bảo diễm phúc đưa ta đến chỗ
được vinh quang trong Tin mừng mà ta công bố. Nó giúp ta vững tin không lay
chuyển vào sự trung thành của vị Chứng Nhân làm cho ta biết chắc rằng không gì
có thể “tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa” (Rm 8,39).
133. Ta
cần được Chúa Thánh Thần thúc giục để không bị tê liệt vì sợ hãi và vì thận
trọng quá mức, để không còn quen thói lẩn quẩn trong những ranh giới an toàn.
Hãy nhớ rằng những gì bị đóng kín thì sẽ ẩm mốc và sẽ khiến ta bị bệnh. Khi các
Tông Đồ thấy bị cám dỗ án binh bất động do sợ hãi và nguy hiểm, các ngài đã
cùng nhau cầu nguyện để xin ơn dũng cảm: “Và giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến
những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói Lời Ngài với tất
cả sự mạnh dạn” (Cv4,29). Kết quả là, “khi các ngài cầu nguyện xong, thì nơi
các ngài họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu
mạnh dạn nói Lời Thiên Chúa” (Cv4,31).
134. Như
ngôn sứ Giôna, ta luôn bị cám dỗ chạy trốn tìm nơi ẩn náu an toàn. Nơi ẩn náu
này có thể mang nhiều tên: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa duy linh, khép mình
trong vỏ sò, nghiện ngập, cố chấp, rập khuôn, giáo điều, sống trong quá khứ, bi
quan, nấp dưới các luật lệ và quy tắc. Cũng có thể ta không chịu ra ngoài những
vùng mình biết và biết rõ như trên đầu ngón tay. Tuy nhiên, những khó khăn ấy
chẳng khác nào như cơn bão, con cá voi hay con sâu làm héo cây thầu dầu của ông
Giona, hoặc cơn gió và mặt trời đốt cháy đầu của ông. Và cũng như trong câu
chuyện Giôna, chúng có thể được dùng để khiến ta quay về với Thiên Chúa nhân
hiền, Đấng muốn dẫn dắt ta theo một cuộc hành trình liên tục và đổi mới .
135.
Thiên Chúa luôn luôn là sự mới lạ. Ngài không ngừng thúc đẩy ta lại ra đi và
đổi chỗ để thoát khỏi những gì là quen thuộc, đến những vùng ngoại vi và những
biên giới. Ngài dẫn ta đến những nơi mà nhân loại bị tổn thương nhất, nơi mà
con người dưới vẻ bề ngoài của một sự đồng nhất hời hợt, tiếp tục tìm kiếm câu
trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời. Thiên Chúa không sợ! Ngài không sợ!
Ngài luôn ở trên các kế hoạch của chúng ta và không sợ những vùng ngoại vi.
Chính Ngài đã trở thành một ngoại vi (x. Pl2,6-8; Ga1,14). Vì vậy, nếu ta dám
đi đến những vùng ngoại vi, ta sẽ tìm thấy Ngài ở đó; đúng vậy, Ngài đã có mặt
ở đó sẵn rồi. Chúa Giêsu đã đi trước chúng ta trong trái tim của anh chị em
chúng ta, trong xác thịt bị thương tích của họ, trong cuộc sống bị áp bức của
họ, trong linh hồn bị biến thành đen tối của họ. Ngài đã ở đó sẵn rồi.
136. Quả
thật, ta cần mở cửa lòng mình cho Chúa Giêsu, bởi vì Ngài gõ cửa và gọi (xem
Kh3,20). Nhưng đôi khi tôi tự hỏi phải chăng, Chúa Giêsu đã ở trong ta và đang
gõ để ta mở cửa cho Ngài thoát khỏi cái không khí ngột ngạt do ta chỉ biết quy
về mình! Trong Tin mừng, ta thấy Chúa Giêsu đã “đi qua các thành thị và làng
mạc, rao giảng và công bố Tin mừng về Nước Thiên Chúa” (Lc8,1). Sau Phục sinh,
khi các môn đệ tỏa đi khắp nơi, Chúa đã đồng hành với họ (x. Mc 16,20). Nếu đã
thật sự gặp gỡ Chúa thì hẳn là phải như thế.
137. Cái
hài lòng tự mãn với thói quen bao giờ cũng cuốn hút ta; nó bảo ta rằng tại sao
cứ phải vất vả thay đổi sự việc, rằng trước hoàn cảnh này chẳng làm gì được
đâu, rằng xưa nay mọi sự vẫn luôn như thế thì ta phải tiếp tục như thế. Do đã
thành nếp, ta không còn phải đương đầu với chuyện chẳng lành và chỉ cần cho
“mọi sự cứ đâu vào đó”, hoặc như đã có ai khác định sẵn là chúng phải như thế.
Tuy nhiên, ta hãy để Chúa đến đánh thức ta khỏi cơn mê, giải phóng ta khỏi cái
ù lì chậm chạp! Ta hãy đương đầu với cái nếp của mình; hãy mở mắt, mở tai ra,
và trên hết hãy mở lòng ra, để cho mình được kích động bởi những gì xảy ra
chung quanh và bởi tiếng kêu gọi của Lời sinh động và hữu hiệu của Chúa Phục
sinh.
138. Ta
hãy chạy theo gương của nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân đã dấn thân để rao
giảng Tin mừng và phục vụ cách trung thành, biết bao lần phải liều mất mạng
sống và rõ ràng là phải trả giá bằng việc hy sinh sự thoải mái của mình. Chứng
từ của họ nhắc ta nhớ rằng Hội thánh không cần những quan lại và công chức,
nhưng cần những nhà truyền giáo hăng say, được lòng nhiệt thành nghiến nát để
chia sẻ sự sống cho người khác. Các thánh khiến ta ngạc nhiên và lúng túng, bởi
vì đời sống của các ngài mời gọi ta ra
khỏi tình trạng tầm thường trầm lặng và tê liệt của mình.
139. Ta
hãy xin Chúa ban cho ơn biết không ngần ngại khi Chúa Thánh Thần đòi hỏi ta
tiến lên một bước. Ta hãy xin ơn can đảm tông đồ để chia sẻ Tin mừng cho người
khác và từ bỏ việc cố gắng biến đời sống Kitô hữu của mình thành một viện bảo
tàng kỷ niệm. Trong mọi hoàn cảnh, hãy xin Chúa Thánh Thần làm cho ta biết
chiêm ngắm lịch sử dưới ánh sáng của Chúa Giêsu Phục sinh. Có thế, Hội thánh
mới thôi trì trệ để liên lỉ đón nhận những điều đáng kinh ngạc của Chúa.
140. Nếu
ta sống quá cô lập, sẽ thật khó mà chống lại được khuynh hướng thiên về nhục
dục, những cạm bẫy và cám dỗ của ma quỷ cũng như sự ích kỷ của thế gian. Cuộc
tấn công mãnh liệt đến nỗi, nếu quá cô đơn, chúng ta dễ mất ý thức về thực tại,
mất cả sự sáng suốt bề trong, và chịu thua.
141. Việc
nên thánh là một chuyến đi với cộng đồng, cùng bước bên nhau. Một số cộng đồng
thánh thiện phản ánh điều ấy. Một đôi trường hợp, Hội thánh đã phong thánh cho
nguyên cả một cộng đồng đã cùng sống Tin mừng một cách anh dũng hoặc dâng lên
Thiên Chúa cuộc đời của tất cả các thành viên của họ. Chẳng hạn như bảy vị
thánh sáng lập Dòng các Tôi Tớ Đức Mẹ, bảy nữ tu chân phước tại Tu viện đầu
tiên của dòng Thăm Viếng ở Madrid, các vị tử vì đạo Nhật Bản gồm Thánh Phaolô
Miki và đồng bạn, các vị tử vì đạo Hàn Quốc gồm Thánh Anrê Taegon và đồng bạn,
hoặc các vị tử vì đạo Nam Mỹ, Thánh Roque González, Thánh Alonso Rodríguez và
đồng bạn. Chúng ta cũng nên nhớ lại một chứng từ gần đây của các tu sĩ Xitô ở
Tibhirine, Algeria, những vị đã chuẩn bị như một cộng đồng để chịu tử vì đạo.
Trong nhiều cuộc hôn nhân thánh cũng vậy, mỗi người phối ngẫu trở thành một
phương tiện Đức Kitô dùng để thánh hóa người kia. Sống hoặc làm việc cùng với
người khác chắc chắn là một con đường phát triển tâm linh. Thánh Gioan Thánh
Giá đã nói với một môn đệ ngài: “Hãy hiểu rằng bạn vào dòng là để cho mọi người
xài xể bạn và thử thách bạn” [104].
142. Cộng
đồng được mời gọi để tạo ra một “không gian thần học trong đó người ta có thể
cảm nghiệm được sự hiện diện mầu nhiệm của Chúa Phục sinh” [105].
Việc cùng nhau chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể gia tăng tình huynh đệ và
biến chúng ta thành một cộng đồng thánh và truyền giáo. Nó làm nảy sinh những
kinh nghiệm huyền bí đích thực được sống trong cộng đồng. Đó là trường hợp của
Thánh Bênêđictô và Scholastica, hoặc cuộc gặp gỡ tâm linh tuyệt vời mà Thánh
Augustinô và mẹ ngài, Thánh Monica, đã cùng trải qua. “Khi gần đến ngày mẹ con
ra khỏi đời này -ngày mà Chúa biết rõ còn chúng con thì không-, đã xảy ra một
chuyện mà bây giờ con tin là đã do Chúa sắp đặt theo đường lối nhiệm mầu của
Chúa: lúc đó chỉ có hai mẹ con chúng con đứng tựa cửa sổ quay ra thửa vườn
[...]. Chúng con nao nức mở rộng tâm hồn hớp lấy những dòng nước từ trời cao đổ
xuống, nước suối nguồn của Chúa, suối
ban sự sống bắt nguồn từ nơi Chúa [...]. Và khi chúng con nói chuyện cùng khao
khát sự khôn ngoan, chúng con chỉ chạm được một chút sự khôn ngoan ấy trong trí
một cách hoàn toàn đột ngột […]. Sự sống đời đời như trực giác trong giây phút
ấy làm cho chúng con luyến tiếc” [106].
143. Tuy
nhiên, những kinh nghiệm như vậy không phải là điều thường gặp nhất mà cũng
không phải là điều quan trọng nhất. Cuộc sống chung, dù là trong gia đình, giáo
xứ, cộng đoàn tu sĩ hay bất kỳ nơi nào khác, đều được tạo thành từ những điều nho
nhỏ hàng ngày. Đó là điều đã xảy ra nơi cộng đồng thánh hợp thành bởi Chúa
Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse, cộng đồng đã phản ánh một cách mẫu mực vẻ đẹp
của sự hiệp thông Ba Ngôi. Đó là điều đã xảy ra nơi cuộc sống mà Chúa Giêsu đã
chia sẻ với các môn đệ và đám người giản dị.
144. Ta
hãy nhớ lại Chúa Giêsu vẫn mời gọi các môn đệ chú ý đến chi tiết.
Chi tiết
nhỏ về chuyện hết rượu trong một bữa tiệc.
Chi tiết
nhỏ về một con chiên lạc.
Chi tiết
nhỏ về bà goá dâng cúng hai đồng xu nhỏ.
Chi tiết
nhỏ về việc đem thêm dầu phòng khi chàng rể đến chậm.
Chi tiết
nhỏ khi Ngài bảo các môn đệ xem lại coi các ông có mấy ổ bánh.
Chi tiết
nhỏ về chuyện Ngài đã nhóm sẵn lửa và nướng cá khi chờ các môn đệ lúc tinh
sương.
145. Cộng
đồng chăm chút từng chi tiết yêu thương nhỏ nhặt [107],
ở đó các thành viên chăm sóc cho nhau và tạo ra một không gian cởi mở và đượm
chất Tin mừng, là nơi Chúa Phục sinh hiện diện và thánh hóa nó theo kế hoạch
của Chúa Cha. Đôi khi, nhờ một món quà yêu thương của Chúa, giữa những chi tiết
nho nhỏ ấy, ta được Thiên Chúa ban cho những kinh nghiệm đầy an ủi. “Một buổi
tối mùa đông tôi đang lo những việc nhỏ của phận mình như thường lệ [...] Đột
nhiên, tôi nghe thấy từ xa vọng lại âm thanh dặt dìu của một nhạc cụ. Tôi mơ
màng nghĩ đến một phòng khách sáng choang, trang hoàng lộng lẫy, đầy những
người nữ trẻ tuổi trang điểm thanh lịch đang trò chuyện, chúc mừng nhau với đủ
thứ kiểu cách thế gian. Rồi ánh mắt tôi dừng lại trên người đàn bà khốn khổ tàn
tật tôi đang giúp đỡ. Thay vì những tiếng nhạc dịu dàng, tôi chỉ thỉnh thoảng
nghe thấy những lời bà than thở [...] Tôi không thể diễn tả được điều gì đã xảy
ra trong lòng tôi. Tôi chỉ biết rằng Chúa đã soi sáng cõi lòng ấy bằng những
tia chân lý vượt xa cái rực rỡ tăm tối của những lễ hội trần thế. Tôi không thể
tin được làm sao mình lại hạnh phúc đến
thế”[108].
146.
Ngược hẳn với chiều hướng của chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ mà cuối cùng sẽ
khiến ta thành cô độc trong cuộc tìm kiếm hạnh phúc bất chấp người khác, nẻo
đường nên thánh mà ta đang theo sẽ không thôi làm cho ta được nên như điều Chúa
Giêsu ao ước: “Lạy Cha, xin cho tất cả được nên một, như Cha ở trong Con và Con
ở trong Cha” (Ga 17,21).
147. Cuối
cùng, mặc dù có vẻ là chuyện hiển nhiên, ta cần nhớ rằng sự thánh thiện cốt ở
chỗ thường xuyên mở lòng ra cho sự siêu việt, được thể hiện qua việc cầu nguyện
và tôn thờ. Các thánh là những người có tinh thần cầu nguyện và thấy mình cần
hiệp thông với Thiên Chúa. Họ không thể chịu nổi cảnh bị ngột ngạt khép kín lại
bên trong thế giới này. Giữa lúc cố gắng và dấn thân, họ khao khát Chúa, họ ra
khỏi chính mình trong chúc tụng và chiêm ngắm Chúa. Tôi không tin vào thứ thánh
thiện thiếu cầu nguyện, dù không nhất thiết phải cầu nguyện dài dòng hoặc có
những cảm xúc mãnh liệt.
148.
Thánh Gioan Thánh Giá khuyên chúng ta: “Hãy cố gắng luôn sống trong sự hiện
diện của Thiên Chúa, sự hiện diện thật, sự hiện diện trong tâm tưởng hay sự
hiện diện hiệp nhất, tùy thực tế công việc cho phép.” [109].
Cuối cùng, lòng ao ước Thiên Chúa của chúng ta chắc chắn sẽ phải được tỏ lộ
trong cuộc sống hàng ngày của mình: “Bạn nên cố gắng để cầu nguyện không ngừng,
và ngay cả khi tập luyện thân thể cũng đừng bỏ việc cầu nguyện. Dù bạn ăn,
uống, nói, chuyện vãn với người đời hay là làm bất cứ điều gì khác, bạn luôn
nên làm như thế với lòng khao khát Chúa và hướng hết lòng trí của bạn vào Ngài”
[110].
149. Tuy
nhiên, muốn được như thế, cần phải có một số khoảnh khắc dành riêng cho Thiên
Chúa, để sống một mình với Ngài. Đối với thánh Têrêxa thành Avila, “cầu nguyện
không gì khác hơn là một cuộc trao đổi thân tình và là cuộc đàm đạo thường
xuyên một mình mình với Đấng mà chúng ta biết là rất yêu thương chúng ta” [111].
Tôi phải nhấn mạnh rằng điều này đúng không phải chỉ riêng cho một số ít người
đặc ân, mà còn cho tất cả chúng ta, vì “tất cả chúng ta đều từng cần đến sự
thinh lặng chứa đầy sự hiện diện của Đấng được tôn thờ” [112].
Lời cầu nguyện đầy tin tưởng là một phản ứng của trái tim đang mở ra để giáp
mặt gặp gỡ Thiên Chúa, ở đó mọi tiếng động đều phải im bặt để lắng nghe tiếng
Chúa dịu dàng vang lên giữa thinh lặng.
150.
Trong sự thinh lặng ấy, dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, ta có thể phân định
được những nẻo đường nên thánh mà Chúa đang mời gọi ta. Nếu không, mọi quyết định
của ta chỉ là những “đồ trang trí”, thay vì đề cao Tin mừng giữa đời ta, thì
lại che lấp mất hoặc khiến Tin mừng bị chết ngạt. Đã là môn đệ, điều cần thiết
là phải ở với Thầy, lắng nghe Ngài, và luôn luôn học hỏi với Ngài. Nếu không
lắng nghe Ngài, mọi lời ta nói sẽ chỉ là những lời nhảm nhí vô ích.
151. Cần
nhớ rằng “chính việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu, chịu chết và Sống Lại,
giúp nhân tính của ta được phục hồi, ngay cả khi nó đã bị đổ vỡ vì những thăng
trầm của cuộc sống hoặc mang đầy vết tích tội lỗi. Ta không được tìm cách uốn
nắn để làm chủ quyền năng của dung nhan Đức Kitô” [113].
Vì vậy, tôi xin được hỏi: Liệu có lúc nào bạn đã đặt mình trước sự hiện diện
của Chúa, ở đó bạn nghỉ ngơi thanh thản với Ngài, và để cho Ngài nhìn ngắm bạn
không? Bạn có để cho lửa của Ngài cháy lên trong lòng bạn không? Nếu bạn không
để cho Ngài nhóm lên sức nóng tình yêu và sự dịu hiền của Ngài, bạn sẽ không có
lửa. Và như thế làm sao bạn có thể dùng chứng tích và lời nói của bạn để đốt
cháy trái tim những người khác được? Nếu, trước dung nhan của Đức Kitô, bạn
chưa thấy có thể để cho mình được Lời Ngài chữa lành và biến đổi, thì hãy bước
vào Thánh Tâm Chúa, vào trong những vết thương của Ngài, vì đó là toà của Lòng
Thương Xót Chúa [114].
152. Tuy
nhiên, tôi cầu xin để chúng ta không bao giờ coi sự thinh lặng trong cầu nguyện
là một hình thức trốn chạy và chối bỏ thế giới chung quanh mình. “Người hành
hương đất Nga”, người đã bước đi trong cầu nguyện liên tục, bảo rằng cách cầu
nguyện như vậy không hề tách lìa ông khỏi những gì đã xảy ra chung quanh ông:
“Rồi gặp ai tôi cũng thấy họ dễ thương như thể người nhà… Chẳng những mối hạnh
phúc và an ủi ấy rực sáng lên trong hồn tôi, mà cả đến toàn thế giới bên ngoài
dường như cũng thật diễm lệ khiến tôi ngây ngất” [115].
153. Lịch
sử cũng không tan biến. Sự cầu nguyện vốn được nuôi dưỡng bằng hồng ân Thiên
Chúa hằng tuôn đổ xuống đời ta, nên nó phải đầy sự tưởng nhớ. Tưởng nhớ các
công trình của Thiên Chúa là nền tảng cho kinh nghiệm giao ước giữa Thiên Chúa
và dân Ngài. Thiên Chúa đã muốn đi vào lịch sử, cho nên lời cầu nguyện của ta được đan kết bằng những tưởng niệm. Không
chỉ nhớ về Lời được Chúa mạc khải, mà còn về cuộc sống của bản thân ta, cuộc
sống của người khác và tất cả những gì Chúa đã làm trong Hội thánh Ngài. Đó
chính là trí nhớ đầy biết ơn mà Thánh Ignatiô Loyola đã nói đến trong bài Chiêm niệm để được Tình yêu [116],
khi ngài yêu cầu ta phải lưu ý đến tất cả những ơn phúc ta đã nhận được từ
Chúa. Khi cầu nguyện, bạn hãy nhìn lại lịch sử của chính mình, bạn sẽ thấy ở đó
nhiều tình thương xót. Đồng thời, điều ấy cũng giúp bạn thêm ý thức hơn rằng
Chúa luôn nhớ đến bạn và không bao giờ quên bạn. Điều ấy cũng còn có nghĩa là
hãy xin Chúa soi sáng lên những chi tiết nhỏ nhất của đời bạn, vì chúng không
thoát khỏi mắt Ngài.
154. Khẩn
nguyện là một cách diễn tả của một tâm hồn tin tưởng vào Thiên Chúa, ý thức
rằng tự sức mình ta không thể làm được gì cả. Cuộc sống của đoàn dân tin tưởng
vào Thiên Chúa được đánh dấu bằng lời khẩn cầu liên tục phát sinh từ tình yêu
đầy đức tin và lòng tín thác sâu xa. Ta đừng coi thường việc cầu xin, biết bao
lần nó đã xoa dịu lòng ta và giúp ta kiên trì trong hy vọng. Lời chuyển cầu
(cầu thay cho người khác) cũng có một giá trị đặc biệt, vì là một hành động tín
thác vào Thiên Chúa, và cũng nói lên tình yêu của ta đối với người bên cạnh.
Một số người, do cách nhìn phiến diện về đường thiêng liêng, cứ tưởng rằng cầu
nguyện phải là chiêm niệm thuần tuý về Thiên Chúa, không được phân tâm, làm như
thể tên tuổi và khuôn mặt của người khác, một cách nào đó, là một sự quấy rầy
cần phải tránh xa. Nhưng thực ra, lời cầu nguyện của ta sẽ vui lòng Thiên Chúa
hơn và giúp ta nên thánh hơn nếu, qua chuyển cầu, chúng ta cố gắng thực hành
điều răn kép mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Lời nguyện chuyển cầu cho
thấy sự quan tâm đầy tình huynh đệ đối với người khác khi chúng ta có thể bao
gồm cuộc sống của người khác, những lo âu sâu thẳm nhất của họ và những giấc mơ
đẹp nhất của họ. Riêng về những người quảng đại tận hiến đời mình để chuyển cầu
cho tha nhân, chúng ta có thể mượn lời Kinh thánh mà nói: “Đây là người yêu mến
anh em mình và cầu nguyện nhiều cho dân” (2 Mcb 15,14).
155. Nếu
chúng ta thật sự nhận ra rằng Thiên Chúa hiện hữu, thì chúng ta không thể nào
không thờ lạy Ngài, đôi khi trong sự im lặng đầy kính phục, hát mừng Ngài bằng
những lời chúc tụng hân hoan. Như thế, chúng ta chia sẻ kinh nghiệm của Chân
phước Charles de Foucauld khi ngài nói: “Từ khi tôi tin rằng có một Thiên Chúa,
tôi hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là sống cho Ngài” [117].
Trong cuộc sống của dân Chúa trên đường lữ hành, có nhiều cử chỉ giản dị toát
ra một sự thờ phượng thuần khiết, như khi “một người hành hương đưa mắt nhìn
chăm chú vào một hình ảnh biểu tượng cho sự dịu hiền và gần gũi của Thiên Chúa.
Tình yêu dừng lại, chiêm niệm mầu nhiệm ấy, và thưởng thức nó trong thinh lặng”
[118].
156. Khi
cầu nguyện cũng cần đọc Lời Chúa, Lời này vừa “ngọt ngào hơn mật ong” (Tv
119,103), vừa là một “thanh gươm hai lưỡi” (Hr 4,12), cho phép chúng ta dừng
lại lắng nghe tiếng của Thầy để Lời ấy trở nên ngọn đèn soi bước chân ta và ánh
sáng dẫn đường ta đi (x. Tv 119,105).
Như các giám mục Ấn Độ đã nhắc nhở, “việc tôn kính Lời Chúa không đơn thuần là
một trong nhiều việc sùng kính tốt đẹp, ai muốn thì làm, nhưng nó là chính con
tim và chính căn tính của đời sống Kitô hữu. Tự nơi Lời Chúa vốn có sẵn quyền
năng biến đổi những cuộc đời” [119].
157. Việc
gặp gỡ Chúa Giêsu trong Kinh thánh đưa ta đến Bí tích Thánh Thể, nơi mà cũng
Lời ấy đạt được hiệu quả cao nhất, vì có sự hiện diện thật sự của Đấng là Lời
Hằng Sống. Ở đó, Đấng Tuyệt Đối duy nhất nhận được sự thờ phượng vĩ đại nhất mà
thế gian này có thể dâng lên Ngài, vì là chính Đức Kitô tự dâng hiến chính mình
để thờ phượng. Khi tiếp nhận Ngài lúc
hiệp lễ, ta nhắc lại giao ước của ta với Ngài và để cho Ngài thực hiện nhiều
hơn nữa công trình biến đổi của Ngài.
158. Đời
Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên lỉ. Ta cần sức mạnh và lòng can đảm để
đương đầu với những cám dỗ của ma quỷ và để loan báo Tin mừng. Đây là trận
chiến cao đẹp, vì nó cho ta được vui mừng mỗi khi Chúa chiến thắng trong đời
ta.
159. Đây
không chỉ là một cuộc chiến chống lại thế gian và não trạng trần tục đang đánh
lừa ta, khiến ta thành mê muội và tầm thường, mất hết nhiệt tình và niềm vui.
Nó cũng không giản lược vào chuyện vật lộn với những yếu đuối mỏng dòn và những
xu hướng thấp hèn (có thể là lười biếng, tà dâm, tham lam, ganh tị hay bất kỳ
điều gì khác). Nó còn là một cuộc chiến đấu triền miên chống lại ma quỷ, thủ
lãnh của sự dữ. Chính Chúa Giêsu ăn mừng những chiến thắng của chúng ta. Ngài
vui mừng khi các môn đệ Ngài tiến bộ trong việc rao giảng Tin mừng và vượt
thắng được sự chống phá của ác thần: “Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ
trời sa xuống” (Lc 10,18).
160. Ta
sẽ không cho là có ma quỷ nếu ta chỉ chăm bẳm nhìn đời theo các tiêu chuẩn thực
nghiệm, không một chút cảm thức siêu nhiên nào. Quả thật, có xác tín rằng quyền
lực hiểm độc này đang hiện diện ở giữa chúng ta, ta mới hiểu được làm sao lắm
lúc sự dữ lại có thể có sức tàn phá đến thế. Phải nhận rằng những khái niệm các
tác giả Kinh thánh dùng để diễn tả một số thực tại trong lãnh vực này còn khá
giới hạn, chẳng hạn trong thời Chúa Giêsu, người ta có thể lẫn lộn bệnh động kinh
với việc quỷ ám. Tuy nhiên, điều ấy không đưa ta đến chỗ giản lược thực tại đến
độ bảo rằng mọi trường hợp được thuật lại trong Tin mừng đều chỉ là những bệnh
tâm thần, và do đó không có ma quỷ hoặc ma quỷ không hoạt động. Ma quỷ có mặt
ngay trong những trang đầu của Kinh thánh, mà kết thúc là Thiên Chúa đã chiến
thắng ma quỷ [120].
Quả thật, khi dạy ta Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu muốn ta kết thúc kinh này với lời
nài xin Chúa Cha “cứu chúng con cho khỏi Sự Dữ”. Chữ dùng ở đây không nhằm nói
đến sự dữ trừu tượng; muốn sát nghĩa hơn phải dịch là “thần dữ”. Nó ám chỉ một
kẻ nào đó đang tấn công ta. Chúa Giêsu dạy ta mỗi ngày phải cầu xin ơn giải cứu
này để không bị quyền năng của nó chế ngự.
161. Như
thế, ta không nên nghĩ về ma quỷ như một huyền thoại, một hình tướng, một biểu
tượng, một hình ảnh hoặc một ý tưởng [121].
Cái sai lầm này sẽ khiến ta chểnh mảng, bất cẩn, không đề phòng và kết cuộc dễ
bị làm mồi cho nó hơn. Ma quỷ không cần phải chiếm hữu ta. Nó đầu độc ta bằng
nọc độc của hận thù, buồn chán, tham lam và các tật xấu. Cũng thế, khi ta chểnh
mảng không chịu đề phòng, nó sẽ tận dụng cơ hội để huỷ hoại đời ta, gia đình ta
và cộng đồng của ta. “Như sư tử gầm thét, nó rảo quanh tìm mồi để cắn xé” (1 Pr
5,8).
162. Lời
Chúa rõ ràng mời gọi ta “hãy đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ”
(Ep 6,11) và “dập tắt mọi tên lửa của Ác Thần” (Ep 6,16). Đây không phải là
những lời hoa mỹ, vì con đường dẫn đến sự thánh thiện của ta là một trận chiến
liên tục. Ai không ý thức điều ấy sẽ thất bại hoặc sớm rơi xuống chỗ tầm
thường. Với cuộc chiến này, ta có thể dựa vào các vũ khí mạnh mẽ Chúa đã ban
cho ta: việc vững tin cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, cử hành thánh lễ, chầu
Thánh Thể, Bí tích Hòa giải, các việc bác ái, sống hiệp thông chia sẻ, và dấn
thân truyền giáo. Nếu không cẩn thận, ta dễ bị những lời hứa hão của thần dữ
quyến rũ. Như thánh linh mục Brochero đã nói: “Có điều gì là tốt lành khi
Lucifer hứa cho bạn tự do, và chất đầy cho bạn đủ thứ lợi lộc của nó, nếu những
lợi ích ấy toàn là giả dối và có chất độc?” [122].
163.
Trong lộ trình này, việc phát huy những điều thiện, sự trưởng thành tâm linh và
lớn lên trong đức ái là cách tốt nhất để đối phó với sự dữ. Những ai định án
binh bất động, những ai tự hài lòng với đôi chút cố gắng nhỏ, những ai không mơ
ước quảng đại hiến mình cho Chúa, đều sẽ chẳng bao giờ cầm cự nổi. Tệ hơn nữa,
nếu người ta rơi vào thái độ chủ bại, vì “ai bắt đầu mà không tự tin, thì đã
thua cuộc hết một nửa, và đã đem chôn giấu những nén bạc... Chiến thắng của
Kitô hữu luôn luôn là một thập giá, nhưng cùng lúc thập giá cũng là biểu tượng
của chiến thắng, cần được ưu ái mang theo để quyết liệt chiên đấu chống lại
những cuộc tấn công của sự dữ” [123].
164.
Đường nên thánh là một nguồn bình an và hoan lạc mà Chúa Thánh Thần ban cho ta,
đồng thời Ngài cũng đòi ta phải tỉnh thức và giữ cho “đèn cháy sáng” (Lc
12,35). “Hãy tránh xa điều xấu dưới mọi hình thức” (1 Tx5,22). “Hãy tỉnh thức”
(Mt 24,42; Mc 13,35). “Đừng ngủ mê” (1 Tx 5,6). Những người có cảm tưởng mình
chẳng phạm tội gì trầm trọng ngược Luật Thiên Chúa có thể rơi vào tình trạng mê
muội hoặc đờ đẫn. Vì không thấy điều gì nghiêm trọng để tự trách mình, họ không
nhận ra rằng tình trạng trơ trơ như thế sẽ dần dần chiếm lĩnh đời sống thiêng
liêng của họ và cuối cùng họ sẽ bị suy nhược và hủ bại.
165. Sự
hủ bại tinh thần còn tồi tệ hơn việc một người sa ngã phạm tội, vì đó là một
thứ thoải mái và tự mãn mù lòa, chuyện gì cũng coi như có thể chấp nhận được:
lừa dối, phỉ báng, ích kỷ và các hình thức tìm mình khác rất tinh vi, vì “chính
Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11,14). Vua Salômôn đã kết thúc
những ngày đời ông theo cách đó, còn vua Đavít đã từng phạm tội hết sức nặng nề
nhưng lại biết chỗi dậy khỏi tình trạng khốn nạn của mình. Chúa Giêsu đã từng cảnh
báo chúng ta về sự tự lừa dối này, vì nó rất dễ đưa ta đến chỗ hủ bại: Ngài nói
về một kẻ được giải thoát khỏi quỷ ám, nghĩ rằng đời mình giờ đây đã ổn thỏa,
nhưng rồi cuối cùng lại bị bảy quỷ khác chiếm hữu (xem Lc 11,24-26). Một đoạn
Kinh thánh khác còn dùng một hình ảnh rất mạnh: “Chó ăn lại chính thứ nó mửa
ra” (2 Pr2,22; x. Cn 26,11).
166. Làm
sao để biết được là một điều đến từ Chúa Thánh Thần hay đến từ tinh thần thế
gian hoặc tinh thần ma quỷ? Cách duy nhất là phải phân định. Sự phân định không
những đòi phải có một khả năng tốt để lý luận và phải có lương tri (khả năng
biết lẽ thường - ND), mà còn là một ơn cần phải cầu xin. Nếu chúng ta tin tưởng
cầu xin Chúa Thánh Thần ơn này, đồng thời tìm cách vun trồng nó bằng cầu
nguyện, suy niệm, đọc sách và nghe lời khuyên tốt, chắc chắn chúng ta sẽ lớn
lên trong khả năng tinh thần này.
167. Ngày
nay khả năng phân định càng đặc biệt trở nên cần thiết. Cuộc sống hiện nay cống
hiến cho ta vô số khả năng để hành động và giải trí, và ai cũng xem như tất cả
đều được phép và tốt. Mọi người, đặc biệt là giới trẻ, đều chìm trong một nền
văn hóa cảm ứng, liên tục “chấm, quẹt”. Ta có thể đồng thời lướt hai hoặc ba
màn ảnh và tương tác trên hai ba cảnh ảo cùng một lúc. Nếu thiếu sự sáng suốt
phân định, ta có thể dễ biến thành những con rối chiều theo mọi xu hướng chóng
qua.
168. Điều
này càng quan trọng hơn nữa khi một cái gì đó mới mẻ xuất hiện trong đời sống
của ta, đòi ta phải phân định xem đó là thứ rượu mới từ Thiên Chúa gửi đến hay
chỉ là một cái mới ảo do tinh thần thế tục hay tinh thần của ma quỷ tạo ra. Có
những trường hợp khác, lại có thể xảy ra điều ngược hẳn, các thế lực của sự dữ
kìm giữ không cho ta thay đổi, cứ để yên mọi sự như cũ, chọn thái độ cứng nhắc
hoặc án binh bất động. Và thế là ta ngăn chặn mất hoạt động của Chúa Thánh
Thần. Ta được tự do, với sự tự do của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Ngài yêu cầu ta dò
xét cả những tín hiệu bên trong - các ước muốn, lo âu, sợ hãi và kỳ vọng của ta
- và cả những thứ bên ngoài đang xảy ra quanh ta - “những dấu chỉ của thời thế”
- để nhận ra đâu là những nẻo đường đưa đến tự do hoàn toàn. “Hãy cân nhắc mọi
sự: điều gì tốt thì giữ” (1 Tx5,21).
169. Sự
phân định không phải chỉ cần thiết vào những thời điểm khác thường, khi ta cần
giải quyết các vấn đề nghiêm trọng hoặc phải có một quyết định quan trọng. Phân
định là một công cụ chiến đấu giúp ta theo Chúa cách tốt hơn. Ta luôn cần nó,
để nhận ra được đâu là giờ của Thiên Chúa và của ân sủng Ngài, để khỏi lãng phí
ơn linh hứng của Chúa và khỏi bắt hụt lời Ngài đang mời gọi lớn lên. Việc phân
định này thường phải làm từ trong những việc nhỏ, nơi những việc có vẻ tầm
thường, bởi lẽ cái lớn lao vẫn lộ rõ ngay giữa những việc đơn giản hàng ngày [124].
Không riêng những gì lớn lao, cao cả hơn và tốt đẹp hơn mới cần được phân định,
nhưng cùng lúc cũng phải chú ý đến cả những gì bé nhỏ, những trách nhiệm và
những dấn thân trong cuộc sống mỗi ngày. Vì thế, tôi xin hết mọi Kitô hữu đừng
quên thưa chuyện với Chúa là Đấng yêu thương ta để thành tâm xét mình mỗi ngày.
Sự phân định cũng giúp ta nhận ra những phương thế cụ thể Chúa xếp đặt trong kế
hoạch mầu nhiệm đầy yêu thương của Ngài, để giúp ta không chỉ ngừng lại với
những ý định tốt lành.
170. Sự
phân định thiêng liêng không loại trừ những đóng góp của những kiến thức nhân
bản, hiện sinh, tâm lý, xã hội học hay luân lý, nhưng còn vượt lên trên những
hiểu biết ấy. Chỉ những tiêu chuẩn vững chắc của Hội thánh thôi cũng chưa đủ.
Ta cần luôn nhớ rằng sự phân định là một ơn Chúa ban. Đành rằng nó bao gồm lý
trí và sự cẩn trọng, nó vẫn vượt trên cả hai, vì nó là chuyện dò tìm xem đâu là
kế hoạch mầu nhiệm và độc đáo Thiên Chúa đang dành cho mỗi người chúng ta, kế
hoạch đang rõ dần giữa biết bao hoàn cảnh và giới hạn khác nhau. Nó không chỉ
là chuyện liên quan tới một sự an vui trần thế, một sự hài lòng vì đã làm một
điều gì hữu ích, hay là niềm khao khát có một lương tâm thanh thản. Điều đáng
kể chính là ý nghĩa của đời tôi trước mặt Chúa Cha, Đấng biết tôi và yêu thương
tôi, là cái mục đích cuối cùng của đời tôi, mà không ai biết rõ hơn Ngài. Rốt
cuộc, sự phân định dẫn đến chính nguồn suối của cuộc sống bất diệt, nghĩa là
được nhận biết Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa thật duy nhất, và Đấng Ngài đã sai
đến, là Chúa Giêsu Kitô (x. Ga 17,3). Sự phân định không đòi hỏi những khả năng
đặc biệt, cũng không chỉ dành cho những người thông minh hơn hoặc có học thức
cao, và Chúa Cha đã vui lòng tỏ mình ra cho những người bé nhỏ (x. Mt 11,25).
171. Mặc
dù Chúa nói với ta bằng rất nhiều cách khác nhau, trong công việc, qua người
khác và mọi lúc, ta không thể bỏ qua sự thinh lặng chú tâm cầu nguyện để nhận
rõ ngôn ngữ của Thiên Chúa hơn, để giải thích được ý nghĩa thực sự của những
cảm hứng mà ta nghĩ là mình đã nhận được, để làm cho những lo âu của mình lắng
dịu và để sắp đặt toàn bộ đời mình trong ánh sáng của Thiên Chúa. Bằng cách ấy,
ta có thể làm nẩy sinh một tổng hợp mới phát xuất từ một cuộc sống được Chúa
Thánh Thần soi sáng.
172. Tuy
nhiên, có thể chính trong lúc cầu nguyện, ta lại tránh né sự chất vấn của Chúa
Thánh Thần, Đấng đầy tự do, luôn hành động như ý Ngài muốn. Ta phải nhớ rằng sự
phân định trong cầu nguyện đòi buộc ta phải bắt đầu từ sự mở lòng lắng nghe:
lắng nghe Chúa, lắng nghe người khác, và lắng nghe chính thực tại vẫn hằng
thách thức chúng ta bằng những cách thế mới. Chỉ những ai sẵn sàng lắng nghe
mới có được tự do nội tâm để từ bỏ những ý tưởng chủ quan hoặc phiến diện của
mình, cũng như những thói quen cố hữu và những định kiến của mình. Có thế, ta
mới thực sự mở lòng đón nhận cái tiếng gọi có thể phá vỡ sự an toàn của ta,
nhưng lại dẫn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nào phải cứ mọi sự đều xuôi chảy,
đều yên ổn là đã đủ! Thiên Chúa còn có thể cho ta một điều gì đó tốt hơn nhiều,
nhưng chỉ vì cầu an chểnh mảng mà ta không nhận ra.
173. Đã
hẳn thái độ lắng nghe ấy đòi phải vâng theo Tin mừng như là chuẩn mực tối hậu,
nhưng cũng còn phải vâng theo Huấn quyền, mà Chúa đã lập nên để gìn giữ Tin
mừng, hầu giúp ta tìm được trong kho báu của Hội thánh điều gì hữu hiệu nhất
cho “ngày hôm nay” của ơn cứu rỗi. Điều quan trọng không phải là áp dụng các
quy tắc hoặc lặp lại quá khứ, bởi vì không thể đem những giải pháp y hệt áp
dụng cho mọi hoàn cảnh; vì điều hữu ích trong bối cảnh này chưa hẳn cũng hữu
ích trong một bối cảnh khác. Sự phân định các loại thần giải thoát ta khỏi sự
cứng nhắc, là điều không chấp nhận được trước “ngày hôm nay” bất diệt của Chúa
Phục sinh. Chỉ có Thánh Thần mới xuyên thấu những điều tăm tối và ẩn khuất
trong mỗi tình huống và nắm được mọi chỗ tinh tế của tình huống ấy, nhờ đó cái
mới mẻ của Tin mừng mới nổi bật dưới một ánh sáng khác.
174. Muốn
tiến bộ trong việc phân định, cốt yếu nhất là phải uốn theo sự kiên nhẫn của
Thiên Chúa và các thời điểm của Ngài, vốn không bao giờ trùng khít với thời
điểm của ta. Thiên Chúa không cho lửa xuống đốt những kẻ bất trung (xem Lc9,54),
hoặc cho phép những người nhiệt thành nhổ cỏ lùng mọc xen giữa lúa mì (x. Mt
13,29). Cũng cần có lòng quảng đại, vì “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv
20,35). Phân định không phải để khám phá xem ta có thể kiếm lợi thêm được những
gì ở đời này, mà để nhận ra làm sao ta có thể hoàn thành tốt hơn sứ vụ được ủy
thác cho mình khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Điều này có nghĩa là phải sẵn sàng
từ bỏ đến mức hy sinh hết mọi sự. Thực ra, hạnh phúc thật nghịch lý: ta chỉ cảm
nghiệm được nhiều hạnh phúc nhất khi chấp nhận cái logic (cái lý) mầu nhiệm không
thuộc thế gian như Thánh Bonaventura đã quả quyết khi nói về thập giá: “Đây là
cái lý của ta” [125].
Một khi đã vào trong cái năng động này, ta sẽ không để cho lương tâm mình bị tê
liệt và sẽ hào hiệp mở rộng lòng ra để phân định.
175. Khi
dò tìm những nẻo đường cuộc sống trước nhan Thiên Chúa, ta không được gạt bỏ
bất cứ lãnh vực nào. Nơi mọi khía cạnh của đời sống, ta đều có thể tiếp tục
phát triển và dâng lên Thiên Chúa một điều gì lớn hơn, ngay cả trong những lãnh
vực ta thấy khó khăn nhất. Tuy nhiên, ta cần xin Chúa Thánh Thần giải thoát ta
và xua tan sợ hãi, là điều khiến ta ngăn cản không cho Ngài bước vào một số
lãnh vực nào đó của đời ta. Ngài đòi hỏi ta mọi sự, nhưng cũng ban cho ta mọi
sự. Ngài không muốn bước vào đời ta để khiến nó thành què cụt hoặc bị yếu đi,
nhưng để đưa nó đến chỗ viên mãn. Như thế, phân định không phải là một kiểu tự
phân tích chỉ biết có mình, hoặc một hình thức nội quan (tự xét nội tâm) tập
trung vào mình, nhưng là một tiến trình thật sự ra khỏi chính mình để tiến về
mầu nhiệm của Thiên Chúa, là Đấng giúp ta làm tròn sứ vụ mà Ngài đã mời gọi ta,
vì lợi ích cho anh chị em của ta.
* * *
176. Tôi
cầu mong Đức Trinh Nữ Maria kết triều thiên tô điểm cho những suy tư này, bởi
vì Mẹ đã sống các mối Phúc thật của Chúa Giêsu cách không ai sánh bằng. Mẹ đã
nhảy mừng trước mặt Thiên Chúa, đã giữ kỹ mọi sự trong lòng, và đã để cho lưỡi
gươm đâm thâu lòng mình. Ngài là vị thánh nổi bật giữa các thánh, diễm phúc hơn
tất cả. Chính Mẹ chỉ cho ta con đường nên thánh và luôn đồng hành với ta. Mẹ
không chịu để ta phải nằm mãi dưới đất sau khi ta bị ngã, và lắm khi Mẹ còn ẵm
ta trong vòng tay Mẹ mà không xét đoán gì ta cả. Cứ trò chuyện với Mẹ, ta sẽ
được an ủi, giải thoát và thánh hóa. Mẹ không cần nhiều lời. Mẹ không cần ta
phải nói hết cho Mẹ những gì đang xảy đến cho đời ta. Tất cả những gì ta cần
làm là thì thầm, lặp đi lặp lại: “Kính mừng Maria ...”
177. Tôi
hy vọng rằng những trang này sẽ hữu ích, giúp toàn thể Hội thánh lại một lần
nữa tận hiến cho việc cổ võ lòng khao khát nên thánh. Ta hãy xin Chúa Thánh
Thần tuôn đổ trên ta một niềm khao khát nên thánh mênh mông vô tận để Thiên
Chúa được hết sức vinh quang, và ta hãy giúp đỡ nhau trong nỗ lực này. Như thế,
ta sẽ cùng chia sẻ với nhau một nguồn hạnh phúc mà thế gian sẽ không thể cướp
được.
Ban hành
tại Rôma, ở Đền Thánh Phêrô, ngày 19 tháng 3, lễ trọng kính Thánh Giuse, năm
2018, là năm thứ sáu tôi làm Giáo hoàng.
Phanxicô
[1] BÊNÊĐICTÔ
XVI, Bài giảng Mở Đầu Tác Vụ Phêrô (ngày 24 tháng 4, 2005): AAS 97
(2005), 708.
[2] Điều này luôn coi là được mọi người biết về sự thánh thiện và thực
hành, ít ra ở mức độ bình thường, các nhân đức Kitô giáo: x. Tự Sắc Maiorem
Hac Dilectionem (ngày 11 tháng 7, 2017), Art. 2c: L’Osservatore
Romano, 12 tháng 7 2017, tr. 8.
[3] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến chế Tin Lý về Hội Thánh, Lumen Gentium, 9
[4] X. JOSEPH MALEGUE, Pierres noires. Les classes moyennes du
Salut, Paris, 1958.
[5] CÔNG ĐỒNG
VATICANÔ II, Hiến chế Tin Lý về Hội Thánh, Lumen Gentium, 12
[6] Verborgenes Leben und Epiphanie: GW XI, 145
[7] GIOAN
PHAOLÔ II, Thông Điệp Novo Millennio Ineunte (ngày 6 tháng 1, 2001), 56: AAS
93 (2001), 307.
[8] Thông Điệp Tertio
Millennio Adveniente (ngày 10 tháng 11,1994), 37: AAS 87 (1995), 29.
[9] Bài Giảng
trong cuộc Tưởng Niệm Đại Kết cho việc Làm Chứng cho Đức Tin trong Thế Kỷ
thứ Hai Mươi (ngày 7 tháng 5, 2000), 5: AAS 92
(2000), 680-681.
[10] Hiến chế Tin Lý về Hội Thánh, Lumen Gentium, 11.
[11] X. HANS
URS VON BALTHASAR, “Theology and Holiness”, in Communio 14/4 (1987),
345.
[12] Ca Khúc Tâm Linh,
Red. B, Mở Đầu, 2.
[13] X. ibid., 14-15, 2.
[14] X. Bài Giáo Lý, Triều Yết
Chung ngày 19 tháng 11, 2014: Insegnamenti II/2
(2014), 555.
[15] PHANXICÔ ĐỆ
SALÊ, Tiểu luận về Tình Yêu Thiên Chúa, VIII, 11
[16] Năm Cái Bánh và
Hai Con Cá, Pauline Books and Media, 2003, tt. 9, 13
[17] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
TÂN TÂY LAN, Tình Yêu Chữa Lành - Healing Love, ngày 1 tháng 1,
1988.
[18] Linh Thao,
102-312.
[19] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 515.
[20] Ibid.,
516.
[21] Ibid.,
517.
[22] Ibid., 518.
[23] Ibid.,
521.
[24] BENEDICTÔ XVI, Giáo Lý, Triều Yết
Chung ngày 13 tháng 4, 2011: Insegnamenti VII
(2011), 451.
[25] Ibid.,
450.
[26] X. HANS URS VON BALTHASAR,
“Theology and Holiness”, in Communio 14/4 (1987), 341-350.
[27] XAVIER ZUBIRI, Naturaleza,
historia, Dios, Madrid, 19933, 427
[28] CARLO M. MARTINI, Le
confessioni di Pietro, Cinisello Balsamo, 2017, 69
[29] Chúng ta cần phân biệt giữa loại
giải trí phiến diện này với nền văn hoá giải trí lành mạnh, là điều mở lòng
chúng ta ra cho tha nhân và chính thực tại trong một tinh thần cởi mở và chiêm
niệm.
[30] GIOAN PHAOLÔ II, Bài Giảng
trong Thánh Lễ Phong Hiển Thánh (ngày 1 tháng 10, 2000), 5: AAS 92 (2000), 852.
[31] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
VÙNG TÂY PHI, Sứ Điệp Mục Vụ Kết Thúc Cuộc Họp Thường Kỳ Lần Thứ Hai,
ngày 29 tháng 2, 2016, 2.
[32] La femme pauvre -
Người phụ nữ nghèo, Paris, II, 27.
[33] X. THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Thư Placuit Deo về Một
Số Khía Cạnh của Cứu Độ Kitô giáo (ngày
22 tháng 2, 2018), 4, trong L’Osservatore Romano, 2 tháng 3, 2018,
tt. 4-5: “Cả chủ nghĩa cá nhân tân-Pelagiô và tân-Ngộ Đạo coi rẻ thân xác
làm mất vẻ đẹp của tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô, Đấng Cứu Độ Phổ Quát Duy
Nhất”. Tài liệu này cung cấp các nền tảng tín lý cho việc hiểu biết về ơn
cứu độ Kitô giáo trong tương quan với các khuynh hướng tân-ngộ-đạo và
tân-Pelagiô.
[34] Tông Huấn Evangelii Gaudium (ngày 24 tháng
11, 2013), 94: AAS 105 (2013), 1060.
[36] Bài giảng trong Thánh Lễ ờ Casa Santa Marta,
11 tháng 11, 2016: L’Osservatore Romano, 12 tháng 11, 2016, p.
8.
[37] Như Thánh
Bonaventura dạy, “chúng ta phải đình chỉ tất cả hoạt động của trí khôn, và
chúng ta phải biến đổi cao điểm của những tình cảm của mình, hướng chúng về một
mình Thiên Chúa … Vì thiên nhiên không đạt được điều gì và nỗ lực cá nhân chỉ
được rất ít, cần phải coi việc điều nghiên là ít quan trọng và việc xức dầu là
quan trọng hơn nhiều, nói năng là ít và niềm vui nội tâm là nhiều, lời nói hay
chữ viết là ít nhưng tất cả cho hồng ân của Thiên Chúa, nghĩa là Chúa Thành Thần,
phải coi các thụ tạo là ít hay không quan trọng, nhưng tất cả cho Đấng Tạo Hoá,
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”: BONAVENTURA, Itinerarium Mentis
in Deum, VII, 4-5.
[38] X. Thư gửi Viện Trưởng Giáo Hoàng Đại Học Công Giáo Á Căn
Đình nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Phân Khoa Thần Học (ngày
3 tháng Ba, 2015): L’Osservatore Romano, ngày 9-10 tháng 3, 2015,
p. 6.
[39] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 Tháng 11,
2013), 40: AAS 105 (2013), 1037.
[40] Video Sứ điệp truyền hình gửi các Tham Dự Viên Đại Hội
Thần Học Quốc Tế được tổ chức tại Giáo Hoàng Đại Học Công Giáo Á Căn Đình (ngày 1-3 tháng 9, 2015): AAS
107 (2015), 980.
[41] Tông Huấn hậu Thượng
Hội Đồng Vita Consecrata (ngày 25 tháng 3,
1996), 38: AAS 88 (1996), 412.
[42] Thư gửi Viện Trưởng Giáo Hoàng Đại Học Công Giáo Á Căn
Đình nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Phân Khoa Thần Học (ngày
3 tháng 3, 2015): L’Osservatore Romano, ngày 9-10 tháng 3, 2015,
t.6.
[43] Thư gửi Huynh Đệ
Anthony, 2: FF 251.
[44] De septem donis, 9,
15.
[45] In IV Sent.
37, 1, 3, ad 6.
[46] Tông Huấn Evangelii Gaudium (ngày 24 tháng
11, 2013), 94: AAS 105 (2013), 1059.
[47] X.
Bonaventura, De sex alis Seraphim, 3, 8: “Non omnes omnia
possunt”. Câu này được hiểu theo Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công
Giáo, 1735.
[48] X. TÔMA
AQUINÔ, Summa Theologiae II-II, q. 109, a. 9, ad 1:
“Nhưng ở đây ân sủng theo một mức độ nào đó thì chưa hoàn hảo, cũng như nó
không hoàn toàn chữa lành con người, như chúng tôi đã nói”.
[49] X. De natura et
gratia, 43, 50: PL 44, 271.
[50] Tự Thú - Confessiones,
X, 29, 40: PL 32, 796.
[51] X. Tông Huấn Evangelii Gaudium (ngày 24 tháng
11, 2013), 44: AAS 105 (2013), 1038.
[52] Trong sự hiểu biết về
đức tin Kitô giáo, ân sủng đi trước, đi cùng và đi theo tất cả mọi hành động của
chúng ta. (X. CÔNG ĐỒNG TRENTÔ, Khoá VI, Sắc Lệnh về Ơn Công
Chính Hoá, ch. 5: DH 1525).
[53] X. In Ep.
ad Romanos, 9, 11: PG 60, 470.
[54] Homilia de
Humilitate: PG 31, 530.
[55] Giáo Luật 4: DH 374.
[56] Khoá Họp VI, Sắc
Lệnh về Ơn Công Chính Hoá, ch. 8: DH 1532.
[57] Số. 1998.
[58] Ibid., 2007.
[59] Tôma Aquinô, Summa
Theologiae, I-II, q. 114, a. 5.
[60] Têrêxa Hài Đồng
Giêsu, “Kinh Dâng Tình Yêu Thương Xót” (Cầu Nguyện, 6).
[61] Lucio Gera, Sobre
el misterio del pobre, in P. GRELOT-L. GERA-A. DUMAS, El
Pobre, Buenos Aires, 1962, 103.
[62] Tóm lại, đây là học
thuyết về “công trạng” đi theo việc công chính hoá: nó liên quan đến sự cộng
tác của người được công chính hoá để lớn lên trong đời sống ân sủng (X. Giáo Lý
Hội Thánh Công giáo, 2010). Nhưng sự cộng tác này không bao giờ biến
chính sự công chính hoá hay tình bằng hữu với Thiên Chúa thành mục tiêu của
công trạng của con người.
[63] X. Tông Huấn Evangelii Gaudium (ngày 24 tháng
11, 2013), 95: AAS 105 (2013), 1060.
[64] Summa Theologiae I-II,
q. 107, art. 4.
[65] PHANXICÔ, Bài
giàng trong Thánh Lễ mừng Năm Thánh của Những Người Bị Xã Hội Khai Trừ (13
tháng 11, 2016): L’Osservatore Romano, 14-15 tháng 11, 2016, p. 8.
[66] X. Bài Giảng trong Thánh Lễ ở Casa Santa Marta,
ngày 9 tháng 6, 2014: L’Osservatore Romano, 10 Tháng 6, 2014, t.
8.
[67] Thứ tự của Mối Phúc
thứ hai và thứ ba thay đổi tuỳ theo truyền thống văn bản.
[68] Linh Thao -
Spiritual Exercises, 23d.
[69] Thảo Bản -
Manuscript C, 12r.
[70] Từ thời các giáo phụ,
Hội Thánh đã tôn trọng ơn khóc lóc, như được thấy trong kinh “Ad petendam
compunctionem cordis”. Được đọc thế này: “Lạy Thiên Chúa Toàn Năng và
rất hay thương xót, Đấng đã làm vọt ra nước hằng sống từ tảng đá cho dân đang
khát nước của Chúa: xin làm chảy ra nước mắt và lòng thống hối từ sự cứng lòng
của chúng con, để chúng con đau buồn vì tội lỗi mình, và nhờ lượng từ bi Chúa,
chúng con được tha thứ” (X. Missale Romanum, ed. typ. 1962, t.
[110]).
[71] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 1789; X.
1970.
[72] Ibid., 1787.
[73] Gièm pha và nói hành
là những hành động khủng bố: một quả bom được tung ra, nó nổ, và kẻ tấn công
bình thản và hài lòng bỏ đi. Điều này hoàn toàn khác với sự cao quý của
những người nói với người khác giáp mặt, chân thành và thẳng thắn, vì thật sự
quan tâm đến sự tốt lành của người ấy.
[74] Đôi khi, có thể cần
phải nói về những khó khăn cùa một anh chị em nào đó. Trong những trường
hợp như thế, điều có thể xảy ra là người ta truyền lại một cắt nghĩa thay vì một
dữ kiện khách quan. Tình cảm có thể làm cho hiểu sai hay
thay đổi các dữ kiện, và cuối cùng nó được chuyền đi và được pha thêm với những
yếu tố chủ quan. Bằng cách này, chính các dữ kiện hoặc sự thật không được
tôn trọng.
[75] Tông Huấn, Evangelii Gaudium (ngày 24 tháng
11, 2013), 218: AAS 105 (2013), 1110.
[76] Ibid., 239: 1116.
[77] Ibid., 227: 1112.
[78] Thông Điệp Centesimus Annus (ngày 1 tháng 5,
1991), 41c: AAS 81 (1993), 844-845.
[79] Tông Thư Novo Millennio Ineunte (ngày 6 tháng
1, 2001), 49: AAS 93 (2001), 302.
[81] Tự Sắc Misericordiae Vultus (ngày
11 tháng 4, 2015), 12: AAS 107 (2015), 407.
[82] Chúng ta có thể nhớ
lại phản ứng của người Samaritanô nhân từ khi gặp người bị cướp tấn công và bỏ
cho chết (X. Lc 10,30-37).
[83] UỶ BAN XÃ HỘI CỦA HỘI
ĐỒNG GIÁM MỤC CÔNG GIÁO CANAĐA, Thư Ngỏ gửi các Thành Viên Quốc Hội, Công
Ích hay Loại Trừ: Một Chọn Lựa cho người Canađa (ngày 1 tháng 2,
2001), 9.
[84] Đại Hội Thường Kỳ của
các Giám Mục Châu Mỹ Latinh và Caribbê, khi vang vọng lại giáo huấn cố hữu của
Hôi Thánh, đã nói rằng con người “luôn luôn thánh thiêng, từ lúc thụ thai, ở tất
cả các giai đoạn của cuộc sống, cho đến khi chết tự nhiên, và sau khi chết”, và
cuộc sống ấy phải được bảo vệ “bắt đầu từ khi thụ thai, trong mọi giai đoạn của
nó, cho đến lúc chết tự nhiên” (Tái liệu Aparecida, ngày 29
tháng 6, 2007, 388; 464).
[85] Quy Luật, 53,
1: PL 66, 749.
[86] X. ibid., 53, 7: PL
66, 750.
[87] Ibid., 53, 15: PL
66, 751.
[88] Tự Sắc Misericordiae Vultus (ngày 11
tháng 4, 2015), 9: AAS 107 (2015), 405.
[90] Tông Huấn Hậu Thương
Hội Đồng Giám Mục Amoris Laetitia (ngày 19 tháng 3,
2016), 311: AAS 108 (2016), 439.
[91] Tông Huấn Evangelii Gaudium (ngày 24 tháng
11, 2013), 197: AAS 105 (2013), 1103.
[92] X. Summa
Theologiae, II-II, q. 30, a. 4.
[93] Ibid., ad 1.
[94] Được trích (trong bản
dịch Tây Ban Nha) trong: Cristo en los Pobres, Madrid, 1981, 37-38.
[95] Có một số hình thức
bắt nạt, trong khi có vẻ thanh nhã hay tôn trọng và thậm chí rất tâm linh, gây
ra thiệt hại lớn cho sự tự trọng của người khác.
[96] Những Đề Phòng -
Precautions, 13.
[97] Ibid., 13.
[98] X. Nhật Ký Lòng
Thương Xót trong Linh Hồn tôi, Stockbridge, 2000, t. 139 (300).
[99] TÔMA AQUINÔ, Tổng
Lược Thần Học, I-II, q. 70, a. 3.
[100] Tông Huấn Evangelii Gaudium (ngày 24 tháng
11, 2013), 6: AAS 105 (2013), 1221.
[101] Tôi đề nghị cầu nguyện
bằng kinh được cho là của Thánh Tôma More: “Lạy Chúa, xin ban cho con trí lĩnh
hội, và cả điều để lĩnh hội. Xin cho con thân thể khỏe mạnh, và tính hài
hước tốt đẹp cần thiết để giữ sức khỏe đó. Xin cho con một linh hồn đơn sơ biết
quý tất cả những gì tốt đẹp, đừng dễ dàng sợ hãi trước mặt sự dữ, nhưng biết
tìm cách đặt lại mọi chuyện vào đúng chỗ của nó. Xin cho con một linh hồn
không buồn chán, không càu nhàu, thở dài hay than van, cũng không căng thẳng
quá độ, vì những điều này ngăn cản một chuyện: Con chính là ‘Con’. Lạy Chúa,
xin cho con một trí hài hước tốt đẹp. Xin cho con ơn có thể nói một câu đùa để
tìm được chút vui vẻ trong đời, và có thể chia sẻ niềm vui đó với người khác”.
(Bản dịch trích trong Conggiao.info).
[102] Tông Huấn Hậu
Thượng Hội Đồng Giám Mục Amoris Laetitia (ngày 19 tháng 3,
2016), 110: AAS 108 (2016), 354.
[103] Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8 tháng 12,
1975), 80: AAS 68 (1976), 73. Điều đáng lưu ý là bản văn này của Chân Phước
Phaolô VI liên kết chặt chẽ niềm vui với dũng cảm (parrhesía).
Trong khi than phiền về sự “thiếu niềm vui và hy vọng” như một trở ngại cho
viẽc Phúc Âm hoá, ngài đề cao “niềm vui thú vị và an ủi của việc Phúc Âm hoá”,
được nối kết với “sự hăng say nội tâm mà không ai hay không gì có thể dập tắt
được”. Điều này đảm bảo rằng thế gian không nhận được Tin Mừng từ “những người
rao giảng Tin Mừng buồn nản [và] thất vọng”. Trong Năm Thánh 1975, Đức Phaolô đã
dành Tông Huấn Gaudete in Domino của ngài cho niềm
vui (9 tháng 5, 1975): AAS 67 (1975), 289-322.
[104] Những Đề Phòng - Precautions,
15.
[105] GIOAN PHAOLÔ II,
Tông Huấn Vita Consecrata (ngày 25 tháng 3,
1996), 42: AAS 88 (1996), 416.
[106] Tự Thú -
Confessiones, IX, 10, 23-25: PL 32, 773-775.
[107] Tôi đặc biệt nghĩ đến
ba từ “làm ơn”, “cám ơn”, và “xin lỗi”. “Những lời nói đúng lúc, hằng
ngày bảo vệ và nuôi nấng tình yêu”: Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục
Amoris Laetitia (ngày 19 tháng 3,
2016), 133: AAS 108 (2016), 363.
[108] TÊREXA HÀI ĐỒNG
GIÊSU, Thảo Bản C, 29 v-30r.
[109] Các mức độ Hoàn
Thiện, 2.
[110] ID., Các Lời
Khuyên một Tu Sĩ làm sao để Đạt Đến Hoàn Thiện, 9.
[111] Tự Thuật -
Autobiography, 8, 5.
[112] GIOAN PHAOLÔ II,
Tông Thư Orientale Lumen (2 tháng 5, 1995),
16: AAS 87 (1995), 762.
[113] Gặp Gỡ các Tham Dự Viên Đại Hội Giáo Hội Ý Đại Lợi Lần
Thứ Năm, Florence, (ngày 10 tháng 11, 2015): AAS 107
(2015), 1284.
[114] X. BERNARĐÔ CLAIRVAUX, Các
bài gảing về sách Nhã Ca (Canticum Canticorum), 61, 3-5: PL 183:1071-1073.
[115] Con đường của một
khách hành hương - The Way of a Pilgrim, New York, 1965, tt. 17, 105-106.
[116] X. Linh Thao
- Spiritual Exercises, 230-237.
[117] Thư gửi Henry de
Castries, 14 Tháng 8, 1901.
[118] ĐẠI HỘI THƯỜNG KỲ
CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBBÊ, Tài liệu Aparecida (ngày
29 tháng 6, 2007), 259.
[119] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
CÔNG GIÁO ẤN ĐỘ, Tuyên Ngôn Kết Thúc Đại Hội Thường Kỳ lần Thứ Hai Mươi
Mốt, ngày 18 tháng 2, 2009, 3.2.
[120] X. Bài giảng trong Thánh Lễ ở Casa Santa Marta,
11 tháng 10, 2013: L’Osservatore Romano, 12 tháng 10,
2013, p. 2.
[121] X. PHAOLÔ VI, Bài
Giáo Lý, Triều Yết Chung ngày 15 tháng 11, 1972: Insegnamenti X
(1972), tt. 1168-1170: “Một trong các nhu cầu lớn nhất của chúng ta là
phòng thủ chống lại sự dữ mà chúng ta gọi là quỷ dữ… Sự dữ không đơn thuần là một
sự khiếm khuyết nhưng là một năng lực, một hữu thể tinh thần sống động, bị hư hỏng
và làm cho người khác ra hư hỏng. Một thực thể khủng khiếp, bí nhiệm và
đáng sợ. Những ai từ chối nhìn nhận sự hiện hữu của nó, hoặc biến nó thành một
nguyên lý độc lập không bắt nguồn từ Thiên Chúa như các thụ tạo khác, hoặc giải
thích nó như một nguỵ thực tại, một việc nhân cách hoá những nguyên nhân ẩn
tàng của các sự bất hạnh của chúng ta. Những người ấy không còn ở trong
phạm vi giáo huấn của Thánh Kinh và Hội Thánh nữa”.
[122] JOSÉ GABRIEL DEL
ROSARIO BROCHERO, “Plática de las banderas”, in CONFERENCIA EPISCOPAL
ARGENTINA, El Cura Brochero. Cartas y sermones, Buenos Aires,
1999, 71.
[123] Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11,
2013), 85: AAS 105 (2013), 1056.
[124] Mộ phần của Thánh
Ignatiô Loyola có khắc hàng chữ khiến chúng ta phải suy nghĩ này: Non
coerceri a maximo, conteneri tamen a minimo divinum est (“Không bị điều
lớn nhất giam giữ, nhưng được chứa đựng trong điều nhỏ nhất, là thuộc về Thiên
Chúa”).
[125] Collationes in
Hexaemeron, 1, 30.