TÔNG HUẤN HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG
QUERIDA AMAZONIA
(AMAZON YÊU QUÝ)
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
GỬI DÂN CHÚA
VÀ TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI THIỆN CHÍ
1. Amazon yêu
quý toát lên ánh rạng ngời, nét kịch tính và huyền bí của mình cho thế giới.
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ơn trình bày vùng đất ấy một cách đặc biệt trong
Thượng Hội đồng ở Rôma, từ ngày 6 đến ngày 27 tháng 10 và đã kết thúc với một
Tài liệu có nhan đề: Amazon: những lối đi mới cho Giáo hội và cho một
nền sinh thái toàn diện.
Ý nghĩa của Tông huấn này
2. Tôi đã
lắng nghe những bài tham luận trong suốt Thượng Hội đồng và thích thú đọc những
bản tường trình của các nhóm nhỏ. Qua Tông huấn này, tôi muốn trình bày những
điều mà tiến trình đối thoại và phân định trong Thượng Hội đồng đã âm vang nơi
tôi. Ở đây tôi sẽ không khai triển tất cả các vấn đề đã được nói đến nhiều
trong Tài liệu đúc kết, cũng không hề có ý định thay thế hay lặp lại Tài liệu
đó. Tôi chỉ muốn đưa ra những suy tư ngắn gọn về thực tại của vùng Amazon, một
tổng hợp về những mối quan tâm lớn để giúp đỡ và định hướng cho việc tiếp nhận
toàn bộ tiến trình Thượng Hội đồng cách hài hoà, sáng tạo và có hiệu quả.
3. Đồng thời
tôi cũng muốn chính thức giới thiệu Tài liệu đúc kết của Thượng Hội đồng, một
tài liệu có sự đóng góp của rất nhiều người am hiểu những vấn đề của vùng
Amazon hơn tôi và hơn cả giáo triều Rôma, bởi vì nơi vùng đất ấy họ sống, họ
đau khổ và họ yêu mến. Tôi không muốn đưa Tài liệu đúc kết vào Tông huấn này vì
tôi muốn mời mọi người đọc toàn bộ Tài liệu đó.
4. Thiên Chúa
muốn toàn thể Giáo hội để cho Tài liệu ấy phong phú hoá và chất vấn mình; Ngài
muốn các mục tử, những người sống đời thánh hiến và các tín hữu của vùng Amazon
dấn thân áp dụng và mong sao Tài liệu ấy, một cách nào đó, gợi hứng cho tất cả
những người thiện chí.
Những ước mơ về Amazon
5. Vùng
Amazon là một tổng thể đa dân tộc liên kết với nhau, một quần thể vĩ đại bao
gồm chín quốc gia: Braxin, Bôlivia, Colômbia, Êcuađor, Guyan, Pêru, Surinam,
Vênêzuêla và Guyan thuộc Pháp. Tuy nhiên, tôi cũng muốn gửi Tông huấn này cho
thế giới. Tôi làm thế, một mặt, nhằm giúp thức tỉnh lòng yêu mến và mối quan
tâm đến miền đất này, cũng là miền đất “của chúng ta” đồng thời mời gọi mọi
người chiêm ngưỡng và nhận ra miền đất này như một huyền nhiệm thánh thiêng;
mặt khác, vì sự lưu tâm của Giáo hội đến những vấn đề ở nơi này buộc chúng ta
phải nhắc lại sơ lược một số vấn đề mà chúng ta không được phép bỏ qua, và có
thể gợi hứng cho các khu vực khác đang phải đối mặt với những thách đố của
riêng mình.
6. Tất cả
những gì Giáo hội đề nghị phải được thâm nhập vào từng nơi trên thế giới theo
cách thế riêng, sao cho Hiền Thê của Đức Kitô thể hiện rõ nét hơn sự phong phú
vô hạn của ân sủng trong muôn hình vạn trạng. Lời rao giảng phải được nhập thể,
linh đạo phải được nhập thể, cơ cấu của Giáo hội phải được nhập thể. Vì thế,
trong Tông huấn ngắn gọn này, tôi xin phép trình bày bốn ước mơ lớn mà vùng
Amazon truyền cảm hứng cho tôi.
7. Tôi mơ
một Amazon biết đấu tranh cho quyền lợi của những người nghèo nhất, những người
thổ dân, những người rốt hết, một nơi mà tiếng nói của họ được lắng nghe và
phẩm giá của họ được thăng tiến.
Tôi mơ một Amazon biết bảo vệ sự phong phú về văn hoá độc
đáo của nó, nơi vẻ đẹp của con người được toả sáng trong muôn ngàn hình thái
khác nhau.
Tôi mơ một Amazon biết giữ gìn vẻ đẹp tự nhiên tuyệt mỹ tô
điểm cho nó, giữ gìn sự sống đầy tràn chan chứa những dòng sông và những cánh
rừng.
Tôi mơ những cộng đoàn Kitô hữu biết quảng đại dấn thân và
nhập cuộc trong vùng Amazon, mang đến cho Giáo hội những khuôn mặt mới với
những nét đặc trưng của vùng này.
CHƯƠNG MỘT
ƯỚC MƠ XÃ HỘI
8. Chúng ta
ước mơ Amazon là miến đất dung nạp và thăng tiến mọi cư dân bản địa, để họ có
thể ổn định một “cuộc sống tốt đẹp”. Muốn được như vậy, cần gióng lên tiếng nói
ngôn sứ và dấn thân hành động vì những người nghèo khổ nhất. Bởi vì, ngay cả
khi Amazon phải đối mặt với một thảm hoạ sinh thái, thì cũng cần nhấn mạnh rằng
“cách tiếp cận sinh thái thực sự luôn phải là cách tiếp cận xã hội, phải đưa
công lý vào các cuộc thảo luận về môi trường, để lắng nghe muôn vàn tiếng kêu
la của trái đất cũng như tiếng khóc than của người nghèo”1. Chúng ta không cần
một chủ nghĩa bảo thủ “chỉ quan tâm đến địa-sinh-học (biome/bioma) mà không
màng chi đến người dân Amazon”2.
Bất công và tội ác
9. Quyền lợi
của thực dân đã mở rộng – một cách hợp pháp và bất hợp pháp – ngành khai thác
gỗ và công nghiệp khoáng sản, cùng với việc xua đuổi và gạt bỏ người dân bản
địa, người sống ở ven sông và người gốc châu Phi, gây nên tiếng khóc than vang
tới trời cao:
“Muôn cây xanh hỡi
Nơi ngươi cư ngụ đã bị tra tấn
Và bạt ngàn rừng xanh
Đã được mua bởi hàng vạn xác chết”3.
“Những kẻ buôn gỗ có chân trong quốc hội
và Amazon của chúng ta chẳng một ai bảo vệ […].
Đàn vẹt và bầy khỉ bị lưu lạc khắp chốn […]
Sẽ chẳng bao giờ trở về hái dẻ nơi xưa”4.
10. Điều này
đã đẩy các phong trào di dân gần đây của người bản địa ra vùng ngoại vi thành
phố. Nơi đó, họ không thực sự được giải thoát khỏi những bi kịch, mà còn gặp
phải những hình thức nô lệ, ràng buộc, khốn khổ tệ hại hơn. Tại những thành phố
ấy, với nét đặc trưng là sự bất bình đẳng, nơi cư ngụ của phần lớn người dân
Amazon hiện nay, chính sách bài ngoại, nạn khai thác tình dục và nạn buôn người
cùng gia tăng. Bởi thế, tiếng thét gào của Amazon không chỉ phát ra từ giữa
cánh rừng, mà còn ngay giữa lòng các thành phố.
11. Chẳng cần
lặp lại ở đây những phân tích sâu rộng và đầy đủ, đã được trình bày trước và
trong Thượng Hội đồng. Chúng ta hãy nhớ lại ít nhất một điều đã được nghe:
“Chúng tôi bị ảnh hưởng bởi các nhà buôn gỗ, các chủ trang trại và các bên môi
giới khác. Chúng tôi bị đe doạ bởi các nhà kinh tế, họ thực hiện một mô hình
nước ngoài trong lãnh thổ của chúng tôi. Các công ty gỗ đã vào khai thác rừng,
trong khi chúng tôi bảo vệ rừng cho con cái chúng tôi, vì ở đó chúng tôi có
thịt, cá, thảo dược, cây ăn trái […]. Việc xây dựng các công trình thủy điện và
các dự án đường thủy tác động đến sông ngòi và đất liền […]. Chúng tôi là một
vùng lãnh thổ bị đánh cắp”5.
12. Đức
Bênêđictô XVI, vị tiền nhiệm của tôi đã tố cáo “môi trường Amazon bị hủy diệt
và phẩm giá con người của các dân tộc sinh sống ở đó bị đe doạ”6. Tôi muốn nói
thêm rằng, có rất nhiều thảm kịch liên quan đến một thứ “Amazon huyền bí” giả
mạo. Được biết, trong những thập niên cuối thế kỷ vừa qua, vùng Amazon đã được
xem như một khoảng trống lớn cần được xử lý, một nguồn tài nguyên nguyên sơ cần
được khai thác, một vùng hoang dã bạt ngàn cần được thuần hoá. Không một ai
công nhận quyền của những người dân bản địa, hoặc chỉ là phớt lờ họ như thể họ
không tồn tại, hoặc như thể những vùng đất mà họ sinh sống không thuộc về họ.
Ngay cả trong các chương trình giáo dục dành cho các trẻ em và thanh thiếu niên,
những người bản địa đã bị coi là người xâm nhập hoặc chiếm đoạt. Cuộc sống của
họ, những bận tâm của họ, cách đấu tranh để sinh tồn của họ chẳng được ai quan
tâm. Họ bị coi là một trở ngại cần phải loại bỏ hơn là những con người có phẩm
giá và có các quyền như bất cứ người nào khác.
13. Một số
khẩu hiệu đã góp phần vào sự mập mờ này, trong đó có khẩu hiệu “không nhượng
bộ”7, như thể sự chiếm đoạt chỉ có thể là do các nước ngoài; trong khi chính
quyền địa phương, lấy cớ phát triển, đã tham gia vào các hiệp ước để hủy diệt
rừng cùng muôn loài sinh sống trong đó một cách vô tội vạ và không giới hạn.
Những người dân bản địa đã nhiều lần bất lực chứng kiến sự tàn phá môi trường
tự nhiên này, vốn là nơi cung cấp thực phẩm, chữa bệnh, sinh tồn và bảo tồn lối
sống cũng như một nền văn hoá mang bản sắc và ý nghĩa đối với họ. Chênh lệch
quyền lực là rất lớn, kẻ yếu thế không có phương tiện để tự vệ, trong khi người
chiến thắng vẫn tiếp tục lấy đi mọi thứ. “Người nghèo vẫn hoàn nghèo, trong khi
người giàu ngày càng giàu hơn”8.
14. Các doanh
nghiệp, quốc gia hay quốc tế, hủy diệt vùng Amazon và không tôn trọng quyền của
các dân tộc bản địa trên lãnh thổ với ranh giới của họ, quyền tự quyết và được
thoả thuận trước của họ, như vậy phải gọi đúng đó là những bất công và
tội ác. Khi một số công ty dễ dàng chiếm dụng đất và dẫn đến việc tư nhân
hoá ngay cả nước uống, hoặc khi chính quyền bật đèn xanh cho các ngành công
nghiệp gỗ, các dự án khai thác mỏ hoặc dầu khí và các hoạt động khác tàn phá
rừng và gây ô nhiễm môi trường, thì các mối quan hệ kinh tế bị biến thái nghiêm
trọng và trở thành công cụ hủy diệt. Họ thường sử dụng các biện pháp phi đạo
đức, như trừng phạt các cuộc biểu tình và thậm chí tước đoạt mạng sống của
người dân bản địa chống đối các dự án; họ cố tình gây cháy rừng, hoặc hối lộ
các chính trị gia và cả những người dân bản địa. Cùng với điều này là việc vi
phạm nghiêm trọng quyền con người và những hình thức nô lệ mới, cách riêng đối
với người phụ nữ, nạn buôn bán ma túy được sử dụng cố ý để thống trị người dân
bản địa, hoặc nạn buôn người muốn lợi dụng những người bị xua đẩy khỏi bối cảnh
văn hoá của họ. Chúng ta không thể cho phép toàn cầu hoá trở thành “một kiểu
thực dân mới” 9.
Phẫn nộ và xin tha thứ
15. Cần phải
biết phẫn nộ10, như Môsê đã phẫn nộ (cf. Xh 11,8), như Chúa
Giêsu đã phẫn nộ (cf. Mc 3,5), như Thiên Chúa đã phẫn nộ trước
sự bất công (cf. Am 2,4-8; 5,7-12; Tv 106,40).
Thật là điều không tốt khi chúng ta xơ cứng trước sự ác, chúng ta không được
phép để lương tâm tê liệt trước vấn đề xã hội, trong khi “những khai thác hoang
phí và chết chóc trong các vùng đất của chúng ta […] gây nguy hiểm cho sự sống
của hàng ngàn người và đặc biệt là môi trường sống của nông dân và người bản
địa”11. Những câu chuyện về sự bất công và tàn ác xảy ra trong vùng Amazon,
diễn ra trong thế kỷ trước, đã khơi dậy một phản kháng sâu xa, và đồng thời
cũng khiến chúng ta nhạy cảm hơn trong việc nhận ra những hình thức bóc lột,
lạm dụng quyền lực và giết người hiện nay. Liên quan đến quá khứ đáng xấu hổ,
chúng ta ghi nhận, như ví dụ điển hình, một chuyện kể về những nỗi khốn khổ của
người dân bản địa trong thời khai thác cao su ồ ạt thuộc khu vực Vênêzuêla vùng
Amazon: “Họ không trả tiền cho người bản địa, mà chỉ trả bằng hàng hoá với giá
cao, mà người dân không bao giờ dứt được nợ […]. Hoặc họ trả tiền, nhưng nói
với người bản địa rằng: “Anh có một khoản nợ khổng lồ”, và người bản địa phải
quay lại làm việc cho họ […]. Hơn hai mươi ngôi làng ye’kuana đã
hoàn toàn bị phá hủy. Phụ nữ ye’kuana đã bị hãm hiếp và bị cắt
hết ngực, các phụ nữ mang thai phải phá bỏ. Đàn ông bị cắt các ngón tay hoặc
ngón cái để không thể chèo thuyền được, […] cùng những cảnh tượng khác tàn bạo
hết sức phi lý”12.
16. Lịch sử
đau thương và đáng chê trách này không dễ được chữa lành. Và chính sách thực
dân không hề ngưng nghỉ, mà biến thể ở một số nơi, được ngụy trang và che giấu,13 và
vẫn thống trị cuộc sống của người nghèo và tàn phá môi trường. Các Giám mục
Braxin ở Amazon đã lưu ý rằng “lịch sử của Amazon cho thấy, luôn luôn chỉ có
một thiểu số hưởng lợi từ sự nghèo đói của đa số và từ sự cướp bóc vô đạo đức
tài nguyên thiên nhiên của khu vực, vốn là quà tặng Chúa ban cho các dân tộc
sinh sống ở đó từ những ngàn năm qua, và cho những người nhập cư vào những thế
kỷ trước”14.
17. Trong khi
có thể bày tỏ phẫn nộ cách lành mạnh, hãy nhớ rằng chúng ta luôn có thể thắng
vượt các hình thức não trạng thực dân hoá để xây dựng những mạng lưới liên đới
và phát triển. “Thách đố của chúng ta là làm sao bảo đảm việc toàn cầu hoá
trong sự liên đới, một toàn cầu hoá mà không loại trừ”15. Có thể có các lựa
chọn thay thế như: chăn nuôi và nông nghiệp bền vững, tạo nguồn năng lượng
không gây ô nhiễm, nguồn lao động xứng hợp không tác động đến sự hủy diệt môi
trường và văn hoá. Đồng thời, phải bảo đảm cho người bản địa và người nghèo
nhất được hưởng nền giáo dục phù hợp, nhằm phát triển khả năng và giá trị của
họ. Đây chính là những mục tiêu mà các nhà chính trị khôn ngoan và chân chính
phải nhắm tới. Vấn đề không phải là làm sao phục hồi sự sống cho nạn nhân vốn
đã chết, cũng không phải là bồi thường cho những người sống sót sau những vụ
thảm sát đó, mà là làm thế nào để hôm nay chúng ta thực sự sống cách nhân bản
nhất.
18. Như thế
thật đáng để nhắc lại, trong hoàn cảnh thực dân hoá hết sức nghiêm trọng đầy
“những mâu thuẫn và thương tổn”16, của vùng Amazôn, vẫn có rất nhiều những nhà
truyền giáo mang Tin Mừng đến, họ bỏ lại quê hương mình và chấp nhận một cuộc
sống khắc khổ và khó khăn, ở bên cạnh những người dễ bị tổn thương nhất. Chúng
tôi biết không phải tất cả họ là những người mẫu mực, nhưng công việc của những
người trung thành với Tin Mừng cũng đã gợi hứng thiết lập “một đạo luật như
Luật về cư dân bản địa, là luật bảo vệ phẩm giá của người bản địa, chống lại
mọi lạm dụng đối với người dân và lãnh thổ của họ”17. Chính các linh mục thường
là những người bảo vệ người bản địa khỏi những kẻ tấn công và trục lợi. Đó là
lý do các nhà truyền giáo thuật lại rằng: “Họ nài nỉ chúng tôi đừng bỏ họ và họ
buộc chúng tôi hứa sẽ trở lại”18.
19. Ngày nay,
Giáo hội không thể xem nhẹ sự dấn thân và Giáo hội được mời gọi lắng nghe tiếng
kêu của người dân Amazon “để có thể thực hiện một cách sáng tỏ vai trò ngôn sứ
của mình”19. Đồng thời, chúng ta không thể phủ nhận lúa đã bị trộn lẫn với cỏ
lùng và các nhà truyền giáo không phải lúc nào cũng đứng về phía người bị áp
bức. Tôi xấu hổ vì điều đó và một lần nữa “tôi khiêm tốn cầu xin tha thứ, không
chỉ vì những xúc phạm của chính Giáo hội, mà còn vì các tội ác chống lại người
thổ dân trong thời gian được gọi là cuộc chinh phục châu Mỹ”20 và tha thứ
cho các tội ác ghê tởm trong suốt lịch sử của Amazon. Tôi cám ơn các thành viên
của các dân tộc bản địa, và tôi nhắc lại một lần nữa: “Anh chị em cùng với cuộc
sống của anh chị em là một tiếng kêu thấu đến lương tâm […]. Anh chị em là ký
ức sống động về sứ mệnh mà Thiên Chúa đã trao cho tất cả chúng ta: hãy bảo vệ
Ngôi Nhà chung”21.
Ý thức cộng đồng
20. Cuộc đấu
tranh xã hội hàm chứa một khả năng sống huynh đệ, một tinh thần hiệp thông giữa
con người với nhau. Tinh thần đó không làm giảm tính chất quan trọng của tự do
cá nhân, ở đây ta nhận thấy các dân tộc bản địa Amazon có một ý thức cộng đồng
mạnh mẽ. Mọi sinh hoạt của họ như “làm việc, nghỉ ngơi, tương quan, thực hành
nghi lễ và các cử hành, tất cả đều được chia sẻ, vì thế, những không gian riêng
tư, tiêu biểu của lối sống hiện đại, là tối thiểu. Cuộc sống là một hành trình
cộng đồng, trong đó bổn phận và trách nhiệm được phân phối và chia sẻ theo lợi
ích chung. Người ta không có quan niệm một cá nhân lại tách biệt khỏi cộng đồng
hoặc lãnh thổ của họ”22. Các mối quan hệ nhân văn được hoà quyện trong khung
cảnh thiên nhiên, vì họ cảm nhận và hiểu rằng đó là một thực tại hài hoà với xã
hội và văn hoá, như một sự nối dài của thân thể cá nhân, gia đình và cộng đồng
của họ.
“Sao mai kia tiến đến thật gần
Những chú chim ruồi vồ vỗ cánh bay
Trái tim tôi lay mạnh như thác nước đổ
Đất bổ tôi tưới bằng đôi môi bạn
Hồ hởi tung tăng gió đùa với ta”23.
21. Điều đó
càng làm cho người thổ dân cảm thấy hoang mang và khó chịu vì bị trốc cội rễ
khi họ bị buộc phải di cư đến thành phố để sinh sống. Họ cố gắng để sống giữa
một môi trường đối nghịch, gượng ép giữa những người dân thành thị với những
tập quán mang tính riêng tư cá thể. Làm thế nào để chữa lành một tổn thương
nghiêm trọng như thế? Làm sao để xây dựng lại cuộc sống của những con người đã
bị nhổ tận gốc? Trước thực tế đó, chúng ta phải biết quý trọng và cộng tác với
tất cả những nỗ lực của các tổ chức xã hội, nhằm bảo tồn các giá trị và lối
sống của dân bản địa, cũng như giúp họ hoà nhập vào các bối cảnh mới mà không
đánh mất chính mình, thay vào đó, đóng góp cho lợi ích chung.
22. Đức Kitô
đã cứu độ con người toàn thể, Người muốn khôi phục nơi mỗi người khả năng sống
tương quan với những người khác. Tin Mừng trao ban cho ta tình yêu Thiên Chúa
tuôn tràn từ Trái Tim Đức Kitô, là một tình yêu thúc đẩy chúng ta tìm kiếm công
lý, vốn không tách biệt với tình huynh đệ và liên đới, thúc đẩy thăng tiến nền
văn hoá gặp gỡ. Sự khôn ngoan theo lối sống của các dân bản địa, mặc dầu còn
nhiều giới hạn, thúc đẩy chúng ta đào sâu khát vọng này. Vì lẽ đó, các Giám mục
Êcuađor đã kêu gọi xây dựng “một hệ thống xã hội và văn hoá mới, ưu tiên cho
những tương quan huynh đệ, trong khuôn khổ công nhận và quý trọng các nền văn
hoá và hệ sinh thái khác nhau, có khả năng chống lại mọi hình thức kỳ thị và
thống thị của con người đối với con người”24.
Các cơ chế xuống cấp
23. Trong
Thông điệp Laudato si’, tôi đã lưu ý rằng “ Nếu mọi sự đều liên
kết với nhau, thì tình trạng các cơ chế của một xã hội cũng ảnh
hưởng nhiều đến môi trường và phẩm chất cuộc sống con người […]. Trong
từng cấp bậc xã hội và giữa các cấp bậc ấy, các định chế chi phối các mối
liên hệ con người được phát triển. Bất cứ điều gì thuộc định kiến thấm nhiễm
trong các thể chế đó đều có hậu quả tai hại: đánh mất tự do, gây ra bất
công và bạo lực. Nhiều quốc gia bị chi phối bởi một hệ thống thể chế bấp
bênh, phải trả giá bằng sự đau khổ của người dân”25.
24. Tình trạng
các tổ chức xã hội dân sự ở Amazon như thế nào? Tài liệu làm việc của
Thượng Hội đồng thu thập những đóng góp của nhiều người và nhiều nhóm thuộc
vùng Amazon, trong đó người ta nói đến “một nền văn hoá được tạo ra như thế là
để đầu độc Nhà nước và các định chế của nó, thấm nhiễm mọi tầng lớp xã hội, kể
cả các cộng đồng bản địa. Đây thực sự là một tai hoạ đạo đức; kết quả là họ
không còn tin vào các định chế và các đại diện của họ, nền chính trị và các tổ
chức xã hội hoàn toàn mất uy tín. Các dân tộc Amazon không xa lạ gì với nạn
tham nhũng và họ cũng trở thành nạn nhân chính của tham nhũng26.
25. Chúng ta
không loại trừ khả năng có thể các thành viên của Giáo hội cũng tham dự vào
mạng lưới tham nhũng, đến mức đôi khi chấp nhận im lặng để đổi lấy những trợ
giúp kinh tế cho các công trình của Giáo hội. Về vấn đề này, các đề nghị đã
được gửi tới Thượng Hội đồng kêu gọi “đặc biệt chú ý đến nguồn gốc của các
quyên góp hoặc các loại phúc lợi khác, cũng như các khoản đầu tư từ các tổ chức
Giáo hội hoặc từ các Kitô hữu”.27
Đối thoại xã hội
26. Vùng
Amazon cũng phải là nơi của đối thoại xã hội, đặc biệt giữa các dân tộc bản địa
khác nhau, để có được những cách thức sống hiệp thông và liên minh đấu tranh.
Còn chúng ta và tất cả những người khác, được mời gọi tham gia với tư cách là
“những vị khách”, để tìm kiếm những phương thế gặp gỡ dựa trên sự tôn trọng cao
nhất, hầu làm cho vùng Amazon được phong phú. Nhưng nếu muốn đối thoại, chúng
ta phải làm điều này trước hết với những người nghèo. Họ không phải là đối tác
nào đó cần thuyết phục, cũng không phải là khách thể trong bàn đàm phán. Họ là
những tác nhân đối thoại chính yếu, những người mà trước hết chúng ta phải học
hỏi, phải lắng nghe vì nghĩa vụ công lý và những người mà chúng ta phải xin
phép để có thể từ đó đề xuất ý kiến của chúng ta. Những lời họ nói, những hy
vọng, những e ngại của họ phải là tiếng nói mạnh mẽ nhất trong bất cứ bàn đàm
phán nào về Amazon; và câu hỏi quan trọng ở đây là: họ hình dung như thế nào về
cuộc sống tốt đẹp cho chính họ và con cháu họ?
27. Đối thoại
không được rút gọn chỉ còn là việc chọn lựa ưu tiên cho việc bảo vệ người
nghèo, người bị gạt ra bên lề xã hội và bị loại trừ, nhưng phải kính trọng họ
như những nhân vật chính. Đây là việc nhìn nhận người khác và quý trọng họ “như
họ là tha nhân” khác với ta, họ vốn có cảm thức riêng, ý kiến riêng, cách sống
và cách làm việc riêng. Nếu không, hậu quả, như xưa nay, sẽ là “một kế hoạch do
một ít người soạn cho một ít người”28, khi không có “một sự đồng thuận trên
giấy tờ hay một thứ hoà bình tạm bợ cho một thiểu số mãn nguyện”29. Nếu xảy ra
như thế, thì “cần gióng lên tiếng nói ngôn sứ”30 và người Kitô hữu chúng
ta được mời gọi giúp mọi người nghe được tiếng nói đó.
Từ đây, nảy sinh ước mơ tiếp theo.
CHƯƠNG II
ƯỚC MƠ VĂN HOÁ
28. Điều chúng
ta nhắm đến là thăng tiến vùng Amazon, tuy nhiên điều này không có nghĩa là
thực dân hoá vùng đó về mặt văn hoá, nhưng là giúp nó thể hiện những gì tốt đẹp
nhất của mình. Đây chính là điều mà một công trình giáo dục tốt phải làm: vun
trồng mà không làm bật rễ, làm cho phát triển mà không làm yếu đi bản sắc, trợ
lực mà không xâm lấn. Cũng như trong thiên nhiên có những tiềm năng có thể bị
mất đi vĩnh viễn, cũng thế điều đó có thể xảy ra đối với các nền văn hoá mà
tiếng nói của họ chưa được lắng nghe và ngày nay đang bị đe doạ hơn bao giờ
hết.
Khối đa diện vùng Amazon
29. Vùng
Amazon là nơi có nhiều chủng tộc và quốc gia khác nhau đang sinh sống, trong đó
có hơn 110 sắc dân bản địa đang duy trì lối sống biệt lập tự phát31. Họ sống
trong tình trạng rất bấp bênh, nhiều người cảm thấy họ là những người cuối cùng
nắm giữ kho tàng văn hoá sắp biến mất của sắc tộc mình, như thể họ chỉ được
phép sống còn nếu không gây phiền phức, trong khi việc thực dân hoá thời hậu
hiện đại đang bành trướng. Không được xem họ như là dân man di “kém văn minh”;
cách đơn giản họ chỉ là hậu duệ của những nền văn hoá khác và của những nền văn
minh khác vốn rất phát triển trước đây32.
30. Trước thời
thực dân, thổ dân thường tập trung dọc bên các bờ sông và bờ hồ, nhưng tiến
trình thực dân hoá diễn ra, đã đẩy những cư dân lâu đời này chạy sâu vào rừng.
Ngày nay, tiến trình đô thị hoá (biến đất trồng trọt thành đất ở) lại một lần
nữa đẩy phần lớn họ ra những vùng ven của thành phố, vào những nơi nghèo khổ
cùng cực, nhưng tệ hơn là gây ra sự gãy nứt nội tại nơi cộng đồng của họ qua
việc làm mất đi những giá trị đã từng nâng đỡ họ từ trước đến nay. Trong bối
cảnh đó, họ thường bị mất các điểm tham chiếu, mất đi những gốc rễ văn hoá, vốn
là cội nguồn cho căn tính và ý thức về phẩm giá của họ; rồi dần dà họ bị đẩy ra
thành tầng lớp cùng đinh, đứng ngoài lề xã hội. Điều này cắt đứt dòng chảy của
sự khôn ngoan vốn được chuyển trao trong văn hoá của họ qua các thế kỷ, từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Các thành phố, vốn dĩ phải là nơi mà các nền văn hoá
khác nhau gặp gỡ, trao đổi và làm cho nhau phong phú hơn, lại trở thành nơi đào
thải tàn nhẫn những cuộc đời đau thương.
31. Mỗi sắc
tộc còn tồn tại ở vùng Amazon đều có căn tính văn hoá riêng và đóng góp những
nét phong phú độc đáo cho thế giới đa văn hoá của chúng ta; điều này có được là
do các thổ dân sống gần gũi với môi trường thiên nhiên của họ, một sự cộng sinh
hài hoà mà não trạng của những người ngoài cuộc không thể hiểu được:
“Thuở xưa đã từng có một miền quê êm ả với dòng sông,
muông thú, mây trời và cây cỏ.
Nhưng hôm nay có khi miền quê với dòng sông và cỏ cây ấy không còn nữa,
Thì cậu bé phải hình dung những thứ đó trong trí tưởng”33.
“Hãy biến dòng sông thành máu của bạn…
rồi gieo trồng mình xuống mảnh đất này,
đâm chồi nẩy lộc và lớn lên.
Hãy đâm rễ sâu vào lòng đất,
mãi mãi,
để rồi thành một chiếc ghe, một con thuyền, một cái bè,
thành cây leo, một cái bình sành,
một gia trang và một con người”34.
32. Các nhóm
người, lối sống và tầm nhìn của họ đa dạng như chính mảnh đất họ sống vậy, bởi
vì họ phải thích nghi với địa hình, địa lý và các tài nguyên của đất. Ngư dân
không giống như thợ săn, nông dân vùng lục địa khác với nông dân vùng duyên
hải. Ngay cả ngày nay, chúng ta thấy ở Amazon có hàng ngàn cộng đồng thổ dân
khác nhau, hậu duệ của những người đến từ châu Phi, sống trên các con sông hay
tại các thành phố, rất đa dạng và độc đáo. Nơi mỗi vùng đất với đặc điểm riêng
của nó, Thiên Chúa tự mặc khải cho ta thấy một phần vẻ đẹp khôn tả của Ngài.
Mỗi nhóm người, sống hài hoà với môi trường xung quanh, phát triển sự khôn
ngoan cách riêng biệt. Chúng ta là những người quan sát từ bên ngoài, nên tránh
những nhận định khái quát bất công, theo kiểu “vơ đũa cả nắm”, những lập luận
quá ngây ngô và những kết luận dựa trên não trạng và kinh nghiệm chủ quan của
mình.
Quan tâm chăm sóc cội nguồn
33. Ở đây tôi
muốn chỉ ra rằng “một cách nhìn về con người theo lăng kính tiêu thụ, bị ảnh
hưởng bởi cơ chế kinh tế toàn cầu hoá ngày nay, có tác hại cào bằng các nền văn
hoá, làm giảm thiểu sự đa dạng về văn hoá vốn là kho tàng của nhân loại”35.
Điều này ảnh hưởng trước hết đến người trẻ, bởi vì nó “làm biến mất những khác
biệt về nguồn gốc của họ và thao túng họ như những món hàng của dây chuyền sản
xuất hàng loạt”36. Để tránh xu hướng làm nghèo nàn hoá con người như thế, ta
cần phải yêu mến và bảo vệ các cội nguồn, vì đó là “điểm tựa giúp ta lớn lên và
đối diện với các thách đố mới”37. Cha mời gọi các bạn trẻ vùng Amazon, nhất là
các bạn thổ dân, hãy “đảm nhận lấy cội nguồn của mình, vì nó cho các con sức
mạnh để lớn lên, phát triển và sinh hoa trái”38. Riêng với các bạn đã nhận Phép
Thánh Tẩy, cội nguồn của các con bao gồm lịch sử của dân Israel và lịch sử của
Giáo hội cho tới ngày nay. Hiểu biết về các lịch sử đó làm cho các con có niềm
vui và hy vọng, từ đó các con được gợi hứng để có những hành động bạo dạn và
cao quý.
34. Qua các
thế kỷ, các cư dân vùng Amazon đã lưu truyền sự khôn ngoan của họ bằng cách
truyền khẩu, với những huyền thoại và những câu chuyện; điển hình là có “những
người sơ khai chuyên kể chuyện, đi xuyên các cánh rừng, mang những câu chuyện
đi từ làng này tới làng nọ, giữ cho sức sống cộng đoàn được tiếp tục tuôn chảy;
bởi vì, nếu không có những câu chuyện đó, có tác dụng như là dây rốn thông
truyền sức sống, thì khoảng cách và việc thiếu thốn truyền thông sẽ làm cho
cộng đoàn họ bị phân mảnh và tan biến”39. Đó là lý do tại sao cần “để cho người
già kể những câu chuyện dài”40 và để cho giới trẻ có thời gian kín múc sức
sống từ các câu chuyện đó.
35. Mặc dù kho
tàng văn hoá đó ngày càng có nguy cơ bị đánh mất, nhờ ơn Chúa, trong những năm
gần đây, nhiều bộ tộc đã bắt đầu viết lại những câu chuyện và mô tả ý nghĩa của
các tập tục của họ. Bằng cách này, chính họ nhận thức minh nhiên rằng có điều
gì đó quan trọng hơn cả căn tính chủng tộc, rằng họ là những người lưu giữ
những ký ức cá nhân, gia đình và tập thể, vốn rất quý báu cho toàn thể nhân
loại. Tôi rất vui khi thấy rằng nhiều người, sau khi đã mất nối kết với cội
nguồn của mình, đang đi tìm khôi phục lại những ký ức bị thương tổn. Thêm vào
đó, giới chuyên môn ngày càng ý thức rõ hơn về căn tính độc đáo của vùng
Amazon, và đối với họ, thường là hậu duệ của những người di dân, vùng Amazon đã
trở thành nguồn cảm hứng của nghệ thuật, văn chương, âm nhạc và văn hoá. Những
loại hình nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là thơ ca, đã lấy cảm hứng từ nước và
rừng của vùng đất này; từ sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt, cũng như từ sự đa
dạng văn hoá và những thách đố về sinh thái và xã hội của nó.
Cuộc hội ngộ liên văn hoá
36. Như mọi
thực tại văn hoá, những văn hoá nằm sâu trong vùng Amazon cũng có những giới
hạn của mình. Những văn hoá đô thị Tây phương cũng vậy. Các yếu tố như chủ
nghĩa tiêu thụ, chủ nghĩa cá nhân, sự kỳ thị, sự bất bình đẳng và nhiều điều
khác, đã cấu thành mặt tối của các nền văn hoá được xem là phát triển. Các thổ
dân, những người xây dựng kho tàng văn hoá của mình rất gắn bó với thiên nhiên,
với một cảm thức cộng đồng mạnh mẽ, rất dễ nhận ra mặt tối của chúng ta, điều
mà ta không nhận ra vì nghĩ rằng mình tiến bộ hơn họ. Vì thế, lắng nghe, học
hỏi từ kinh nghiệm sống của họ rất có ích cho chúng ta.
37. Khởi đi từ
cội nguồn của chính mình, chúng ta cùng ngồi vào bàn để trò chuyện và chia sẻ
niềm hy vọng với những người khác. Bằng cách này, sự khác biệt, vốn có thể là
một thứ cờ hiệu hay biên giới, lại được biến thành chiếc cầu nối. Căn tính và
đối thoại không mâu thuẫn nhau. Căn tính văn hoá của ta được đào sâu và trở nên
phong phú nhờ vào việc đối thoại với những người thuộc văn hoá khác; cô lập
chính mình không thực sự bảo toàn căn tính mà làm nghèo nàn đi. Vì thế, tôi
không đề nghị một chính sách bảo vệ thổ dân khép kín, phi lịch sử, cứng nhắc,
từ chối mọi hình thức hợp lưu. Một nền văn hoá có thể trở nên cằn cỗi khi “tự
cô lập chính mình và tìm cách duy trì hình thái sống cũ kỹ, từ chối mọi cuộc
trao đổi hay tranh luận về chân lý của con người”41. Nỗ lực như thế dường như
không thực tiễn, vì ta rất khó tránh các cuộc xâm lấn văn hoá. Vì thế, quan tâm
chăm sóc các giá trị văn hoá của các nhóm thổ dân phải là trách nhiệm của tất
cả chúng ta, vì sự phong phú của họ cũng là của chúng ta. Nếu không tiến bộ
trong tinh thần đồng trách nhiệm này để bảo vệ sự phong phú của nhân loại,
chúng ta không thể đòi các nhóm thổ dân sống sâu trong rừng phải ngây thơ mở ra
với “nền văn minh” của chúng ta, để rồi bị nuốt chửng và tan biến.
38. Ở vùng
Amazon, ngay cả giữa các bộ tộc bản địa khác nhau, vẫn có thể phát triển “các
mối tương quan liên văn hoá, nơi mà sự đa dạng không bị đe doạ, cũng không là
lý do biện minh cho phẩm trật quyền lực của một số người, nhưng là sự đối thoại
giữa các viễn tượng văn hoá khác nhau, bằng việc cử hành, tương tác với nhau và
cùng nhau hồi sinh niềm hy vọng”42.
Các nền văn hoá bị đe doạ, các dân tộc lâm nguy
39. Nền kinh
tế toàn cầu hoá phá huỷ không thương tiếc sự phong phú về nhân bản, xã hội và
văn hoá. Các gia đình bị phân tán như là hệ quả của các cuộc di dân cưỡng bức;
điều này ảnh hưởng đến việc lưu truyền các giá trị, bởi vì “gia đình đã, đang
và luôn là định chế xã hội đóng góp nhiều nhất cho việc giữ gìn văn hoá”43. Hơn
nữa, “đối diện với sự xâm lăng của các phương tiện truyền thông đại chúng”,
chúng ta cần đưa ra “những hình thái truyền thông khác cho các thổ dân, dựa
trên ngôn ngữ và văn hoá của họ” và cần đưa “các chủ đề liên quan đến họ lên
các phương tiện truyền thông hiện hành”44.
40. Trong bất
kỳ dự án nào cho vùng Amazon, “chúng ta cần tôn trọng quyền của các bộ tộc và
các nền văn hoá ở đó, cũng như cần hiểu rằng sự phát triển của một cộng đồng xã
hội […] đòi hỏi chính các tác nhân địa phương phải là những người đi đầu, thực
hiện dự án phù hợp với nét văn hoá riêng của họ. Khái niệm về thế nào là một cuộc
sống chất lượng cũng không nên bị áp đặt từ bên ngoài, nhưng cần được hiểu với
cái nhìn của người trong cuộc, với cả một thế giới các biểu tượng và các tập
quán của từng cộng đồng”45. Và nếu các nền văn hoá của các thổ dân mà tổ tiên
họ để lại được hình thành và phát triển trong mối tương tác mật thiết với môi
trường thiên nhiên xung quanh, thì họ sẽ rất khó bảo toàn văn hoá của họ nếu
như môi trường bị tàn phá.
Vì thế, điều này dẫn chúng ta đến ước mơ tiếp theo.
CHƯƠNG III
ƯỚC MƠ SINH THÁI
41. Trong một thực
thể văn hoá như vùng Amazon, nơi luôn có mối tương quan chặt chẽ giữa con người
và thiên nhiên, thì đời sống hằng ngày luôn mang chiều kích vũ trụ. Giải phóng
con người chắc chắn bao hàm việc chăm sóc và bảo vệ môi sinh46, nhưng hơn nữa
nó còn là việc giúp con người mở lòng ra, tín thác vào Thiên Chúa, Đấng không
chỉ tạo dựng mọi loài mà còn trao ban chính Mình nơi Đức Kitô cho con người.
Thiên Chúa, Đấng săn sóc chúng ta đầu tiên, dạy chúng ta phải biết chăm sóc các
anh chị em khác và chăm sóc môi trường mà Ngài ban tặng cho ta mỗi ngày. Đây là
sinh thái luận đầu tiên mà ta cần có. Với vùng Amazon, chúng ta hiểu rõ hơn lời
của Đức Bênêđictô XVI nói rằng “bên cạnh sinh thái luận tự nhiên có một sinh
thái luận khác mà ta có thể gọi là ‘nhân linh’, đến lượt nó lại đòi hỏi một
‘sinh thái luận xã hội’. Điều này có nghĩa rằng nhân loại […] phải ý thức có
mối liên hệ hiện sinh giữa sinh thái luận tự nhiên, tức là việc tôn trọng thiên
nhiên, với sinh thái luận nhân linh”47. Đối với những vùng đất như Amazon thì
việc nhấn mạnh rằng “mọi thứ đều có liên hệ với nhau”48 thật đúng đắn và
phù hợp.
42. Việc chăm
sóc con người và hệ sinh thái không thể tách rời nhau, điều này càng rõ ràng
hơn nữa ở nơi mà “rừng không được coi như nguồn tài nguyên để khai thác hưởng
lợi, mà là một hữu thể, hay là nhiều hữu thể mà ta phải tương tác”49. Sự khôn
ngoan của các bộ tộc hoang sơ vùng Amazon “gợi hứng việc chăm sóc và tôn trọng
thế giới thụ tạo, ý thức rõ rệt về các giới hạn của nó cũng như cấm lạm dụng
nó. Lạm dụng thiên nhiên có nghĩa là lạm dụng các tiền nhân, các anh chị em
khác, lạm dụng chính Đấng Tạo Hoá, và đánh cược tương lai”50. Các thổ dân, “khi
bám trụ trên lãnh thổ của họ, là những người chăm sóc thiên nhiên tốt nhất”51,
miễn là họ đừng để mình bị lừa gạt bởi những lời đường mật và những lời chào
hàng nguy hiểm của các nhóm quyền lực. Việc phá huỷ thiên nhiên tác động đến họ
trực tiếp và rõ ràng, vì họ nói rằng: “Chúng tôi là nước, khí, đất và là sự
sống của thế giới thụ tạo của Thiên Chúa. Vì thế, chúng tôi xin các vị ngừng
tàn phá và huỷ diệt Mẹ Đất. Trái đất có máu và nó đang chảy máu, các công ty đa
quốc gia đã cắt các mạch máu của Đất Mẹ”52.
Ước mơ về nước
43. Trong vùng
Amazon, nước là nữ vương, các con sông con suối là các mạch máu, và mọi hình
thái sự sống đều bắt nguồn từ đó:
“Ở đó, khi giữa mùa hè nóng như thiêu đốt, khi những đợt
gió đông cuối cùng thổi về, tan loãng vào bầu khí tù hãm, thì cái ẩm kế thay
cho cái nhiệt kế trong việc báo hiệu thời tiết. Các sinh vật lệ thuộc vào sự
thay đổi ác nghiệt của dòng thủy lưu các con sông lớn. Các cơn lũ lụt rất kinh
khủng. Dòng sông Amazon chảy tràn bờ và chỉ trong vài ngày, đã dâng cao mực
nước… Ngập lụt làm mọi thứ ngừng lại. Mắc kẹt dưới những tán lá dầy đặc của
những con rạch nhỏ, con người, với một sự nhẫn nhục hiếm hoi trước nghịch cảnh
không thể tránh khỏi, chỉ biết chờ đợi cái “mùa đông” nghịch lý, “mùa đông”
nóng nực này cái kết thúc. Khi nước rút xuống, thì đó là mùa hè. Đó là lúc xuất
hiện lại các hoạt động hoang sơ của con người những vùng này, họ chiến đấu hết
sức trước một thiên nhiên có biểu lộ mâu thuẫn khốc liệt đến độ khiến cho mọi
nỗ lực không thể tiếp tục”53.
44. Dòng nước
lấp lánh của sông Amazon vĩ đại tiếp nhận và làm sống động mọi thứ xung quanh:
“Này Amazon hỡi,
là đầu mục các con nước,
cha và tổ phụ,
Từ Người huyền bí trường cửu
sự sống sinh sôi nảy nở;
các con sông dòng suối tụ về Người như những cánh chim bay lượn tìm về cố
hương”54.
45. Sông
Amazon cũng là xương sống, tạo ra sự hài hoà và thống nhất: “Dòng sông không
ngăn cách chúng tôi, nó liên kết và giúp chúng tôi sống cùng nhau giữa những
khác biệt về văn hoá và ngôn ngữ”55. Cái trục chính nối liền các “vùng Amazon”
khác nhau là con sông Cả, nguồn của nhiều con sông khác:
“Từ đỉnh những dải núi cao, nơi mà tuyết không bao giờ
tan, nước chảy xuống, vạch ra thành dòng run rẩy tưới trên tấm thân da dẻ lâu
đời của đất đá: dòng sông Amazon được sinh ra. Nó được sinh ra mỗi giây phút.
Nó chảy xuống chậm rãi, lấp lánh ẩn hiện quanh co, lớn dần và phình ra trên đất
cát đồng bằng, dào dạt tưới đổ một không gian xanh tươi, nó tự vẽ ra con đường
cho mình và tiếp tục kéo dài. Nước ngầm dưới đất vọt lên ôm lấy nước đổ xuống
từ dãy núi Andes. Từ bụng những đám mây trắng ngần bị gió cuốn đi, nước đổ mưa
xuống từ trời. Nước tụ lại rồi tiếp tục chảy, phân thành vô số nhánh nhỏ, tắm
mát cho những cánh đồng bao la… Đây là vùng Amazon vĩ đại, bao phủ vùng đất
nhiệt đới ẩm ướt bằng những cánh rừng rậm bao la rực rỡ, chưa từng bị bàn tay
con người chạm đến, đập nhịp sự sống đan dệt thâm sâu bởi những mạch nước chảy
ri rỉ … Từ khi con người đến sống nơi đây, từ trong lòng nước sâu thẳm, chảy
ngang qua trái tim của rừng rậm, xuất hiện một nỗi e sợ khủng khiếp: rằng sự
sống nơi đây đang bị bức tử, tuy chầm chậm nhưng chắc chắn”56.
46. Những nhà
thơ nổi tiếng, phải lòng vẻ đẹp kỳ vĩ của vùng đất này, đã cố gắng diễn tả
những cảm xúc mà dòng sông này đã gợi lên, diễn tả sự sống mà nó trao ban trong
dòng chảy của nó, giữa những điệu nhảy của cá heo, trăn anaconđa, cây cối và
thuyền canô. Nhưng những nhà thơ đó cũng than khóc về những nguy hiểm đang đe
doạ dòng sông. Họ là những nhà chiêm niệm và ngôn sứ, giúp ta thoát khỏi lối
suy nghĩ mang tính kỹ trị và tiêu thụ, vốn chỉ nhắm phá hoại thiên nhiên và
tước mất của chúng ta một cuộc sống xứng với phẩm giá đích thực của mình:
“Thế giới đang đau đớn vì bàn chân con người biến thành
cao su, cẳng chân thành đồ da, thân thể thành vải vóc, và đầu tóc thành sắt
thép… Thế giới đang đau khổ vì mai thuổng bị biến thành súng ống, lưỡi cày
thành xe tăng; hình ảnh người nông dân gieo hạt nhường chỗ cho hình ảnh những
cái máy khạc lửa đạn, chỉ toàn gieo rắc hoang vu. Chỉ cung giọng nhẹ nhàng của
thi ca mới có thể cứu thế giới này”57.
Tiếng kêu khóc của vùng Amazon
47. Thi ca
gióng lên tiếng lòng đau đớn của nhiều người chúng ta ngày nay. Sự thật rành
rành trước mắt là, với cách người ta đối xử với vùng lãnh thổ Amazon như hiện
tại, thì bao nhiêu sự sống, và vẻ đẹp đang bị hủy diệt, cho dù nhiều người vẫn
muốn tin rằng chẳng có gì nghiêm trọng xảy ra cả:
“Ai nghĩ rằng dòng sông chỉ là một sợi dây để vui chơi, họ
đã lầm.
Dòng sông là mạch máu rất tinh tế tưới tắm trên bề mặt trái đất…
Dòng sông là mối dây kết nối các thú vật và cây cỏ.
Nếu bị kéo quá căng, dòng sông sẽ đứt gãy,
Sẽ tràn bờ và tắm gội chúng ta bằng nước và máu”58.
48. Sự cân
bằng sinh thái của địa cầu lệ thuộc vào sức khoẻ của vùng Amazon. Cùng với các
vùng sinh thái như Công gô và Bornêo, Amazon chói chang với những cánh rừng già
xanh thẳm, đa dạng, tuyệt vời, điều hoà mưa gió và khí hậu, cùng là nơi sinh
sống của vô số loài sinh thể khác nhau. Nó có chức năng như một bộ lọc thán khí
vĩ đại, giúp tránh hiệu ứng đốt nóng địa cầu. Trên hầu hết vùng lãnh thổ này,
bề mặt đất rất nghèo mùn hữu cơ, vì thế những cánh rừng “thực sự mọc trên đất,
chứ không mọc từ đất”59. Khi rừng bị phá huỷ, nó không thể mọc lên cây mới, vì
những gì còn lại chỉ là khoảng đất nghèo chất dinh dưỡng, dần sẽ biến thành đất
khô hoặc đất cằn cỗi, không thể canh tác. Điều này thật nghiêm trọng, vì trong
lòng những cánh rừng Amazon là vô số nguồn dược thảo giúp chữa các loại bệnh
tật. Cá mú, hoa quả và vô vàn tặng phẩm khác, rất giàu chất dinh dưỡng cho con
người. Hơn nữa, trong một hệ sinh thái như vùng Amazon, mỗi bộ phận là thiết
yếu cho việc duy trì toàn bộ hệ thống. Việc canh tác ở vùng đồng bằng và duyên
hải cũng cần được phù sa vùng Amazon chăm bón. Tiếng khóc than của vùng Amazon
chạm đến mọi người, bởi vì “việc chinh phục và khai thác nguồn tài nguyên… ngày
nay đã đe doạ chiều kích thân thiện của môi trường: môi trường như là ‘tài
nguyên’, đe doạ môi trường như là ‘nhà ở’”60. Lợi nhuận của một số ít doanh
nghiệp hùng mạnh không được xem là quan trọng hơn công ích của vùng Amazon và
của toàn nhân loại.
49. Nếu chỉ
quan tâm bảo vệ một số loài mà ta thấy rõ ràng là chúng đang bị tuyệt chủng,
điều này chưa đủ. Chúng ta rất cần ý thức rằng “để có thể vận hành tốt, hệ sinh
thái đòi phải có các loài nấm tảo, giun dế, sâu bọ, bò sát và vô số những loài
vi sinh vật khác. Một số loài tuy chỉ là thiểu số, nhỏ bé và dù không được nhìn
thấy, vẫn có thể giữ một vai trò then chốt trong việc duy trì sự cân bằng của
một vùng”61. Điều này rất dễ bị bỏ qua khi ta đánh giá mức ảnh hưởng trên môi
trường của các dự án kinh tế trong việc khai thác khoáng sản, năng lượng, gỗ và
các kỹ nghệ khác, vốn chỉ phá huỷ và gây ô nhiễm. Cũng vậy, nguồn nước phong
phú trong vùng Amazon là một thiện ích thiết yếu cho sự tồn vong của nhân loại,
nhưng các nguồn nước đang ngày càng bị ô nhiễm nhiều hơn62.
50. Thật vậy,
ngoài lợi ích kinh tế của một số thương gia và chính trị gia địa phương, còn có
các “lợi ích kinh tế toàn cầu”63. Vì thế, giải pháp không nằm ở chỗ “quốc tế
hoá” vùng Amazon64, mà ở ý thức trách nhiệm lớn hơn của chính quyền các quốc
gia. Về việc này, “rất đáng ca ngợi sự dấn thân của các tổ chức quốc tế và dân
sự đã nỗ lực kêu gọi sự chú ý của công chúng về những vấn đề này và hợp tác
cách sáng suốt, tạo sức ép hợp lệ, để bảo đảm chính quyền mỗi quốc gia phải
thực thi trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường và các nguồn tài
nguyên thiên nhiên của quốc gia mình, mà không phải nhượng bộ trước lợi ích bất
hợp pháp của các nhóm địa phương và quốc tế”65.
51. Để bảo vệ
vùng Amazon, chúng ta cần kết hợp sự khôn ngoan của bậc tiền nhân với kiến thức
kỹ thuật hiện đại, phải luôn tìm cách quản lý và sử dụng đất đai cách bền vững,
đồng thời bảo toàn lối sống và các hệ thống giá trị của những cư dân ở đó66.
Họ, đặc biệt là các bộ tộc thổ dân, có quyền được giáo dục cơ bản, được nhận
những thông tin xuyên suốt, minh bạch về các dự án, tầm mức, hậu quả cũng như
nguy cơ của chúng. Nhờ đó, họ có thể liên hệ các thông tin đó với lợi ích của
họ và với kiến thức của họ về địa bàn này; để rồi sau đó họ có thể đồng thuận
hay từ chối dự án hoặc đề nghị những phương án khác67.
52. Những
người có quyền lực không bao giờ hài lòng về lợi nhuận họ đạt được và nguồn tài
nguyên của các quyền lực kinh tế ngày càng gia tăng nhờ vào tiến bộ của khoa
học kỹ thuật. Vì thế, tất cả chúng ta cần nhấn mạnh nhu cầu khẩn thiết phải
thiết lập “một hệ thống pháp lý, thiết lập rõ ràng các giới hạn cuối cùng và
bảo đảm hệ sinh thái được bảo vệ… nếu không, các cấu trúc quyền lực mới, dựa
trên lối suy nghĩ thuần kinh tế kỹ thuật, sẽ áp đảo không chỉ nền chính trị mà
cả công lý và tự do của chúng ta nữa”68. Nếu Thiên Chúa mời gọi chúng ta lắng
nghe tiếng kêu khóc của cả người nghèo lẫn trái đất69, thì đối với chúng ta,
“tiếng kêu khóc của vùng Amazon lên Đấng Tạo Hoá tương tự như tiếng kêu gào của
dân Chúa trên đất Ai Cập (cf. Xh 3,7). Đó là tiếng khóc của
những người bị bỏ rơi trong kiếp nô lệ, kêu gào xin được tự do”70.
Lời ngôn sứ về sự chiêm niệm
53. Chúng ta
thường để cho lương tâm mình bị chai cứng, bởi vì “sự sao nhãng, mất tập trung
thường xuyên làm ta mất nhận thức về sự giới hạn và hữu hạn của thế giới”71.
Với cái nhìn hời hợt, chúng ta thường nghĩ rằng “mọi thứ không đến nỗi quá
nghiêm trọng, trái đất vẫn tiếp tục tồn tại như thế này mà thôi. Sự lảng tránh
như thế cho phép ta tiếp tục duy trì lối sống hiện tại, mô hình sản xuất và
tiêu thụ của mình. Đây là cách con người xoay xở để duy trì những tật xấu tai
hại của mình: cố ý không nhìn thấy những tật xấu đó, cố ý không thừa nhận
chúng, trì hoãn những quyết định quan trọng và giả vờ như không có gì xảy ra”72.
54. Thêm vào
đó, tôi muốn lưu ý rằng mỗi loài sinh vật có giá trị tự thân, tuy nhiên, “mỗi
năm có cả ngàn loại cây và thú vật biến mất, những loài mà ta không bao giờ
biết, con cháu ta không bao giờ được thấy, bởi vì chúng đã bị tuyệt chủng. Đa
số những loài đó diệt vong vì những lý do liên hệ tới hoạt động của con người.
Do chúng ta mà cả ngàn loài sinh vật đã không còn có thể làm vinh danh Thiên
Chúa bằng hiện hữu của mình nữa hay có thể truyền thông điệp sáng tạo đến chúng
ta nữa. Chúng ta không được phép làm như vậy”73.
55. Từ những
thổ dân, chúng ta học cách chiêm ngắm vùng Amazon, chứ không chỉ nghiên cứu nó;
nhờ đó mà cảm nhận được huyền nhiệm quý báu siêu vượt trên chúng ta. Chúng ta
có thể yêu mến vùng đất này, chứ không chỉ là sử dụng nó, để
tình yêu có thể đánh thức mối quan tâm sâu xa và chân thành. Hơn nữa, chúng ta
có thể cảm nhận mình là một phần của nó, chứ không chỉ nhắm bảo vệ nó; như thế,
vùng Amazon có thể một lần nữa trở nên như Mẹ của chúng ta. Bởi vì, “chúng ta
không nhìn thế giới từ bên ngoài, nhưng từ bên trong, ý thức mối ràng buộc mà
Cha trên Trời đã nối kết chúng ta với mọi loài sinh linh”74.
56. Hãy đánh
thức cảm thức mỹ thuật và chiêm niệm được Thiên Chúa ban cho và đặt để trong ta
nhưng đã bị ta làm cho ra nhạt đi. Hãy nhớ rằng “nếu ai đó đã không biết dừng
chân để thưởng lãm và ca tụng một vẻ đẹp thì không lạ gì người đó sẽ xem mọi
vật chỉ như là đồ vật để sử dụng và lạm dụng, mà không hề áy náy lương tâm”75.
Ngược lại, nếu ta kết hợp thông hiệp với cánh rừng, giọng nói của ta sẽ dễ dàng
hoà trộn với giọng nói của rừng và trở thành lời cầu nguyện: “khi dừng chân
dưới bóng một cây bạch đàn cổ thụ, lời cầu nguyện của chúng tôi, cầu xin ánh
sáng, hoà lẫn với bài ca của các tán lá”76. Cuộc hoán cải nội tâm này sẽ giúp
chúng ta có thể khóc cho vùng Amazon và cùng với nó, kêu thấu tới Chúa.
57. Chúa Giêsu
nói: “Liệu không phải năm con chim sẻ chỉ bán được hai đồng xu sao? Thế mà
không con nào bị Thiên Chúa quên lãng” (Lc 12,6). Thiên Chúa Cha,
Đấng tạo dựng muôn loài với tình yêu vô biên, mời gọi chúng ta trở nên tai của
Ngài để giúp Ngài lắng nghe tiếng kêu khóc của vùng Amazon. Nếu đáp lại tiếng kêu
cứu não nề này, chúng ta sẽ cho thấy rõ Cha trên trời không hề bỏ quên các thụ
tạo ở vùng Amazon. Đối với các Kitô hữu, chính Chúa Giêsu chất vấn chúng ta từ
tạo vật của Ngài, “bởi vì Đấng Phục sinh đang ôm chúng vào lòng và dẫn đưa
chúng đến cùng đích viên mãn. Cả hoa đồng cỏ nội và chim chóc mà chính mắt Ngài
đã từng chiêm ngắm khi còn ở dương thế này, nay được tràn đầy sự hiện diện rạng
rỡ của Ngài”77. Vì thế, tín hữu chúng ta gặp nơi vùng Amazon một nguồn cảm hứng
cho thần học, một không gian, nơi mà Thiên Chúa mạc khải chính Mình và tụ họp
con cái Ngài.
Giáo dục và hình thành tập quán sinh thái
58. Về điều
này, chúng ta có thể đi một bước xa hơn, nhớ rằng một sinh thái luận toàn diện
không chỉ bằng lòng với việc tìm giải quyết những vấn đề kỹ thuật hay các quyết
định mang tính chính trị, pháp lý và xã hội. Sinh thái luận tốt nhất luôn bao
gồm một bình diện giáo dục, khuyến khích các cá nhân và cộng đoàn phát huy các
tập quán mới. Đáng buồn thay, nhiều người trong vùng Amazon đã học nhiễm những
tập quán đặc thù của các thành phố lớn, quá quen với lối sống tiêu thụ và văn
hoá sử dụng hoang phí. Sẽ không thể có một sinh thái luận lành mạnh và bền
vững, có thể thay đổi tình hình, nếu như con người không thay đổi, không được
khuyến khích chọn một lối sống khác, ít tham lam và thanh thản hơn, tôn trọng
và ít lo lắng hơn, huynh đệ hơn.
59. Thật vậy,
“khi trái tim con người càng trống rỗng, họ càng cần phải mua sắm, sở hữu và
tiêu thụ nhiều thứ. Họ khó có thể chấp nhận giới hạn của thực tại… Chúng ta
không chỉ bận tâm đến sự đe doạ của các thiên tai về mặt khí hậu, mà cả những
hậu quả tàn khốc của sự bất ổn xã hội. Ám ảnh với lối sống tiêu thụ, nhất là
khi ít có người duy trì được lối sống đó, sẽ chỉ dẫn đến bạo lực và hủy diệt
lẫn nhau”78.
60. Giáo hội,
với kinh nghiệm thiêng liêng phong phú, với sự canh tân trong việc trân trọng
giá trị của tạo thành, với bận tâm về công bình, với bận tâm ưu tiên chọn lựa
người rốt hết, với truyền thống giáo dục, với lịch sử hội nhập vào các nền văn
hoá khác nhau trên toàn cầu; với tất cả những điều đó, Giáo hội cũng ao ước
đóng góp vào việc bảo vệ và phát triển vùng Amazon.
Điều này dẫn đến ước mơ tiếp theo mà tôi muốn chia sẻ
riêng với các mục tử và giáo dân của Giáo hội Công giáo.
CHƯƠNG BỐN
MỘT ƯỚC MƠ GIÁO HỘI
61. Giáo hội được
kêu gọi đồng hành với các dân tộc vùng Amazon. Tại Châu Mỹ Latinh, việc đồng
hành này đã được lưu tâm đặc biệt, chẳng hạn Hội nghị các Giám mục diễn ra tại
Medellín (1968) và việc áp dụng cho vùng Amazon ở Santarem (1972)79; sau đó là
Puebla (1979), Santo Domingo (1992) và Aparecida (2007). Việc đồng hành này vẫn
đang tiếp diễn, và nếu muốn trình bày một Giáo hội với khuôn mặt Amazon, thì
công cuộc truyền giáo phải được khai triển trong một nền văn hoá gặp gỡ hướng
đến một sự “hài hoà đa dạng”80. Tuy nhiên, để Giáo hội và Tin Mừng có thể nhập
thể, lời loan báo truyền giáo vĩ đại phải không ngừng vang dội, luôn mãi.
Lời loan báo thiết yếu trong vùng Amazon
62. Đối diện
với biết bao nhu cầu và lo lắng vang lên từ tâm điểm của Amazon, chúng ta có
thể đáp ứng bằng các tổ chức xã hội, các giải pháp kỹ thuật, không gian tranh
luận, cương lĩnh chính trị, và tất cả những điều này có thể là một phần của
giải pháp. Tuy nhiên là Kitô hữu, chúng ta không được chối bỏ đòi hỏi của đức
tin mà chúng ta đã nhận lãnh từ Tin Mừng. Cả khi muốn sát vai dấn thân cùng mọi
người, chúng ta cũng không xấu hổ vì Đức Giêsu Kitô. Ai đã gặp gỡ Đức Giêsu,
sống tình bằng hữu với Người và thực thi sứ điệp của Người, thì không thể không
nói về Người và mời mọi người sống đời sống mới như Người kêu gọi: “Khốn cho
tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16).
63. Việc thực
sự chọn phục vụ những người nghèo và người bị bỏ rơi, chẳng những thôi thúc
chúng ta giúp họ thoát khỏi đói nghèo vật chất và bảo vệ quyền lợi của họ, mà
còn bao hàm việc giúp họ sống mật thiết với Chúa, Đấng thăng tiến và ban phẩm
giá cho họ. Thật đáng buồn nếu chúng ta trao cho họ cả bộ giáo lý hay quy tắc
luân lý, mà không phải là lời loan báo lớn lao về ơn cứu độ, lời loan báo
truyền giáo ấy chạm đến tận cõi lòng và làm cho mọi sự khác đều có ý nghĩa.
Chúng ta cũng không được hài lòng với một thông điệp xã hội. Nếu chúng ta hy
sinh đời sống cho họ, vì công lý và phẩm giá mà họ đáng được hưởng, chúng ta
không thể giấu họ rằng chúng ta làm thế vì nhận ra Đức Kitô nơi họ, và vì chúng
ta khám phá phẩm giá cao trọng mà Thiên Chúa Cha, Đấng yêu thương họ vô cùng,
đã ban cho họ.
64. Họ có
quyền được nghe loan báo Tin Mừng, nhất là lời loan báo tiên khởi được gọi
là kerygma, “đó là lời rao giảng chính, lời rao giảng mà chúng
ta phải nghe đi nghe lại bằng nhiều cách, phải công bố trong suốt tiến trình
huấn giáo ở mọi cấp độ và mọi thời điểm”81. Đó là lời loan báo một vị Thiên
Chúa, Đấng vô cùng yêu thương mỗi người, Đấng đã thể hiện trọn vẹn tình yêu ấy
nơi Đức Kitô chịu đóng đinh vì chúng ta và sống lại trong cuộc đời chúng ta.
Tôi đề nghị đọc lại bản tóm tắt ngắn gọn nội dung này trong chương IV của Tông
huấn Christus vivit. Lời loan báo ấy phải vang lên không ngừng
trong khắp vùng Amazon, bằng nhiều cách khác nhau. Không có lời loan báo đầy
nhiệt huyết ấy, mọi cơ cấu của Giáo hội sẽ biến thành một tổ chức phi chính phủ
khác, và như thế, chúng ta kháng lại lệnh truyền của Chúa Giêsu Kitô: “Anh em
hãy đi khắp tứ phương thiên hạ và loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15).
65. Mọi chương
trình giúp cho trưởng thành trong đời sống Kitô hữu đều phải luôn lấy việc loan
báo này làm trục, vì “toàn bộ việc huấn luyện Kitô giáo trước hết là ngày càng
đi sâu vào kerygma, và ngày càng sâu sắc hơn”82. Đáp ứng căn bản
cho lời loan báo này, khi lời loan báo đưa tới cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa, là
tình bác ái huynh đệ, là “điều răn mới, điều răn đứng đầu, điều răn cao trọng
nhất, và là điều răn xác định rõ nhất chúng ta là môn đệ Đức Kitô”83. Như
thế, kerygma và tình bác ái huynh đệ làm nên sự tổng hợp lớn
lao của toàn bộ nội dung Tin Mừng mà chúng ta không thể không đề cập đến trong
vùng Amazon. Đó là điều mà những nhà truyền giáo vĩ đại của Châu Mỹ La Tinh như
thánh Toribio de Mogrovejo hay thánh José de Anchieta đã sống.
Hội nhập văn hoá
66. Cả khi
Giáo hội không ngừng loan báo kerygma, Giáo hội cũng cần phải phát
triển trong vùng Amazon. Vì lẽ đó, Giáo hội luôn xác định lại căn tính của
chính mình bằng việc lắng nghe và đối thoại với con người, với các thực tại và
lịch sử của vùng đất này. Bằng cách đó, Giáo hội có thể càng ngày càng triển
khai tiến trình cần thiết của việc hội nhập văn hoá, vốn không hề coi nhẹ những
gì tốt đẹp trong các nền văn hoá vùng Amazon, mà đón nhận và đưa đến vẹn toàn
dưới ánh sáng Tin Mừng84. Giáo hội cũng không xem nhẹ sự phong phú khôn ngoan
Kitô giáo được lưu truyền qua nhiều thế kỷ, như thể không màng đến lịch sử nơi
mà Thiên Chúa đã hành động bằng nhiều cách thế khác nhau, vì Giáo hội có một
khuôn mặt đa diện “không chỉ trong viễn cảnh không gian […] mà còn trong thực
tại thời gian”85. Đây là Truyền thống đích thực của Giáo hội, không phải là một
nhà kho đứng yên, cũng không phải là một phòng bảo tàng, mà là gốc rễ của một
cây đang phát triển86. Đây là Truyền thống ngàn đời chứng tỏ Thiên Chúa vẫn
đang hoạt động trong Dân của Người và Giáo hội “có sứ mạng duy trì ngọn lửa chứ
không phải ngồi giữ tro tàn”87.
67. Thánh Giáo
hoàng Gioan Phaolô II đã dạy rằng, khi trình bày sứ điệp Tin Mừng, “ Giáo hội
không có ý phủ nhận quyền tự chủ của văn hoá, mà ngược lại, hết sức tôn trọng”,
vì văn hoá “không chỉ là đối tượng cần được cứu chuộc và nâng cao; mà còn có
thể đóng vai trò trung gian hoà giải và hợp tác”88. Ngỏ lời với người dân bản
xứ của lục địa châu Mỹ, Đức Thánh Cha nhắc nhớ rằng “một đức tin không trở
thành văn hoá là một đức tin chưa hoàn toàn được đón nhận, suy tư, và sống cách
trung tín”89. Thách đố của các nền văn hoá mời gọi Giáo hội phải có “một óc
phán đoán sắc sảo, nhưng cũng ân cần tin tưởng”90.
68. Ở đây,
chúng ta có thể nhắc lại điều tôi đã khẳng định trong Tông huấn Evangelii
gaudium về vấn đề hội nhập văn hoá, dựa trên xác tín rằng “ân sủng đòi
hỏi văn hoá, và hồng ân của Thiên Chúa được nhập thể trong nền văn hoá của
những ai đón nhận ân huệ ấy”91. Chúng ta thấy rằng điều này bao hàm một chuyển
động kép. Một đàng, khi Tin Mừng cắm rễ vào nơi nào đó thì sẽ sinh nhiều hoa
trái, vì “khi một cộng đoàn đón nhận sứ điệp cứu độ, Chúa Thánh Thần sẽ làm cho
nền văn hoá ấy thêm phong phú bằng sức mạnh biến đổi của Tin Mừng”92. Đàng
khác, chính Giáo hội cũng sống lộ trình đón nhận, vốn làm cho Giáo hội được
phong phú nhờ những gì mà Thần Khí đã gieo vãi trong nền văn hoá ấy một cách
huyền nhiệm. Bằng cách này, “Chúa Thánh Thần tô điểm Giáo hội, chỉ cho Giáo hội
thấy những khía cạnh mới của mặc khải và ban cho Giáo hội một gương mặt mới”.93 Tựu
trung, cần khuyến khích và cho phép loan báo Tin Mừng luôn mãi, “với những cách
thế thích hợp với nền văn hoá nơi Tin Mừng được loan báo, tạo ra một tổng hợp
mới với nền văn hoá ấy”94.
69. Vì thế,
“như chúng ta có thể thấy trong lịch sử Giáo hội, Kitô giáo không chỉ có một mô
hình văn hoá duy nhất”95 và “sẽ không công bằng với luận lý của việc nhập
thể khi nghĩ đến một Kitô giáo đơn văn hoá và đơn điệu”96. Tuy nhiên, mối nguy
cơ cho các thừa sai đi truyền giáo khi đến một nơi nào đó là nghĩ rằng mình
không phải chỉ loan báo Tin Mừng mà còn truyền đạt cả văn hoá nơi mình sinh
trưởng, mà quên mất rằng không được “áp đặt một hình thức văn hoá đặc thù nào,
cho dù nền văn hoá ấy có đẹp đẽ và lâu đời đến đâu đi nữa”97. Cần can đảm đón
nhận sự mới mẻ của Thần Khí, Đấng luôn có thể đem lại những điều mới trong kho
tàng vô tận của Chúa Giêsu Kitô, vì “hội nhập văn hoá đưa Giáo hội vào một lộ
trình khó khăn nhưng cần thiết”98. Đúng là “dù tiến trình này luôn chậm, đôi
khi khiến chúng ta tê liệt vì sợ hãi” và cuối cùng khiến chúng ta trở nên “kẻ
đứng nhìn tình trạng trì trệ cằn cỗi của Giáo hội”99, nhưng chúng ta đừng sợ,
đừng chặt đứt đôi cánh của Chúa Thánh Thần!
Lộ trình hội nhập văn hoá trong vùng Amazon
70. Để việc
hội nhập văn hoá của Tin Mừng được đổi mới trong vùng Amazon, Giáo hội cần lắng
nghe sự khôn ngoan của tiền nhân, trở lại ngỏ lời với các bậc cao niên, chân
nhận các giá trị hiện tại trong lối sống của cộng đồng bản địa, phục hồi kịp
thời những câu chuyện phong phú của các dân tộc. Tại vùng Amazon, chúng ta đã
đón nhận sự phong phú từ các nền văn hoá thời tiền Columbus, “như mở lòng đón
nhận tác động của Thiên Chúa, cảm thức tri ân vì hoa màu ruộng đất, tính thánh
thiêng của đời sống con người và lòng quý trọng đối với gia đình, cảm thức liên
đới và đồng trách nhiệm trong việc chung, tầm quan trọng của việc thờ tự, niềm
tin vào một cuộc sống bên kia cuộc sống nơi trần thế, và nhiều giá trị khác
nữa”.100
71. Trong bối
cảnh ấy, các dân tộc bản xứ vùng Amazon cho thấy phẩm chất cuộc sống đích thực
chẳng hạn như việc “sống tốt lành”, bao hàm sự hoà điệu của cá nhân, gia đình,
cộng đồng và vũ trụ. Sự hoà điệu ấy được thể hiện trong lối nghĩ của cộng đồng
về cuộc sống, qua khả năng tìm thấy niềm vui và thoả mãn trong một cuộc sống
kham khổ và giản dị, cũng như trong việc bảo vệ môi trường thiên nhiên một cách
có trách nhiệm, nhằm bảo tồn tài nguyên cho thế hệ mai sau. Những người thổ dân
có thể giúp chúng ta khám phá thế nào là một cuộc sống giản dị tràn đầy hạnh
phúc, và theo nghĩa ấy, “họ có nhiều điều để dạy chúng ta”.101 Họ biết
hạnh phúc với điều ít ỏi, họ tận hưởng những hồng ân nho nhỏ Chúa ban mà không
tích lũy quá nhiều, họ không phá hủy nếu không cần, họ bảo vệ hệ sinh thái và
biết rằng trái đất, vừa như một nguồn tài nguyên quảng đại được tặng ban để
nuôi sống họ, lại vừa như người mẹ cần phải nâng niu và tôn trọng. Tất cả những
điều ấy phải được coi trọng và phải xét đến trong công cuộc truyền giáo.102
72. Trong khi
chúng ta chiến đấu vì họ và với họ, chúng ta được mời gọi “trở thành bạn hữu
của họ, lắng nghe họ, hiểu họ và đón nhận sự khôn ngoan nhiệm mầu mà Thiên Chúa
muốn truyền thông qua họ”.103 Dân cư thành phố cần coi trọng sự khôn ngoan
này và để mình được “giáo dục lại” khi đối diện với chủ nghĩa tiêu thụ vô độ và
sự cô đơn ở đô thị. Chính Giáo hội có thể là một phương tiện giúp cho việc phục
hồi về mặt văn hoá này trong một tổng hợp có giá trị qua việc loan báo Tin
Mừng. Ngoài ra, Giáo hội còn trở nên công cụ bác ái vì các cộng đoàn tại thành
thị không chỉ truyền giáo trong môi trường của họ, mà còn phải đón tiếp những
người ở trong nước bị tình trạng khốn khổ đẩy vào thành phố. Cũng vậy, các cộng
đoàn phải gần gũi với các bạn trẻ di dân để giúp họ hội nhập vào thành thị mà
không rơi vào các mạng lưới làm cho họ bị biến chất. Những việc làm ấy của Giáo
hội, phát sinh từ tình yêu, là những lộ trình quý giá trong quá trình hội nhập
văn hoá.
73. Mặt khác,
việc hội nhập văn hoá nâng cao và đưa đến trọn vẹn. Chắc chắn, phải đề cao khoa
huyền nghiệm bản địa (mystique autochtone) này về tính tương liên và tính tương
thuộc của toàn thể tạo thành, một khoa huyền nghiệm vô cầu, luôn yêu mến sự
sống như quà tặng, một khoa huyền nghiệm chiêm ngưỡng thực tại thánh thiêng khi
đứng trước thiên nhiên ngập tràn sức sống. Tuy nhiên, cũng phải làm sao cho mối
tương quan này với Thiên Chúa hiện diện trong vũ trụ ngày càng trở nên mối quan
hệ cá vị với một người “Bạn”, người nâng đỡ đời sống chúng ta và mặc cho đời
sống ấy một ý nghĩa, một người “Bạn” biết rõ chúng ta và yêu thương chúng ta:
“Bóng tôi trôi nổi, giữa cánh rừng chết.
Nhưng ngôi sao sinh ra mà không một lời ca thán
trên đôi tay thành thạo của đứa trẻ này,
đôi tay chinh phục nước và màn đêm.
Đủ để tôi biết rằng
Người biết rất rõ về tôi,
trước khi ngày đời tôi khởi sự”104.
74. Tương tự
như vậy, mối tương quan với Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và là con người
thật, Đấng giải thoát và cứu chuộc, không trái ngược với thế giới quan này, thế
giới quan mang đậm tính vũ trụ, vốn là đặc trưng của các dân tộc ấy, vì Người
cũng là Đấng Phục Sinh thấm nhập vào mọi sự.105 Theo kinh nghiệm Kitô
giáo, “mọi thụ tạo của vũ trụ vật chất đều có ý nghĩa đích thực trong Ngôi Lời
Nhập Thể, vì Con Thiên Chúa đã mặc lấy một phần thế giới vật chất vào trong con
người mình, gieo vào đó hạt giống của sự biến đổi cánh chung”106. Người hiện
diện cách vinh quang và huyền nhiệm trong sông ngòi, cây cỏ, trong cá nước, làn
gió, vì Chúa thống trị trên tạo vật mà vẫn giữ lại những thương tích đã được
biến hình của Người, và trong Bí tích Thánh Thể, Người đón nhận các yếu tố của
thế giới khi trao ban cho mỗi người ý nghĩa của ơn phục sinh.
Hội nhập văn hoá về phương diện xã hội và thiêng liêng
75. Vì tình
trạng nhiều cư dân nghèo khổ và bị bỏ rơi trong vùng Amazon, việc hội nhập văn
hoá này nhất thiết phải mang đậm chiều kích xã hội với nét đặc trưng là kiên
quyết bảo vệ quyền con người, khi chiếu toả khuôn mặt của Đức Kitô “Đấng đã
muốn đồng hoá mình với những người yếu đuối nhất và nghèo khổ nhất bằng một
tình nhân hậu lớn lao”.107 Bởi vì “từ tâm điểm của Tin Mừng, chúng ta thấy
mối liên kết sâu xa giữa loan báo Tin Mừng và thăng tiến con người”,108 và
đối với các cộng đoàn Kitô giáo điều này bào hàm sự dấn thân rõ rệt vì Vương
quốc công lý khi thăng tiến những người bị loại trừ. Vì lý do đó, việc đào tạo
thích đáng các nhân viên mục vụ về giáo huấn xã hội của Giáo hội là vô cùng
quan trọng.
76. Đồng thời,
việc hội nhập Tin Mừng vào vùng Amazon cần phải nối kết tốt hơn chiều kích xã
hội với chiều kích thiêng liêng, để cho những người nghèo khổ nhất không phải
đi tìm ở bên ngoài Giáo hội một linh đạo nhằm thoả mãn nỗi khát khao siêu việt
của họ. Vì thế, vấn đề không phải là một lối sống đạo xuất thế và duy cá nhân
tránh né những yêu sách của xã hội về một cuộc sống xứng hợp hơn, nhưng cũng
không phải là loại bỏ chiều kích siêu việt và thiêng liêng như thể con người
chỉ cần có sự phát triển về vật chất. Điều này mời gọi chúng ta không chỉ nối
kết cả hai, mà còn nối kết chúng một cách chặt chẽ. Nhờ đó, vẻ đẹp chân thực
của Tin Mừng sẽ toả rạng, đầy tính nhân văn, đem lại cho mọi người và mọi dân
tộc phẩm giá trọn vẹn, đầy tràn trong tâm hồn và cuộc sống.
Những khởi điểm của sự thánh thiện Amazon
77. Như thế,
chứng tá thánh thiện mang khuôn mặt Amazon được tỏ hiện, không phải là bản sao
mô hình của các nơi khác, mà là sự thánh thiện hình thành từ việc gặp gỡ và
dâng hiến, từ việc chiêm niệm và phục vụ, từ cuộc sống cô tịch thức tỉnh và
sống cộng đồng, từ sự điều độ vui tươi và đấu tranh cho công lý. Sự thánh thiện
này sẽ đạt được “theo cách riêng của mỗi người”,109 và điều ấy cũng có giá
trị cho các dân tộc, nơi mà ân sủng được thể hiện và toả sáng với những nét đặc
trưng. Chúng ta hãy hình dung sự thánh thiện với các đặc điểm của vùng Amazon
đang chất vấn Giáo hội hoàn vũ.
78. Tiến trình
hội nhập văn hoá, bao gồm những lộ trình không chỉ liên quan đến cá nhân mà còn
đến đời sống cộng đoàn, đòi hỏi một tình yêu đầy tôn trọng và thấu hiểu đối với
mọi người. Tại phần lớn vùng Amazon, tiến trình này đã được khởi đầu. Hơn bốn
mươi năm trước, các giám mục Pêru vùng Amazon đã nhận thấy rằng trong số lớn
các nhóm người ở vùng này “những người cần được loan báo Tin Mừng, với một nền
văn hoá đa dạng và biến đổi, đã được Phúc âm hoá ngay từ đầu rồi”, vì họ có
“một số đặc điểm của người Công giáo bình dân, dẫu rằng có lẽ ban đầu đã được
các mục tử gầy dựng; những đặc điểm ấy hiện nay dân chúng đang thực hành và
thậm chí họ còn thay đổi ý nghĩa rồi lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác”.110 Chúng ta đừng vội vàng xét đoán một số cách diễn tả tôn giáo tự
phát trong đời sống dân chúng là mê tín hay mang tính ngoại giáo. Nhưng phải
biết nhận ra cây lúa đang lớn lên giữa đám cỏ lùng , vì “trong việc đạo đức
bình dân, chúng ta có thể hiểu được cách thức mà đức tin, sau khi đã lãnh nhận,
sẽ hội nhập vào một nền văn hoá và tiếp tục thông truyền như thế nào”111.
79. Một cách
nào đó, có thể chấp nhận một biểu tượng bản địa mà không nhất thiết coi đó là
việc sùng bái ngẫu tượng. Một thần thoại mang ý nghĩa tâm linh có thể có giá
trị chứ không phải lúc nào cũng bị coi là sai lầm của người ngoại giáo. Một số
lễ hội tôn giáo mang ý nghĩa thánh thiêng và là không gian cho việc gặp gỡ và
tình huynh đệ, dẫu rằng cần một tiến trình chậm chạp để được thanh lọc và
trưởng thành. Một nhà truyền giáo nhiệt tâm sẽ cố gắng khám phá đâu là những
khát vọng chính đáng qua các biểu hiện tôn giáo nhiều khi còn bất toàn, cục bộ
hay mập mờ, và tìm cách đáp lại khởi đi từ một nền linh đạo mang tính hội nhập.
80. Chắc chắn
đó sẽ là một nền linh đạo quy về Thiên Chúa duy nhất và là Đức Chúa, đồng thời
có khả năng tiếp xúc với những nhu cầu thường nhật của những ai tìm kiếm một
cuộc sống có phẩm giá, muốn tận hưởng những thực tại đẹp đẽ của cuộc đời, muốn
tìm được sự bình an và hoà hợp, muốn giải quyết khủng hoảng trong gia đình,
muốn chữa lành bệnh tật, muốn thấy con cái mình hạnh phúc lớn lên. Mối nguy lớn
nhất có lẽ là ngăn cản không cho họ gặp Đức Kitô khi trình bày Ngài như là kẻ
thù của niềm vui, hay như người chẳng màng gì tới những khát vọng và đau khổ
của con người112. Ngày nay, cần phải chứng minh rằng sự thánh thiện sẽ không
tước đi của con người “năng lực, sức sống hay niềm vui”113.
Hội nhập văn hoá trong Phụng vụ
81. Hội nhập
linh đạo Kitô giáo vào các nền văn hoá của các dân tộc bản địa gặp được một con
đường có giá trị đặc biệt trong các bí tích, bởi vì tính thần thiêng và vũ trụ,
ân sủng và công trình tạo dựng hiệp nhất trong các bí tích. Ở Amazon các bí
tích không được hiểu tách rời công trình tạo dựng. Các bí tích là “một con
đường ưu biệt, trong đó thiên nhiên được Thiên Chúa nâng lên thành phương thế
trung gian cho đời sống siêu nhiên”114 Các bí tích là một hoàn thành của
công trình tạo dựng, là nơi thiên nhiên được nâng lên để trở thành địa điểm và
khí cụ của ân sủng, hầu “ôm lấy thế giới trong một cấp độ khác”115.
82. Trong
Thánh Thể, Thiên Chúa, “ở đỉnh điểm của mầu nhiệp Nhập thể, đã muốn kết hiệp
mật thiết với chúng ta qua mẩu bánh.[…] Thánh Thể kết nối trời với đất, ôm lấy
và bao bọc toàn thể công trình tạo dựng”116. Vì thế, Thánh Thể có thể là “một
động lực cho chúng ta quan tâm đến môi trường, hướng dẫn chúng ta trở thành
người quản lý toàn thể tạo thành”117. Như thế, “khi muốn gặp gỡ Thiên Chúa,
chúng ta không thoát khỏi thế giới này hay phủ nhận thiên nhiên”118. Điều đó
cho phép chúng ta gặp lại trong phụng vụ nhiều yếu tố đặc thù do những người
bản địa trải nghiệm khi họ tiếp xúc thân tình với thiên nhiên và tạo điều kiện
thuận lợi cho những người bản địa diễn tả trong những bài ca, điệu nhảy, nghi
lễ, cử chỉ và biểu tượng. Công Đồng Vaticanô II đã yêu cầu những cố gắng hội
nhập văn hoá phụng vụ nơi các dân tộc bản địa119, nhưng đã hơn năm mươi năm
qua, chúng ta tiến bộ rất ít trong đường hướng này120.
83. Ngày Chúa
nhật, “linh đạo Kitô giáo hợp nhất giá trị của nghỉ ngơi và lễ hội. Con người
có xu hướng xem nghỉ ngơi chiêm niệm là điều gì đó không hiệu quả và vô ích, mà
quên rằng như thế là loại bỏ nền tảng quan trọng của công việc: ý nghĩa của nó.
Chúng ta được mời gọi đưa chiều kích cảm thụ và vô cầu vào trong công việc”121.
Các dân tộc bản địa cảm nhận tính vô cầu và sự nghỉ ngơi chiêm niệm lành mạnh
này. Các cử hành của chúng ta phải giúp họ sống trải nghiệm này trong phụng vụ
Chúa nhật và gặp được ánh sáng của Lời Chúa và Thánh Thể soi sáng đời sống cụ
thể của chúng ta.
84. Các bí
tích chứng tỏ và cho biết Thiên Chúa gần gũi và có lòng thương xót, Ngài đến để
chăm sóc và thêm sức cho các con cái của Ngài. Chính vì thế, phải ban các bí
tích cho mọi người, nhất là những người nghèo, và không bao giờ được từ chối vì
lý do tiền bạc. Cũng không được dùng bí tích như một thứ kỷ luật để loại trừ và
làm cho những người nghèo và những người bị quên lãng ở Amazon rời xa Giáo hội,
vì cuối cùng họ sẽ bị gạt ra ngoài do một Giáo hội đã biến thành thuế quan.
Trái lại, “trong những hoàn cảnh khó khăn ngặt nghèo họ đang sống, Giáo hội
phải đặc biệt quan tâm để thông cảm, an ủi, đón nhận họ, tránh áp đặt lên họ đủ
thứ luật lệ, như những tảng đá đè bẹp, chỉ khiến người ta cảm thấy bị xét đoán
và bỏ rơi bởi chính Người Mẹ vốn được mời gọi bày tỏ cho họ lòng thương xót của
Thiên Chúa”122. Trong Giáo hội, lòng thương xót có thể chỉ còn là một lối diễn
tả lãng mạn nếu lòng thương xót không biểu hiện cụ thể trong trách nhiệm mục tử123.
Hội nhập văn hoá về phương diện thừa tác vụ
85. Hội nhập
văn hoá cũng phải được khai triển và được thể hiện bằng cách thấm nhập vào bên
trong để làm cho cơ cấu Giáo hội và thừa tác vụ hoạt động. Nếu đã hội nhập văn
hoá linh đạo, hội nhập văn hoá việc nên thánh, hội nhập văn hoá ngay cả Tin
Mừng, sao lại không nghĩ đến một hội nhập văn hoá cách thức cấu trúc và hoạt
động của các thừa tác vụ trong Giáo hội? Sự hiện diện mục vụ của Giáo hội ở
Amazon thì không thường xuyên, một phần vì diện tích đất đai mênh mông, với
nhiều nơi khó đến được, một nền văn hoá rất khác biệt, nhiều vấn đề xã hội
nghiêm trọng, và một số dân tộc chọn sống tách biệt. Điều đó không được khiến
cho chúng ta thờ ơ nhưng đòi hỏi Giáo hội phải can đảm đáp ứng một cách cụ thể.
86. Phải lo
liệu cho thừa tác vụ được thi hành thế nào để Thánh lễ được cử hành thường
xuyên hơn, ngay cả nơi những cộng đoàn xa xôi và hẻo lánh nhất. Tài liệu
Aparecida đã mời gọi lắng nghe tiếng than phiền của nhiều cộng đoàn Amazon
“không có Thánh lễ Chúa nhật trong thời gian lâu dài”124. Nhưng đồng thời, phải
có những thừa tác viên có thể thấu hiểu tâm tình và các nền văn hoá của Amazon
từ bên trong.
87. Cách quy
định đời sống và thi hành tác vụ của các linh mục không đồng nhất, và có những
sắc thái khác biệt ở những nơi khác nhau. Vì thế điều quan trọng là phải xác
định điều gì là đặc thù nhất của linh mục, điều gì không thể được ủy thác. Câu
trả lời nằm ở trong Bí tích Truyền Chức Thánh, bí tích đã làm cho linh mục nên
đồng hình đồng dạng với Đức Kitô linh mục. Và kết luận đầu tiên là tính chất
chuyên nhất này được lãnh nhận từ Bí tích Truyền Chức Thánh làm cho linh mục,
chỉ linh mục mà thôi, mới được chủ sự Thánh lễ125. Đó là phần vụ đặc thù, chính
yếu và không thể ủy thác được. Có người nghĩ rằng điều phân biệt linh mục là
quyền bính, làm cho linh mục thành người có quyền tối cao của cộng đoàn. Nhưng
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã giải thích rằng, cho dù chức linh mục
được nhìn nhận là “mang tính phẩm trật”, thì phận vụ này không phải là đặt linh
mục ở trên những người khác, nhưng linh mục được phong chức “hoàn toàn để thánh
hoá các chi thể của Đức Kitô”126. Khi chúng ta khẳng định rằng linh mục là dấu
chỉ của “Đức Kitô là Đầu”, ý nghĩa chính là Đức Kitô là nguồn ơn sủng: Ngài là
đầu của Giáo hội “bởi vì Ngài có thể chuyển thông ơn sủng cho tất cả mọi chi
thể của Giáo hội”127.
88. Linh mục
là dấu chỉ Đầu của Đức Kitô, Đấng đổ tràn ân sủng, cách riêng khi linh mục cử
hành Thánh lễ, nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cà đời sống Kitô hữu128. Đó là
quyền bính lớn lao của linh mục, là quyền chỉ có thể nhận được nơi bí tích
Truyền Chức Thánh mà thôi. Chính vì vậy chỉ có linh mục mới có thể nói: “Này là
mình Thầy”. Có những lời khác mà chỉ có linh mục mới được nói: “Cha
tha tội cho con”. Bởi vì ơn tha tội của bí tích là để giúp cho việc cử hành
Thánh Thể được xứng đáng. Trung tâm căn tính duy nhất của linh mục nằm trong
hai bí tích này129.
89. Trong
những hoàn cảnh đặc thù của Amazon, cách riêng trong những khu rừng và những
vùng hẻo lánh, phải tìm một phương thế để bảo đảm thừa tác vụ linh mục này. Các
giáo dân có thể loan báo Lời Chúa, giảng dạy, tổ chức những cộng đoàn của họ,
cử hành một số bí tích, tìm kiếm những con đường khác cho việc đạo đức bình dân
và khai thác rất nhiều ân huệ mà Thánh Thần tuôn tràn trên họ. Nhưng họ cần có
Thánh Thể, bởi vì Thánh Thể “làm nên Hội Thánh”130 và từ đó chúng ta phải
nói rằng “không một cộng đoàn Kitô hữu nào được xây dựng mà lại không có nguồn
gốc khởi phát và tâm điểm quy tụ là việc cử hành bí tích Thánh Thể”131. Nếu
thật sự chúng ta tin như thế, thì điều khẩn thiết là làm sao để các dân tộc
Amazon không phải thiếu thốn lương thực của đời sống mới này và bí tích Tha
Tội.
90. Nhu cầu
cấp bách này khiến tôi phải khuyên các Giám mục, cách riêng, các Giám mục ở
Châu Mỹ Latinh, không những kêu gọi cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, mà còn phải
quảng đại hướng dẫn những ai tỏ ra có ơn gọi thừa sai để họ chọn Amazon132.
Đồng thời nên duyệt lại toàn bộ cơ cấu và nội dung, về việc đào tạo khởi đầu
cũng như việc thường huấn các linh mục, nhằm mục đích để họ có được những thái
độ và những khả năng mà việc đối thoại với những văn hoá Amazon đòi hỏi. Việc
đào tạo này phải hết sức chuyên về mục vụ và giúp cho việc phát triển lòng
thương xót mục tử133.
Những cộng đoàn đầy sức sống
91. Mặt khác,
Thánh Thể là một bí tích lớn lao, diễn tả và thực hiện tính hợp nhất của
Giáo hội134, và được cử hành “để cho, từ những người xa lạ, những người bị phân
tán và không quen biết nhau, chúng ta được hợp nhất nên một, bình đẳng và trở
thành bạn hữu”135. Người chủ sự Thánh Thể phải chăm lo sự hiệp thông vốn không
phải là một sự hiệp nhất nghèo nàn, nhưng là đón nhận vô số ơn huệ phong phú và
những đặc sủng Thánh Thần tuôn đổ trên cộng đoàn.
92. Vì thế,
Thánh Thể, cội nguồn và chóp đỉnh, đòi hỏi nguồn phong phú đa dạng này phải
được phát triển. Phải có các linh mục nhưng điều đó không ngăn cản, theo một
cách thông thường, các phó tế vĩnh viễn – cần phải có nhiều hơn nữa ở Amazon –
các nữ tu và cả các giáo dân đảm nhận những trách nhiệm quan trọng, để làm cho
các cộng đoàn lớn lên đến mức trưởng thành trong việc thi hành các phận vụ này,
nhờ được đồng hành cách thích đáng.
93. Do đó, vấn
đề không phải chỉ là tạo điều kiện dễ dàng cho có thật nhiều các thừa tác viên
được truyền chức có thể cử hành Thánh Thể. Đó sẽ là một mục tiêu rất giới hạn
nếu chúng ta không đồng thời cố gắng khơi lên một đời sống mới trong các cộng
đoàn. Chúng ta phải cổ vũ việc gặp gỡ Lời Chúa và việc trưởng thành trong sự
thánh thiện, nhờ sự cộng tác phục vụ của giáo dân trong nhiều hình thức, sau
khi họ đã qua một quá trình chuẩn bị - về Kinh Thánh, giáo lý, đời sống thiêng
liêng và về thực hành - và những khoá đào tạo thường xuyên khác.
94. Một Giáo
hội mang khuôn mặt Amazon đòi hỏi phải có sự hiện diện ổn định của những giáo
dân lớn tuổi có trách nhiệm và được trao quyền hành136, những người này hiểu
biết các ngôn ngữ, các nền văn hoá, có kinh nghiệm thiêng liêng và biết cách
sống thành cộng đoàn ở mỗi nơi, đồng thời họ cũng dành không gian cho nhiều ơn
huệ được Thánh Thần gieo vào lòng mọi người. Vì ở đâu có những nhu cầu riêng
biệt, ở đó Thánh Thần đã ban các đặc sủng để đáp ứng rồi. Điều đó đòi hỏi Giáo
hội phải có khả năng mở ra những con đường cho sự táo bạo của Thánh Thần, để
tin tưởng và giúp phát triển một nền văn hoá riêng của Giáo hội, mang
tính giáo dân thật rõ nét. Những thách đố của Amazon đòi hỏi Giáo hội phải
có một nỗ lực đặc biệt để đảm nhận một sự hiện diện ở mọi cấp độ, vốn chỉ có
thể thực hiện được nhờ những giáo dân đóng một vai trò quan trọng.
95. Nhiều
người sống đời thánh hiến đã tiêu hao sức lực và phần lớn đời mình cho Nước
Chúa ở Amazon. Đời sống thánh hiến, nhờ có khả năng đối thoại, tổng hợp, dấn
thân vào đời và ngôn sứ, nên có một vị trí chọn lọc trong tập thể đông đúc và
hài hoà của Giáo hội Amazon này. Nhưng Giáo hội cần một nỗ lực hội nhập văn hoá
mới, để vận dụng óc sáng tạo, tính bạo dạn truyền giáo, sự nhạy cảm và sức mạnh
riêng của đời sống cộng đoàn.
96. Các cộng
đoàn cơ bản, khi biết kết hợp việc bảo vệ quyền lợi xã hội với lời loan báo
truyền giáo và linh đạo, đã là những kinh nghiệm thực sự về tính hiệp hành
(synodalité) trong con đường loan báo Tin Mừng của Giáo hội ở Amazon. Thường
những cộng đoàn này “đã giúp đào tạo những Kitô hữu dấn thân trong đức tin, các
môn đệ và thừa sai của Chúa, như đã được minh chứng bởi sự dâng hiến quảng đại
đến đổ máu đào, của biết bao thành viên của họ”137.
97. Tôi khuyến
khích cơ quan REPAM (Mạng lưới Giáo hội Toàn Amazon) và những tổ chức khác cùng
nhau đào sâu vấn đề, nhằm mục tiêu tăng cường điều mà tài liệu Aparecida yêu
cầu: “Thiết lập một nền mục vụ chung với các ưu tiên được biệt hoá giữa các
Giáo hội địa phương của các nước Nam Mỹ khác nhau trong lưu vực Amazon”138.
Điều đó đặc biệt cần cho các mối quan hệ giữa các Giáo hội giáp biên giới.
98. Cuối cùng,
tôi muốn nhắc lại rằng chúng ta không thể luôn nghĩ tới những dự án cho các
cộng đoàn bền vững, bởi vì ở Amazon có nhiều di chuyển nội bộ, một cuộc di dân
liên tục xảy ra thường ngày, và “thực tế, miền này đã biến thành một hành lang
di dân”.139 Cuộc sống du mục ở Amazon không được hiểu biết kỹ lưỡng và
cũng không được nghiên cứu đầy đủ về phương diện mục vụ”140. Chính vì thế, phải
nghĩ đến những nhóm truyền giáo lưu động và “ủng hộ việc những người sống đời
thánh hiến, nam cũng như nữ tham gia và cùng đi để sống với những người nghèo
khổ nhất và những người bị loại trừ”141. Mặt khác, điều đó thách đố các cộng
đoàn ở thành thị của chúng ta, phải khéo léo và quảng đại phát triển nhiều hình
thức gặp gỡ và tiếp đón đối với các gia đình và những người trẻ đến từ bên
trong lãnh thổ, nhất là ở những vùng ngoại biên.
Sức mạnh và sự cống hiến của phụ nữ
99. Ở Amazon,
có những cộng đoàn được duy trì và đã thông truyền đức tin trong thời gian dài
mà không có một linh mục nào đến viếng thăm; có khi kéo dài cả thập kỷ. Đó là
nhờ sự hiện diện của những người phụ nữ mạnh mẽ và quảng đại: các phụ nữ đã ban
bí tích rửa tội, dạy giáo lý, cầu nguyện, họ là những nhà thừa sai truyền giáo,
chắc chắn đã được Thánh Thần kêu gọi và tác động. Trong nhiều thế kỷ, họ đã giữ
Giáo hội đứng vững trong những vùng này với một lòng nhiệt thành tận tụy đáng
nể và một đức tin nồng nhiệt. Chính họ, ở Thượng Hội đồng, đã khiến tất cả
chúng tôi phải xúc động vì chứng tá của họ.
100. Điều đó
mời gọi chúng ta mở rộng tầm nhìn để tránh giản lược sự hiểu biết của chúng ta
về Giáo hội vào những cơ cấu chức vụ. Chủ nghĩa giản lược này dẫn chúng ta đến
chỗ nghĩ rằng chúng ta chỉ dành cho phụ nữ một quy chế và cho
họ tham gia nhiều hơn vào Giáo hội, nếu cho họ tiến đến chức thánh. Nhưng cái
nhìn này, trong thực tế, sẽ giới hạn các viễn cảnh, sẽ dẫn chúng ta đến việc
giáo sĩ hoá phụ nữ, giảm thiểu giá trị lớn lao của những gì họ đã cống hiến và
khéo làm nghèo đi đóng góp thiết yếu của họ.
101. Đức Giêsu
Kitô tự giới thiệu như Hôn Phu của cộng đoàn cử hành Thánh Thể qua khuôn mặt
của một người nam chủ trì cộng đoàn như dấu chỉ của Linh mục duy nhất. Cuộc đối
thoại giữa Hôn Phu và hiền thê này, nảy sinh trong việc tôn thờ và thánh hoá
cộng đoàn, không được giam giữ chúng ta trong những tiếp cận phiến diện với
quyền bính của Giáo hội. Vì Chúa đã muốn tỏ quyền bính và tình yêu của Ngài ra
qua hai khuôn mặt con người: khuôn mặt của Con Thiên Chúa làm người và khuôn
mặt của một thụ tạo là một phụ nữ: Đức Maria. Các phụ nữ đóng góp cho Giáo hội
một cách đặc thù, và bằng cách kéo dài sức mạnh và tình yêu thương của Đức Mẹ
Maria. Như thế, chúng ta không giới hạn mình vào một tiếp cận chức vụ, nhưng
chúng ta đi vào trong cơ cấu thân mật của Giáo hội. Chúng ta hiểu cặn kẽ tại
sao, không có phụ nữ, Giáo hội sẽ tan biến, tương tự như biết bao cộng đoàn
Amazon sẽ sụp đổ tan tành, nếu không có những phụ nữ ở đó để nâng đỡ, gìn giữ
và chăm sóc. Điều đó chứng tỏ quyền năng đặc thù của họ.
102. Chúng ta
không thể không tiếp tục khuyến khích những cống hiến của dân chúng, vốn dành
cho phụ nữ ở Amazon một vai trò quan trọng, ngay cả khi các cộng đoàn ngày nay
đang phải chịu những nguy cơ mới chưa từng có ở những thời đại trước. Hoàn cảnh
hiện tại cần chúng ta khích lệ có thêm những công việc phục vụ khác và những
đặc sủng khác của phụ nữ, nhằm đáp ứng những nhu cầu đặc thù của người dân
Amazon trong thời buổi lịch sử này.
103. Trong một
Giáo hội hiệp hành, các phụ nữ đóng một vai trò chính yếu trong những cộng đoàn
Amazon, phải được giữ những chức vụ, kể cả những chức vụ để phục vụ Giáo hội.
Những chức vụ này không đòi hỏi phải có chức thánh và cho phép họ tỏ rõ địa vị
của họ hơn. Cũng nên nhắc lại rằng, những việc phục vụ này cần phải bền lâu,
được công chúng nhìn nhận và được Giám mục sai đi. Điều đó cũng để cho các phụ
nữ có một ảnh hưởng thực sự và hữu hiệu trong tổ chức, trong các quyết định
quan trọng nhất và trong việc hướng dẫn các cộng đoàn, nhưng không ngừng làm
việc ấy với phong cách riêng của dấu ấn nữ giới.
Mở rộng những chân trời vượt qua những xung đột
104. Tại một số
nơi cụ thể, thường xảy ra là những người làm mục vụ thoáng thấy những giải pháp
rất khác biệt cho những vấn đề được đặt ra, và vì thế, họ đề nghị những hình
thức tổ chức Giáo hội có vẻ như đối nghịch nhau. Khi điều đó xảy ra, có lẽ giải
đáp đúng cho những thách đố của việc loan báo Tin Mừng là ở trong việc vượt qua
cả hai đề nghị, bằng cách tìm những con đường khác tốt hơn, có thể chưa hình
dung ra. Xung đột được vượt qua ở một mức độ cao hơn, ở đó mỗi bên, vẫn luôn
trung thành với chính mình, được sáp nhập với bên kia trong một thực tại mới.
Tất cả được giải quyết “ở một bình diện cao hơn và bảo tồn những tiềm năng quý
giá của cả hai bên đối cực”142 Bằng không thì xung đột sẽ giam giữ chúng
ta, “chúng ta mất tầm nhìn, chân trời của chúng ta bị thu nhỏ lại và chính thực
tại bắt đầu tan rã”143.
105. Chắc chắn
điều đó không muốn nói rằng phải tương đối hoá vấn đề, trốn tránh hoặc cứ để
chúng y như cũ. Những giải pháp đích thực không bao giờ đạt được khi thiếu sự
táo bạo, khi tránh né những đòi hỏi cụ thể hay đổ lỗi cho người khác. Trái lại,
lối thoát nằm ở chỗ “nước tràn bờ”, vượt lên trên biện chứng vốn giới hạn tầm
nhìn, để có thể nhìn nhận một ơn ban lớn hơn của Thiên Chúa. Từ ơn ban mới được
đón nhận với lòng can đảm và quảng đại này, từ ơn ban bất ngờ này sẽ nảy sinh
một sáng tạo mới mẻ và to lớn hơn, chảy ra như từ một dòng suối tuôn tràn những
giải đáp mà biện chứng không cho ta thấy. Khởi đầu, đức tin Kitô giáo được lan
rộng đáng kể khi đi theo lý luận cho phép nó khởi đi từ một gốc gác Do Thái, du
nhập vào những nền văn hoá Hy-La, rồi đạt được trên đường đi qua, những dạng
thức khác biệt. Tương tự như thế, vào thời điểm lịch sử này, Amazon thách thức
chúng ta vượt lên trên những viễn cảnh giới hạn, những giáp pháp từng phần vẫn
còn bị giam giữ trong những dáng vẻ phiến diện của những vấn nạn lớn, để đi tìm
những con đường hội nhập văn hoá rộng rãi hơn và dạn dĩ hơn.
Sống chung đại kết và liên tôn
106. Trong một
Amazon đa tôn giáo, các tín hữu cần tìm ra những không gian để thảo luận và
cùng nhau hành động vì công ích và thăng tiến những người nghèo nhất. Đây không
phải là vấn đề thoả hiệp hoặc che giấu niềm tin của mình để có thể gặp gỡ những
người khác có những suy nghĩ khác chúng ta. Người nào tin rằng Thánh Thần có
thể hoạt động trong sự đa dạng, thì họ sẽ cố gắng để cho ánh sáng ấy làm cho họ
thêm phong phú, nhưng họ đón nhận ánh sáng ấy với những xác tín và căn tính
riêng của mình. Bởi vì, một người có căn tính càng sâu sắc, vững chắc và phong
phú, thì người ấy càng muốn làm cho những người khác được phong phú bằng những
đóng góp của riêng mình.
107. Người Công
giáo chúng ta có một kho tàng trong Kinh Thánh mà những tôn giáo khác không có,
dù đôi khi họ có thể thích thú khi đọc Kinh Thánh và ngay cả đánh giá cao một
số phần của nội dung Kinh Thánh. Chúng ta thử làm tương tự đối với những bản
văn thánh thiêng của các tôn giáo và các cộng đoàn tôn giáo khác, nơi đó chúng
ta thấy “những huấn giới và giáo thuyết này […] vẫn thường mang theo một tia
sáng nào đó của chính Chân lý đang chiếu soi tất cả mọi người”144. Chúng ta
cũng có một sự phong phú lớn lao trong bảy bí tích mà có những cộng đoàn Kitô
giáo không chấp nhận trọn vẹn tất cả hoặc tương tự như vậy. Đồng thời chúng ta
tin vững vàng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất của thế giới, chúng ta vun
trồng lòng tôn sùng sâu xa đối với Mẹ của Chúa. Cho dù chúng ta biết điều đó
không có trong tất cả các cộng đoàn Kitô giáo, chúng ta có bổn phận truyền
thông cho người Amazon sự phong phú của tình yêu nồng nhiệt đối với Mẹ mà chúng
ta là những người nắm giữ kho tàng. Thật vậy, tôi sẽ kết thúc Tông huấn này với
những lời cầu xin Mẹ Maria.
108. Tất cả
những điều đó không được làm chúng ta trở thành thù địch. Trong một tinh thần
đối thoại chân thành, khả năng hiểu ý nghĩa những gì người khác nói và làm, sẽ
tăng thêm, dù chúng ta không thể đón nhận như xác tín của mình. Như thế, chúng
ta có thể trở nên thành thật, không che giấu những gì chúng ta tin, không ngừng
đối thoại, tìm kiếm những điểm gặp nhau, và nhất là cùng hoạt động và tranh đấu
để mưu cầu thiện ích cho Amazon. Sức mạnh của những gì hiệp nhất các Kitô hữu
có một giá trị bao la. Đôi khi chúng ta chú ý nhiều đến điều chia rẽ chúng ta,
nên chúng ta không trân trọng hay đề cao điều hiệp nhất chúng ta. Và điều hiệp
nhất chúng ta chính là điều cho phép chúng ta ở trong thế giới mà không bị
chính trần gian, sự trống rỗng tinh thần, thói tiện nghi ích kỷ, chủ nghĩa cá
nhân mang tính tiêu thụ và tự huỷ hoại nuốt trửng.
109. Tất cả
chúng ta là Kitô hữu, chúng ta hiệp nhất trong đức tin vào Thiên Chúa là Cha,
Đấng ban cho chúng ta sự sống và yêu chúng ta biết bao. Chúng ta hiệp nhất
trong đức tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc duy nhất, Ngài đã giải thoát
chúng ta nhờ Máu thánh và cuộc Phục sinh vinh hiển của Ngài. Chúng ta hiệp nhất
trong ước muốn được Lời Chúa dẫn bước chúng ta đi. Chúng ta hiệp nhất trong lửa
của Thánh Thần thúc đẩy chúng ta thi hành sứ vụ. Chúng ta hiệp nhất trong điều
răn mới Chúa Giêsu đã để lại, trong việc tìm kiếm nền văn minh tình thương,
lòng say mê Nước Trời mà Chúa kêu gọi chúng ta xây dựng với Ngài. Chúng ta hiệp
nhất trong cuộc chiến đấu cho hoà bình và công lý. Chúng ta hiệp nhất trong
niềm xác tín rằng mọi sự không hoàn tất ở đời này, nhưng chúng ta được kêu gọi
mừng lễ hội trên trời nơi Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ và nhìn nhận những
gì chúng ta đã làm cho những ai đang đau khổ.
110. Tất cả
những điều ấy hiệp nhất chúng ta. Làm sao không cùng nhau chiến đấu ? Làm sao
không cùng nhau cầu nguyện và làm việc sát cánh bên nhau để bảo vệ những người
nghèo ở Amazon, để bày tỏ Thánh nhan Chúa và để chăm sóc công trình tạo dựng
của Ngài ?
KẾT LUẬN
NGƯỜI MẸ CỦA AMAZON
111. Sau khi đã
chia sẻ vài ước mơ, tôi khuyến khích mọi người hãy bước vào những con đường cụ
thể, để biến đổi thực tại Amazon và giải thoát vùng này khỏi những tệ nạn đang
bủa vây. Giờ đây chúng ta hãy ngước nhìn lên Đức Maria. Người Mẹ mà Đức Kitô đã
trối lại cho chúng ta, là người Mẹ duy nhất của mọi người, nhưng trong vùng
Amazon lại biểu lộ theo nhiều cách khác nhau. Chúng ta biết rằng “người dân bản
địa gặp gỡ Đức Kitô một cách sống động bằng nhiều con đường; nhưng con đường
Maria đã góp phần lớn nhất cho cuộc gặp gỡ ấy”.145 Đứng trước kỳ quan Amazon
mà chúng ta ngày càng khám phá thêm, khi chuẩn bị cũng như khi tiến hành Thượng
Hội đồng, tôi tin rằng tốt nhất là nên kết luận Tông huấn này bằng cách cầu xin
với Đức Mẹ:
Lạy Mẹ sự sống,
Chúa Giêsu đã hình thành trong cung lòng Mẹ
Ngài là Chúa tể muôn loài.
Ngài đã biến đổi Mẹ bằng ánh sáng phục sinh của Ngài
và làm cho Mẹ thành nữ hoàng của muôn loài thụ tạo.
Vì thế, lạy Mẹ Maria, chúng con xin Mẹ
hãy ngự trị nơi cõi lòng thổn thức của Amazon.
Xin Mẹ hãy tỏ ra Mẹ là Mẹ của muôn loại thọ sinh,
nơi vẻ đẹp của những bông hoa, của những dòng sông
của dòng sông cả chảy ngang vùng đất này
và của tất cả những gì rung rinh trong các cánh rừng.
Xin Mẹ hãy thương mến bảo vệ vẻ đẹp lộng lẫy này.
Mẹ hãy xin Chúa Giêsu tuôn đổ tình yêu của Ngài
trên những người nam và người nữ đang cư ngụ nơi đây,
để họ biết trân quý và bảo vệ nơi này.
Xin Mẹ hãy hạ sinh Con Mẹ trong tâm hồn họ,
để Ngài chiếu sáng nơi Amazon,
nơi các dân tộc và các nền văn hoá của họ,
bằng ánh sáng của Lời, bằng tình yêu an ủi của Ngài,
bằng sứ điệp huynh đệ và công lý của Ngài.
Ước gì trong mỗi Thánh lễ
muôn điều kỳ diệu ấy cũng được dâng lên
để tôn vinh Chúa Cha.
Lạy Mẹ, xin nhìn đến những người nghèo của vùng Amazon,
bởi vì ngôi nhà của họ đang bị phá hủy
vì những lợi lộc nhỏ nhen.
Biết bao đau khổ và khốn khó
Biết bao ruồng bỏ và lạm dụng
nơi vùng đất được chúc phúc
và tràn đầy sức sống này!
Xin Mẹ hãy chạm đến sự nhạy cảm của các nhà cầm quyền
bởi vì, dù chúng con thấy rằng đã muộn,
Mẹ vẫn kêu gọi chúng con cứu lấy
những gì còn đang sống.
Mẹ có trái tim bị đâm thâu.
Mẹ chịu đau đớn nơi những đứa con bị ngược đãi
và nơi thiên nhiên bị thương tích,
xin Mẹ hãy cùng với Con của Mẹ,
thống trị Amazon.
Xin Mẹ hãy thống trị
để không còn ai thấy mình là chủ công trình của Thiên Chúa nữa.
Lạy Mẹ của sự sống,
chúng con tin tưởng nơi Mẹ,
xin đừng bỏ rơi chúng con
trong giờ phút tăm tối này.
Amen.
Làm tại Rôma, cạnh đền thờ Gioan Latêranô,
ngày 2 tháng 2, lễ Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ, năm 2020, năm thứ 7 triều
Giáo hoàng của tôi.
PHANXICÔ
––––––––––––––––––––––––––––––––––
1 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015),
số 49: AAS 107 (2015), tr. 866.
2 Tài liệu làm việc, số 45.
3 Ana Varela Tafur, “Timareo”, trong Lo que
no veo en visions – Những gì
tôi không thấy trong tầm nhìn,
Lima (1992).
4 Jorge Vega Márquez, “Amazonia solitária” – Amazon cô độc, trong Poesía
obrera, Cobija-Pando-Bolivia 2009, tr. 39.
5 Mạng lưới Giáo hội Toàn Amazon (REPAM),
Braxin, Síntesis del aporte al Sínodo – Tổng
hợp những đóng góp cho Thượng Hội Đồng, số
120: cf. Tài liệu làm việc, số 45.
6 Bài nói chuyện với các bạn trẻ, São Paulo, Braxin (10/05/2007), số
2: Insegnamenti III, 1 (2007), tr. 808.
7 Cf. Alberto C. Araújo, “Imaginario amazónico”, trong Amazonia
real: amazoniareal.com.br (29/01/2014).
8 Thánh Giáo hoàng Phaolô VI, Thông điệp Populorum progressio – Phát
triển các Dân tộc (26/03/1967), số 57: AAS 59 (1967),
tr. 285.
9 Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn với Hàn lâm viện
Giáo hoàng về Khoa học Xã hội (27/04/2001), số 4: AAS 93
(2001), 600.
10 Cf. Tài liệu làm việc, số 41.
11 Đại hội lần thứ V của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh và Vùng
Caribê, Tài liệu Aparecida (29/06/2007), số 473.
12 Ramón Iribertegui, Amazonas: El
hombre y el caucho, xb: Đại diện Tông toà Puerto Ayacucho - Venezuela,
Monografia, số 4, Caracas 1987, tr. 307tt.
13 Cf. Amarílis
Tupiassú, “Amazônia, das travessias lusitanas à literatura de até agora”,
trong Estudos Avançados, q. 19, số 53, São Paulo,
Braxin (tháng 01/tháng 04-2005): “Thực thế, sau khi kết thúc thời kỳ
thuộc địa đầu tiên, Amazon vẫn là khu vực bị thống trị bởi sự tham lam thâm căn
cố đế, nay với những luận điệu mới […] của các tổ chức “văn minh”, những người
thậm chí không đủ tư cách để tạo ra và nhân rộng những bộ mặt mới của guồng máy
hủy diệt cũ, nay lại cho chuyển qua một cái chết từ từ”.
14 Các Giám mục Amazon vùng
Braxin, Thư gửi Dân Chúa, Santarem - Braxin (06/07/2012).
15 Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô
II, Sứ điệp Ngày Hoà Bình Thế Giới 1998, số 3: AAS 90
(1998), tr. 150.
16 Đại hội lần thứ III của Hội
đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh và Vùng Caribê, Tài liệu Puebla (23/03/1979),
số 6.
17 Tài liệu làm việc, 6.
Đức Giáo hoàng Phaolô III, với Đoản sắc Veritas ipsa (02/06/1537),
đã lên án các văn bản phân biệt chủng tộc, nhìn nhận nhân phẩm của người bản
xứ, dù họ là Kitô hữu hay không, công nhận quyền sở hữu của họ và cấm không
được bắt họ làm nô lệ. Đức Thánh Cha khẳng định: “Họ là người như những người
khác, […] tuyệt đối không thể bị tước đoạt tự do và quyền sở hữu của cải, kể cả
những người không tin Đức Giêsu”. Giáo huấn của các Đức Giáo hoàng cũng quả
quyết như thế: Grêgôriô XIV, Sắc chỉ Cum Sicuti (28/04/1591);
Urbanô VIII, Sắc chỉ Commissum Nobis (22/04/1639); Bênêđictô
XIV, Sắc chỉ Immensa Pastorum Principis, gửi các Giám mục Braxin
(20/12/1741); Grêgôriô XVI, Đoản sắc In Supremo (03/12/1839);
Lêô XIII, Epistola ai Vescovi del Brasile sulla schiavitù (05/05/1888);
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Sứ điệp gửi người bản địa của Châu Mỹ
La tinh, Santo Domingo (12/10/1992), số 2: Insegnamenti 15,
2 (1992), tr. 341-347.
18 Frederico Benício de Sousa
Costa, Thư mục vụ (1909), xb: Imprenta
del gobierno del Estado de Amazonas, Manaos 1994, tr. 83.
19 Tài liệu làm việc, số
7.
20 Diễn văn nhân dịp Cuộc Gặp gỡ lần thứ 11 của các Phong
trào Bình dân trên Thế giới, Santa Cruz de la Sierra - Bolivia (9/7/2015): L’Osservatore
Romano bản tiếng Pháp, 16/07/2015, tr. 16.
21 Diễn văn trong Cuộc gặp gỡ Các Dân
tộc vùng Amazon, Puerto Maldonado - Peru (19/01/2018): L’Osservatore
Romano bản tiếng Pháp, 25/01/2018, tr. 10.
22 Tài liệu làm việc, số
24.
23 Yana Lucila Lema, Tamyahuan
Shamakupani (Tôi đang sống với cơn mưa), 1, tại
http://siwarmayu.com/es/yana-lucila-lema-6-poemas-de-tamyawan-shamukupani-con-la-lluvia-estoy-viviendo/.
24 Hội đồng Giám mục Êcuađor, Hãy chăm sóc hành tinh
của chúng ta (20/4/2012), số 3.
25 Ibid., số 142: AAS 107 (2015), tr.
904-905.
26 Ibid., số 82.
27 Ibid., số 83.
28 Tông huấn Evangelii gaudium – Niềm vui của Tin Mừng (24/12/2013),
số 239: AAS 105 (2013), tr. 1116.
29 Ibid., số 218: AAS 105 (2013), tr. 1110.
30 Ibid.
31 Cf. Tài liệu làm việc, số 57.
32 Cf. Evaristo Eduardo de Miranda, Quando
o Amazonas corria para o Pacífico, Petrópolis 2007, tr. 83-93.
33 Juan Carlos Galeano, “Paisajes”, in Amazonia y
otros poemas, Universidad Externado de Colombia, Bogotá 2011, tr. 31.
34 Javier Yglesias, “Llamado”, in Revista peruana de
literatura, số 6 (tháng Sáu 2007), tr. 31.
35 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số
144: AAS 107 (2015), tr. 905.
36 Tông huấn hậu Thượng Hội đồng, Christus vivit – Chúa
Kitô đang sống (25/03/2019), số 186.
37 Ibid., số 200.
38 Sứ điệp truyền hình cho cuộc Gặp gỡ Thế giới
Giới trẻ Bản địa, Soloy-Panama (18/01/2019).
39 Mario Vargas Llosa, Lời nói đầu viết cho quyển El
Hablador, Madrid (08/10/ 2007).
40 Tông huấn hậu Thượng Hội đồng, Christus vivit – Chúa
Kitô đang sống (25/03/2019), số 195.
41 Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus
annus – Bách chu niên (01/05/1991), số 50: AAS 83
(1991), tr. 856.
42 Đại hội lần thứ V của các Giám mục châu Mỹ Latinh
và các nước Vùng Caribê, Tài liệu Aparecida (29/06/2007), số 97.
43 Diễn văn trong buổi gặp gỡ Các Dân tộc vùng Amazon, Puerto Maldonado, Peru
(19/01/2018).
44 Tài liệu làm việc, số 123, e.
45 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 144: AAS 107
(2015), tr. 906.
46 Cf. Bênêđictô XVI, Thông điệp Caritas
in veritate – Bác ái trong chân lý (29/06/2009), số
51: AAS 101 (2009), tr. 687: “Đặc
biệt trong thời đại chúng ta, thiên nhiên đã hội nhập vào sự năng động xã hội
và văn hoá sâu xa đến độ không còn là dữ kiện độc lập nữa. Việc sa mạc hoá
nhanh chóng và lâm vào cảnh khổ của nhiều vùng nông nghiệp là hậu quả của nghèo
đói và chậm tiến của dân chúng sống nơi đó”.
47 Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới 2007, số 8: Insegnamenti II,
2 (2006), tr. 776.
48 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), các
số 16; 91; 117; 138; 240: AAS 107 (2015), tr. 854;
884; 894; 903; 941.
49 Tài liệu Bolivia: informe país. Consulta
pre-sinodal, 2019, tr. 36; Cf. Tài liệu làm việc, số 23.
50 Tài liệu làm việc, số 26.
51 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số
146: AAS 107 (2015), tr. 906.
52 Tài liệu đóng góp cho Thượng hội đồng, của giáo
phận San José del Guaviare và Tổng giáo phận Villavicencio và Granada (Colombia); Cf. Tài liệu làm việc, số 17.
53 Euclides da Cunha, Los Sertones (Os Sertões),
Buenos Aires 1946, tr. 65-66.
54 Pablo Neruda, “Amazonas”, trong Canto General (1938),
I. IV.
55 REPAM, Doc. Eje de Fronteras. Chuẩn bị cho
Thượng Hội đồng về Amazon, Tabatinga-Braxin (13/02/2019), tr. 3; Cf. Tài liệu làm việc, số 8.
56 Amadeu Thiago de Mello, Amazonas, patria da
agua.
57 Vinicius de Moraes, Para vivir un gran amor,
Buenos Aires (2013), tr. 166.
58 Juan Carlos Galeano, “Los que creyeron”, trong Amazonia
y otros poemas, Universidad Externado de Colombia, Bogotá (2011), tr. 44.
59 Harald Sioli, A Amazônia, Petropolis (1985),
tr. 60.
60 Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn gửi
các tham dự viên Hội nghị Quốc tế về “Môi trường và Sức khỏe” (24/03/1997),
số 2: Insegnamenti XX, 1 (1997), tr. 521.
61 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số
34: AAS 107 (2015), tr. 860.
62 Cf. Ibid., số 28-31: AAS 107
(2015), tr. 858-859.
63 Ibid., số 38: AAS 107 (2015), tr. 862.
64 Cf. Đại hội lần thứ V của các Giám mục
châu Mỹ Latinh và các nước Vùng Caribê, Tài liệu Aparecida (29/06/2007), số
86.
65 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015)), số
38: AAS 107 (2015), tr. 862.
66 Cf. Ibid. các số 144; 187: AAS 107
(2015), tr. 905-906; 921.
67 Cf. Ibid., số 183: AAS 107
(2015), tr. 920.
68 Ibid., số 53: AAS 107 (2015), tr. 868.
69 Cf. Ibid., số 49: AAS 107
(2015), tr. 866.
70 Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục Đặc biệt vể
Amazon, số 8.
71 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số
56: AAS 107 (2015), tr. 869.
72 Ibid., số 59: AAS 107
(2015), tr. 870.
73 Ibid., số 33: AAS 107
(2015), tr. 860.
74 Ibid., số 220: AAS 107
(2015), tr. 934.
75 Ibid., số 215: AAS 107 (2015),
tr. 932.
76 Sui Yun, Cantos para el mendigo y el rey,
Wiesbaden 2000.
77 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số
100: AAS 107 (2015), tr. 887.
78 Ibid., số 204: AAS 107
(2015), tr. 928.
79 Cf. Các Tài liệu Santarem
(1972) và Manaos (1997): trong Hội đồng Giám mục Braxin, Desafío
missionário. Documentos da Igreja na Amazônia, Braxin 2014, tr. 9-28; 67-84.
80 Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium - Niềm vui của Tin Mừng (24/11/2013), số 220: AAS 105
(2013), tr. 1110.
81 Ibid., số 164: AAS 105 (2013), tr. 1088-1089.
82 Ibid., số 165: AAS 105 (2013), tr. 1089.
83 Ibid., số 161: AAS 105 (2013), tr. 1087.
84 Công đồng Vaticanô II cũng nhận định như thế trong Hiến
chế Gaudium et spes, số 44: “Giáo Hội ngay từ lúc khởi đầu
lịch sử của mình, đã ra sức diễn tả sứ điệp của Chúa Kitô bằng những ý niệm và
ngôn ngữ của nhiều dân tộc. Hơn nữa, Giáo Hội còn cố gắng dùng sự khôn ngoan
của các triết gia để làm sáng tỏ sứ điệp ấy.Mục đích của Giáo Hội là làm cho
Tin Mừng, trong mức độ có thể, được thích nghi với tầm hiểu biết của mọi người
cũng như với những đòi hỏi của các nhà hiền triết. Cách thích nghi việc rao
giảng lời mặc khải như vậy vẫn luôn là nguyên tắc cho mọi công trình Tin Mừng
hoá, bởi vì có như vậy mới khơi dậy trong mọi quốc gia khả năng diễn tả sứ điệp
của Chúa Ki tô theo lối riêng của mình, đồng thời mới cổ vũ được sự trao đổi
linh động giữa Giáo Hội và những nền văn hoá khác nhau của các dân tộc”.
85 Thư gởi Dân Chúa đang lữ hành tại Đức, (29/06/2019), số 9.
86 Cf. Thánh Vincenzo di Lerins, Commonitorium primum,
23: PL 50, tr. 668: “Ut annis scilicet consolidetur, dilatetur
tempore, sublimetur aetate”.
87 Thư gởi Dân Chúa đang lữ hành tại Đức, (29/06/2019), số 9. Tham khảo câu
được cho là của Gustav Mahler: “Truyền thống là bảo đảm cho tương lai chứ không
phải gìn giữ tro tàn”.
88 Diễn văn với các giáo sư đại học và các nhà văn hoá, Coimbra, (15/05/1982), số 5: Insegnamenti V,
2 (1982), tr. 1702-1703.
89 Sứ điệp gửi thổ dân Châu Mỹ, Santo Domingo (12/10/1992), số
6: Insegnamenti, 15/2 (1992), tr. 346; cf. Diễn văn với các
tham dự viên Hội Nghị toàn quốc về Phong trào dấn thân trong lãnh vực văn hoá
của Giáo Hội (16/01/1982), số 2: Insegnamenti, 5/1 (1982),
tr. 131.
90 Tông huấn Vita consecrata – Đời sống thánh hiến (25/03/1996), số 98: AAS 88
(1996), tr. 474-475.
91 Số 115: AAS 105 (2013), tr. 1068.
92 Ibid., số 116: AAS 105 (2013), tr. 1068.
93 Ibid.
94 Ibid., số 129: AAS 105 (2013), tr. 1074.
95 Ibid., số 116: AAS 105 (2013), tr. 1068.
96 Ibid., số 117: AAS 105 (2013), tr. 1069.
97 Ibid.
98 Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Diễn văn dịp
Hội Nghị khoáng đại của Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn hoá (17/01/1987),
số 5: Insegnamenti X, 1 (1987), tr. 125.
99 Tông huấn Evangelii gaudium - Niềm vui của Tin Mừng (24/11/2013), số 129: AAS 105
(2013), tr. 1074.
100 Đại hội lần thứ IV của các Giám mục châu Mỹ
Latinh và các nước Vùng Caribê, Tài liệu Santo Domingo (12-28/10/1992),
số 17.
101 Tông huấn Evangelii gaudium - Niềm
vui của Tin Mừng (24/11/2013), số 198: AAS 105
(2013), tr. 1103.
102 Cf. Vittorio Messori - Joseph Ratzinger, Informe sobrae la fe – Bản tường trình về đức tin,
nxb. BAC, Madrid (2015), tr. 209-210.
103 Tông huấn Evangelii gaudium – Niềm
vui của Tin Mừng (24/11/2013), số 198: AAS 105
(2013), tr. 1103.
104 Pedro Casaldáliga, “Carta de navegar (Por
el Tocantins amazónico)”, trong El tiempo y la espera,
Santander (1986).
105 Thánh Tôma Aquinô giải thích như sau: “Thiên Chúa ở trong
mọi sự bằng ba cách thế: thứ nhất, Ngài hiện diện chung trong mọi sự, nhờ bản
chất, hiện diện và quyền năng; thứ hai, Ngài hiện diện trong các thánh nhờ ân
sủng; thứ ba, hiện diện trong Chúa Kitô nhờ việc kết hợp cá vị với Người” (Ad
Colossenses, II, 2).
106 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số
235: AAS 107 (2015), tr. 939.
107 Đại hội lần thứ III của các Giám mục châu Mỹ
Latinh và các nước Vùng Caribê, Tài liệu Puebla (23/03/1979), số 196.
108 Tông huấn Evangelii gaudium - Niềm
vui của Tin Mừng (24/11/2013), số 178: AAS 105
(2013), tr. 1094.
109 Cđ. Vaticanô II, Hiến chế Tín lý về Giáo
hội Lumen gentium, số 11; cf. Tông huấn Gaudete et exsultate – Hãy Vui
mừng hoan hỉ (19/03/2018), số 10-11.
110 Các Hạt Đại diện Tông toà của Peru ở Amazon, “Hội
nghị lần thứ hai của các Giám mục miền về Rừng”, San Ramón - Peru (05/10/1973);
trong Éxodo de la Iglesia en la Amazonia. Documentos pastorales de la
Iglesia en la Amazonia peruana, Iquitos (1976), tr. 121.
111 Tông huấn Evangelii gaudium - Niềm
vui của Tin Mừng (24/11/2013), số 123: AAS 105
(2013), tr. 1071.
112 Cf. Tông huấn Gaudete et
exsultate – Hãy Vui mừng hoan hỉ (19/03/2018),
số 126-127.
113 Ibid., số 32.
114 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015),
số 235: AAS 107 (2015),
tr. 939.
115 Ibid.
116 Ibid., số 236: AAS (2015),
tr. 940.
117 Ibid.
118 Ibid., số 235: AAS 107
(2015), tr. 939.
119 Cf. Cđ
Vaticanô II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concillium,
các số 37-40; 65; 77; 81.
120 Trong Thượng Hội đồng, có đề nghị triển khai một
“Nghi lễ Amazon”.
121 Thông điệp Laudato si’ (24/05/2015), số 237: AAS 107 (2015), tr. 940.
122 Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Amoris
laetitia – Niềm vui của tình yêu (19/03/2016), số
49: AAS 108 (2016), tr. 331; cf. Ibid., số
305: AAS 108 (2016), tr. 436-437.
123 Cf. Ibid., số 296;
308: AAS 108 (2016), tr. 430-431; 438.
124 Đại hội lần thứ V của các Giám mục châu Mỹ Latinh
và các nước Vùng Caribê, Tài liệu Aparecida (29/06/2007), số
100, e.
125 Cf. Bộ Giáo lý Đức tin, Thư Sacerdotium
ministeriale gởi các Giám mục Giáo hội Công giáo về một vài vấn đề liên hệ đến
thừa tác viên Thánh Thể (06/08/1983): AAS 75 (1983)
tr. 1001-1009.
126 Tông thư Mulieris dignitatem (15/08/1988),
số 27: AAS 80 (1988), tr. 1718.
127 Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae (Tổng
luận Thần học), III, q.8, a.1, trả lời.
128 Cf. Cđ
Vaticanô II, Sắc lệnh về sứ vụ và đời sống các linh mục Presbyterorum
ordinis, số 5; Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II,Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (17/04/2003),
số 22: AAS 95 (2003), tr. 448.
129 Chỉ có linh mục mới được ban Bí tích Xức Dầu Bệnh
Nhân, vì Bí tích này liên kết chặt chẽ với ơn tha tội: “Nếu người ấy phạm tội,
thì được tha tội” (Gc 5,15).
130 Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số
1396; Thánh Giáo hoàng
Gioan Phaolô II, Thông điệp Ecclesia de
Eucharistia (17/04/2003, số 26: AAS 95 (2003), tr.
451; Cf. Henri de Lubac, Suy niệm về Giáo hội, Paris
(1968), tr.101.
131 Cđ. Vaticanô II, Sắc lệnh về sứ vụ và đời sống
các linh mục Presbyterorum ordinis, số 6.
132 Tôi lưu ý về sự kiện là trong một số nước ở hạ
lưu Amazon, có nhiều thừa sai cho châu Âu hoặc cho Hoa Kỳ hơn là để giúp đỡ
chính những Địa hạt của họ ở Amazon.
133 Trong Thượng Hội đồng, người ta cũng nói đến vấn
đề thiếu các chủng viện đào tạo linh mục cho những người bản địa.
134 Cf. Cđ.
Vaticanô II, Hiến chế tín lý vể Giáo hội Lumen gentium, số 3.
135 Thánh Giáo hoàng Phaolô
VI, Bài giảng lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa, (17/06/1965): Insegnamenti III
(1965), tr.358.
136 Có thể, vì thiếu linh mục, Giám mục ủy thác “cho
một phó tế hoặc cho một người khác không có chức linh mục, hoặc còn cho một
cộng đoàn tham gia vào việc thi hành trách nhiệm mục một giáo xứ“ (Giáo luật,
khoản 517 §2).
137 Đại hội lần thứ V của các Giám mục châu Mỹ Latinh
và các nước Vùng Caribê, Tài liệu Aparecidia (29/6/2007), số
178.
138 Ibid., số 475.
139 Tài liệu làm việc, số 65.
140 Ibid., số 63.
141 Ibid., số 129 d, 2.
142 Tông huấn Evangelii gaudium – Niềm
vui của Tin Mừng (24/09/2013), số 228: AAS 105
(2013), tr. 1113.
143 Ibid., số 226: AAS 105(2013),
tr. 1112.
144 Cđ. Vaticanô II, Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo
hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo Nostra Aetate, số 2.
145 CELAM, Hội
thảo chuyên đề lần thứ III Châu Mỹ Latinh về Thần học Ấn Độ, Thành phố Guatemala (23-27/10/2006).
Bản dịch của Văn
phòng Thư ký HĐGMVN