PHẦN THỨ BA
THÁNH THỂ, MẦU NHIỆM ĐỂ
SỐNG
“Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã
sai tôi,
và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57).
Khuôn mẫu Thánh Thể của đời sống kitô
hữu
Việc
phượng tự thiêng liêng – logiké latreía (Rm 12,1)
70. Nói về việc hiến
ban sự sống của chính mình, Chúa Giêsu, Đấng đã trở nên lương thực chân lý và
tình yêu cho chúng ta, đã đảm bảo với chúng ta rằng “ai ăn bánh này, sẽ được
sống muôn đời” (Ga 6,51). Nhưng “sự sống
vĩnh cửu” này đã khởi sự nơi chúng ta trong thời gian, nhờ sự biến đổi mà hồng
ân Thánh Thể sinh ra nơi chúng ta : “Kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống
như vậy” (Ga 6,57). Những lời này của
Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rằng chính trong mầu nhiệm chúng ta tin và cử
hành chứa đựng một sự năng động làm nên nguyên lý của đời sống mới nơi chúng ta
và làm nên khuôn mẫu cho đời sống kitô hữu. Khi hiệp thông với Mình và Máu Đức
Giêsu Kitô, chúng ta luôn được thông dự vào sự sống thần linh cách trưởng thành
và ý thức hơn. Ở đây chúng ta có thể áp dụng điều thánh Augustinô đã nói trong
quyển Tự Thuật của ngài về Lời (logos) vĩnh cửu như là lương thực
của linh hồn ; nhấn mạnh đến tính nghịch lý của lương thực này, vị thánh tiến
sĩ tưởng như mình được nghe : “Ta là lương thực cho những người cao thượng. Hãy
trở nên cao thượng, và con sẽ ăn Ta, con sẽ không biến đổi Ta thành con, giống
như lương thực thân xác con ; nhưng con sẽ được biến đổi thành Ta”[1].
Thực vậy, không phải của ăn Thánh Thể biến thành chúng ta, nhưng chính chúng ta
được biến đổi cách mầu nhiệm bởi Thánh Thể. Đức Kitô nuôi dưỡng chúng ta bằng
cách nối kết chúng ta với Người ; “Người lôi kéo chúng ta đến với Người”[2].
Việc
cử hành Thánh Thể, với tất cả sức mạnh của mình, tỏ hiện như là nguồn suối và
chóp đỉnh của đời sống kitô giáo, vì nó đồng thời vừa là khởi đầu vừa là hoàn
tất phượng tự mới và tối hậu, “logiké
latreía”[3].
Về điều này, những lời của thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma là cách trình bày tổng
hợp nhất về cách thức nhờ đó Thánh Thể biến đổi tất cả đời sống chúng ta thành
việc phượng tự thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa : “Thưa anh em, vì Thiên Chúa
thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ
sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh
em thờ phượng Ngài” (Rm 12,1). Trong
lời khuyên nhủ này, hình ảnh phượng tự mới tỏ hiện như là việc hiến dâng trọn
vẹn con người trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh. Sự lưu tâm của vị
Tông đồ đối với việc hiến dâng thân xác của chúng ta nhấn mạnh tính cụ thể và
nhân bản của việc phượng tự không chút coi thường thân xác. Cũng liên quan đến
điểm này, vị thánh thành Hippone còn nhắc nhở chúng ta rằng nơi “hy lễ của những
người kitô hữu, dù đông đảo đến đâu, nhưng trong Đức Kitô, chúng ta chỉ làm nên
một thân thể duy nhất. Như người tín hữu biết, Hội Thánh cử hành mầu nhiệm ấy
trong bí tích bàn thờ, nơi Hội Thánh nhận ra mình được hiến dâng trong chính hy
lễ mình dâng hiến”[4].
Thực tế, giáo lý công giáo khẳng định rằng Thánh Thể, với tư cách là hy lễ của
Đức Kitô, cũng là hy lễ của Hội Thánh, và như thế là của mọi tín hữu.[5]
Việc nhấn mạnh đến hy lễ ở đây – nghĩa là “làm cho nên thánh thiêng” – nói lên
tất cả chiều sâu hiện sinh bao hàm trong sự biến đổi thực tại nhân loại của
chúng ta, một thực tại được chiếm hữu bởi Đức Kitô (x. Pl 3,12).
Hiệu
quả toàn vẹn của việc tôn thờ Thánh Thể
71. Việc phượng tự mới
của người kitô hữu bao trùm hết mọi khía cạnh của đời sống, bằng cách biến đổi
chính đời sống này : “Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy
làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr
10,31). Trong mọi hành vi của đời sống, người kitô hữu được mời gọi bày tỏ việc
phượng tự đích thực dành cho Thiên Chúa. Chính trong việc phượng tự đích thực
mà căn tính Thánh Thể của đời sống kitô hữu bắt đầu hình thành. Vì liên hệ đến
cả thực tại nhân loại của tín hữu trong đời sống cụ thể hằng ngày, Thánh Thể có
khả năng ngày qua ngày tạo nên sự biến đổi nơi con người, được mời gọi trở nên
hình ảnh của Con Thiên Chúa (x. Rm
8,29tt). Chẳng có gì thực sự nhân loại mà không tìm thấy trong bí thích Thánh
Thể khuôn mẫu thích hợp để được sống cách sung mãn, từ tư tưởng và tình cảm cho
đến lời nói và việc làm. Tất cả giá trị nhân loại của sự mới mẻ triệt để mà Đức
Kitô mang đến trong Thánh Thể tỏ hiện ở đây : việc phượng tự dành cho Thiên
Chúa trong đời sống con người không thể bị đóng khung trong một thời khắc đặc
biệt và riêng tư nào đó, nhưng do tự bản chất, việc phượng tự này hướng tới
việc thấm nhập từng khía cạnh của thực tại con người. Vì thế việc phượng tự đẹp
lòng Thiên Chúa trở thành một cách thức mới mẻ để sống mọi hoàn cảnh của cuộc
đời, ở đó mọi nét đặc thù đều được thăng hoa trong mức độ chúng được sống trong
tương quan với Đức Kitô và được hiến dâng cho Thiên Chúa. “Vinh quang của Thiên
Chúa là con người sống, và sự sống của con người là được nhìn thấy Thiên Chúa”[6].
“Iuxta dominicam viventes” –
Sống đúng theo ngày Chúa Nhật
72. Tính mới mẻ triệt
để mà Thánh Thể mang đến cho đời sống con người đã thể hiện nơi ý thức kitô hữu
ngay từ buổi đầu. Các tín hữu đã sớm nhận ra tầm ảnh hưởng sâu sắc của việc cử
hành Thánh Thể trên lối sống của họ. Bởi thế, thánh Inhaxiô thành Antiôkia đã
diễn tả chân lý này khi gọi kitô hữu là những người “đã đạt tới niềm hy vọng
mới” ; thánh nhân đã giới thiệu họ như là những người sống “đúng theo ngày Chúa
Nhật” (iuxta dominicam viventes)[7].
Công thức của vị tử đạo cao cả thành Antiôkia rõ ràng đã làm sáng tỏ mối liên
quan giữa thực tại Thánh Thể và cuộc đời kitô hữu trong cuộc sống hằng ngày.
Thói quen đặc thù của những người kitô hữu họp nhau lại ngày thứ nhất sau ngày
sabát để cử hành sự phục sinh của Đức Kitô – theo tường thuật của thánh Justinô
tử đạo – [8]
cũng là yếu tố xác định khuôn mẫu của đời sống được đổi mới nhờ gặp gỡ Đức
Kitô. Công thức của thánh Inhaxiô – “Sống đúng theo ngày Chúa Nhật” – cũng nhấn
mạnh giá trị mô phạm của ngày thánh này so với những ngày khác trong tuần lễ.
Thật vậy, sự khác biệt của Chúa Nhật không đơn giản là việc ngừng các hoạt động
thường ngày, như thể một đóng mở ngoặc xen vào giữa nhịp sống bình thường của
các ngày. Những người kitô hữu đã luôn xem ngày này như là ngày thứ nhất của
tuần lễ, bởi vì trong ngày này họ tưởng nhớ đến sự mới mẻ triệt để được Đức
Kitô mang đến. Vì thế Chúa Nhật là ngày mà người kitô hữu nhận ra khuôn mẫu
Thánh Thể của đời sống mình, theo đó họ được gọi để sống luôn mãi. “Sống đúng
theo ngày Chúa Nhật” có nghĩa là sống trong ý thức về sự tự do mà Đức Kitô mang
đến và hoàn tất cuộc sống mình như một hiến lễ dâng lên Thiên Chúa, để sự chiến
thắng của Người được tỏ bày cách trọn vẹn cho mọi người bằng một lối sống được
đổi mới tận sâu thẳm.
Sống
giới răn ngày Chúa Nhật
73. Ý thức về nguyên
lý sống mới mà Thánh Thể mang đến cho người kitô hữu, các Nghị phụ đã khẳng
định lại tầm quan trọng của giới răn giữ ngày Chúa Nhật đối với mọi tín hữu như
là nguồn tự do đích thực, hầu có thể sống những ngày khác trong tuần tuỳ thuộc
vào điều họ đã cử hành vào “Ngày của Chúa”. Thật vậy, đời sống đức tin sẽ gặp
nguy hiểm khi người ta không còn cảm thấy khao khát tham dự vào việc cử hành
Thánh Thể, là lúc tưởng niệm chiến thắng phục sinh. Tham dự vào cộng đoàn phụng
vụ Chúa Nhật, cùng với mọi anh chị em của chúng ta làm nên một thân thể duy
nhất trong Đức Giêsu Kitô, là đòi buộc của lương tâm kitô hữu đồng thời cũng
đào luyện lương tâm kitô hữu. Mất ý thức về ngày Chúa Nhật như là Ngày của Chúa
cần phải thánh hoá là triệu chứng mất đi ý thức chân chính của tự do kitô hữu,
sự tự do của những người con cái Thiên Chúa.[9]
Về điều này, những nhận xét liên quan đến những chiều kích khác nhau của ngày
Chúa Nhật đối với người kitô hữu trong Tông thư Ngày của Chúa (Dies Domini)[10],
của Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, vị tiền nhiệm của tôi, vẫn còn giá trị quý
báu : Chúa Nhật là Ngày của Chúa (Dies Domini), khi quy chiếu vào công trình
sáng tạo ; Chúa Nhật là Ngày của Đức Kitô
(Dies Christi) với tư cách là ngày
của sáng tạo mới và của hồng ân Thánh Thần mà Chúa Phục Sinh trao ban ; Chúa
Nhật là Ngày của Hội Thánh (Dies Ecclesiae) hiểu như là ngày cộng đoàn kitô hữu họp nhau để cử
hành ; Chúa Nhật là Ngày của con người
(Dies hominis) hiểu như là ngày vui mừng, nghỉ ngơi và bác ái huynh đệ.
Một
ngày như thế rõ ràng là ngày lễ quan trọng hàng đầu, ngày mà mọi tín hữu có thể
chứng tỏ trong môi trường mình sống như là người loan báo và gìn giữ ý nghĩa
của thời gian. Thật vậy, ý nghĩa kitô giáo của cuộc sống và một cách thức mới
mẻ sống chiều kích thời gian, các mối tương quan, công việc, sự sống và sự chết
bắt nguồn từ ngày này. Vì thế thật thích hợp khi vào Ngày của Chúa, cùng với
việc cử hành Thánh Thể Chúa Nhật, các nhóm trong Hội Thánh tổ chức những cách
biểu lộ đặc thù của cộng đoàn kitô hữu : gặp gỡ thân mật, sáng kiến giáo dục
kitô giáo cho các trẻ em, những người trẻ và những người trưởng thành, những
cuộc hành hương, việc bác ái và các loại gặp gỡ cầu nguyện khác. Dù rằng chiều
thứ Bảy, kể từ Kinh chiều I, đã thuộc về ngày Chúa Nhật, và bởi đó được phép
hiểu là đã chu toàn giới răn giữ ngày Chúa Nhật từ chiều thứ Bảy, nhưng vì những
lý do rất quan trọng nêu trên, nên thật cần thiết nhắc lại rằng chính ngày Chúa
Nhật đáng được thánh hoá, để ngày này không kết thúc như một ngày “vắng bóng
Thiên Chúa”[11].
Ý
nghĩa của nghỉ ngơi và lao động
74. Sau hết, đối với
thời đại của chúng ta, thật khẩn thiết để nhắc lại rằng Ngày của Chúa cũng là
ngày nghỉ làm việc. Chúng tôi rất ước mong điều đó cũng được nhìn nhận bởi xã
hội dân sự, sao cho mỗi người dân được nghỉ làm việc mà không phải bị phạt.
Thật vậy, những người kitô hữu, khi đối chiếu với ý nghĩa của ngày sabát nơi
truyền thống Do Thái, đã luôn xem Ngày của Chúa như ngày nghỉ ngơi, thoát khỏi
những lao nhọc thường ngày. Điều đó có một ý nghĩa rõ ràng được thiết định cho
con người, xác nhận tính tương đối của
lao động : lao động là vì con người chứ không phải con người vì lao động.
Từ nguyên lý này, thật dễ dàng nhận ra sự bảo vệ cho chính con người, để họ
được giải thoát khỏi một hình thức nô lệ nào đó. Như tôi đã có dịp khẳng định,
“lao động có tầm quan trọng hàng đầu cho việc thành toàn của con người và sự
phát triển của xã hội, chính vì thế, lao động nên được tổ chức và thực hiện
trong sự kính trọng toàn vẹn phẩm giá con người cũng như nhằm phục vụ công ích.
Đồng thời, không thể chấp nhận việc con người bị nô lệ hoá bởi lao động, thần tượng
hoá lao động, muốn tìm thấy nơi lao động ý nghĩa chung cuộc và quyết định của
đời sống”[12].
Chính trong ngày được thánh hiến cho Thiên Chúa mà con người hiểu được ý nghĩa
cuộc sống và lao động của mình.[13]
Tụ
họp ngày Chúa Nhật khi thiếu vắng linh mục
75. Khi đã khám phá
lại ý nghĩa của việc cử hành ngày Chúa Nhật đối với đời sống của những người
kitô hữu, thì đương nhiên phải đặt vấn đề về những cộng đoàn kitô hữu thiếu
vắng linh mục, và vì thế không thể cử hành Thánh Lễ vào Ngày của Chúa. Về vấn
đề này, phải nhận rằng chúng ta đang đối diện với những hoàn cảnh rất khác biệt
nhau. Trước hết, Thượng Hội Đồng Giám Mục đã khuyên nhủ các tín hữu hãy đi đến
một trong những nhà thờ của giáo phận, nơi chắc chắn có linh mục dâng Thánh Lễ,
cho dù điều đó đòi hỏi phải hy sinh.[14]
Trái lại, nơi đâu vì quá xa nhà thờ có linh mục dâng lễ, làm cho các tín hữu
trong thực tế không thể đi tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật được, thì điều quan
trọng là các cộng đoàn kitô hữu phải tụ họp lại để chúc tụng Chúa và để tưởng
niệm ngày đã được thánh hiến cho Chúa. Tuy nhiên, khi thực hành điều đó, cần
phải có sự giáo dục thích đáng về sự khác biệt giữa Thánh Lễ và những buổi tụ
họp ngày Chúa Nhật khi thiếu vắng linh mục. Trong trường hợp này, việc săn sóc
mục vụ của Giáo hội phải tỏ ra quan tâm sao cho phụng vụ Lời Chúa phải được tổ
chức dưới sự chủ toạ của một phó tế hoặc một người đã được trao phó trách nhiệm
cộng đoàn cách hợp pháp bởi người có thẩm quyền, và phải diễn ra theo một nghi
thức đặc biệt dùng cho việc cử hành này, được soạn thảo và chuẩn y bởi các Hội
Đồng Giám Mục.[15]
Tôi lặp lại, việc cho phép được trao Mình Thánh Chúa trong các buổi phụng vụ
này thuộc về các Đấng Bản Quyền, sau khi thẩm định cách cẩn thận những giải
pháp thích đáng để thi hành. Ngoài ra, còn phải lo liệu sao cho những buổi tụ
họp như thế không đưa đến sự lẫn lộn về vai trò trung tâm của linh mục và về
phương diện bí tích trong đời sống giáo hội. Vai trò quan trọng của người giáo
dân cần phải được nhìn nhận cách thích đáng vì sự quảng đại của họ nhằm phục vụ
các cộng đoàn kitô hữu, nhưng chẳng bao giờ có thể làm mờ nhạt đi thừa tác vụ
không thể thay thế của các linh mục đối với đời sống của Hội Thánh.[16]
Vì thế, phải quan tâm cẩn thận sao cho những buổi tụ họp khi thiếu vắng linh
mục không tạo cơ hội cho những cách nhìn về Hội Thánh không còn trung thành với
chân lý Phúc âm và truyền thống của Hội Thánh. Đúng hơn, những buổi tụ họp này
phải là những dịp cầu nguyện đặc biệt dâng lên Thiên Chúa để xin Ngài ban cho
những linh mục thánh thiện như lòng Ngài mong ước. Về điều này, thật cảm động
khi đọc lại những lời Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết trong Thư gửi các linh mục ngày Thứ Năm Tuần
Thánh năm 1979, nhắc đến những nơi mà các tín hữu, khi bị tước mất linh mục bởi
một chế độ độc tài, vẫn qui tụ lại trong một nhà thờ hay trong một cung thánh,
trưng bày dây các phép mà họ còn giữ được, đọc những lời nguyện của phụng vụ
Thánh Thể, giữ thinh lặng “lúc truyền phép”, để chứng tỏ rằng họ hết sức khao
khát “nghe những lời mà duy chỉ có môi miệng của các linh mục mới có thể công
bố một cách hữu hiệu”[17].
Trong cách nhìn này, và vì sự thiện hảo không thể sánh ví bắt nguồn từ việc cử
hành Hy Tế Thánh Thể, tôi xin tất cả các linh mục hãy sẵn lòng thực sự và cụ
thể đi viếng thăm thường xuyên nhất có thể những cộng đoàn được trao phó cho
mình chăm sóc mục vụ, sao cho các cộng đoàn này không phải thiếu vắng quá lâu
Bí tích Tình Yêu.
Một
khuôn mẫu Thánh Thể của đời sống kitô hữu :
thuộc
về Hội Thánh
76. Tầm quan trọng của
Chúa Nhật hiểu như là Ngày của Hội Thánh
(Dies Ecclesiae) dẫn chúng ta vào mối
tương quan nội tại giữa chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự dữ cũng như sự chết
và sự tuỳ thuộc của chúng ta vào Thân Thể Người là Hội Thánh. Thật vậy, trong
Ngày của Chúa, mọi người kitô hữu cũng tìm lại được chiều kích cộng đoàn của
đời sống được cứu chuộc của mình. Tham dự vào hành vi phụng vụ, hiệp thông với
Mình và Máu Đức Kitô cũng có nghĩa là làm cho chúng ta thuộc về Đấng đã chết vì
chúng ta ngày càng mật thiết và sâu xa hơn (x. 1Cr 6,19tt ; 7,23). Quả thật, ai ăn Đức Kitô sẽ sống bởi Người. Ý
nghĩa sâu xa của sự hiệp thông các thánh (communio sanctorum) được hiểu trong mối
tương quan với mầu nhiệm Thánh Thể. Sự hiệp thông luôn có một nghĩa không thể
tách rời giữa chiều đứng và chiều ngang : hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông
với anh chị em của chúng ta. Hai chiều kích này gặp nhau cách bí tích trong
hồng ân Thánh Thể. “Ở đâu sự hiệp thông với Thiên Chúa, nghĩa là với Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần, bị phá hủy, ở đó cội rễ và nguồn suối của sự hiệp
thông giữa chúng ta cũng bị phá huỷ. Và ở đâu chúng ta không sống mối hiệp
thông với nhau, ở đó sự hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi không còn sống động
và cũng không còn chân thật”[18].
Được kêu gọi trở nên chi thể của Đức Kitô và bởi đó cũng là chi thể của nhau
(x. 1Cr 12,27), chúng ta hợp thành
một thực tại tự bản chất được xây dựng trên Bí tích Rửa Tội và được nuôi dưỡng
bởi Bí tích Thánh Thể, một thực tại cần phải có cách diễn tả hữu hình trong đời
sống các cộng đoàn của chúng ta.
Rõ
ràng, khuôn mẫu Thánh Thể của đời sống kitô hữu là một khuôn mẫu giáo hội và
cộng đoàn. Qua Giáo Phận và các giáo xứ hiểu như là cấu trúc cơ bản của Hội
Thánh trên một lãnh thổ riêng, mọi tín hữu có thể có kinh nghiệm cụ thể rằng
mình thuộc về Thân Thể Đức Kitô. Những hiệp hội, những phong trào trong Hội
Thánh và những cộng đoàn mới – với sự sinh động của đặc sủng được Chúa Thánh
Thần ban tặng cho thời đại chúng ta, cũng như những Hội dòng sống đời thánh
hiến – có bổn phận góp phần đặc biệt của mình để giúp các tín hữu nhận thức
được rằng họ thuộc về Chúa (x. Rm
14,8). Dù rằng không phải do ngẫu nhiên mà có, nhưng hiện tượng tục hoá mang
nặng tính cá nhân chủ nghĩa đã gây ra những hệ quả tai hại, nhất là nơi những
người sống cô lập vì thiếu hiểu biết ý nghĩa của sự tuỳ thuộc. Ngay từ lúc khởi
đầu, Kitô giáo luôn mang tính cộng đoàn, một hệ thống những mối tương quan
không ngừng được thông truyền sức sống bởi việc lắng nghe Lời, cử hành Thánh
Thể, và được linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần.
Linh
đạo và văn hoá Thánh Thể
77. Một cách đầy ý
nghĩa, các Nghị phụ đã khẳng định rằng “các tín hữu kitô cần có một sự hiểu
biết sâu sắc hơn những mối tương quan giữa Thánh Thể và đời sống thường ngày.
Linh đạo Thánh Thể không chỉ là là việc tham dự Thánh Lễ và tôn sùng Thánh Thể.
Linh đạo này bao trùm toàn bộ đời sống”[19].
Việc nhấn mạnh này mặc lấy một ý nghĩa đặc biệt đối với tất cả chúng ta ngày
nay. Phải nhận ra rằng một trong những tác hại trầm trọng nhất của sự tục hóa
vừa được nhắc đến là đã đẩy đức tin kitô giáo ra bên lề cuộc sống, như thể đức
tin là vô ích cho tiến trình cụ thể của đời sống con người. Thất bại của lối
sống “như thể không có Thiên Chúa” giờ đây hiện ra nhan nhãn trước mắt mọi
người. Ngày nay, thật cần thiết khám phá lại rằng Đức Giêsu Kitô không đơn giản
chỉ là một xác tín cá nhân hay một học thuyết trừu tượng, nhưng là một con
người đích thực, mà sự hội nhập của Người vào trong lịch sử có khả năng làm mới
mẻ đời sống của mọi người. Chính vì thế, Thánh Thể, hiểu như là nguồn suối và
chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, phải được thể hiện trong linh
đạo và đời sống “theo Thánh Thần” (Rm
8,4tt ; x. Gl 5,16.25). Thật ý nghĩa
khi thánh Phaolô, trong một đoạn của Thư
gửi tín hữu Rôma, mời gọi sống việc phượng tự thiêng liêng mới mẻ, cùng lúc
nhắc nhở sự cần thiết thay đổi lối sống và cách suy nghĩ : “Anh em đừng có rập
theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần,
hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa : cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa,
cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Bằng cách
này, vị Tông đồ dân ngoại nhấn mạnh mối liên hệ giữa việc phượng tự thiêng
liêng đích thực và sự cần thiết có được một cách thức mới mẻ nhận thức cuộc
sống và định hướng đời sống mình. Đổi mới cách suy nghĩ là thành phần của khuôn
mẫu Thánh Thể của đời sống kitô hữu, “Như vậy, chúng ta sẽ không còn là những
trẻ nhỏ, bị sóng đánh trôi giạt theo mọi chiều gió đạo lý” (Ep 4,14).
Thánh
Thể và việc loan báo Tin Mừng cho các nền văn hoá
78. Hệ quả của tất cả
những điều đã nói trên là : Mầu nhiệm Thánh Thể dẫn chúng ta vào cuộc đối thoại với các nền văn hoá khác
biệt, nhưng cũng đưa chúng ta vào trong chiều hướng thách đố các nền văn hoá này.[20]
Phải nhận ra tính cách liên văn hoá của việc phượng tự mới này, của việc phượng tự xứng hợp (logiké latreía). Sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô và việc ban tràn
đầy Chúa Thánh Thần là những biến cố có thể không ngừng đối chiếu với mọi thực
tại văn hoá, để gieo vào đó men Phúc Âm. Điều đó bao hàm một sự dấn thân đầy
xác tín để cổ võ việc loan báo Tin Mừng cho các nền văn hoá, với ý thức rằng
chính Đức Kitô là chân lý của mọi người và của toàn thể lịch sử nhân loại.
Thánh Thể trở thành tiêu chuẩn phân định tất cả những điều Kitô giáo phải đối
diện nơi các nền văn hoá khác biệt. Chính trong tiến trình quan trọng này mà
chúng ta có thể hiểu trọn vẹn ý nghĩa những lời của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Thesalônica : “Hãy cân nhắc mọi sự :
điều gì tốt thì giữ” (5,2).
Thánh
Thể và tín hữu giáo dân
79. Trong Đức Kitô,
Đầu của Hội Thánh là Thân Thể Người, mọi người kitô hữu hợp thành “giống nòi
được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên
Chúa, để loan truyền những kỳ công của Ngài” (1Pr 2,9). Là mầu nhiệm để sống, Thánh Thể được hiến ban cho mỗi
chúng ta trong điều kiện hiện tại, làm cho hoàn cảnh sống của chúng ta trở nên
nơi sống hằng ngày sự mới mẻ của Kitô giáo. Nếu Hy Tế Thánh Thể nuôi dưỡng và
làm lớn lên nơi chúng ta điều đã được trao ban trong Bí tích Rửa Tội, nhờ đó
tất cả chúng ta được mời gọi đến sự thánh thiện,[21]
điều đó phải xuất hiện và bày tỏ cách đích thực nơi những hoàn cảnh hoặc tình
trạng sống của mỗi người kitô hữu. Ngày qua ngày, họ trở nên một phượng tự đẹp
lòng Thiên Chúa bằng cách sống ơn gọi của chính mình. Khởi điểm từ sự tập hợp
phụng vụ, chính Bí tích Thánh Thể dẫn đưa chúng ta vào trong thực tại hằng ngày
để mọi sự được thực hiện vì vinh quang của Thiên Chúa.
Bởi
vì thế giới là “cánh đồng” (Mt 13,38)
trong đó Thiên Chúa gieo vào hạt giống tốt là con cái Ngài, các kitô hữu giáo
dân, do bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, và được củng cố nhờ Thánh Thể, được mời
gọi sống tính mới mẻ triệt để được Đức Kitô mang đến ngay giữa lòng cuộc sống
của họ.[22]
Họ cần nuôi dưỡng ước muốn này : Thánh Thể luôn biểu bộ ngày càng sâu xa hơn
trong đời sống thường ngày của họ, làm cho họ trở thành những chứng nhân nhất
quán trong môi trường làm việc của họ và trong khắp xã hội.[23]
Tôi đặc biệt khuyến khích các gia đình, để họ có thể tìm thấy nguồn cảm hứng và
sức mạnh nơi Bí tích này. Tình yêu giữa người nam và người nữ, việc tiếp nhận
sự sống, nhiệm vụ giáo dục con cái, tỏ ra là những nơi ưu tiên, nơi mà Thánh
Thể có thể thực hiện khả năng biến đổi và dẫn đưa cuộc sống đến sự tròn đầy ý
nghĩa của nó.[24]
Các mục tử đừng bao giờ quên sót bổn phận trợ giúp, giáo dục và khuyến khích
các tín hữu giáo dân sống cách trọn vẹn ơn gọi nên thánh của họ giữa thế gian
này, thế gian mà Thiên Chúa đã quá yêu thương đến nỗi trao ban Con của Ngài làm
Đấng Cứu Độ (x. Ga 3,16).
Thánh
Thể và linh đạo linh mục
80. Quả thật, khuôn
mẫu Thánh Thể của đời sống kitô hữu thể hiện cách đặc biệt trong đời sống linh
mục. Linh đạo linh mục tự bản chất là Thánh Thể. Hạt mầm của linh đạo này đã
được tìm thấy nơi những lời Đức Giám mục công bố trong phụng vụ Phong Chức :
“Con hãy nhận lễ vật của dân thánh mà dâng lên Thiên Chúa. Con hãy ý thức việc
con làm, noi theo điều con thực hiện, và rập đời sống con theo khuôn mẫu mầu
nhiệm thánh giá Chúa”[25].
Để làm cho đời sống mình trở nên một khuôn mẫu Thánh Thể mỗi ngày càng hoàn hảo
hơn, linh mục phải dành một vị trí ưu tiên cho đời sống tu đức ngay từ giai
đoạn đầu của việc đào tạo, và trong những năm tiếp theo.[26]
Linh mục luôn luôn được gọi trở nên người thật sự đi tìm Thiên Chúa, đồng thời
vẫn gần gũi với những bận tâm của con người. Một đời sống tu đức vững mạnh sẽ
cho phép người linh mục bước vào trong sự hiệp thông sâu thẳm hơn với Chúa và
sẽ giúp người linh mục sẵn sàng để mình bị chiếm hữu bởi tình yêu của Thiên
Chúa, và trở nên chứng nhân của Ngài trong mọi hoàn cảnh, ngay cả trong lúc khó
khăn hay u tối. Với mục đích này, tôi, cùng với các Nghị Phụ, khuyên nhủ các
linh mục hãy “dâng Thánh Lễ mỗi ngày, cho dù không có giáo dân tham dự”[27].
Trước hết, lời khuyên nhủ này phù hợp với giá trị khách quan vô tận của mỗi lần
cử hành Thánh Thể ; kế đến, lời khuyên này được thúc đẩy bởi hiệu quả thiêng
liêng vô song của Thánh Lễ, bởi vì nếu được chú tâm sống với niềm tin, Thánh Lễ
trở nên nơi đào luyện, với ý nghĩa sâu sắc nhất của từ này, theo mức độ Thánh
Lễ thúc đẩy việc trở nên đồng hình với Đức Kitô và củng cố linh mục trong ơn
gọi của mình.
Thánh
Thể và đời sống thánh hiến
81. Trong khung cảnh
của những mối tương quan giữa Thánh Thể và những ơn gọi khác nhau trong Hội
Thánh rực sáng lên cách đặc biệt “chứng từ tiên tri của các tu sĩ, những người
tìm thấy trong cử hành và tôn thờ Thánh Thể sức mạnh để bước theo Đức Kitô cách
triệt để trong đời sống vâng phục, nghèo khó và khiết tịnh.[28]
Khi xả thân phục vụ trong lãnh vực đào tạo nhân bản và săn sóc những người
nghèo, trong ngành giáo dục và trong việc trợ giúp những bệnh nhân, các tu sĩ
biết rằng mục đích chính của đời sống họ là “chiêm ngưỡng chân lý thần linh và
kết hợp mật thiết với Thiên Chúa”[29].
Sự đóng góp chính yếu mà Hội Thánh chờ đợi nơi đời sống thánh hiến thuộc trật
tự hiện hữu hơn là trật tự hoạt động. Về điểm này, tôi muốn nhắc lại tầm quan
trọng của chứng từ về sự khiết tịnh, đặc biệt trong tương quan với mầu nhiệm
Thánh Thể. Cùng với mối liên hệ với sự độc thân linh mục, mầu nhiệm Thánh Thể
cũng có một tương quan nội tại với đức khiết tịnh của tu sĩ, trong mức độ sự
khiết tịnh này là cách diễn tả sự hiến dâng trọn vẹn của Hội Thánh cho Đức Kitô
và đón nhận Người như Hôn phu của mình với một lòng trung tín tuyệt đối và
phong nhiêu.[30]
Trong Thánh Thể, sự khiết tịnh của tu sĩ tìm gặp nguồn cảm hứng và lương thực
cho sự dâng hiến trọn vẹn cho Đức Kitô. Sự khiết tịnh của tu sĩ cũng múc được
từ Thánh Thể nguồn trợ lực và sự thúc đẩy trở nên dấu chỉ tình yêu nhưng không
và phong nhiêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Cuối cùng, qua chứng từ đặc
biệt này, đời sống thánh hiến khách quan trở nên lời nhắc nhở và sự tham dự
trước vào “tiệc cưới Con Chiên” (Kh
19,7-9), và đó cũng là mục đích của toàn thể lịch sử cứu độ. Theo nghĩa này,
đời sống thánh hiến quy chiếu cách hiệu quả vào viễn tượng cánh chung mà mọi
người cần có để có thể định hướng những chọn lựa và những quyết định của đời
mình.
Thánh
Thể và sự biến đổi luân lý
82. Khi khám phá ra vẻ
đẹp của khuôn mẫu Thánh Thể cho đời sống kitô hữu, chúng ta cũng được thúc đẩy
suy nghĩ về những năng lực luân lý khởi đi từ khuôn mẫu này như một trợ giúp cho
tự do đích thực của con cái Chúa. Tôi ước muốn lấy lại ở đây một chủ đề đã được
đề cập ở Thượng Hội Đồng Giám Mục liên quan đến mối liên hệ giữa khuôn mẫu Thánh Thể của cuộc sống và sự biến đổi luân lý. Đức Giáo hoàng
Gioan Phaolô II đã khẳng định rằng đời sống luân lý “có một giá trị phượng tự
thiêng liêng” (Rm 12,1 ; x. Pl 3,3), kín múc và được nuôi dưỡng từ
nguồn suối thánh thiện và hiển vinh không hề vơi của Thiên Chúa là các bí tích,
đặc biệt là Thánh Thể : thật vậy, khi tham dự vào Hy tế thập giá, người kitô
hữu hiệp thông vào tình yêu tự hiến của Đức Kitô, được trang bị để dấn thân
sống đức ái trong mọi hành động và mọi cư xử của đời sống mình”[31].
Cuối cùng, chính trong việc phượng tự và việc rước lễ mà người kitô hữu nhận ra
mình được yêu thương, để rồi đến lượt mình cũng phải yêu thương người khác. Bí
tích Thánh Thể mà không đưa đến hành động thực tiễn của tình yêu thì không còn
nguyên vẹn”[32].
Việc
nhắc lại giá trị luân lý của phượng tự thiêng liêng không thể được giải thích
theo kiểu giáo hoá luân lý. Điều cốt yếu trước tiên là việc vui mừng khám phá
ra tính năng động của tình yêu bằng một con tim biết đón nhận hồng ân của Chúa,
hiến thân cho Ngài và tìm thấy sự tự do đích thực. Sự biến đổi luân lý, bao hàm
trong việc phượng tự mới, được thiết lập bởi Đức Kitô, là một sự vươn lên và là
một khát vọng sâu thẳm muốn đáp trả tình yêu Chúa bằng trọn cả con người mình,
trong khi vẫn hoàn toàn ý thức sự mỏng giòn của bản thân. Điều chúng ta vừa nói
phản ánh rõ nét trong trình thuật phúc âm liên quan đến Giakêu (x. Lc 19,1-10). Sau khi đã đón Chúa Giêsu
vào nhà mình, người thu thuế cảm thấy hoàn toàn được biến đổi : anh ta quyết
định trao tặng nửa phần gia tài mình cho những người nghèo và trả lại gấp bốn
cho những người mà anh ta đã từng chiếm đoạt. Sự vươn lên về mặt luân lý nẩy
sinh từ sự đón tiếp Chúa Giêsu trong đời sống, phát xuất từ lòng biết ơn do
được kinh nghiệm về sự gần gũi thân tình của Chúa, chứ không do chút công trạng
nào của chúng ta.
Sự
nhất quán Thánh Thể
83. Thật quan trọng
nêu lên điều mà các Nghị Phụ đã gọi là sự
nhất quán Thánh Thể (congruentiam
eucharisticam), phẩm chất mà đời sống chúng ta được mời gọi đạt tới. Thật
vậy, việc phượng tự đẹp lòng Thiên Chúa chẳng bao giờ là một hành vi thuần tuý
cá nhân, chẳng ảnh hưởng gì đến các mối tương quan xã hội của chúng ta : việc
phượng tự này đòi hỏi một chứng từ công khai của đức tin chúng ta. Dĩ nhiên
điều đó đòi buộc mọi người đã được rửa tội, nhưng đòi buộc cách đặc biệt hơn
những người, do địa vị xã hội hoặc chính trị của họ, phải đưa ra những quyết
định liên quan đến những giá trị căn bản, như tôn trọng và bảo vệ sự sống con
người từ lúc thụ thai đến khi chết cách tự nhiên, như xây dựng gia đình trên
nền tảng hôn nhân giữa người nam và người nữ, tự do giáo dục con cái và thăng
tiến công ích dưới mọi hình thức.[33]
Những giá trị này là không thể thoả hiệp. Bởi đó, những nhà chính trị và những
nhà lập pháp công giáo, ý thức về trách nhiệm xã hội nặng nề này, phải để cho
mình đặc biệt được chất vấn bởi lương tâm được đào luyện cách thích đáng, để giới
thiệu và bảo vệ những luật lệ lấy cảm hứng từ những giá trị được xây dựng trên
bản tính con người.[34]
Điều đó có một liên hệ khách quan với Thánh Thể (x. 1Cr 11,27-29). Các Giám mục được đòi hỏi phải không ngừng nhắc lại
những giá trị này ; đó là một phần trong trách nhiệm đối với đoàn chiên được
trao phó cho các ngài.[35]
Thánh Thể, mầu nhiệm để loan báo
Thánh
Thể và sứ vụ
84. Trong bài giảng
Thánh Lễ khởi đầu cách lọng trọng thừa tác vụ của tôi trên ngai toà Phêrô, tôi
đã nói : “Chẳng có gì đẹp hơn việc được gặp gỡ và được cuốn hút bởi Tin Mừng,
bởi Đức Kitô. Chẳng có gì đẹp hơn việc nhận biết Đức Kitô và thông truyền cho
người khác tình bạn với Người”[36].
Khẳng định này sẽ đạt tới một cường độ mạnh mẽ nếu chúng ta nghĩ đến mầu nhiệm
Thánh Thể. Thật vậy, chúng ta không thể chỉ giữ cho riêng mình tình yêu mà
chúng ta cử hành trong Bí tích này. Tự bản chất, Bí tích này đòi được thông
truyền cho mọi người. Điều mà thế giới cần chính là tình yêu Thiên Chúa, là gặp
gỡ Đức Kitô và tin vào Người. Chính vì thế, Thánh Thể không chỉ là nguồn suối
và chóp đỉnh đời sống của Hội Thánh ; Thánh Thể cũng là nguồn suối và chóp đỉnh
sứ vụ của Hội Thánh : “Một Hội Thánh thật sự sống Thánh Thể là một Hội Thánh
truyền giáo”[37].
Chính chúng ta có bổn phận phải nói cho anh chị em chúng ta với niềm xác tín :
“Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để
chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi” (1Ga 1,3). Thực tế, chẳng có gì đẹp hơn việc gặp gỡ Đức Kitô và
thông truyền Đức Kitô cho mọi người. Hơn nữa, chính việc thiết lập Thánh Thể
báo trước trọng tâm sứ vụ của Chúa Giêsu : Người được Chúa Cha sai đến để cứu
chuộc thế gian (x. Ga 3,16-17 ; Rm 8,32). Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu
ủy thác cho các môn đệ Bí tích hiện tại hóa hy tế mà chính Người đã thực hiện,
bởi vâng phục Chúa Cha, vì phần rỗi của tất cả chúng ta. Chúng ta không thể đến
gần Bàn tiệc Thánh Thể mà không để cho mình được dẫn đưa vào trong việc thi
hành sứ vụ, một sứ vụ bắt nguồn từ chính trái tim của Thiên Chúa và muốn liên
kết mọi người lại với nhau. Vì thế, định hướng truyền giáo là yếu tố cấu tạo
nên khuôn mẫu Thánh Thể của đời sống kitô hữu.
Thánh
Thể và việc làm chứng
85. Sứ vụ đầu tiên và
căn bản, bắt nguồn từ những Mầu nhiệm thánh mà chúng ta cử hành, là làm chứng
bằng chính đời sống của chúng ta. Sự kinh ngạc thích thú trước hồng ân mà Thiên
Chúa ban tặng chúng ta trong Đức Kitô in sâu vào đời sống chúng ta một sự năng
động mới, thúc đẩy chúng ta trở nên những chứng nhân cho tình yêu của Ngài.
Chúng ta chỉ trở nên những chứng nhân khi có một Đấng khác tỏ hiện và thông
truyền qua hành động, lời nói và thái độ của chúng ta. Chúng ta có thể nói rằng
việc làm chứng là phương thế nhờ đó chân lý về tình yêu của Thiên Chúa gặp gỡ
con người trong lịch sử, mời gọi họ tự do đón nhận tính mới mẻ triệt để này.
Trong việc làm chứng, Thiên Chúa chấp nhận chuốc lấy nguy cơ, nếu có thể nói
như thế, trước tự do của con người. Chính Chúa Giêsu là vị chứng nhân trung
thành và chân thực (x. Kh 1,5 ; 3,14)
; Người đã đến để làm chứng cho sự thật (x. Ga
18,37). Ở đây, tôi rất muốn lặp lại một khái niệm quý báu đối với những người
kitô hữu tiên khởi, nhưng cũng liên quan đến tất cả chúng ta, những người kitô
hữu hôm nay : làm chứng đến tự hiến chính mình, đến cả việc tử đạo, luôn được
xem là chóp đỉnh của việc phượng tự thiêng liêng mới : “Hãy hiến dâng thân mình
anh em” (Rm 12,1). Chẳng hạn, thử
nghĩ đến trình thuật về sự tử đạo của thánh Polycarpe thành Smyrne, một đồ đệ
của thánh Gioan : mọi diễn tiến bi thảm đều được diễn tả như một phụng vụ, mà
chính vị tử đạo muốn nên như Thánh Thể.[38]
Chúng ta cũng nghĩ đến ý thức Thánh Thể mà thánh Inhaxiô thành Antiôkia mô tả
nhắm đến cuộc tử đạo của mình : ngài tự coi mình như là “hạt lúa mì của Thiên Chúa”,
và qua cuộc tử đạo ngài muốn trở nên “tấm bánh tinh tuyền của Đức Kitô”[39].
Người kitô hữu hiến dâng mạng sống mình qua việc tử đạo bước vào trong sự hiệp
thông trọn vẹn với cuộc Vượt qua của Đức Giêsu Kitô, và như thế họ trở nên
Thánh Thể cùng với Người. Ngày nay vẫn còn đó những vị tử đạo giữa lòng Hội
Thánh, nhờ họ tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ cách chóp đỉnh. Cho dù chúng ta
không phải chịu thử thách tử đạo, nhưng chúng ta vẫn biết rằng việc phượng tự
đẹp lòng Chúa đòi hỏi tận trong sâu thẳm sự sẵn sàng này,[40]
và phải được thể hiện qua chứng tá đầy vui mừng và tin tưởng trước thế giới
bằng một đời sống kitô hữu nhất quán trong những môi trường mà Chúa mời gọi
chúng ta loan báo Ngài.
Đức
Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất
86. Nhấn mạnh mối
tương quan nội tại giữa Thánh Thể và sứ vụ cũng giúp chúng ta khám phá ra nội
dung chung cuộc của việc loan báo của chúng ta. Khi lòng yêu mến Thánh Thể càng
sống động trong tâm hồn của dân kitô giáo, thì sứ vụ loan báo càng trở nên rõ
ràng hơn đối với họ : mang Đức Kitô đến cho mọi người. Sứ vụ loan báo đó không
phải là một ý tưởng, cũng chẳng phải là một mệnh lệnh luân lý được Đức Kitô ban
ra, nhưng là việc tặng ban chính bản thân Người. Ai chưa loan truyền chân lý về
Tình yêu cho anh chị em mình thì vẫn chưa cho đi đủ. Với tư cách là bí tích cứu
độ của chúng ta, chắc chắn Thánh Thể hướng chúng ta đến tính duy nhất của Đức
Kitô và của ơn cứu độ mà Người đã hoàn tất bằng giá máu. Bởi đó, từ Mầu nhiệm
Thánh Thể mà chúng ta tin và cử hành phát sinh nhu cầu phải thường xuyên giáo
dục cho mọi người bổn phận truyền giáo mà trọng tâm là loan báo Chúa Giêsu,
Đấng Cứu Độ duy nhất.[41]
Việc truyền giáo hiểu như thế sẽ tránh được cái nhìn giản lược và thuần túy xã
hội, vì sự thăng tiến con người luôn luôn có trong mọi tiến trình loan báo Tin
Mừng đích thực.
Tự
do tôn giáo
87. Trong tinh thần
này, tôi ước ao làm vang lên điều mà các Nghị phụ đã khẳng định suốt những buổi
họp của Thượng Hội Đồng Giám Mục liên quan đến những khó khăn trầm trọng đè
nặng các cộng đoàn kitô hữu đang sống trong tình trạng thiểu số hoặc bị tước
đoạt tự do tôn giáo.[42]
Chúng ta phải hết lòng cảm tạ Thiên Chúa vì những Giám mục, linh mục, tu sĩ và
giáo dân đã tìm mọi cách để loan báo Tin Mừng và sống đức tin dù phải gặp nguy
hiểm đến tính mạng. Trên thế giới ngày nay không thiếu những vùng mà việc cử
hành Thánh Lễ hoặc chỉ việc đi đến nhà thờ thôi đã là một chứng tá anh dũng, vì
hậu quả là có thể hứng chịu sự loại trừ hoặc bạo lực. Với những chứng tá như
thế, tôi muốn khẳng định lại tình liên đới của toàn thể Hội Thánh với tất cả
những người chịu đau khổ vì thiếu tự do tôn giáo. Như chúng ta biết, nơi nào
thiếu tự do tôn giáo, nơi đó rốt cuộc sẽ thiếu sự tự do tròn đầy ý nghĩa nhất,
bởi vì trong niềm tin, con người biểu lộ quyết định sâu kín nhất liên quan đến ý
nghĩa chung cuộc của đời họ. Vì thế chúng ta hãy cầu nguyện cho những không
gian tự do tôn giáo được mở rộng ra trong mọi quốc gia, để cho những người kitô
hữu cũng như những tín đồ của các tôn giáo khác có thể tự do sống niềm xác tín
của họ, cách cá nhân cũng như cộng đoàn.
Thánh Thể, mầu nhiệm để trao ban cho
thế giới
Thánh
Thể, bánh được bẻ ra cho sự sống thế giới
88. “Bánh tôi sẽ ban
tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Bằng những lời này, Chúa mạc khải ý nghĩa đích thực của
việc trao hiến sự sống của chính Người cho mọi người. Những lời này cũng chứng
tỏ cho chúng ta thấy lòng cảm thương sâu sắc của Người đối với mọi người. Thật
vậy, các Phúc Âm nhiều lần thuật lại cho chúng ta những tình cảm của Chúa Giêsu
đối với con người, đặc biệt đối với những người đau khổ và những người tội lỗi
(x. Mt 20,34 ; Mc 6,34 ; Lc 19,41). Qua
tình cảm nhân loại sâu sắc, Người bày tỏ ý định cứu độ của Thiên Chúa dành cho
mọi người, để họ đạt được sự sống đích thực. Mọi cử hành Thánh Thể hiện tại hoá
cách bí tích việc Chúa Giêsu hiến ban mạng sống trên thập giá cho chúng ta và
cho toàn thể nhân loại. Đồng thời, trong Thánh Thể, Chúa Giêsu làm cho chúng ta
trở thành những chứng nhân cho lòng thương xót của Thiên Chúa đối với mỗi người
anh chị em của chúng ta. Như thế, từ mầu nhiệm Thánh Thể sinh ra việc phục vụ
trong đức ái đối với tha nhân. “Tình yêu đó hệ tại ở điều này là, trong Thiên
Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích
hoặc chưa biết người đó. Điều này chỉ có thế thực hiện được từ cuộc gặp gỡ thâm
sâu với Thiên Chúa, một cuộc gặp gỡ trở thành hiệp thông ý chí, đến độ thấm
nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác, không phải chỉ
bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô”[43].
Với cách thức này, tôi nhận ra những người tôi gặp gỡ như là những anh chị em
mà Chúa đã trao ban chính sự sống Người cho họ bằng cách yêu thương họ “đến
cùng” (Ga 13,1). Bởi thế, khi cử hành
Thánh Thể, những cộng đoàn của chúng ta phải ngày càng ý thức hơn rằng hy tế
của Đức Kitô là cho mọi người, và vì thế Thánh Thể thúc đẩy mọi tín hữu cũng
phải trở nên “bánh được bẻ ra” cho những người khác và dấn thân cho một thế
giới ngày càng công bằng và huynh đệ hơn. Khi nghĩ đến phép lạ hoá bánh và cá
ra nhiều, chúng ta phải hiểu ra rằng, ngày nay Đức Kitô vẫn còn tiếp tục khuyến
khích các môn đệ của Người phải tự mình biết dấn thân : “Chính anh em hãy cho
họ ăn” (Mt 14,16). Ơn gọi đích thực
của mỗi người chúng ta hệ tại ở việc trở nên tấm bánh được bẻ ra cho sự sống
của thế giới cùng với Chúa Giêsu.
Những
hệ quả xã hội của Mầu nhiệm Thánh Thể
89. Việc kết hợp với
Đức Kitô, Đấng hiện diện trong Bí tích, cũng mở ra cho chúng ta một tính cách
mới mẻ trong những mối tương quan xã hội : “tính thần bí của Bí tích mang một
đặc tính xã hội”. Thật vậy, “sự kết hợp với Đức Kitô đồng thời cũng là sự kết
hợp với những người mà Chúa tự hiến thân cho họ. Tôi không thể dành riêng Đức
Kitô cho một mình tôi ; tôi chỉ có thể thuộc về Người trong sự kết hợp với tất
cả những ai đã hoặc sẽ thuộc về Người”[44].
Về điểm này, cần phải làm sáng tỏ mối tương quan giữa Mầu nhiệm Thánh Thể và
việc dấn thân xã hội. Thánh Thể là bí tích hiệp thông giữa những anh chị em
chấp nhận hoà giải với nhau trong Đức Kitô, Đấng đã làm cho những người Do Thái
và những dân ngoại nên một dân duy nhất, bằng cách phá đổ bức tường thù hận
chia cắt họ ra (x. Ep 2,14). Chỉ có
thái độ thường xuyên hướng đến sự hoà giải mới cho phép kết hợp cách xứng đáng
với Mình và Máu Đức Kitô (x. Mt 5,23-24)[45].
Bằng việc tưởng niệm hy tế của Người, Người củng cố mối hiệp thông huynh đệ, và
đặc biệt Người thúc đẩy những ai đang sống bất hoà sớm thực hiện việc hoà giải
bằng cách mở lòng ra với đối thoại và dấn thân phục vụ công bằng. Không còn
nghi ngờ gì nữa, tái lập công bằng, hoà giải và tha thứ là những điều kiện để
xây dựng một nền hoà bình đích thực.[46]
Từ ý thức này cũng nẩy sinh ý muốn biến đổi những cơ chế bất công để tái lập sự
kính trọng phẩm giá con người vốn được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên
Chúa. Chính nhờ việc phát triển cụ thể trách nhiệm này mà Thánh Thể hiện thực
hoá trong đời sống ý nghĩa của việc cử hành. Như tôi đã có dịp khẳng định, Hội
Thánh không có vai trò riêng biệt đảm nhận cuộc đấu tranh chính trị để thiết
lập một xã hội công bằng nhất có thể ; tuy nhiên, Hội Thánh không thể và cũng
không được phép đứng bên ngoài cuộc đấu tranh cho công bằng. Hội Thánh “phải
dấn thân vào cuộc đấu tranh này bằng con đường lý luận dựa theo lý trí, và phải
đánh thức những sức mạnh tinh thần, mà nếu không có những sức mạnh này thì sự
công bằng, vốn luôn đòi hỏi phải hy sinh, không thể được thực thi và phát triển”[47].
Trong
viễn cảnh về trách nhiệm xã hội của mọi người kitô hữu, các Nghị phụ đã nhắc
lại rằng hy tế của Đức Kitô là mầu nhiệm giải thoát không ngừng chất vấn và
thách thức chúng ta. Vì thế tôi kêu gọi tất cả mọi tín hữu hãy thật sự trở nên
những người kiến tạo hoà bình và công lý : “Ai thông dự vào Thánh Thể phải thật
sự dấn thân xây dựng hoà bình cho thế giới chúng ta đang sống, một thế giới được
ghi dấu bởi quá nhiều bạo lực và chiến tranh, và đặc biệt ngày nay bởi khủng
bố, sự hủ hoá kinh tế và việc khai thác tình dục”[48].
Những vấn đề này, đến lượt chúng lại sản sinh ra những hiện tượng hèn hạ khác
làm chúng ta hết sức lo lắng. Chúng ta biết rằng không thể đối phó với những
tình trạng này cách hời hợt bên ngoài. Chính trong Mầu nhiệm chúng ta cử hành
mà chúng ta phải đẩy lui những tình trạng đối nghịch với phẩm giá con người, mà
vì họ Đức Kitô đã đổ máu mình ra để khẳng định giá trị cao trọng của mỗi con
người.
Lương
thực chân lý và nỗi khốn cùng của con người
90. Chúng ta không thể
dửng dưng trước một vài tiến trình toàn cầu hoá thường tạo ra sự cách biệt quá
đáng giữa người giàu và người nghèo ở tầm vóc quốc tế. Chúng ta phải tố giác
những ai phung phí sự sung túc của trái đất, gây ra những bất công kêu thấu tới
trời cao (x. Gc 5,4). Chẳng hạn,
chúng ta không thể thinh lặng trước “những hình ảnh đau lòng của những trại to
lớn chứa người di cư hoặc tị nạn rải rác đó đây trên thế giới, họ chỉ được tập
hợp lại trong những điều kiện tạm bợ, để tránh khỏi những tình trạng còn tồi tệ
hơn nhiều, trong khi họ lại có nhu cầu về mọi thứ. Những con người này không
phải là anh chị em của chúng ta sao ? Con cái của họ lại chẳng được sinh ra với
những chờ mong hạnh phúc chính đáng như bao người khác sao ?[49]
Chúa Giêsu, Bánh hằng sống, thôi thúc chúng ta phải lưu tâm đến những tình cảnh
khốn cùng mà một phần lớn nhân loại vẫn còn gặp phải : đó là những tình cảnh mà
nguyên nhân của chúng thường liên quan đến một trách nhiệm rõ ràng và đáng lo
ngại của loài người. Thật vậy, “dựa trên những dữ liệu thống kê sẵn có, người
ta có thể khẳng định rằng chưa đầy một nửa tổng số tiền kếch sù dành để trang
bị vũ khí có thể còn lớn hơn cả số tiền cần để giúp đám đông vô số những người
nghèo thoát khỏi nỗi cùng khốn. Lương tâm nhân loại bị chất vấn về điều đó. Đối
với những cư dân sống dưới ngưỡng cửa nghèo đói, vì tình trạng lệ thuộc vào các
quan hệ quốc tế về chính trị, thương mại và văn hoá hơn là vì hậu quả của những
hoàn cảnh không làm chủ được, sự dấn thân chung trong thực tế của chúng ta có
thể tạo cho họ những niềm hy vọng mới”[50]
Lương
thực chân lý thôi thúc chúng ta phải đẩy lui những hoàn cảnh bất xứng với con
người, trong đó người ta chết bởi thiếu lương thực vì sự bất công và sự bóc
lột. Lương thực chân lý cũng gia tăng sức mạnh và sự can đảm luôn mới mẻ, để
chúng ta làm việc không ngừng nhằm xây dựng nền văn minh tình thương. Ngay từ
lúc ban đầu, những người kitô hữu đã biết quan tâm chia sẻ tài sản của họ (x. Cv 4,32) và giúp đỡ những người nghèo
(x. Rm 15,26). Việc quyên góp được
thực hiện trong các buổi họp nhau cử hành phụng vụ là một kỷ niệm sống động về
điều đó, nhưng cũng là một nhu cầu của ngày hôm nay. Những cơ quan từ thiện của
Hội Thánh, đặc biệt cơ quan Caritas ở những tầm vóc khác nhau, thể hiện sự phục
vụ quý báu là giúp những người có nhu cầu, nhất là những người nghèo hơn hết.
Kín múc được nguồn cảm hứng từ Thánh Thể là bí tích tình yêu, các cơ quan từ
thiện trở thành cách diễn tả cụ thể tình yêu này, và vì thế đáng được tán dương
và cổ võ vì sự dấn thân liên đới của họ trên thế giới.
Học
thuyết xã hội của Hội Thánh
91. Mầu nhiệm Thánh
Thể làm cho chúng ta có khả năng và thôi thúc chúng ta tiến đến một sự dấn thân
can đảm trong những cơ chế của thế giới chúng ta, để mang vào đó những mối
tương quan mới mẻ đến từ nguồn suối không hề vơi là hồng ân Thiên Chúa. Kinh
nguyện mà chúng ta lặp lại trong mỗi Thánh Lễ : “Xin cho chúng con hôm nay
lương thực hằng ngày”, đòi buộc chúng ta phải làm hết sức có thể, trong sự hợp
tác với các cơ quan quốc tế, các tập thể và những cá nhân, để chấm dứt hoặc ít
ra để giảm bớt sự ô nhục của nghèo đói và thiếu hụt lương thực làm đau khổ hàng
triệu người trên thế giới, nhất là ở các nước đang phát triển. Đặc biệt người
kitô hữu giáo dân, được đào luyện từ trường học Thánh Thể, được kêu gọi đảm
nhận cách trực tiếp trách nhiệm chính trị và xã hội của mình. Để họ có thể chu
toàn bổn phận cách thích đáng, nên chuẩn bị cho họ bằng việc giáo dục cụ thể về
đức ái và đức công bằng. Chính vì thế, như Thượng Hội Đồng Giám Mục đã yêu cầu,
việc giảng dạy và cổ võ học thuyết xã hội của Hội Thánh trong mỗi Giáo Phận và
trong các cộng đoàn kitô hữu là rất cần thiết.[51]
Trong gia sản quý báu khởi đầu từ truyền thống xa xưa của Hội Thánh, chúng ta
tìm thấy những yếu tố hướng dẫn cách rất khôn ngoan thái độ của những người
kitô hữu khi đối diện với những vấn đề xã hội nóng bỏng. Học thuyết này, chín
dần suốt chiều dài lịch sử hai ngàn năm của Hội Thánh, thể hiện rõ tính thực tế
và sự quân bằng của nó, giúp tránh được những thoả hiệp sai lầm hoặc những ảo
tưởng mơ hồ.
Thánh
hoá thế giới và bảo vệ vũ trụ
92. Cuối cùng, để phát
triển một linh đạo Thánh Thể sâu sắc, có khả năng ảnh hưởng đầy ý nghĩa trên cơ
cấu xã hội, những con người tạ ơn nhờ Thánh Thể là dân kitô giáo cần thiết phải
có ý thức cử hành Thánh Thể nhân danh toàn thể vũ trụ, khát mong thánh hóa thế
giới và làm việc hăng say vì mục đích này.[52]
Chính Thánh Thể soi sáng tỏ tường lịch sử nhân loại và toàn thể vũ trụ. Trong
cách nhìn mang tính bí tích này, từng ngày một chúng ta học biết rằng mọi biến
cố của Hội Thánh đều mang tính dấu chỉ, qua đó Thiên Chúa tự bày tỏ chính Ngài
và chất vấn chúng ta. Như thế, khuôn mẫu Thánh Thể của đời sống có thể hỗ trợ
cho việc thay đổi não trạng đích thực qua cách thức chúng ta đọc lịch sử và
nhìn thế giới. Chính phụng vụ giáo dục chúng ta điều đó lúc dâng các lễ vật,
khi vị linh mục dâng lên Thiên Chúa một lời nguyện chúc lành và cầu xin liên
quan đến bánh và rượu, “hoa mầu của đất”, “của cây nho” và “của lao công con
người”. Bằng những lời này, nghi lễ không chỉ bao hàm việc hiến dâng cho Thiên
Chúa mọi hoạt động và nỗ lực của nhân loại, mà còn thôi thúc chúng ta nhìn nhận
trái đất như là tác phẩm của Thiên Chúa, nơi đó sản sinh ra lương thực cần
thiết cho đời sống của chúng ta. Trái đất không còn là một thực tại trung lập,
một vật chất thuần tuý để chúng ta sử dụng cách vô tội vạ theo bản năng con
người. Trái đất nằm ở chính trung tâm ý định nhân lành của Thiên Chúa, trong ý
định này, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên con cái trong người Con duy nhất
là Đức Giêsu Kitô (x. Ep 1,4-12).
Những bận tâm chính đáng liên quan đến những điều kiện sinh thái của vũ trụ tại
nhiều nơi trên thế giới có những điểm tựa trong quan điểm của niềm hy vọng kitô
giáo, một niềm hy vọng đòi buộc chúng ta làm việc cách có trách nhiệm để bảo vệ
vũ trụ.[53]
Quả vậy, trong mối tương quan giữa Thánh Thể và vũ trụ, chúng ta có thể khám
phá ra ý định duy nhất của Thiên Chúa và thấu hiểu mối liên hệ sâu thẳm giữa vũ
trụ này và “vũ trụ mới”, được hoàn tất trong sự phục sinh của Đức Kitô, Ađam
mới. Hiện tại chúng ta đã tham dự vào mối liên hệ này qua bí tích Rửa Tội (x. Cl 2,12tt) ; như thế, trong đời sống
kitô hữu được nuôi dưỡng bởi Thánh Thể đã mở ra cái nhìn về một thế giới mới,
một trời mới và đất mới, một Giêrusalem mới từ trời, từ nơi Thiên Chúa xuống,
“sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang” (Kh 21,2).
Ích
lợi của một Bản Toát Yếu về Thánh Thể
93. Vào lúc kết thúc những
suy tư này, những suy tư trong đó tôi đã muốn dừng lại ở những định hướng được
trình bày trong Thượng Hội Đồng Giám Mục, tôi cũng muốn đón nhận thỉnh nguyện
của các Nghị Phụ để giúp dân kitô giáo tin, cử hành và sống ngày càng tốt hơn
Mầu Nhiệm Thánh Thể. Một Bản Toát Yếu sẽ được công bố nhờ những cố gắng ân cần
của các Bộ có thẩm quyền ; Bản Toát Yếu này sẽ bao gồm những bản văn của Sách
Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, những kinh nguyện, những giải thích về các
Kinh Nguyện Thánh Thể của Sách Lễ Rôma và tất cả những gì xét thấy hữu ích cho
việc hiểu đúng, việc cử hành và việc tôn thờ Thánh Thể tại bàn thờ.[54]
Tôi ước mong sao dụng cụ này có thể góp phần làm cho việc tưởng niệm cuộc Vượt
qua của Chúa ngày càng trở nên nguồn suối và chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ
của Hội Thánh. Điều đó sẽ động viên mọi tín hữu làm cho đời sống mình trở nên
một phượng tự thiêng liêng đích thực.
[1]
VII, 10, 16 : PL 32, 742.
[2]
Bênêđíctô XVI, Bài giảng tại cánh
đồng Marienfeld (21-8-2005 : AAS 97 (2005), tr. 891 ; x. Bài giảng canh thức lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (3-6-2006) : AAS
98 (2006), tr. 505.
[3] x. Relatio
post disceptationem, 6.47 : L’Osservatore Romano, 14-10-2005, tr. 5-6 ; Propositio 43.
[4] De
civitate Dei, X,6 : PL 41,284 (202)
[5] x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số
1368.
[6]
T. Irênê, Adversus Haereses IV,20,7 :
PG 7, 1037.
[7] Ad Magnes., 9, 1 : PG 5, 670.
[8]
x. I Apologia, 67,1-6 : PG 6,430tt. 427, 430.
[9]
x. Propositio 30.
[10]
x. AAS 90 (1998), tr. 713-766.
[11] Propositio 30.
[12] Bài giảng (19-3-2006) : AAS 98 (2006),
tr. 324.
[13] Toát yếu Học thuyết Xã hội của Hội Thánh
ghi nhận cách đúng đắn : “Được liên kết với sự cần thiết của lao động, sự nghỉ
ngơi mở ra cho con người viễn tượng về một sự tự do tròn đầy hơn, đó là sự tự
do của ngày sabát vĩnh cửu (x. Dt 4,9-10). Sự nghỉ ngơi cho phép con người nhớ
đến và sống lại những kỳ công của Thiên Chúa, từ cuộc Tạo dựng cho đến công
trình Cứu chuộc, nhận ra chính mình như là tác phẩm của Chúa (x. Ep 2,10) và tạ
ơn Đấng là tác giả của sự sống mình” (số 258).
[14]
x. Propositio 10.
[15]
x. ibidem.
[16]
x. Bênêđíctô XVI, Diễn văn cho các
Giám mục vùng Québec, Canađa, trong cuộc viếng thăm ad limina apostolorum (11-5-2006) : x. L'Osser-vatore Romano,
12-5-2006, tr. 5.
[17]
Số 10 : AAS 71 (1979), tr. 414-415.
[18]
Bênêđíctô XVI, Buổi tiếp kiến ngày 29 tháng 3 năm 2006 :
L’Osser-vatore Romano, 30-3-2006, tr. 4.
[19] Propositio 39.
[20]
x. Relatio post disceptationem, số 30
: L’Osservatore Romano, 14-01-2005, tr. 6.
[21]
X. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Hội Thánh Lumen gentium, số 39-42.
[22]
X. Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng Christifideles Laici (30-12-1988), số 14-16 : AAS 81 (1989), tr.
409-413 ; 416-418.
[23]
x. Propositio 39.
[24]
x. ibidem.
[25] Sách
Nghi thức Giám mục, Phong chức Giám mục, linh lục, phó tế, Nghi thức phong chức linh mục, số 135.
[26]
x. Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng Pastores dabo vobis (25-3-1992), số 19-33 ; 70-81 :
AAS 84 (1992), tr. 686-712 ; 778-800.
[27] Propositio 38.
[28] Propositio 39. x. Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng Vita consecrata (25-3-1996), số 95 : AAS
88 (1996), tr. 470-471.
[29]
Bộ Giáo luật, đ. 663, § 1.
[30]
x. Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng Vita consecrata (25-3-1996), số 34 : AAS 88 (1996), tr. 407-408.
[31]
Thông điệp Veritatis splendor
(6-8-1993), số 107 : AAS 85 (1993), tr. 1216-1217.
[32]
Bênêđíctô XVI, Thông điệp Deus caritas
est - Thiên Chúa là Tình Yêu (25-12-2005), số 14 : AAS 98 (2006), tr. 229.
[33]
x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium
vitae (25-3-1995) : AAS 87 (1995), tr. 401-522 ; Bênêđíctô XVI, Diễn văn
cho Học viện Giáo hoàng về sự sống (27-2-2006) : AAS 98 (2006), tr. 264-265.
[34]
x. Thánh bộ Giáo lý Đức tin, Lưu ý về
giáo lý liên quan đến sự dấn thân và thái độ của những người công giáo trong
đời sống chính trị (24-11- 2002) : AAS 96 (2004), tr. 359-370.
[35]
x. Propositio 46.
[36]
AAS 97 (2005), tr. 711.
[37] Propositio 42.
[38]
x. Sự tử đạo của thánh Polycarpe,
XV,1 : PG 5, 1039. 1042.
[39]
T. Inhaxiô thành Antiôkia, Thư gửi giáo
đoàn Rôma, IV,1 : PG 5,690.
[40]
X. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý về Hội Thánh Lumen gentium, số 42.
[41]
x. Propositio 42 ; x. Thánh bộ Giáo
lý Đức tin, Tuyên ngôn Dominus Iesus
về tính duy nhất và tính phổ quát cứu độ của Đức Giêsu Kitô và của Hội Thánh
(6-8-2000), số 13-15 : AAS 92 (200), tr. 754-756.
[42]
x. Propositio 42.
[43]
Bênêđíctô XVI, Thông điệp Deus caritas
est – Thiên Chúa là Tình Yêu (25-12-2005), số 18 : AAS 98 (2006), tr. 232.
[44] Ibidem, số 14.
[45] Tại
Thượng Hội Đồng Giám Mục, chúng tôi đã cảm động lắng nghe những chứng từ rất có
ý nghĩa liên quan đến hiệu quả của bí tích trong việc hoà giải. Về điều này, Đề nghị số 49 khẳng định : “Nhờ những
buổi cử hành Thánh Thể, những người đang mâu thuẩn với nhau đã có thể tụ họp
lại bên Lời Chúa, lắng nghe lời loan báo tiên tri về sự hoà giải nhờ ơn tha thứ
nhưng không, đón nhận ơn hoán cải cho phép hiệp thông vào cùng một bánh và một
chén”.
[46]
x. Propositio 48.
[47]
Bênêđíctô XVI, Thông điệp Deus caritas
est – Thiên Chúa là Tình Yêu (25-12-2005), số 24 : AAS 98 (2006), tr. 239.
[48]
x. Propositio 48.
[49]
x. Bênêđíctô XVI, Diễn văn cho ngoại
giao đoàn cạnh Toà Thánh (9-01-2006) : AAS 98 (2006) tr. 127.
[50] Ibidem.
[51]
x. Propositio 48. Trong viễn cảnh
này, cuốn Toát yếu Học thuyết Xã hội của Hội Thánh tỏ ra đặc biệt hữu ích.
[52]
x. Propositio 43.
[53]
x. Propositio 47.
[54]
x. Propositio 17.