Bức Thư của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI

gởi cho Giáo Hội Công Giáo tại Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa.

 

Thứ Bảy, ngày 30 tháng 6 năm 2007, Phòng Báo Chí Toà Thánh đã chính thức công bố bức thư của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI gởi cho Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc, với tựa đề chính thức như sau:

Thư của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI gởi Các Giám Mục, Linh Mục, Những Người Sống Ðời Thánh Hiến và Anh chị em Tín Hữu Giáo Dân của Giáo Hội Công Giáo tại Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa.

Bức Thư được công bố ngay từ đầu trong các thứ tiếng sau đây: Tiếng Mandarin Truyền Thống (được xử dụng tại Ðài Loan), Tiếng Mandarin Ðơn Giản Hoá (được xử dụng tại Trung Quốc), Tiếng Pháp, Tiếng Anh và Tiếng Ý. Chúng tôi dựa theo Bản Tiếng Ý để chuyển dịch bức thư này sang tiếng Việt. Tuy nhiên, chúng tôi cũng tham khảo và so sánh với bản văn tiếng Anh và Tiếng Pháp.

Bức Thư đã được Ðức Thánh Cha ấn ký "tại Roma, cạnh Ðền Thờ Thánh Phêrô, ngày 27 tháng 5, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, năm 2007, năm thứ ba của triều giáo hoàng."

Bản Văn Tiếng Ý của Bức Thư dài 21 trang, và được ghi số, từ 1 cho đến 20. Nhìn vào Dàn Bài của Bức Thư, chúng ta ghi nhận như sau: không kể phần nhập đề và kết luận, Bức Thư có hai phần chính.

Phần I, có tựa đề là: Hoàn Cảnh của Giáo Hội. Những Khía Cạnh Thần Học. Từ số 3 cho đến hết số 9.

Phần II có tựa đề: Những Ðịnh Hướng cho Sinh Hoạt Mục Vụ. Từ số 10 cho đến hết số 17.

Kết luận bức thư có ba số 18, 19 và 20.

Nơi số 1, Lời chào thăm, ÐTC Bênêđitô XVI đã viết như sau:

1. Lời Chào Thăm.

Chư Huynh Giám Mục đáng kính, các linh mục, những người sống đời tận hiến và tất cả các tín hữu rất thân mến của Giáo Hội công giáo tại Trung Hoa, "chúng tôi liên lỉ cảm tạ Thiên Chúa, Cha của Chúa chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, trong những lời cầu nguyện cho anh chị em, vì những tin tức nhận được về đức tin của anh chị em vào Chúa Giêsu Kitô và về đức bác ái anh chị em có đối với tất cả các thánh, trong viễn tượng niềm hy vọng đang chờ đợi anh chị em trên trời... Chúng tôi không ngừng cầu nguyện cho anh chị em và xin cho anh chị em được hiểu biết trọn vẹn thánh ý Chúa, với mọi sự khôn ngoan và thông hiểu thiêng liêng, ngõ hầu anh chị em có thể hành xử một cách xứng đáng với Chúa, để làm vui lòng Người trong tất cả mọi sự, vừa trổ sinh hoa trái trong mọi việc làm tốt, lớn lên trong sự hiểu biết Thiên Chúa, và cố gắng với hết sức mình theo quyền năng vinh quang của Chúa, để có thể trở nên mạnh mẽ và kiên trì trong mọi sự." (Thư Colossê 1,3-5 và 9-11).

Những lời trên của Thánh Phaolô Tông Ðồ là thích hợp hơn bao giờ hết, để diễn tả những tâm tình mà Tôi, --- như là người kế vị Thánh Phêrô và như là Chủ chăn phổ quát của Giáo Hội, --- có đối với anh chị em. Anh chị em biết rõ anh chị em hiện diện trong tim tôi và trong lời cầu nguyện hằng ngày của tôi như thế nào; và anh chị em biết rõ mối tương quan hiệp thông đang liên kết chúng ta một cách thiêng liêng, là sâu đậm biết bao.

2. Mục đích của Bức Thư.

Vì thế, Tôi muốn gởi đến tất cả anh chị em những biểu lộ của sự gần gủi huynh đệ. Tôi vui mừng hết sức vì lòng trung thành của anh chị em với Chúa Kitô, và với Giáo Hội, lòng trung thành mà anh chị em đã biểu lộ nhiều lần "cả với giá phải trả là những hy sinh nặng nề", (1) bởi vì "nhờ Chúa Kitô, anh chị em được ban cho hồng ân không những tin vào Chúa, mà còn chịu khổ vì Chúa." (Phil 1,29).

Tuy nhiên, cũng không thiếu những quan tâm đối với vài khía cạnh của đời sống giáo hội trong đất nước anh chị em.

Tôi không có tham vọng bàn đến mọi khía cạnh riêng biệt của những vấn đề phức tạp mà anh chị em biết rõ; với bức thư này, Tôi muốn cống hiến vài định hướng cho sinh hoạt của Giáo Hội và cho công việc rao giảng Phúc âm tại Trung Hoa, để giúp anh chị em khám phá điều mà Chúa và Thầy chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, đòi hỏi nơi anh chị em, Ngài là "chìa khoá, là trung tâm, và cùng đích của trọn cả lịch sử nhân loại." (2). 

Phần I: Hoàn cảnh của Giáo Hội: những khía cạnh thần học.

3. Sự toàn cầu hoá, sự hiện đại và chủ thuyết vô thần.

Khi chú ý nhìn vào Dân Tộc của anh chị em, một dân tộc nổi bật giữa những dân tộc khác tại Á Châu vì sự sáng ngời của nền văn minh trải dài hàng ngàn năm, với tất cả kinh nghiệm về khôn ngoan, triết học, khoa học và nghệ thuật, tôi vui mừng nhắc đến cách thức dân tộc của anh chị em, nhất là trong thời gian gần đây, đã hướng đến việc đạt cho được những mục tiêu có ý nghĩa về tiến bộ kinh tế - xã hội, vừa thu hút sự chú ý của toàn thế giới.

Như vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Ðức Gioan Phaolô II, đã nhấn mạnh, "về phần mình, giáo hội công giáo, với thái độ tôn trọng, cũng nhìn về tiến bộ đáng phục này và về kế hoạch dài hạn và với sự cẩn trọng, giáo hội cống hiến một đóng góp đặc biệt trong việc cổ võ và bảo vệ nhân vị, những giá trị của nhân vị, cổ võ và bảo vệ nền tu đức và ơn gọi siêu việt của nhân vị. Giáo hội hết sức quan tâm đến những giá trị và những mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu, cả cho Trung Quốc tân tiến hiện đại, như tình liên đới, hoà bình, công bằng xã hội, việc quản lý sáng suốt hiện tượng toàn cầu hoá" (3).

Sức cố gắng hướng đến sự phát triển cần thiết và được ao ước trên bình diện kinh tế và xã hội, sự mưu tìm mức sống hiện đại, (cố gắng phát triển và mưu tìm mức sống hiện đại) cả hai điều này được đi kèm với hai hiện tượng khác nhau và đối nghịch nhau, nhưng cần được lượng định như nhau, một cách cẩn thận và với tinh thần tông đồ đích thực. Một bên, người ta ghi nhận, nhất là nơi giới trẻ, có gia tăng sự chú ý đến chiều kích thiêng liêng và siêu việt của nhân vị, và từ đó kéo theo quan tâm đến tôn giáo, nhất là kitô giáo. Ðàng khác, người ta lưu ý, cả tại Trung Quốc, khuynh hướng chạy theo chủ thuyết duy vật và chủ thuyết tìm hưởng thụ khoái lạc, mà từ các thành phố lớn được phổ biến rộng ra bên trong đất nước" (4).

Trong hoàn cảnh như thế, trong đó anh chị em được mời gọi sinh sống và hoạt động, tôi muốn nhắc anh chị em nhớ lại tất cả những gì Ðức Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh cách mạnh mẽ và cương quyết như sau: công cuộc tái rao giảng phúc âm đòi buộc loan báo Tin Mừng (5) cho con người ngày nay, với ý thức rằng: cũng như trong ngàn năm thứ nhất của kỷ nguyên kitô, Thánh Giá đã được dựng lên tại Âu Châu, rồi trong ngàn năm thứ hai Thánh Giá được dựng lên tại Mỹ Châu và Phi Châu, thì cũng thế trong ngàn năm thứ ba, một mùa gặt đức tin sẽ được thu hoạch tại đại lục á châu bao la và đầy sức sống (6).

"Duc in Altum!" "Hãy ra khơi!" (Lc 5,4). Ngày hôm nay, những lời này vang lên cho chúng ta, và mời gọi chúng ta hãy nhớ lại quá khứ với lòng tri ân, hãy sống hiện tại cách mê say, và hãy mở rộng đón nhận tương lai với lòng tín thác: "Chúa Giêsu Kitô vẫn là một hôm qua, hôm nay và mãi mãi muôn đời!" (Dt 13,8)" (7). Cả tại Trung Quốc, Giáo Hội được mời gọi hãy trở nên chứng nhân của Chúa Kitô, hãy nhìn về phía trước với niềm hy vọng, hãy đáp ứng một cách tương xứng --- trong việc loan báo Tin Mừng --- với những thách thức mới mà dân chúng Trung Quốc đang phải đương đầu.

Lời Chúa giúp chúng ta, một lần nữa, biết khám phá ý nghĩa nhiệm mầu và sâu xa của cuộc hành trình của Giáo Hội trong thế giới. Thật vậy, một trong những "thị kiến chính của sách Khải Huyền là thị kiến về Chiên Con trong tư thế mở cuốn sách ra; đây là cuốn sách mà trước đó đã được niêm lại bằng bảy dấu ấn mà không ai có thể mở được. Còn tông đồ Gioan thì được trình bày trong thị kiến trong tư thế đang khóc, bởi vì trước đó đã không tìm được ai xứng đáng để mở sách ra và đọc được nó (x. Kh 5,4). Lịch sử nhân loại không thể nào được giải mả, không thể nào được hiểu. Không ai có thể hiểu được nó. Có lẽ tiếng khóc của Gioan trước mầu nhiệm ưu tối của lịch sử nhân loại, nói lên sự ngỡ ngàng của các giáo hội tại á châu, vì thái độ im lặng của Thiên Chúa trước những bách hại mà các giáo hội phải chịu trong giờ phút này. Ðây là một sự ngỡ ngàng mà trong đó có phản ánh sự khiếp sợ của chúng ta trước những khó khăn trầm trọng, những hiểu lầm và những thù nghịch mà giáo hội phải chịu tại nhiều nơi trên thế giới. Ðó là những đau khổ mà giáo hội không đáng phải chịu, cũng như Chúa Giêsu không đáng phải chịu hình khổ như vậy. Những đau khổ đó biểu lộ sự độc ác của con người khi họ chiều theo những gợi ý của sự dữ, nhưng cũng biểu lộ tài điều khiển của Thiên Chúa trên các biến cố" (8).

Ngày nay cũng như trong quá khứ, rao giảng Phúc âm có nghĩa là rao giảng và làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh chết và đã sống lại; Ngài là Con người mới, đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết. Ngài cho phép con người bước vào trong chiều kích mới, trong đó lòng nhân từ và tình thương, cả đối với kẻ thù, cả hai đều làm chứng cho chiến thắng của Thập Giá trên mọi sự yếu đuối và khốn cùng của con người.

Trong đất nước của anh chị em, việc rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh chết và sống lại, sẽ là điều có thể được trong mức độ anh chị em biết thực hiện những dấu chỉ của tình thương và hiệp nhất, cùng với lòng trung thành với Tin Mừng, trong sự hiệp thông với Người Kế Vị Thánh Phêrô và hiệp thông với giáo hội toàn cầu. "Như Thầy đã yêu thương chúng con, chúng con cũng phải yêu thương nhau. Từ dấu này mà tất cả sẽ biết rằng chúng con là môn đệ của thầy, nếu chúng con yêu thương nhau.. Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho họ được nên một trong chúng ta, ngõ hầu thế gian tin rằng cha đã sai con." (Gn 13, 34-35; 17,21).  

4. Sẵn sàng đối thoại trong tinh thần tôn trọng và xây dựng.

Như là chủ chăn của toàn thể giáo hội, tôi muốn nói lên lòng biết ơn mãnh liệt đối với Chúa, vì chứng tá đầy đau khổ cho thấy sự trung thành của cộng đoàn công giáo trung quốc trong những hoàn cảnh thật sự khó khăn. Ðồng thời tôi cảm thấy khẩn thiết phải củng cố trong đức tin những người công giáo trung quốc và cổ võ sự hiệp nhất của họ, bằng những phương thế riêng của giáo hội; đây là bổn phận sâu xa và không thể chối từ được và là một biểu lộ tình yêu thương của một người cha nơi tôi.

Tôi hết sức quan tâm theo dõi những thăng trầm của toàn thể dân tộc trung hoa, mà tôi hết sức đánh giá cao và có những tâm tình thân thiện, cho đến mức ước mong "được mau nhìn thấy thiết lập những con đường cụ thể để liên lạc và cộng tác giữa Toà Thánh và Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc", bởi vì tình bằng hữu được nuôi dưỡng bởi những tiếp xúc, bởi những chia sẻ tâm tình trong những hoàn cảnh vui buồn, bởi tình liên đới và bởi việc trao đổi sự trợ giúp" (9). Chính trong viễn tượng như thế mà vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, đã nói thêm rằng: "Không phải là một bí mật cho ai cả, việc Toà Thánh, nhân danh toàn thể giáo hội công giáo và - theo tôi nghĩ - vì lợi cho toàn thể nhân loại, (việc Toà Thánh) cầu mong mở ra một khoảng rộng để đối thoại với những Thẩm Quyền của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc; trong khoảng rộng để đối thoại này, một khi đã vượt qua được những hiểu lầm của quá khứ, người ta có thể làm việc chung cho thiện ích của dân tộc Trung hoa và cho nền hoà bình thế giới." (10). Tôi ý thức rằng việc bình thường hoá những tương quan với Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc, đòi hỏi thời gian và giả thiết phải có thiện chí của hai bên. Từ phía mình, Toà Thánh luôn trong tình trạng sẵn sàng đón nhận những thương thuyết cần thiết để vượt qua giây phút khó khăn hiện tại.

Thật vậy, tình trạng nặng nề này do những hiểu lầm và những sự không thông hiểu nhau, không có lợi cho Thẩm quyền của Trung Quốc và cũng không có lợi gì cho giáo hội công giáo tại Trung Quốc. Như Ðức Gioan Phaolô II đã tuyên bố, khi nhắc lại tất cả những gì Cha Matteo Ricci ngày xưa đã viết từ Bắc Kinh (11), "giáo hội công giáo ngày hôm nay không yêu cầu Trung Quốc và những Thẩm quyền chính trị ban cho bất cứ đặc ân nào, nhưng chỉ xin một điều duy nhất là có thể mở lại đối thoại, để đạt đến một tương quan được dệt nên bởi sự tôn trọng lẫn nhau và bởi sự hiểu biết sâu xa" (12). Ước gì Trung Quốc biết được điều này rằng: giáo hội công giáo có sẵn đề nghị muốn cống hiến một lần nữa việc phục vụ khiêm tốn và không vụ lợi, trong những gì thuộc khả năng của giáo hội, để làm ích cho những người công giáo trung hoa và để làm ích cho tất cả mọi người dân sinh sống tại Trung Quốc. Còn về những gì có liên quan đến những tương quan giữa cộng đoàn chính trị và giáo hội tại Trung Quốc, thì nên nhớ lại giáo huấn sáng chói của Công Ðồng Vaticanô II như sau: "Giáo Hội, xét vì tác vụ và vì khả năng chuyên biệt của mình, không đồng hoá mình như là một cộng đồng chính trị, và cũng không liên kết với bất cứ hệ thống chính trị nào; giáo hội là dấu chỉ và là sự bảo vệ cho tính cách siêu việt của con người." Và Ðức Gioan Phaolô II tiếp tục như sau: "Trong lãnh vực riêng của mình, cộng đoàn chính trị và giáo hội độc lập với nhau và tự quản. Tuy nhiên, cả hai, dù dưới danh hiệu khác nhau, đều phục vụ cho ơn gọi cá nhân và xã hội của cùng những người như nhau. Cả hai sẽ chu toàn công việc phục vụ của mình, để làm ích cho tất cả, trong cách thức càng hữu hiệu, nếu cả hai càng vun trồng sự cộng tác với nhau, vừa lưu ý đến những hoàn cảnh về nơi chốn và thời gian" (13).

Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc có sứ mạng không phải thay đổi cơ cấu hoặc thay đổi việc quản trị đất nước, nhưng có sứ mạng rao giảng cho con người biết Chúa Kitô, Ðấng cứu rỗi thế gian, dựa trên sức mạnh của Thiên Chúa, khi chu toàn công việc tông đồ của mình. Như Tôi đã nhắc lại trong thông điệp "Thiên Chúa là Tình Yêu", "Giáo Hội không thể và cũng không nên dành lấy trong tay công cuộc tranh đấu chính trị để thực hiện một xã hội công bằng hơn có thể. Giáo Hội không thể và không nên đặt mình vào chổ của Nhà nước. Nhưng giáo hội cũng không thể và không nên đứng bên lề trong cuộc chiến cho công bằng. Giáo Hội cần phải nhập cuộc trong cuộc tranh đấu này, qua bởi con đường lý luận theo lý trí và giáo hội phải thức tỉnh những sức mạnh tinh thần; nếu không có những sức mạnh tinh thần này, thì sự công bằng không thể nào được thể hiện và phát triển, một sự công bằng luôn đòi hỏi cả những hy sinh từ bỏ. Xã hội công bằng không thể là công việc của Giáo Hội, nhưng cần được thực hiện bởi chính trị. Tuy nhiên, hoạt động cho công bằng, và làm cho trí khôn và ý chí cởi mở chấp nhận những đòi hỏi của điều thiện, đó là quan tâm sâu xa của giáo hội." (14)

Theo ánh sáng của những nguyên tắc trên, giải pháp cho những vấn đề hiện có, không thể nào được kiếm tìm theo con đường của sự xung đột thường xuyên với những Thẩm Quyền Dân Sự hợp pháp; đồng thời không thể nào chấp nhận một sự "nuông chiều theo" những Thẩm Quyền dân sự, khi những thẩm quyền này xen mình không đúng vào những việc liên quan đến đức tin và kỷ luật của Giáo Hội. Những thẩm quyền dân sự ý thức rõ rằng Giáo Hội, trong giáo huấn của mình, kêu gọi các tín hữu hãy là những công dân tốt, hãy là những cộng tác viên đầy tinh thần tôn trọng và tích cực, để thực hiện công ích của đất nước họ, nhưng cũng rõ ràng rằng Giáo hội yêu cầu Nhà Nước hãy bảo đảm cho những công dân công giáo này được thực thi hoàn toàn đức tin của họ, trong sự tôn trọng sự tự do tôn giáo đích thực. 

5. Sự hiệp thông giữa những giáo hội địa phương trong Giáo Hội phổ quát.

Hỡi Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc, một đoàn chiên nhỏ hiện diện và hoạt động trong khung cảnh rộng mênh mông của một dân tộc đông đúc đang hành trình trong lịch sử, những lời sau đây của Chúa vang lên đầy sức khích lệ và thách thức biết là chừng nào: "Ðừng sợ, hỡi đoàn chiên nhỏ, bởi vì Cha trên trời đã vui lòng ban cho anh chị em Nước Trời" (Lc 12,32)! "Chúng con là muối đất... là ánh sáng thế gian"; vì thế, "ước gì được chiếu lên ánh sáng của chúng con trước mặt mọi người, ngõ hầu họ nhìn thấy những việc làm tốt của chúng con, và ngợi khen Cha chúng con trên trời" (Mt 5,13.14.16).

Trong Giáo hội công giáo tại Trung Quốc, có hiện diện Giáo hội phổ quát, là Giáo Hội của Chúa Kitô, nghĩa là cộng đoàn phổ quát những môn đệ Chúa --- mà trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng là duy nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền. Như anh chị em biết, sự hiệp nhất sâu xa, một sự hiệp nhất liên kết lại với nhau những giáo hội địa phương tại Trung Quốc và đặt những giáo hội địa phương này trong sự hiệp thông sâu xa với tất cả mọi giáo hội địa phương khác, rải rác trên khắp thế giới, --- (sự hiệp nhất sâu xa này) được ăn rễ trong đức tin và trong bí tích rửa tội, nhất là trong bí tích Thánh Thể và trong hàng giám mục (15). Và sự hiệp nhất của hàng giám mục, --- mà "vị giáo hoàng Roma, trong tư cách người kế vị thánh Phêrô, là nguyên tắc và là nền tảng hữu hình và thường hằng" (16) --- (sự hiệp nhất này của hàng giám mục) được tiếp tục qua các thế kỷ, nhờ qua sự tiếp nối tông đồ và là nền tảng cho Giáo Hội mọi thời đại được luôn giống với Giáo hội đã được Chúa Kitô thiết lập, trên nền tảng tông đồ Phêrô và trên các tông đồ khác (17). Giáo lý công giáo dạy rằng giám mục là nguyên tắc và là nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất trong giáo hội địa phương được trao phó cho thừa tác vụ mục vụ giám mục của ngài (18). Nhưng trong mọi giáo hội địa phương, --- ngõ hầu được trọn vẹn là giáo hội, --- thì phải có sự hiện diện của quyền hành tối cao của giáo hội, nghĩa là của giám mục đoàn cùng với thủ lãnh là vị giáo hoàng Roma, và không bao giờ mà không có ngài. Vì thế, thừa tác vụ của người kế vị thánh Phêrô thuộc về yếu tính của mọi giáo hội địa phương "xét từ bên trong" (19). Ngoài ra, sự hiệp thông của tất cả mọi Giáo hội địa phương trong một Giáo hội công giáo duy nhất, và do đó, sự hiệp thông có trật tự trong phẩm trật của tất cả các giám mục, những người kế vị các Tông Ðồ, với người kế vị Thánh Phêrô, là bảo đảm cho sự hiệp nhất trong đức tin và trong đời sống của tất cả mọi người công giáo. Vì thế, điều cần thiết, đối với sự hiệp nhất của Giáo Hội trong từng quốc gia, là mọi giám mục được hiệp thông với các giám mục khác, và tất cả các giám mục được hiệp thông hữu hình và cụ thể với Ðức giáo hoàng.

Không ai trong giáo hội là người khách lạ, nhưng tất cả là "công dân" thành phần của cùng một Dân, là thành phần của cùng một Nhiệm Thể Chúa Kitô. Mối giây hiệp thông bí tích là bí tích Thánh Thể, được bảo đảm bởi thừa tác vụ của các giám mục và của những linh mục (20).

Trọn cả Giáo hội tại Trung Quốc, được mời gọi sống và biểu lộ sự hiệp nhất này trong một tu đức hiệp thông phong phú hơn; ước gì tu đức hiệp thông này, --- tuỳ theo những hoàn cảnh phức tạp cụ thể trong đó cộng đồng công giáo phải trải qua, --- được tăng trưởng trong sự hiệp thông phẩm trật hài hoà. Vì thế, các chủ chăn và tín hữu đều được mời gọi bảo vệ và duy trì điều thuộc về giáo lý và truyền thống của Giáo Hội.

  6: Những căng thẳng và chia rẽ trong nội bộ giáo hội: tha thứ và hoà giải.

Khi ngỏ lời với toàn thể giáo hội qua tông thư "Bước vào ngàn năm mới", vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Ðức Gioan Phaolô II, đã quả quyết rằng "trách vụ to lớn, --- trong đó cần có một dấn thân nhất quyết và theo chương trình đã soạn, trên bình diện giáo hội phổ quát và các giáo hội địa phương, --- rằng "trách vụ to lớn đó" là trách vụ hiệp thông (koinonia); trách vụ này nhập thể và biểu lộ chính yếu tính của mầu nhiệm giáo hội. Sự hiệp thông là hoa trái và là sự biểu lộ của tình thương phát xuất từ con tim của Thiên Chúa Cha hằng hữu, được đổ tràn vào trong chúng ta nhờ qua Thánh Thần, mà Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta (x. Roma 5,5), để làm cho tất cả chúng ta trở nên "một con tim và một linh hồn" (TÐCV 4,32). Chính khi thực hiện sự hiệp thông tình yêu này mà Giáo Hội được biểu lộ như là "bí tích", nghĩa là như "dấu chỉ và phương tiện của sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể gia đình nhân loại." Những lời của Chúa về vấn đề này, là quá rõ ràng để có thể giảm bớt tầm mức của những lời đó. Biết bao điều, cả trong thế kỷ mới đến này, sẽ là điều cần thiết cho cuộc hành trình lịch sử của Giáo Hội; nhưng nếu thiếu đi tình bác ái (agapê), thì tất cả sẽ vô ích. Chính thánh tông đồ Phaolô là người nhắc cho chúng ta điều nầy trong bài ca Ðức bác ái, như sau: nếu giả như chúng ta nói được những ngôn ngữ của con người và những ngôn ngữ của các thiên thần, và cả khi chúng ta có một đức tin "chuyển núi dời non", mà chúng ta lại không có bác ái, thì tất cả sẽ là như không (x. 1Co 13,2). Quả thật, đức bác ái là "con tim" của Giáo Hội" (21).

Những chỉ dẫn trên, liên quan đến chính bản chất của Giáo Hội phổ quát, có một ý nghĩa đặc biệt cho Giáo Hội tại Trung Quốc. Thật vậy, không thiếu những vấn đề mà giáo hội đang phải đương đầu, để vượt qua những căng thẳng, những chia rẽ và những kết án, bên trong nội bộ giáo hội cũng như trong những tương quan với xã hội dân sự trung hoa.

Về vấn đề này, trong năm vừa qua, khi nói về Giáo Hội sơ khai, Tôi đã lưu ý rằng "cộng đoàn những môn đệ ngay từ đầu cảm nghiệm không những niềm vui của Thánh Thần, không những biết đến ân sủng sự thật và tình thương, nhưng còn biết đến sự thử thách, kết thành do bởi nhất là những tương phản về những sự thật đức tin, kéo theo hậu quả là những rạn nứt trong sự hiệp thông. Cũng như sự hiệp thông của tình yêu có mặt ngay từ khởi đầu và sẽ còn cho đến cùng (x. 1 Gn 1,1tt), thì cũng thế, buồn thay, ngay từ đầu cũng có mặt sự chia rẽ. Chúng ta không nên ngạc nhiên sự chia rẽ cũng có mặt cả ngày hôm nay (...). Do đó, trong những biến cố của thế trần và trong những yếu đuối của Giáo Hội, luôn có nguy hiểm mất đức tin, và như thế cũng có nguy hiểm mất tình thương và tình huynh đệ. Và từ đó, bổn phận rõ ràng của kẻ tin vào Giáo Hội của tình thương và muốn sống trong giáo hội của tình thương, là nhìn nhận nguy hiểm này." (22)

Lịch sử của Giáo Hội dạy chúng ta rằng không thể biểu lộ một sự hiệp thông đích thực, nếu không có cố gắng hoà giải (23). Thật vậy, sự thanh luyện ký ức, sự tha thứ cho kẻ đã làm điều xấu, sự quên đi những lỗi lầm phải chịu và sự làm hoà lại các tâm hồn trong tình thương, cần được thực hiện nhân danh Chúa Giêsu chịu đóng đinh và đã sống lại; tất cả những điều trên có thể đòi buộc ta vượt qua những lập trường hay những cái nhìn riêng cá nhân, phát sinh do bởi những kinh nghiệm khổ đau hay khó khăn, nhưng đó là những bước khẩn thiết cần được thực hiện để gia tăng và biểu lộ những mối giây hiệp thông giữa các tín hữu và những chủ chăn của Giáo Hội tại Trung Quốc.

Vì thế, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, đã ngỏ lời với anh chị em nhiều lần, để khẩn thiết mời gọi anh chị em hãy tha thứ và giải hoà. Về vấn đề nầy, tôi muốn nhắc lại một đoạn trích từ sứ điệp mà ngài đã gởi đến anh chị em dịp sắp đến Năm Thánh 2000 như sau: "Khi anh chị em chuẩn bị cử hành Ðại Năm Thánh, thì anh chị em hãy nhớ rằng trong truyền thống kinh thánh, một giây phút như thế luôn có mang theo sự bắt buộc phải tha đi những món nợ nhau người nầy tha cho người kia, phải đền bù những bất công đã gây ra và giải hoà với người lân cận. Niềm vui lớn đã được loan báo cho anh chị em, "niềm vui được chuẩn bị cho các dân tộc": đó là tình thương và lòng nhân từ của Thiên Chúa Cha; đó là ơn cứu rỗi do Chúa Kitô thực hiện. Trong mức độ anh chị em sẵn sàng chấp nhận lời rao giảng vui tươi này, anh chị em có thể lưu truyền niềm vui đó, bằng đời sống của mình, cho tất cả mọi người nam nữ gần bên. Ao ước nồng nhiệt của Tôi là anh chị em tuân theo những gợi ý của Chúa Thánh Thần trong nội tâm mình, vừa tha thứ cho nhau tất cả những gì cần được tha thứ, xích lại gần nhau, chấp nhận lẫn nhau, vượt qua được những rào cản, để tiến qua khỏi tất cả những gì có thể gây chia rẽ. Anh chị em đừng quên những lời của Chúa Giêsu trong bửa Tiệc Ly như sau: "Do bởi dấu này mà tất cả sẽ biết chúng con là môn đệ của thầy, nếu chúng con yêu thương nhau" (Gn 13,35). Tôi đã vui mừng biết được rằng anh chị em muốn dâng lên, --- như món quà quý giá nhất cho việc cử hành Ðại Năm Thánh --- (dâng lên) món quà sự hiệp nhất giữa anh chị em với nhau và với người kế vị Thánh Phêrô. Một việc như thế không thể là gì khác hơn là hoa trái của Thánh Thần, Ðấng hướng dẫn Giáo Hội trên những con đường khó khăn của sự hoà giải và hiệp nhất" (24).

Tất cả chúng ta đều ý thức rằng con đường này không thể nào thực hiện được liền ngay vào ngày hôm sau, nhưng anh chị em hãy tin chắc rằng toàn thể Giáo Hội sẽ dâng lên những lời khẩn nguyện cho anh chị em, để đạt đến mục tiêu vừa nói trên.

Anh chị em hãy biết rằng con đường hoà giải anh chị em đang đi, được nâng đỡ bởi mẫu gương và bởi lời cầu nguyện của "biết bao chứng nhân đức tin" đã phải đau khổ và đã tha thứ, vừa hiến dâng đời sống họ cho tương lai của Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc. Chính cuộc sống của họ là lời chúc lành liên lỉ cho anh chị em nơi Cha trên trời, và việc tưởng nhớ đến các ngài chắc chắn sẽ làm trổ sinh những hoa trái phong phú.  

7. Những cộng đoàn giáo hội và các cơ quan nhà nước: những tương quan cần được sống trong sự thật và trong tình bác ái.

Một chú ý phân tích về hoàn cảnh đau khổ như vừa được nhắc lại trên đây với những đối nghịch rõ nét (x. số 6), và có liên hệ đến giáo dân và chủ chăn, làm nổi bật, giữa nhiều nguyên nhân khác nhau, (làm nổi bật) vai trò có ý nghĩa được các cơ quan thi hành; những cơ quan này đã được áp đặt ra như là những cơ quan có trách nhiệm chính về sinh hoạt của cộng đoàn công giáo. Thật vậy, cả ngày nay nữa, việc công nhận của những cơ quan nói trên là tiêu chuẩn để tuyên bố một cộng đoàn, một người hay một nơi tôn giáo, là hợp pháp, và do đó, là "chính thức". Tất cả những điều này đã gây ra những chia rẽ giữa hàng giáo sĩ cũng như giữa các tín hữu. Ðây là hoàn cảnh tuỳ thuộc trước hết vào những yếu tố bên ngoài Giáo Hội, nhưng đã có ảnh hưởng nghiêm trọng trên hành trình của giáo hội, bằng việc mở rộng cửa cho những nghi ngờ, những tố cáo lẫn nhau và những lời lên án; đây là một sự yếu kém đáng lo ngại của cộng đồng giáo hội.

Còn đối với những gì có liên hệ đến vấn đề tế nhị về những tương quan cần duy trì với những cơ quan của nhà nước, thì quả thật đáng chúng ta lưu ý đến lời mời gọi của Công Ðồng Vaticanô II là hãy vâng theo lời nói và cách thức hành động của Chúa Giêsu Kitô. Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô, "vì không muốn trở thành vị thiên sai chính trị và là kẻ thống trị với sức mạnh (25), nên đã thích được gọi là "Con Người", là Ðấng đã đến để phục vụ và hy sinh chính mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người." (Mc 10,45). Ngài trình diện chính mình như là người tôi tớ trọn hảo của Thiên Chúa (26), Ðấng không bẻ gảy cây sậy bị giập, và không thổi tắt ngọn đèn sắp tàn (Mt 12,20). Chúa đã nhìn nhận thẩm quyền dân sự và những quyền lợi của thẩm quyền này, khi ra lệnh nộp thuế cho Cêsar; nhưng Ngài cũng cảnh tỉnh rõ ràng là phải tôn trọng quyền lợi cao hơn của Thiên Chúa: "Hãy trả lại cho Cêsar những gì thuộc về Cêsar, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa." (Mt 22,21). Cuối cùng, Chúa đã hoàn tất mạc khải của Ngài, vừa làm trọn công việc cứu rỗi trên thập giá, mà qua đó Ngài mang lại cho con người ơn cứu rỗi và sự tự do thật. Ngài làm chứng cho sự thật (27), nhưng không muốn dùng sức mạnh để áp đặt sự thật trên những kẻ chống đối. Nước Ngài không được bênh vực bằng gươm giáo (28), nhưng được thiết lập, bằng việc làm chứng và lắng nghe Sự Thật, được lan rộng nhờ tình yêu thương, mà nhờ đó Chúa Kitô, khi bị treo lên Thập Giá, lôi kéo con ngưòi đến với Ngài" (x. Gn 12,32) " (29).

Sự thật và tình thương là hai cột trụ nâng đỡ đời sống của cộng đoàn kitô. Vì thế Tôi đã nhắc rằng "Giáo Hội của tình thương cũng là giáo hội của sự thật, được hiểu trước hết như là sự trung thành với Tin Mừng đã được Chúa Giêsu trao phó cho những ai thuộc về Người.... Nhưng, để sống trong sự hiệp nhất và trong bình an, gia đình của những con cái Thiên Chúa cần đến Ðấng gìn giữ giáo hội trong sự thật và hướng dẫn giáo hội với sự phân định khôn ngoan và có uy tín; đây là điều thường được gọi là việc thi hành thừa tác vụ của các Tông Ðồ. Và, ở đây, chúng ta đi đến một điểm quan trọng. Giáo Hội là hoàn toàn của Chúa Thánh Thần, nhưng có một cơ cấu, có sự tiếp nối tông đồ; và sự tiếp nối tông đồ này có trách nhiệm bảo đảm cho việc Giáo Hội còn trung thành với sự thật do Chúa Kitô trao ban, mà từ sự thật này nảy sinh khả năng sống yêu thương.... Các Thánh Tông Ðồ và những kẻ kế vị các ngài, là những người gìn giữ và làm chứng có uy tín, cho "kho tàng sự thật" được ký gởi cho Giáo Hội, vừa là những tác viên của tình thương bác ái: hai điều này luôn đi đôi với nhau.... Sự thật và tình thương là hai yếu tố của cùng một hồng ân đến từ Thiên Chúa và nhờ thừa tác vụ tông đồ mà được lưu giữ trong Giáo Hội và được lưu truyền đến với chúng ta ngày nay!" (30) Vì thế, Công Ðồng Vaticanô II nhấn mạnh rằng "sự tôn trọng và tình thương phải bao gồm cả những ai suy nghĩ và hành động một cách khác với chúng ta, trong những lãnh vực xã hội, chính trị, và cả tôn giáo nữa, bởi vì nếu chúng ta, --- với sự chân thành và tình bác ái, --- càng thông cảm từ thâm tâm với cách thức suy tưởng của họ, thì chúng ta sẽ càng dễ dàng thiết lập đối thoại với họ". Nhưng cũng chính Công Ðồng Vaticanô II cảnh tỉnh chúng ta rằng: "tình bác ái này và sự dễ thương này, không có cách nào để làm cho chúng ta trở nên lãnh đạm với sự thật và điều tốt." (31) Nhìn vào "ý định nguyên thuỷ của Chúa Giêsu" (32), chúng ta thấy rõ ràng rằng: lý do được nêu ra của vài cơ quan, do Nhà Nước muốn áp đặt và xa lạ với cơ cấu của Giáo Hội, nhằm nắm quyền trên các giám mục và nhằm hướng dẫn đời sống của cộng đồng giáo hội, (rằng lý do được đưa ra đó) là điều không phù hợp với giáo lý công giáo, mà theo đó, Giáo Hội là "tông truyền", như Công Ðồng Vaticanô II đã dạy.

Giáo Hội là tông truyền: "tông truyền do bởi nguồn gốc của mình, vì được thiết lập trên "nền tảng các tông đồ" (Eph 2,20); tông truyền do bởi giáo huấn của mình, là giáo huấn của các tông đồ; tông truyền do bởi cơ cấu của mình, xét vì được giáo huấn, được thánh hoá và được cai quản, cho đến khi Chúa Kitô trở lại, do bởi các tông đồ, qua những người kế vị các tông đồ, tức các giám mục, trong sự hiệp thông với người kế vị thánh Phêrô" (33). Như thế, trong mỗi giáo hội địa phương, chỉ "giám mục giáo phận nhân danh Chúa chăn dắt đoàn chiên được trao phó cho, trong tư cách là vị mục tử dành riêng cho cộng đoàn đó, có thường quyền và trực tiếp liền ngay" (34), và, trên bình diện quốc gia, chỉ hội đồng giám mục mới có thể đặt ra những định hướng mục vụ, có hiệu lực đúng, cho toàn thể cộng đoàn công giáo của đất nước liên hệ". (35)

Mục tiêu được công bố công khai của những cơ quan nhà nước nói trên nhắm thực hiện "những nguyên tắc về độc lập và tự trị, tự quản lý và điều hành cách dân chủ trên giáo hội" (36), là điều không thể hoà hợp được với giáo lý công giáo mà ngay từ đầu các Kinh Tin Kính tuyên xưng Giáo Hội "duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền".

Theo ánh sáng của những nguyên tắc vừa được nhắc đến trên đây, những chủ chăn và các tín hữu giáo dân sẽ nhớ rằng việc rao giảng Phúc Âm, việc dạy giáo lý và công việc từ thiện, sinh hoạt phụng vụ và tôn thờ, những chọn lựa mục vụ, tất cả đều chỉ thuộc thẩm quyền của các giám mục cùng chung với các linh mục của các ngài, trong sự liên tục thường hằng của đức tin, được lưu truyền bởi các Tông Ðồ trong Kinh Thánh và trong Thánh Truyền, và do đó không thể nào tuỳ thuộc vào bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài.

Trước hoàn cảnh khó khăn như vừa trình bày trên đây, không ít thành phần của cộng đoàn công giáo thắc mắc về việc công nhận từ phía Thẩm Quyền dân sự --- một sự công nhận cần thiết để có thể hoạt động công khai --- cách nào đó gây hại cho sự hiệp thông với giáo hội toàn cầu. Tôi biết rõ rằng vấn đề phức tạp này làm cho tâm hồn của các chủ chăn và các tín hữu phải lo âu đau khổ. Về vấn đề này, trước hết tôi cho rằng bổn phận duy trì trung kiên kho tàng đức tin và sự hiệp thông bí tích và có tính cách phẩm trật, tự nó, không đối nghịch với việc đối thoại với các Thẩm Quyền về những khía cạnh thuộc lãnh vực dân sự, trong sinh hoạt của cộng đoàn giáo hội. Người ta không thấy những khó khăn riêng biệt nào, để chấp nhập việc công nhận từ phía những thẩm quyền dân sự, với điều kiện là việc công nhận này không kéo theo việc chối bỏ những nguyên tắc không thể từ bỏ được của đức tin và của sự hiệp thông trong giáo hội. Tuy nhiên, trong không ít trường hợp cụ thể, --- nếu không phải là gần như luôn luôn, --- trong tiến trình để được công nhận, thì có sự can thiệp của những cơ quan bắt buộc những người liên hệ phải có những thái độ, phải làm những công việc và phải có những dấn thân nghịch lại với những mệnh lệnh của lương tâm của họ như là người công giáo. Do đó, tôi hiểu rằng trong những điều kiện và hoàn cảnh như vậy thì quả thật là khó để quyết định đâu là sư chọn lựa đúng phải thực hiện. Vì thế, Toà Thánh, --- sau khi đã tái xác nhận những nguyên tắc, --- thì dành sự quyết định cho từng giám mục; ngài là kẻ tốt nhất, sau khi tham khảo hàng giáo sĩ của mình, có đủ điều kiện để biết hoàn cảnh địa phương, cân nhắc những khả thể cụ thể của sự chọn lựa, và thẩm định những hậu quả có thể, từ bên trong cộng đoàn giáo phận. Có thể xảy ra trường hợp quyết định cuối cùng không gặp được sự đồng thuận của tất cả linh mục và giáo dân. Tuy nhiên, Tôi cầu chúc cho quyết định cuối cùng đó được tiếp nhận, cho dù với đau khổ, và tôi mong sao còn được duy trì sự hiệp nhất của cộng đoàn giáo phận với vị chủ chăn bản quyền.

Cuối cùng, điều tốt là các giám mục và linh mục, với tâm hồn mục tử đích thực, hãy làm sao trong mọi cách để không tạo ra những hoàn cảnh gây gương mù, nhưng nắm bắt những dịp để huấn luyện lương tâm của tín hữu, với sự chú ý đặc biệt dành cho những kẻ yếu kém nhất: tất cả cần được sống trong sự hiệp thông và trong sự thông cảm huynh đệ, vừa tránh đi những phán đoán và những kết án lẫn nhau. Cả trong trường hợp này, người ta cần lưu tâm rằng, ----nhất là khi thiếu một khoảng rộng thật sự tự do, để đánh giá tính cách luân lý của một hành động, --- thì nên biết một cách kỹ lưỡng những ý định thật sự của đương sự trong cuộc, hơn là sự lỗi phạm khách quan. Do đó, mọi trường hợp cần phải được cân nhắc cách riêng biệt, vừa lưu ý đến những hoàn cảnh. 

8. Hàng Giám Mục Trung Hoa

Trong giáo hội, là Dân Thiên Chúa, những thừa tác viên có chức thánh, --- những kẻ đã được thụ phong đúng cách sau khi đã được học hỏi và huấn luyện tương xứng, --- có bổn phận thi hành trách vụ "giảng dạy, thánh hoá và cai trị". Với sự bổ nhiệm đúng giáo luật đến từ Giám Mục, các giáo dân có thể chu toàn một thừa tác trong giáo hội để lưu truyền đức tin.

Thưa các chư huynh trong hàng giám mục, trong những năm gần đây, vì nhiều lý do khác nhau, chư huynh đã gặp những khó khăn, bởi vì những con người không có chức thánh, và đôi khi còn chưa được rửa tội, lại có quyền kiểm soát và quyết định về những vấn đề quan trọng của giáo hội, kể cả việc bổ nhiệm các giám mục, nhân danh cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau.

Hệ quả là chúng ta gặp phải sự hạ thấp phẩm vị của thừa tác vụ phêrô và thừa tác vụ giám mục, dựa theo một quan niệm về giáo hội, mà theo đó Ðức Giáo Hoàng, các giám mục, các linh mục bị nguy hiểm biến thành, trong thực tế, như là những con người không còn sứ vụ và không còn quyền gì cả. Ngược lại, như người ta thường nói, các thừa tác viên phêrô và giám mục là những yếu tố thiết yếu và trở nên thành phần của giáo lý công giáo về cơ cấu bí tích của Giáo Hội. Bản chất này của Giáo Hội là một hồng ân của Chúa Giêsu, bởi vì chính Chúa "là Ðấng đă thiết lập một số môn đệ làm tông đồ, một số khác thì làm tiên tri, những người khác nữa làm nhà rao giảng tin mừng, những kẻ khác nữa làm chủ chăn, làm thầy dạy, để làm cho anh em trở nên có khả năng chu toàn thừa tác vụ, nhằm xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, ngõ hầu tất cả chúng ta đều có thể đạt đến sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự hiểu biết Con Thiên Chúa, có thể đạt đến tình trạng của con người thành toàn trọn hảo, đúng theo mức độ thích hợp với mức trưởng thành trọn vẹn của Chúa Kitô" (Eph 4, 11-13).

Sự hiệp thông và hiệp nhất --- xin cho phép tôi được lặp lại điều này (x. số 5) --- là những yếu tố thiết yếu và không thể tách rời ra của Giáo Hội công giáo: vì thế dự án về một "giáo hội tự trị", trong lãnh vực tôn giáo, tách ra khỏi Toà Thánh, là điều không phù hợp với giáo lý công giáo.

Tôi ý thức rõ về những khó khăn trầm trọng, mà chư huynh phải đương đầu trong hoàn cảnh vừa nói trên đây, để duy trì sự trung thành với Chúa Kitô, với Giáo Hội và với người kế vị thánh Phêrô. Như thánh Phaolô đã quả quyết (x. Roma 8, 35-39), và khi nhắc chư huynh nhớ lại rằng không có khó khăn nào có thể chia tách chúng ta ra khỏi tình yên Chúa Kitô, tôi luôn nuôi dưỡng niềm tin tưởng rằng chư huynh biết làm tất cả những gì có thể, vừa tin tưởng phó thác cho Chúa, để bảo tồn sự hiệp nhầt và hiệp thông giáo hội, cả với giá phải trả là những hy sinh to lớn.

Nhiều thành viên của hàng giám mục Trung Hoa, trong những thập niên gần đây, đã hướng dẫn giáo hội, đã cống hiến và còn đang cống hiến cho cộng đoàn riêng tại chỗ và cho giáo hội phổ quát, một chứng tá sáng ngời. Một lần nữa, phát sinh từ tâm hồn tôi, một bài ca chúc tụng và cảm tạ dâng lên Vị "Mục Tử Tối Cao" của đoàn chiên. (1 Phêrô 5,4); quả thật, người ta không thể quên rằng nhiều người trong số quý chư huynh đã chịu bách hại và đã bị ngăn cản không cho thi hành thừa tác vụ của mình; và vài vị đã làm cho giáo hội được phong phú, bởi việc phải hy sinh mạng sống mình. Thời đại mới và những thách thức từ đó của công việc rao giảng phúc âm, làm nổi bật vai trò của thừa tác vụ giám mục. Như Ðức Gioan Phaolô II đã nói cho các vị Chủ Chăn khắp nơi trên thế giới, họp nhau tại Roma để cử hành Năm Thánh, "vị chủ chăn là người chịu trách nhiệm đầu tiên, và là người linh động cộng đoàn giáo hội, trong đòi hỏi sống hiệp thông cũng như trong dự án truyền giáo. Ðối diện chủ thuyết tương đối và chủ thuyết chủ quan đang đầu độc nhiều phần của nền văn hoá hiện đại, các giám mục được mời gọi bảo vệ và cổ võ sự hiệp nhất giáo lý nơi các tín hữu. Ðược thôi thúc trong mọi hoàn cảnh trong đó đức tin bị lạc mất hoặc bị lơ là, các giám mục hãy dấn thân hết sức mình để phục vụ cho công việc rao giảng phúc âm, bằng việc chuẩn bị các linh mục, tu sĩ và giáo dân cho công việc truyền giáo này, và bằng việc dành ra những phương tiện cần thiết" (37).

9. Việc bổ nhiệm giám mục

Như tất cả anh chị em đều đã biết, một trong những vấn đề tế nhị nhất trong những tương quan của Toà Thánh với những Thẩm quyền của đất nước anh chị em, là vấn đề bổ nhiệm những giám mục. Một đàng, người ta có thể hiểu rằng những Thẩm Quyền cai trị chú ý đến sự chọn lựa những người sẽ thi hành vai trò quan trọng làm kẻ hướng dẫn và làm chủ chăn của những cộng đoàn công giáo địa phương, chú ý đến những phản hồi xã hội mà --- tại Trung Quốc cũng như tại những nơi khác trên thế giới --- vai trò này có trong lãnh vực dân sự. Ðàng khác, Toà Thánh theo dõi --- với sự chăm sóc đặc biệt, --- việc bổ nhiệm giám mục, bởi vì việc bổ nhiệm này chạm đến chính con tim của đời sống Giáo Hội, bởi vì việc bổ nhiệm giám mục từ Ðức Giáo Hoàng là bảo đảm cho sự hiệp nhất của Giáo hội và cho sự hiệp thông phẩm trật. Vì lý do này, giáo luật (nơi khoản 1382) thiết định những chế tài nghiêm trọng đối với vị giám mục nào tự ý phong chức giám mục mà không có sứ vụ lệnh tông toà, cũng như đối với vị được thụ phong giám mục; việc thụ phong như thế quả thật là một vết thương đau đớn gây cho sự hiệp thông giáo hội và là một lỗi phạm nặng nề đối với kỷ luật giáo hội.

Khi ban sứ vụ lệnh tông toà để phong chức giám mục cho một đương sự, Ðức giáo hoàng thi hành quyền thiêng liêng tối cao của mình: đây là một quyền hành và một sự can thiệp nằm trong lãnh vực hoàn toàn tôn giáo. Do đó, đây không phải là một quyền hành chính trị, xen mình không đúng vào trong những việc nội bộ của một Nhà Nước và phạm đến chủ quyền tối cao của Nhà Nước đó. Việc bổ nhiệm những vị Chủ Chăn cho một cộng đoàn tôn giáo nhất định, được hiểu, --- cả trong những văn kiện quốc tế, --- như là một yếu tố cấu thành của việc thực thi quyền tự do tôn giáo (43). Toà Thánh mong muốn được tự do hoàn toàn trong việc bổ nhiệm giám mục (44); tuy nhiên, khi nhìn vào con đường đặc biệt mới đây của Giáo Hội tại Trung Quốc, Tôi ước mong tìm được một sự đồng ý với Chính Quyền, để giải quyết vài vấn đề liên quan đến việc tuyển chọn những ứng viên vào hàng giám mục, cũng như liên quan đến việc công bố việc bổ nhiệm giám mục và việc nhìn nhận - với những hệ quả dân sự trong những gì cần thiết - (nhìn nhận) vị tân giám mục từ phía những thẩm quyền dân sự.

Cuối cùng, liên quan đến việc tuyển chọn những ứng viên vào hàng giám mục, và biết rõ những khó khăn của anh chị em trong vấn đề nầy, Tôi muốn nhắc lại điều cần thiết rằng các ứng viên đó phải là những linh mục xứng đáng, được tín hữu tôn trọng và yêu mến, là gương mẫu đời sống trong đức tin, có kinh nghiệm nào đó trong thừa tác vụ mục vụ, và như thế có khả năng hơn, để đương đầu với trách nhiệm nặng nề làm Chủ Chăn của Giáo Hội. (45) Khi mà trong một giáo phận người ta không thể tìm gặp những ứng viên thích hợp cho toà giám mục, thì sự công tác với những giám mục của các giáo phận gần bên có thể giúp tìm những ứng viên đúng tiêu chuẩn.

 

Phần II: Những Ðịnh Hướng cho Sinh Hoạt Mục Vụ

10. các Bí Tích, việc điều hành các giáo phận, các giáo xứ

Trong thời gian gần đây, nảy sinh những khó khăn đi liền với những sáng kiến cá nhân của các Chủ Chăn, của các linh mục và của các giáo dân, do lòng quảng đại và sự sốt sắng mục vụ, đã không luôn luôn tôn trọng những trách vụ và những trách nhiệm của kẻ khác.

Về vấn đề này, Công Ðồng Vaticanô II nhắc chúng ta nhớ lại rằng, một đàng các giám mục, "xét như là thành phần của giám mục đoàn và như là những kẻ tiếp nối hợp pháp của các Tông Ðồ, đều có bổn phận --- do Chúa Kitô thiết lập và giảng dạy, ---- phải chăm lo cho toàn thế giới", nhưng đàng khác, các ngài "thi hành quyền cai quản mục vụ trên một phần Dân Chúa đã được trao phó cho các ngài, chớ không phải trên những Giáo hội khác, cũng không trên Giáo hội phổ quát" (46).

Hơn nữa, trước vài vấn đề phát sinh trong những cộng đoàn giáo phận trong những năm vừa qua, Tôi nghĩ có bổn phận nhắc lại quy định giáo luật, theo đó mọi giáo sĩ phải gia nhập vào một giáo hội địa phương hoặc vào trong một Viện tu đời tận hiến, và phải thi hành thừa tác vụ của mình trong sự hiệp thông với giám mục bản quyền giáo phận. Chỉ trong trường hợp có lý do chính đáng, một giáo sĩ mới có thể thi hành thừa tác vụ trong một giáo phận khác, nhưng luôn phải có sự đồng ý trước của hai giám mục bản quyền, nghĩa là của vị giám mục cai quản giáo hội địa phương mà trong đó giáo sĩ này đã nhập tịch, và của vị giám mục của giáo hội địa phương trong đó giáo sĩ này đến phục vụ (47).

Kế đến, trong nhiều hoàn cảnh, là vấn đề về việc đồng tế thánh lễ. Về vấn đề nầy, Tôi nhắc lại rằng việc đồng tế thánh lễ giả thiết phải có trước những điều kiện như: việc tuyên xưng cùng một đức tin và sự hiệp thông phẩm trật với Ðức Giáo Hoàng và với giáo hội phổ quát. Tuy nhiên, được phép đồng tế với các giám mục và các linh mục có hiệp thông với Ðức Thánh Cha, cho dù các ngài là những vị đã được Thẩm Quyền dân sự nhìn nhận và có duy trì liên lạc với những cơ quan, do Nhà Nước muốn có và là những cơ quan nằm bên ngoài cơ cấu của Giáo Hội, miễn là --- như đã nói trên nơi số 7 --- việc nhìn nhận và mối tương quan đó không kéo theo sự chối bỏ những nguyên tắc không thể nhượng được của Ðức tin và của sự hiệp thông trong giáo hội.

Kể cả các tín hữu, nếu họ được linh động bởi một tình yêu chân thành đối với Chúa Kitô và Giáo Hội, thì không nên do dự tham dự Thánh Thể, được cử hành bởi các giám mục và các linh mục không có sự hiệp thông trọn vẹn với người kế vị Thánh Phêrô và được nhìn nhận bởi những Thẩm Quyền dân sự. Cùng những quy định như vậy được áp dụng cho tất cả các bí tích khác.

Phải luôn theo ánh sáng những nguyên tắc của giáo lý công giáo, mà giải quyết những vấn đề được nẩy sinh, đối với những giám mục đã được phong chức mà không có sứ vụ lệnh của toà thánh, nhưng có tuân giữ nghi thức công giáo của việc phong chức giám mục. Việc phong chức giám mục cho các ngài - như tôi đã nói nơi số 8 - là không đúng luật đạo, nhưng được thành sự; và do đó cũng được thành sự những phong chức linh mục mà các giám mục này đã thi hành; và cũng được thành sự các bí tích do các giám mục và linh mục thuộc trường hợp này trao ban. Vì thế, theo những gì vừa được xác định, trong việc cử hành thánh thể và ban phát các bí tích khác, các tín hữu, trong mức độ có thể, hãy tìm đến với các giám mục và linh mục có hiệp thông với Ðức Thánh Cha; tuy nhiên, khi không thể làm như vậy được vì có bất tiện trầm trọng, thì các tín hữu, do nhu cầu lợi ích thiêng liêng của họ, có thể đến với cả những vị không có hiệp thông với Ðức Thánh Cha.

Cuối cùng, Tôi cho là hợp lúc để kêu gọi sự chú ý của anh chị em đến những gì giáo luật dự trù, để giúp ích cho các giám mục giáo phận thi hành trách vụ mục vụ riêng. Mỗi giám mục giáo phận được mời gọi hãy biến mình trở thành những phương tiện cần thiết của sự hiệp thông và cộng tác bên trong cộng đoàn công giáo giáo phận: văn phòng giáo phận, hội đồng linh mục, ban cố vấn, hội đồng mục vụ giáo phận, hội đồng giáo phận đặc trách những vấn đề kinh tế tài chính. Những cơ quan nầy nói lên sự hiệp thông, cổ võ việc chia sẻ những trách nhiệm chung, và là sự trợ giúp lớn cho các Chủ chăn; và các Chủ chăn này có thể cậy dựa vào sự cộng tác huynh đệ của các linh mục, của những anh chị em sống đời tận hiến và những anh chị em giáo dân.

Cùng những điều giống như thế được áp dụng cho các hội đồng khác nhau, được giáo luật quy định cho các giáo xứ như: hội đồng mục vụ giáo xứ và hội đồng giáo xứ đặc trách những vấn đề kinh tế tài chánh.

Ðối với các giáo phận cũng như với các giáo xứ, cần chú ý đặc biệt đến những tài sản vật chất của Giáo Hội, gồm các động sản và bất động sản; những tài sản này cần được kê khai đúng theo luật định trong lãnh vực dân sự, và nhân danh giáo phận hay giáo xứ, chứ không bao giờ nhân danh cá nhân (như giám mục, cha xứ hay nhóm giáo dân). Trong khi đó, vẫn còn đầy đủ giá trị của nó, định hướng truyền thống cho việc mục vụ và truyền giáo, được tóm gọn trong nguyên tắc: "nihil sine Episcopo", nghĩa là " không làm gì mà không có giám mục".

Từ phân tích về những vấn đề nêu trên, xuất hiện rõ ràng ràng rằng một giải pháp đích thực cho những vấn đề này có gốc rễ của nó trong việc cổ võ sự hiệp thông, một sự hiệp thông múc lấy sức mạnh và sự hăng say từ nguồn mạch là Chúa Kitô, mẫu tình thương của Thiên Chúa Cha. Tình bác ái, luôn có giá trị trên tất cả mọi sự (x. 1 Co 13,1-12), sẽ là sức mạnh và là tiêu chuẩn trong công việc mục vụ, để xây dựng một cộng đoàn giáo hội, làm cho Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện với con người ngày nay.

 11. Những giáo tỉnh.

Trong thời gian 50 năm qua, trong lãnh vực dân sự, đã có nhiều thay đổi hành chánh. Ðiều này ảnh hưởng đến nhiều giáo tỉnh khác nhau; có những giáo tỉnh đã bị huỷ bỏ hoặc được phân chia lại, hoặc phải thay đổi trên bình diện lãnh thổ, tuỳ theo những tỉnh hành chánh dân sự. Về điều này, Tôi muốn xác định rằng Toà Thánh sẵn sàng đương đầu với toàn bộ vấn đề về các giáo phận và giáo tỉnh, trong một cuộc đối thoại cởi mở và xây dựng với hàng giám mục Trung Hoa và với những Thẩm Quyền dân sự, nếu xét thấy hợp lúc và hữu ích. 

12. Những cộng đồng công giáo.

Tôi đã biết rõ rằng những cộng đoàn giáo phận và giáo xứ, rải rác trong lãnh thổ rộng lớn Trung Quốc, cho thấy một sức sống đặc biệt về đời kitô, về chứng tá đức tin và về những sáng kiến mục vụ. Ðây là điều an ủi tôi, vì được biết rằng: mặc cho những khó khăn đã qua và hiện có, các giám mục, linh mục, những người tận hiến và các giáo dân, đã duy trì một ý thức sâu xa mình là những thành phần sống động của Giáo Hội phổ quát, trong sự hiệp thông đức tin và đời sống với tất cả mọi cộng đoàn công giáo rải rác trên khắp thế giới. Trong tận tâm hồn, họ biết rõ như thế nào là người công giáo. Và chính từ con tim công giáo này mà phải được phát sinh sự dấn thân để làm sáng tỏ và bằng việc làm cụ thể, --- từ bên trong từng cộng đoàn cũng như trong những tương quan giữa các cộng đoàn khác nhau, --- (làm sáng tỏ) tinh thần hiệp thông, sự thông cảm và tha thứ --- như đã nói trên đây nơi các số 5 và 6; đây là dấu ấn hữu hình cho cuộc sống kitô đích thực. Tôi chắc chắn rằng Thánh Thần của Chúa Kitô, --- như Ngài đã giúp cho những cộng đoàn được duy trì sống động đức tin trong thời gian bị bách hại, --- thì hôm nay Ngài cũng sẽ trợ giúp tất cả mọi người công giáo được lớn lên trong sự hiệp nhất. Như Tôi đã nhắc lại --- nơi các số 2 và 4 --- các thành viên của những cộng đoàn công giáo trong đất nước anh chị em, --- nhất là các giám mục, linh mục và những người tận hiến --- buồn thay, chưa được phép sống và diễn tả, --- một cách trọn vẹn và hữu hình, --- vài khía cạnh của việc họ thuộc về Giáo Hội và của sự hiệp thông phẩm trật với Ðức Giáo Hoàng, vì họ thường còn bị cản trở trong những tiếp xúc tự do với Toà Thánh và với những cộng đoàn công giáo khác nữa tại các quốc gia khác. Quả thật, trong những năm vừa qua, Giáo Hội được hưởng, --- so với quá khứ, --- một sự tự do tôn giáo nhiều hơn. Tuy nhiên người ta không thể chối bỏ rằng còn có những giới hạn trầm trọng liên quan đến điểm trung tâm của đức tin và rằng, trong mức độ nào đó, những giới hạn nầy bóp nghẹt sinh hoạt mục vụ. Về vấn đề này, Tôi lặp lại ước mong (x. số 4) rằng, trong cuộc đối thoại đầy tôn trọng và cởi mở giữa một bên là Toà Thánh và các giám mục Trung Hoa, và bên kia là những Thẩm Quyền Nhà Nước, người ta có thể vượt qua được những khó khăn nói trên, và như thế người ta đạt đến một sự đồng ý tốt lành, có lợi cho cộng đoàn tôn giáo và cho sự chung sống xã hội. 

13. Các Linh Mục

Tiếp sau, Tôi muốn gởi một suy tư đặc biệt và một lời mời gọi đến các linh mục - nhất là những linh mục mới được thụ phong trong những năm gần đây --- rằng với biết bao quảng đại, họ đã đi con đường thi hành thừa tác vụ mục vụ. Tôi có cảm tưởng rằng hoàn cảnh hiện nay, --- trên bình diện giáo hội và xã hội, chính trị, --- luôn làm cho trở nên khẩn thiết hơn, và đòi buộc phải múc lấy ánh sáng và sức mạnh nơi những nguồn mạch của linh đạo linh mục; những nguồn mạch đó là: tình yêu Thiên Chúa, việc theo Chúa Kitô một cách vô điều kiện, sự say mê rao giảng Tin Mừng, sự trung thành với Giáo Hội và việc phục vụ quảng đại anh chị em (48). Về vấn đề này, làm sao không nhắc đến, --- để khích lệ cho tất cả mọi người, --- những dung mạo sáng chói của các giám mục, linh mục đã làm chứng cho một tình yêu không tì ố đối với giáo hội, cả với việc cho đi chính mạng sống mình cho Giáo Hội và cho Chúa Kitô, trong những năm khó khăn vừa qua? Thưa anh em linh mục rất thân mến, anh em là những người phải mang lấy "gánh nặng của ngày và sự nóng nực" (Mt 20, 12); anh em đã tra tay cầm cày và không nhìn lại phía sau (x. Luca 9,62), anh em hãy nghĩ đến những nơi mà các tín hữu đang lo âu chờ đợi một linh mục và ở đó từ nhiều năm họ không ngừng ước mong cho có một linh mục đến hiện diện với họ, vì họ cảm thấy thật sự họ thiếu linh mục. Tôi biết rõ rằng giữa anh em, có những linh mục đang phải đương đầu với những giây phút và những hoàn cảnh khó khăn, với những lập trường không luôn được đồng ý xét từ quan điểm giáo hội, và rằng, mặc cho tất cả, họ mong muốn trở về trong sự hiệp thông trọn vẹn của Giáo Hội. Trong tinh thần của sự hoà giải sâu xa, được vị tiền nhiệm đáng kính của tôi liên lĩ mời gọi cho Giáo Hội tại Trung Quốc (49), Tôi ngỏ lời với các giám mục sống trong sự hiệp thông với người kế vị Thánh Phêrô, ngõ hầu với tâm tình của một người cha, các ngài hãy xét định từng trường hợp một, và đáp ứng một cách đúng với ước mong như thế, và nếu cần thì nhờ đến Toà Thánh. Như là dấu chỉ cho sự hoà giải đáng mong ước nầy, tôi nghĩ rằng không có cử chỉ nào khác có ý nghĩa hơn cử chỉ cùng nhau lặp lại--- nhân dịp ngày của chức tư tế vào Thứ Năm Tuần Thánh, như xảy ra trong Giáo Hội phổ quát, hoặc trong một dịp khác được xem như là hợp thời hơn, --- (cùng nhau lặp lại) lời tuyên xưng Ðức Tin, để chứng tỏ sự hiệp thông trọn vẹn đã đạt được, nhắm xây dựng nhiệm thể của Dân thánh Thiên Chúa, đã được trao phó cho sự chăm sóc mục vụ của anh em, và để làm sáng danh Thiên Chúa Ba Ngôi.

Tôi ý thức rằng, cả tại Trung Quốc nữa, cũng như tại các nơi khác trong Giáo Hội, đang nảy sinh sự cần thiết của một chương trình thường huấn tương xứng dành cho giáo sĩ. Từ đó, nảy sinh lời mời gọi, được gởi đến quý chư huynh giám mục, như là những kẻ chịu trách nhiệm các cộng đoàn giáo hội, hãy nghĩ đặc biệt đến hàng giáo sĩ trẻ luôn phải đối diện nhiều hơn với những thách thức mục vụ mới, có liên hệ với những đòi hỏi của trách vụ rao giảng Phúc âm cho một xã hội hết sức phức tạp như xã hội Trung Hoa hiện nay. Ðức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II nhắc chúng ta về điều này như sau: công việc thường huấn dành cho các linh mục "là một đòi buộc nội tại của hồng ân và của thừa tác vụ bí tích chức thánh đã lãnh nhận; trong mọi thời, việc thường huấn này luôn cần thiết. Nhưng ngày hôm nay, thì lại càng khẩn thiết đặc biệt hơn nữa, không những chỉ vì sự thay đổi nhanh chóng những hoàn cảnh xã hội và văn hoá nơi con người và nơi các dân tộc, trong đó được thi hành thừa tác vụ linh mục, nhưng còn vì "công cuộc tái rao giảng phúc âm là một trách vụ thiết yếu và không thể trì hoãn được của Giáo Hội vào lúc cuối ngàn năm thứ hai" (50).

 14. Những ơn gọi và việc huấn luyện đời tu.

Trong suốt 50 năm qua, không bao giờ thiếu trong Giáo Hội tại Trung Quốc sự trổ sinh phong phú các ơn gọi linh mục và đời tận hiến. Vì thế, người ta phải cảm tạ Chúa bởi vì đây là dấu chỉ cho sức sống của Giáo Hội và là nguyên do để hy vọng. Trong thời gian qua, đã phát sinh nhiều dòng tu bản địa: các giám mục và linh mục do kinh nghiệm mà biết rõ sự đóng góp không thể thay thế của các nữ tu trong việc dạy giáo lý và trong sinh hoạt giáo xứ trong mọi hình thức của nó; hơn nữa, sự chú ý đến những ai cần được giúp đỡ nhất, được thực hiện trong sự cộng tác của những Thẩm quyền dân sự địa phương, là thể hiện của tình bác ái và của việc phục vụ cho người lân cận, là chứng tá đáng tin nhất cho sức mạnh và cho sức sống của Phúc âm Chúa Giêsu.

Tuy nhiên Tôi ý thức rõ rằng việc trổ sinh nhiều ơn gọi như thế, ngày nay có kéo theo nhiều vấn đề khó khăn. Trước hết là đòi hỏi phân định chú ý hơn về ơn gọi từ phía những vị có trách nhiệm trong giáo hội, rồi cần có việc huấn luyện có chiều sâu hơn và việc giảng dạy cho các ứng sinh chức tư tế và những ứng sinh đời tận hiến. Mặc cho tính cách yếu kém của những phương tiện được sử dụng, vì tương lai của Giáo Hội tại Trung Quốc, người ta cần dấn thân làm sao để một đàng bảo đảm cho có sự chú ý đặc biệt trong việc chăm sóc ơn gọi, và đàng khác, một sự huấn luyện vững chắc hơn dưới những khía cạnh nhân bản, thiêng liêng, triết học, thần học và mục vụ, cần phải có trong các chủng viện và các học viện đời tu.

Về vấn đề nầy, người ta cần nhắc đặc biệt đến việc huấn luyện sống độc thân, dành cho các ứng sinh chức linh mục. Ðiều quan trọng là các ứng sinh này học sống và quý chuộng sự độc thân, như là hồng ân quý giá của Thiên Chúa và như là dấu chỉ tuyệt vời cho thời cánh chung; sự độc thân này làm chứng cho một tình yêu không chia sẻ đối với Thiên Chúa và đối với Dân Người và làm cho linh mục trở nên giống như Chúa Giêsu Kitô, Thủ lãnh và vị Hôn phu của Giáo Hội. Thật vậy, hồng ân này, một cách chính yếu, "nói lên việc phục vụ của linh mục cho giáo hội trong và với Chúa" (51) và biểu lộ giá trị tiên tri cho thế giới ngày nay.

Còn đối với những ơn gọi tu dòng, trong khung cảnh hiện nay của Giáo Hội tại Trung Quốc, thì cần biểu lộ mỗi ngày một sáng chói hơn hai chiều kích của ơn gọi tu trì: một đàng là chứng tá của ơn đoàn sủng tận hiến hoàn toàn cho Chúa Kitô, qua các lời khấn trinh khiết, khó nghèo và vâng phục, và một đàng là sự đáp trả cho đòi buộc rao giảng Tin Mừng trong những hoàn cảnh hiện tại của lịch sử và xã hội của đất nước.

15. Các giáo dân và gia đình.

Trong những lúc khó khăn nhất của lịch sử hiện đại của Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc, các giáo dân, --- trên bình diện cá nhân và gia đình, cũng như trong tư cách là thành viên của những phong trào thiêng liêng và tông đồ, --- đã chứng tỏ một sự trung thành trọn vẹn với Phúc âm, và đích thân trả giá cho sự trung thành của mình đối với Chúa Kitô.

Thưa anh chị em giáo dân, cả ngày hôm nay nữa, anh chị em được gọi hãy nhập thể Tin Mừng trong đời sống anh chị em và hãy làm chứng, nhờ qua công việc phục vụ cách quảng đại và cụ thể, vì lợi ích của dân chúng và vì sự phát triển của đất nước: anh chị em hãy chu toàn sứ mạng nầy, bằng cách sống như những người công dân chân thành và làm việc như những người cộng tác tích cực và có trách nhiệm trong việc phổ biến Lời Chúa, trong môi trường sống của anh chị em, đồng quê hay thành thị. Trong thời gian mới đây, anh chị em là những chứng nhân can đảm của Ðức Tin, anh chị em hãy là niềm hy vọng cho Giáo Hội tương lai! Ðiều nầy đòi hỏi sự tham gia của anh chị em mỗi ngày một xác tín hơn, vào trong tất cả mọi sinh hoạt của đời sống giáo hội, trong sự hiệp thông với những vị chủ chăn của anh chị em.

Vì tương lai của nhân loại đi qua gia đình, nên Tôi cho rằng điều cần thiết và khẩn cấp là các giáo dân hãy cổ võ những giá trị của gia đình và bảo đảm an toàn những đòi buộc của nó. Trong đức tin, anh chị em biết được trọn vẹn ý định kỳ diệu của Thiên Chúa cho gia đình; đây là một lý do thêm nữa để anh chị em lãnh lấy dấu lệnh cụ thể và đòi hỏi dấn thân, như sau: gia đình thật là nơi thông thường để các thế hệ trẻ đạt đến sự trưởng thành cá nhân và xã hội. Gia đình mang theo với mình phần gia tài của chính nhân loại, bởi vì sự sống đến, qua gia đình, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Gia đình chiếm một chỗ thật quan trọng các nền văn hoá tại Á Châu, và --- như các nghị phụ của Thượng Hội Ðồng Giám Mục nhấn mạnh, --- những giá trị của gia đình như sự kính trọng thảo hiếu, lòng yêu thương và sự chăm sóc dành cho người cao niên và đau yếu, tình yêu đối với những trẻ nhỏ, sự hài hoà, đó là những giá trị rất được tôn trọng trong tất cả các nền văn hoá và truyền thống tôn giáo của đại lục này." (52)

Những giá trị vừa nói trên kết thành khung cảnh nổi bật về văn hoá Trung Hoa; nhưng tại đất nước của anh chị em, không thiếu những sức mạnh ảnh hưởng một cách tiêu cực trên gia đình, trong nhiều cách thế khác nhau. Vì thế Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc, --- với ý thức rằng điều thiện hảo của xă hội và của chính mình được liên kết sâu xa với điều thiện hảo của gia đình (53), --- cần cảm thấy một cách thật sống động hơn và khẩn thiết hơn sứ mạng rao giảng cho tất cả mọi người biết ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình, vừa bảo đảm cho ý định này được thực hiện hoàn toàn. (54) 

16. Việc khai tâm kitô dành cho người lớn.

Lịch sử mới đây của Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc đã thấy số đông những người lớn đã đến với với Ðức Tin nhờ vào chứng tá của những cộng đồng kitô tại địa phương. Thưa anh em, những chủ chăn, anh em được kêu gọi chăm lo đặc biệt cho việc khai tâm kitô dành cho những người lớn này, qua một giai đoạn huấn luyện tân tòng thích hợp và nghiêm chỉnh, để trợ giúp và chuẩn bị họ sống cuộc đời làm môn đệ của Chúa Giêsu. Về vấn đề này, Tôi xin nhắc lại rằng công việc rao giảng Phúc Âm không bao giờ là một việc thuần tuý chỉ nhắm thông truyền trí thức, nhưng là một kinh nghiệm sống, thanh luyện và biến đổi trọn cả cuộc đời, và là một cuộc hành trình trong hiệp thông. Chỉ như thế, người ta mới thiết lập một tương quan đúng giữa tư tưởng và đời sống. Nhìn về quá khứ, người ta cần lưu ý rằng nhiều người lớn đã không luôn luôn được hướng dẫn đủ, để biết trọn vẹn sự thật về đời sống kitô và họ cũng không biết sự phong phú của công cuộc canh tân do công đồng Vaticanô II mang đến. Vì thế xem ra cần thiết và khẩn trương, việc cống hiến cho những anh chị em này một huấn luyện kitô vững chắc và đi sâu vào đề tài, dưới dạng của một thời kỳ huấn luyện tân tòng sau khi đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội. (55)

17. Ơn gọi truyền giáo.

Giáo Hội mọi nơi và mọi lúc là giáo hội truyền giáo; giáo hội được mời gọi công bố và làm chứng cho Tin Mừng. Giáo Hội tại Trung Quốc cần phải cảm nghiệm trong tâm hồn mình sự hăng say truyền giáo của Ðấng Sáng Lập và là Chúa của mình.

Khi ngỏ lời với các bạn trẻ hành hương đến Núi Bát Phúc, vào năm 2000, Ðức Gioan Phaolô II đã nói như sau: "Khi lên trời, Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ của Người một sứ mạng và lời bảo đảm như sau: "Thầy đã được ban cho mọi quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy ra đi và giảng dạy cho mọi dân tộc... Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận cùng thế gian" (Mt 28,18-20). Từ hai ngàn năm, những môn đệ của Chúa Kitô chu toàn sứ mạng này. Giờ đây, vào lúc bình minh của ngàn năm thứ ba, đến phiên anh chị em. Phải, đến phiên anh chị em ra đi khắp nơi trên thế giới và loan báo sứ điệp Mười Ðiều Răn và Tám Mối Phúc Thật. Khi Thiên Chúa nói, thì Ngài nói về những điều có tầm quan trọng nhất cho mọi người, cho con người của thế kỷ thứ XXI cũng như cho con người của thế kỷ thứ nhất. Mười Ðiều Răn và Tám Mối Phúc nói về sự thật và về lòng tốt lành, về ân sủng và sự tự do, về tất cả những gì cần thiết để bước vào Nước Chúa Kitô" (56).

Giờ đây, thưa anh chị em, những môn đệ Trung Hoa của Chúa, anh chị em hãy là những tông đồ can đảm của Nước Chúa. Tôi tin chắc rằng sự đáp trả của anh chị em sẽ to lớn và quảng đại.

18. Trước hết, xét vì vài phát triển tích cực trong hiện tình giáo hội tại Trung Quốc, và kế đó, xét vì những khả thể lớn và những sự dễ dàng trong lãnh vực thông tin, và cuối cùng, xét vì những yêu cầu mà các giám mục và linh mục đã gởi đến, với bức thư này, Tôi rút lại tất cả những năng quyền đã được trao ban trước đây nhắm đương đầu với những đòi hỏi mục vụ đặc thù, đã phát sinh trong những lúc thật sự khó khăn.

Tôi cũng quyết định như thế đối với tất cả những chỉ dẫn có tính cách mục vụ, trong quá khứ và mới đây. Những nguyên tắc giáo lý gợi ý cho những chỉ dẫn đó, giờ đây có những áp dụng mới, trong những chỉ dẫn có tích chứa trong Bức Thư này."

19. Thưa quý chủ chăn và tất cả các tín hữu thân mến, ngày 24 tháng 5, ngày phụng vụ dành để kính nhớ Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, Ðấng Phù Hộ các kitô hữu - Ðấng rất được tôn kính tại Ðền Thánh Mẫu Sheshan ở Thượng hải - trong tương lai có thể trở nên dịp cho người công giáo khắp nơi trên thế giới hiệp ý trong lời cầu nguyện với giáo hội tại Trung Quốc. Tôi ước ao ngày đó, đối với anh chị em, sẽ là ngày cầu nguyện cho Giáo Hội tại Trung Quốc. Tôi khuyến khích anh chị em cử hành ngày Cầu Nguyện này, bằng việc canh tân sự hiệp thông đức tin của anh chị em vào Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, và canh tân sự hiệp thông trong trung thành với Ðức Giáo Hoàng, vừa cầu nguyện sao cho sự hiệp nhất giữa anh chị em được luôn sâu xa hơn và hữu hình hơn. Hơn nữa, Tôi nhắc anh chị em nhớ lại mệnh lệnh yêu thương mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta, để yêu thương những kẻ thù nghịch chúng ta và cầu nguyện cho những ai bách hại chúng ta; Tôi cũng nhắc anh chị em nhớ lời mời gọi của Thánh Tông Ðồ Phaolô như sau: "Tôi khuyến khích anh chị em, trước hết hãy dâng những lời kêu xin, nài van, cầu nguyện và cảm tạ, cho tất cả mọi người, cho các Vua chúa và cho tất cả những ai đang nắm quyền, ngõ hầu chúng ta có thể trải qua cuộc sống yên hàn và an lành, với trọn lòng đạo đức và phẩm giá. Ðây là một điều cao đẹp và làm vui lòng Thiên Chúa, Ðấng cứu rỗi chúng ta, Ðấng muốn cho tất cả mọi người được cứu rỗi và đạt đến sự hiểu biết chân lý" (1 Tim 2,1-4).

Trong cùng ngày Cầu Nguyện này, những người công giáo trên toàn thế giới --- đặc biệt những anh chị em gốc Trung Quốc --- sẽ chứng tỏ tình liên đới huynh đệ và sự chăm sóc cho anh chị em, qua việc xin Ðấng là Chúa của lịch sử, ban ơn kiên trì trong việc làm chứng; xin Ngài ban cho anh chị em được biết chắc chắn rằng những đau khổ đã chịu trong quá khứ và hiện tại, vì Danh Thánh Chúa Giêsu và lòng chân thành trung kiên với Ðấng Ðại Diện của Chúa trên trần gian, sẽ được ân thưởng, cả khi mọi sự có thể xem ra như một thất bại đau buồn.

20. Thưa quý chủ chăn của Giáo Hội công giáo tại Trung Quốc, quý anh em linh mục, quý anh chị em sống đời tận hiến và anh chị em giáo dân thân mến, cuối thư, tôi cầu chúc cho anh chị em tất cả được "tràn đầy niềm vui, cho dù hiện tại anh chị em phải khốn khổ trong một thời gian, do bởi những thử thách khác nhau, ngõ hầu giá trị của đức Tin nơi anh chị em, một giá trị quý giá hơn vàng ròng, --- dù vàng hay hư nát, mà còn phải chịu thử lửa, --- làm cho anh chị em được chúc tụng, tôn vinh và danh dự, khi Chúa Giêsu Kitô xuất hiện" (I Phêrô 1,6-7).

Nguyện xin Ðức Maria rất thánh, Mẹ của Giáo Hội và Nữ Vương của Trung Quốc, Mẹ là Ðấng trong giờ thập giá đã biết chờ đợi, trong thinh lặng của niềm hy vọng, (chờ đợi) buổi sáng Phục Sinh, -- (Nguyện xin Mẹ) đồng hành với anh chị em với lòng chăm sóc dự phòng của người mẹ, và cầu bàu cho tất cả anh chị em, cùng với thánh Giuse và với nhiều thánh tử đạo Trung Hoa. Tôi bảo đảm luôn cầu nguyện cho anh chị em; và với tâm trí đầy yêu thương nghĩ đến những vị cao niên, những người đau yếu, nghĩ đến các trẻ em và các bạn trẻ của quốc gia cao cả của anh chị em, Tôi ban phép lành cho tất cả.

Từ Roma, bên cạnh Ðền Thờ Thánh Phêrô, ngày 27 tháng 5, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, năm 2007, năm thứ ba tôi làm giáo hoàng.

 

Bênêđitô XVI, giáo hoàng.

 

Radio Verita

Lm. Đặng Thế Dũng ( chuyển ngữ)


Trở về Trang Mục Lục Giáo Hội