Tông Sắc “APERUIT ILLIS - Ngài mở trí cho họ” của ĐTC Phan-xi-cô - nhằm thiết
lập Ngày Chúa Nhật Lời Chúa
1.“Bấy giờ Ngài mở trí cho họ hiểu lời Kinh Thánh“ (Lc 24,45). Đó là một
trong những hành vi cuối cùng của Đấng Phục Sinh trước khi Ngài về Trời. Ngài
hiện ra với các môn đệ khi họ quy tụ lại
với nhau, bẻ bánh với họ và mở trí cho họ hiểu lời Kinh Thánh. Ngài mạc khải ý
nghĩa của mầu nhiệm Phục Sinh cho những con người đang bị gây hoảng loạn và tuyệt
vọng, biết rằng, theo kế hoạch đã có từ muôn thuở của Thiên Chúa Cha, thì Chúa
Giê-su sẽ phải chịu khổ hình nhưng sẽ phục sinh từ cõi chết, hầu mang đến ơn
hoán cải và ơn tha thứ tội lỗi (xc. Lc 24,26.46-47); và Ngài đã hứa ban Thánh
Thần cho họ; còn Chúa Thánh Thần thì sẽ ban sức mạnh cho họ để họ trở nên những
chứng nhân của mầu nhiệm cứu độ ấy (xc. Lc 24,49).
Mối tương quan giữa Đấng
Phục Sinh với cộng đoàn các tín hữu và với Kinh Thánh là điều vô cùng quan trọng
đối với căn tính chúng ta. Nếu không có Chúa Ki-tô, Đấng mở trí cho chúng ta am
hiểu Kinh Thánh, thì sẽ không thể hiểu được Kinh Thánh trong chiều sâu của nó. Và
trái lại, nếu không có Kinh Thánh thì cũng sẽ không thể hiểu được sứ mạng của
Chúa Giê-su cũng như sứ mạng của Giáo hội Ngài trên thế giới. Thánh
Giê-rô-ni-mô thật có lý khi viết: „Không
biết Kinh Thánh thì cũng sẽ chẳng biết Chúa Ki-tô“ (Comm. in Is., Prolog).
2.Nhân dịp bế mạc Năm Thánh
ngoại thường về Lòng Thương Xót, Cha đã mời gọi mọi người hãy lưu tâm tới „một ngày Chúa Nhật được hoàn toàn dành riêng
cho Lời Chúa để lĩnh hội sự phong phú vô hạn mà nó phát sinh từ cuộc đối thoại
không ngừng ấy của Thiên Chúa với Dân Người“ (Tông Sắc Misericordia et
misera, 7). Việc dành một Ngày Chúa Nhật trong năm Phụng Vụ cho Lời Chúa sẽ tạo
điều kiện cách đặc biệt, để Giáo hội tái trải nghiệm về những hành vi của Đấng
Phục Sinh, Đấng cũng đang mở ra cho chúng ta thấy kho tàng Lời Ngài, để chúng
ta có thể trở nên những người công bố sự phong phú vô hạn ấy giữa thế giới.
Trong mối liên hệ này, Cha chợt nhớ tới điều mà Thánh Ephrem đã từng viết: „Lạy Chúa, ai có khả năng thấu hiểu được sự
phong phú hoàn toàn của một trong những Lời của Chúa, tức điều mà chúng con
không thể hiểu được bằng trí tuệ, hơn là tiếp nhận được nó từ nguồn mạch giống
như những người khát nước? Đồng thời cũng có nhiều cách giải nghĩa Lời Chúa, giống
như những người nghiên cứu học hỏi về nó. Thiên Chúa đã trang điểm cho Lời Ngài
bằng rất nhiều những hình thức tuyệt vời khác nhau, để bất cứ ai trong số những
người học hỏi và nghiên cứu về điều mà nó làm cho người ấy thích thú, cũng đều
lưu tâm; và Ngài đã giấu kín tất cả mọi kho tàng trong Lời Ngài, đến độ bất cứ
ai trong chúng con mà suy nghĩ về nó, thì cũng đều được phong phú hóa nhờ nó“
(Chú giải về Diatessaron, 1,18).
Vì thế, với Tông Sắc này,
Cha muốn trả lời cho rất nhiều những lời thỉnh cầu mà chúng được Dân Thiên Chúa
gửi đến cho Cha, để Ngày Chúa Nhật Lời Chúa sẽ có thể được cử hành trên toàn
Giáo hội theo một cách thức giống nhau. Việc các Cộng Đoàn Ki-tô hữu suy tư về
những giá trị to lớn mà Lời Chúa đem đến cho cuộc sống hằng ngày của họ, vào một
số dịp nào đó, đã trở thành một thực hành khá phổ biến. Tại nhiều Giáo hội địa
phương khác nhau đang có những sáng kiến thật đa dạng, mà các sáng kiến ấy có
khả năng giúp cho các tín hữu có được một sự tiếp cận càng ngày càng sâu xa hơn
với Kinh Thánh; họ lấy làm biết ơn trước một hồng ân to lớn như thế, và cố gắng
sống Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày, cũng như cảm thấy có trách nhiệm phải
làm chứng cho Lời Chúa theo những cách thức đáng tin cậy.
Với Hiến Chế Tín Lý về Mạc
Khải Dei Verbum, Công Đồng Vatican II đã khuyến khích mọi người hãy tái khám
phá Lời Chúa. Bản văn Công Đồng vẫn luôn có giá trị để mọi người suy niệm và áp
dụng trong cuộc sống; và bản văn Công Đồng đã nhấn mạnh tới bản chất của Kinh
Thánh cũng như nhấn mạnh tới việc phải tiếp tục chuyển giao Kinh Thánh từ thế hệ
này sang thế hệ kia (chương II), sự linh hứng của Kinh Thánh (chương III) mà sự
linh hứng ấy bao hàm cả Cựu Ước lẫn Tân Ước (chương IV và V), và tầm quan trọng
của Kinh Thánh đối với đời sống Giáo hội (chương VI). Để đào sâu Giáo Lý ấy,
vào năm 2008, Đức Bê-nê-đíc-tô XVI đã triệu tập một Thượng Hội Đồng Giám Mục với
đề tài: „Lời Chúa trong đời sống và trong sứ mạng của Giáo hội“. Khi bế
mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục đó, Ngài đã công bố Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng
Giám Mục với tiêu đề là Verbum Domini – Lời Thiên Chúa. Tông Huấn này chính là
một học thuyết vô cùng cần thiết đối với các cộng đoàn chúng ta [1].
Trong văn kiện đó, đặc tính thẩm thấu của Lời Chúa đã được phân tích cặn kẽ và theo
một cách thức đặc biệt, mà đặc tính Bí Tích của Lời Ngài đã đặc biệt và thực sự
trở nên sáng tỏ trong hành vi phụng tự[2].
Vì thế, ước chi trong đời
sống của Dân chúng ta, mối tương quan có tính quyết định đó với Lời hằng sống của
Thiên Chúa sẽ không bao giờ bị khuyết thiếu, mà thông qua Lời Hằng Sống ấy,
Thiên Chúa sẽ không bao giờ ngừng nói với Hiền Thê của mình, để Hiền Thê có thể
phát triển và lớn lên trong Đức Ái cũng như trong việc làm chứng cho Đức Tin.
3.Vì thế, Cha ấn định rằng,
ngày Chúa Nhật thứ III thường niên sẽ là Ngày được dành để cử hành, để chiêm
ngưỡng cũng như để phổ biến Lời Chúa. Ngày Chúa Nhật được dành cho Lời Chúa ấy
sẽ hoàn toàn thích hợp khi nó rơi vào quãng thời gian trong năm, mà chúng ta được
mời gọi để thắt chặt hơn nữa các mối tương quan của chúng ta với người Do-thái,
cũng như được mời gọi để cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu. Vấn đề ở
đây không phải chỉ là một cuộc gặp gỡ tạm thời: Việc cử hành ngày Chúa Nhật Lời
Chúa mang một tầm quan trọng có tính đại kết, vì Kinh Thánh sẽ chỉ cho những ai
lắng nghe mình thấy được con đường mà họ phải bước vào để đạt tới sự hiệp nhất
đích thực và bền vững.
Các cộng đoàn sẽ tìm ra
cách thức để cử hành ngày Chúa Nhật ấy cách long trọng. Dù sao, điều quan trọng
vẫn là việc Kinh Thánh có được một vị trí trổi vượt trong khi cử hành Thánh Lễ,
hầu giải thích cho đoàn tín hữu biết về giá trị có tính quy chuẩn của Lời Chúa.
Vào Chúa Nhật đó, sẽ thật là rất hữu ích nếu như người ta đề cao công cuộc loan
báo Lời Chúa cũng như cố gắng trình bày các bài giảng làm sao để việc phục vụ Lời
Thiên Chúa được nêu bật. Và vào ngày Chúa Nhật đó, các Đức Giám Mục có thể trao
ban tác vụ Đọc Sách hay một tác vụ tương tự để nhắc người ta nhớ tới tầm quan
trọng của việc công bố Lời Chúa trong Phụng Vụ. Trong thực tế, điều quan trọng
là phải thực hiện tất cả mọi công việc để một số tín hữu được chuẩn bị chu đáo
trước khi trở thành những người loan báo đích thực của Lời Chúa. Điều này cần
phải có một sự đào tạo thích hợp giống như vẫn thường được thực hiện cho những
Thầy Giúp Lễ hay những thừa tác viên trao mình Thánh Chúa ngoại lệ. Tương tự
như thế, các Cha sở cũng phải tìm ra những cách thức để chuyển giao toàn bộ
Kinh Thánh – hay một trong số những quyển sách Thánh – cho toàn bộ cộng đoàn Phụng
Vụ, nhằm nhấn mạnh tới tầm quan trọng của việc tiếp tục đọc và đào sâu Kinh
Thánh, cũng như cầu nguyện với Kinh Thánh trong đời sống hằng ngày, đặc biệt là
lectio divina.
4.Sự kiện dân Israel hồi
hương sau khi bị lưu đầy bên Babylon được đánh dấu bởi việc đọc Sách Luật. Qua
sách Nơ-hê-mi-a, Kinh Thánh đã tường thuật lại cho chúng ta biết khoảnh khắc đầy
cảm động ấy. Dân chúng tụ hội nhau lại tại Giê-ru-sa-lem, trên quảng trường trước
cửa Nước để lắng nghe Sách Luật. Dân Israel đã bị phân tán bởi cuộc lưu đầy,
nhưng giờ đây đã được quy tụ lại với nhau „muôn
người như một“ chung quanh Sách Thánh. Trong lúc đọc Sách Thánh, dân chúng
đã „lắng tai nghe“ (Nh 8,3), vì Dân
biết rằng, mình sẽ thấy được trong Lời ấy ý nghĩa của các biến cố mà mình đã trải
qua. Việc công bố những Lời ấy đã gây xúc động cho mọi người, và họ đã khóc: „Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và
giải thích Sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu được những gì các
ông đọc. Bấy giờ ông Nơ-hê-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng
các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ
rằng: "Hôm nay là ngày thánh hiến cho Ðức Chúa là Thiên Chúa của anh em,
anh em đừng sầu thương khóc lóc." Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân đều
khóc khi nghe lời Sách Luật. Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng: "Anh em
hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không có sẵn của
ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm
vui của Ðức Chúa là thành trì bảo vệ anh em"“ (Nh 8,8-10).
Những lời trên hàm chứa một
Giáo Huấn rất quan trọng. Kinh Thánh không thể chỉ thuộc về một ít người, chứ đừng
nói chi tới chuyện nó chỉ là một tuyển tập các thứ sách dành cho một ít người
được chọn. Kinh Thánh trước tiên thuộc về Dân Chúa, mà Dân ấy được quy tụ lại để
lắng nghe Kinh Thánh, và tự nhận ra chính mình trong những lời ấy. Thường có những
xu hướng cố gắng độc chiếm Kinh Thánh bằng cách dành riêng nó cho những giới
nào đó, hay cho những nhóm người được ưu tuyển. Không được phép như thế. Kinh
Thánh là cuốn sách của Dân Thiên Chúa, mà qua việc lắng nghe Lời Chúam, người
ta sẽ đạt tới được sự hiệp nhất sau khi đã bị phân tán và chia rẽ. Lời Chúa sẽ
làm cho các tín hữu được hợp nhất, và làm cho họ trở thành một Dân.
5.Trong sự hiệp nhất mà nó
thúc đẩy sự lắng nghe, nhiệm vụ hàng đầu và to lớn của các vị mục tử chính là việc
phải làm sao để giải thích và giúp mỗi người hiểu được Kinh Thánh. Vì Kinh
Thánh chính là cuốn sách của Dân Chúa, nên tất cả những ai được kêu gọi phục vụ
Lời Chúa, đều phải cảm thấy sự tối cần thiết trong việc mở ra cho cộng đoàn của
họ một con đường để tới gần với Kinh Thánh.
Trước tiên, bài giảng có
một chức năng hoàn toàn đặc biệt, vì bài giảng mang „một đặc tính Bí Tích“ (Tông Huấn Evangelii Gaudium, 142). Nếu Linh
Mục dẫn đưa thính giả đi sâu vào Lời Chúa với một ngôn ngữ giản dị và thích hợp
với người nghe, thì Ngài cũng sẽ có thể „trình
bày vẻ đẹp của những hình ảnh mà Chúa Giê-su đã sử dụng để thôi thúc người ta
làm điều thiện“ (nt). Đó là một cơ hội mục vụ mà người ta không được phép bỏ
qua.
Trong thực tế, đối với
nhiều tín hữu chúng ta, đây chính là cơ hội duy nhất để nhận thức được vẻ đẹp của
Lời Chúa, cũng như nhận ra mối tương quan của Lời Chúa đối với đời sống hằng
ngày của mình. Vì thế phải dành thời gian thích hợp cho vệc soạn bài giảng. Người
ta không được phép giải thích các Bài Đọc Kinh Thánh cách ứng biến. Mặt khác,
các nhà giảng thuyết chúng ta cũng không được phép giảng giải quá dài với những
bài giảng quá thiên về sự hiểu biết, hay với những đề tài chẳng ăn nhập vào đâu
cả. Nếu người ta dành thời gian để suy niệm bản văn Kinh Thánh và chiêm niệm
trong cầu nguyện, thì người ta sẽ có khả năng nói với con tim để đạt tới được
con tim của thính giả, đến độ có thể diễn tả được điều chính yếu mà nó được tiếp
nhận cũng như đơm bông kết trái. Chúng ta đừng bao giờ chán nản trước việc dành
thời gian để đọc Kinh Thánh và cầu nguyện, để Kinh Thánh „không bị đón nhận như lời người phàm, nhưng như Lời Thiên Chúa, đúng
theo bản tính của Lời ấy“ (1Tx 2,13).
Thật tốt biết bao nếu như
các Giáo Lý Viên cũng cảm thấy rằng, việc không ngừng canh tân nhờ vào việc am
hiểu cũng như nhờ vào việc học hỏi và nghiên cứu Kinh Thánh, là điều rất cần đối
với sứ mạng của họ trước việc phục vụ sự phát triển trong Đức tin. Điều này khiến
họ có khả năng thúc đẩy một cuộc đối thoại đích thực giữa thính giả và Lời
Chúa.
6.Trước khi Đấng Phục Sinh
đến với những người môn đệ đang tự nhốt mình trong nhà để mở trí cho họ am hiểu
Kinh Thánh (xc. Lc 24,44-45), thì Ngài đã hiện ra với hai người trong họ trên
đường từ Giê-ru-sa-lem tới Em-maus (xc. Lc 24,13-35). Tin Mừng theo Thánh Lu-ca
cho biết rằng, ngày Phục Sinh cũng chính là ngày Chúa Nhật. Hai người môn đệ đó
đã nói với nhau về những biến cố vừa xảy ra, cụ thể là về cuộc khổ hình và cái
chết của Chúa Giê-su. Con đường của họ bị in đậm dấu ấn của sự đau buồn cũng
như của sự tuyệt vọng về sự kết thúc bi ai của Chúa Giê-su. Họ cứ ngỡ Ngài là Đấng
Messia và là nhà giải phóng, và giờ đây thì họ lại đang phải đối diện với một
kinh nghiệm gây sốc về một kẻ Chịu Đóng Đinh. Chính Đấng Phục Sinh đã âm thầm
tiến đến gần các môn đệ và đồng hành với họ, nhưng họ không nhận ra Ngài (xc.
Lc 24,16). Trên đường đi, Ngài đã hỏi thăm họ và biết được rằng, họ đã không hiểu
gì về cuộc khổ hình và cái chết của Ngài. Ngài bảo họ rằng, „Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh
thật là trì độn“ (Lc 24,25), rồi bắt đầu từ ông Mô-sê cho đến tất cả các
ngôn Sứ, „Ngài giải thích cho họ hiểu những
gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh“ (Lc 24,27). Chúa Ki-tô là
chuyên viên số một của khoa chú giải! Các sách Cựu Ước đã tiên đoán về những gì
Ngài sẽ thực hiện, nhưng chính Ngài muốn trung tín với Lời ấy để mạc khải một lịch
sử cứu độ, mà lịch sử ấy sẽ được kiện toàn trong Chúa Ki-tô.
7.Vì thế, với tư cách là
Sách Thánh, Kinh Thánh nói về Chúa Ki-tô và loan báo về Ngài như là Đấng phải
bước qua đau khổ để đạt tới được vinh quang (xc. Lc 24,26). Không chỉ một phần
nhưng là toàn bộ Kinh Thánh đều nói về Ngài. Nếu không có Kinh Thánh thì người
ta sẽ không thể hiểu được cái chết và sự phục sinh của Ngài. Vì lý do đó mà một
trong những bản tuyên xưng Đức Tin cổ xưa nhất đã nhấn mạnh như sau: „Chúa Ki-tô đã chết cho tội lỗi chúng ta, chiếu
theo Kinh Thánh, và đã được mai táng trong mồ. Vào ngày thứ ba Người đã được phục
sinh, và Ngài đã hiện ra với ông Kê-pha“ (1Cor 15,3-5). Vì Kinh Thánh nói về
Chúa Ki-tô, nên chúng ta có thể tin rằng, cái chết và sự phục sinh của Ngài
không phải là những câu chuyện thần thoại, nhưng là những biến cố lịch sử, và đứng
trong trung tâm Đức Tin của các Tông Đồ.
Mối liên kết giữa Kinh
Thánh và Đức Tin của những người đã lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy rất sâu xa. Vì
Đức Tin phát sinh từ việc lắng nghe, và việc lắng nghe được quy hướng về Lời
Chúa Ki-tô (xc. Rm 10,17), nên các tín hữu được mời gọi hãy coi trọng và trân
quý việc lắng nghe Lời Chúa, cả trong Phụng Vụ lẫn trong khi cầu nguyện riêng,
cũng như trong sự chiêm niệm.
8.“Cuộc đồng hành“ của Đấng Phục Sinh với các môn đệ làng Em-maus đã kết
thúc với bữa ăn tối. Người lữ hành đầy bí nhiệm đã nghe theo lời mời khẩn khoản
của hai người môn đệ: „Mời ông ở lại với
chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày đã sắp tàn“ (Lc 24,29). Họ cùng ngồi
vào bàn, và Chúa Giê-su cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ.
Lúc đó mắt họ mở ra và họ nhận ra Ngài (xc. Lc 24,31).
Nhờ vào cảnh tượng đó,
chúng ta hiểu được rằng, mối tương quan giữa Kinh Thánh và Bí Tích Thánh Thể là
điều không thể tách rời. Công Đồng Vatican II dậy rằng: „Giáo hội vẫn luôn tôn kính Kinh Thánh giống như chính thân mình Chúa
Ki-tô, vì Giáo hội, đặc biệt là trong Phụng Vụ Thánh, không ngừng đón nhận Bánh
Hằng Sống từ bàn tiệc Lời Chúa, như Mình Thánh Chúa Ki-tô, và trao cho các tín
hữu“ (Dei Verbum, 21).
Việc đọc Kinh Thánh cách
liên tục và đều đặn cũng như việc cử hành Bí Tích Thánh Thể sẽ giúp mọi người
nhận ra rằng, cả hai đều thuộc về nhau. Với tư cách là các Ki-tô hữu, chúng ta
là một Dân bước đi trong lịch sử, được củng cố nhờ vào sự hiện diện của Thiên Chúa
giữa chúng ta, Đấng nói với chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta. Ngày được dành cho
Kinh Thánh không nên chỉ diễn ra „một lần
trong năm“, nhưng nên diễn ra một lần cho suốt năm. Thực ra chúng ta cảm nhận
được sự tối cần thiết của việc bắt đầu với Kinh Thánh và gắn bó mật thiết với Đấng
Phục Sinh, Đấng không ngừng phân phát Lời và Bánh trong cộng đoàn tín hữu. Vì
lý do đó, chúng ta phải có một sự gắn bó mật thiết với Kinh Thánh, nếu không,
con tim sẽ hóa lạnh, và cặp mắt sẽ bị khóa lại, vì chúng ta bị liên lụy đến vô
vàn những hình thức mù lòa khác nhau, như chúng ta đã từng như thế.
Kinh Thánh và các Bí Tích
liên kết cách mật thiết với nhau. Nếu Lời Chúa dẫn đưa vào các Bí Tích và chiếu
soi các Bí Tích, thì sự giải thích này sẽ biểu lộ như là đích điểm của một con
đường mà chính Chúa Ki-tô sẽ mở ra cho cả tinh thần lẫn con tim, để chúng ta nhận
biết nhiệm cục cứu độ của Ngài. Trong mối liên hệ ấy, chúng ta không bao giờ được
phép quên Giáo huấn của sách Khải Huyền. Giáo huấn này dậy rằng, Chúa Ki-tô đứng
trước cửa và gõ. Nếu ai nghe được giọng nói của Ngài và mở cửa cho Ngài, thì
Ngài sẽ bước vào và dùng bữa với người ấy (xc. Kh 3,20). Qua Kinh Thánh, Chúa
Giê-su Ki-tô gõ vào cánh cửa tâm hồn chúng ta; nếu chúng ta lắng nghe và mở
cánh cửa tinh thần và con tim ra, thì Ngài sẽ bước vào cuộc sống chúng ta và ở
lại với chúng ta.
9.Trong thư thứ hai gửi ông
Timothê, mà theo một nghĩa nào đó, bức thư này chính là di chúc tinh thần của
Thánh Phao-lô, Thánh Nhân đã khuyên người môn đệ trung tín của Ngài hãy siêng
năng đọc Kinh Thánh. Thánh Tông Đồ xác quyết rằng: „Tất cả những gì được viết trong Sách Thánh cũng đều do Thiên Chúa linh
hứng, nên sẽ có ích cho việc giảng dậy, biện bác, sửa dậy và giáo dục“ (2Tm
3,16). Lời xác quyết trên của Thánh Phao-lô đối với ông Timothê chính là một nền
tảng căn bản mà nhờ đó Hiến Chế Dei Verbum của Công Đồng Vatican II đã trình
bày về một đề tài rất quan trọng, đó là sự linh hứng của Kinh Thánh; từ nền tảng
căn bản đó, cứu cánh của ơn cứu độ đã dẫn đến chiều kích thiêng liêng cũng như dẫn
đến nguyên tắc nhập thể đối với Kinh Thánh.
Dựa vào lời xác quyết mà
Thánh Phao-lô dành cho ông Timothê, Hiến Chế Dei Verbum đã nhấn mạnh rằng, các
sách Thánh „dậy ta cách chắc chắn, trung
tín và không sai lầm về những chân lý mà Thánh Kinh ghi lại vì ơn cứu độ của
chúng ta“ (số 11). Vì những cuốn sách này có thể làm cho chúng ta trở nên
khôn ngoan hầu đạt tới được ơn cứu độ thông qua Đức Tin vào Chúa Giê-su Ki-tô
(xc. 2Tm 3,15), nên những chân lý được chứa đựng trong Sách Thánh sẽ hữu ích
cho ơn cứu độ của chúng ta. Kinh Thánh không phải là một bộ tuyển tập các sách
lịch sử, cũng chẳng phải là một biên niên sử, nhưng hoàn toàn được nhắm tới ơn
cứu độ của toàn bộ con người. Gốc rễ mang tính lịch sử không thể chối cái của
những cuốn sách trong bộ Kinh Thánh không được phép làm cho chúng ta quên đi mục
đích có tính nguyên thủy ấy, tức ơn cứu độ của chúng ta. Tất cả đều quy hướng về
mục tiêu mà nó được khắc sâu trong bản chất của Kinh Thánh. Nó được biên soạn với
tư cách là lịch sử cứu độ mà trong đó Thiên Chúa nói và hành động để gặp gỡ mọi
người và cứu họ thoát khỏi sự ác và cái chết.
Để đạt tới được mục tiêu
cứu độ ấy, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Kinh Thánh đã biến những lời của
con người – được viết ra theo cách thức của con người – thành Lời Thiên Chúa
(xc, Dei Verbum, 12). Vai trò của Chúa Thánh Thần trong Kinh Thánh mang một ý
nghĩa căn bản. Nếu không có tác động của Ngài thì người ta sẽ luôn có nguy cơ tự
nhốt mình lại trong bản văn đã được viết ra cách thuần túy. Điều đó sẽ dễ dàng
dẫn tới việc giải thích Kinh Thánh duy mặt chữ, điều mà người ta phải tránh cho
xa để không phản bội lại đặc tính linh hứng, năng động và thánh thiêng của bản
văn Kinh Thánh. Căn cứ vào đó, Thánh Tông Đồ đã nhắc nhớ rằng: „Chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban
sự sống“ (2Cor 3,6). Vì thế, Chúa Thánh Thần sẽ biến Kinh Thánh thành Lời hằng
sống của Thiên Chúa, mà Lời ấy được sống cũng như được tiếp tục chuyển giao
trong Đức Tin của Dân Thánh Ngài.
10.Tác động của Chúa thánh
Thần không chỉ liên quan tới sự hình thành nên Kinh Thánh, nhưng cũng còn tác động
cả trong những ai lắng nghe Lời Chúa nữa. Thật là quan trọng khi các Nghị Phụ của
Công Đồng ấn định rằng, „phải đọc và suy
niệm Kinh Thánh trong tinh thần mà sách đó được viết ra“ (Dei Verbum, 12).
Với Chúa Giê-su Ki-tô, mạc khải của Thiên Chúa đã đạt tới được đỉnh điểm cũng
như đã đạt tới được sự viên mãn của nó; nhưng Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục hoạt
động. Trong thực tế, sẽ là điều bị cắt bớt khi người ta muốn giới hạn tác động
của Chúa Thánh Thần vào trong bản chất thần hứng của Kinh Thánh và các tác giả
khác nhau của sách này. Vì thế, cần có sự tín thác vào tác động của Chúa Thánh
Thần, Đấng vẫn đang tiếp tục thực hiện một hình thức linh hứng đặc biệt khi
Giáo hội công bố Kinh Thánh, cũng như khi Huấn Quyền ân cần giải thích sách ấy
(Nt, 10) và khi mỗi tín hữu biến Kinh Thánh thành tiêu chuẩn thiêng liêng của
mình. Trong ý nghĩa đó, chúng ta sẽ có thể hiểu được những Lời của Chúa Giê-su
khi Ngài nói với những người môn đệ đã xác nhận rằng, họ đã hiểu được ý nghĩa của
những dụ ngôn mà Ngài kể cho họ nghe: „Bởi
vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ
nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ“ (Mt
13,52).
11.Cuối cùng, Hiến Chế Dei
Verbum giải thích rằng: „Vì Lời Thiên
Chúa, được diễn tả qua ngôn ngữ nhân loại, được đồng hóa với tiếng nói nhân loại,
cũng như khi xưa Lời Thiên Chúa Cha hằng hữu đã trở nên giống loài người, sau
khi nhận lấy sự yếu đuối của xác thịt“ (số 13). Vì thế, người ta có thể nói
rằng, sự nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ tạo hình và mang lại ý nghĩa cho mối
tương quan giữa Lời Chúa và ngôn ngữ nhân loại, với những điều kiện lịch sử và
văn hóa của nó. Trong chính sự kiện ấy, truyền thống đã được thành hình, mà
truyền thống ấy cũng chính là Lời Thiên Chúa (Nt, 9). Người ta thường có nguy
cơ tách rời Kinh Thánh ra khỏi truyền thống mà không hề hiểu rằng, cả truyền thống
lẫn Kinh Thánh đều cùng là một nguồn mạch duy nhất của mạc khải. Đặc tính chữ
viết của Kinh Thánh làm cho truyền thống trở thành lời hằng sống không kém phần
giá trị; cũng vậy, truyền thống sống động mà Giáo hội không ngừng chuyển giao từ
đời này sang đời kia trong suốt nhiều thế kỷ, đã sở hữu cuốn Sách Thánh này như
là „quy luật tối thượng hướng dẫn Đức Tin“
(Nt, 21). Trước khi Sách Thánh trở thành một văn bản được ghi lại bằng chữ viết,
thì nó đã được lưu truyền bằng miệng, và luôn được duy trì cách sống động nhờ
vào Đức Tin của một Dân tộc, mà Dân ấy nhìn nhận Kinh Thánh là lịch sử và là bản
sắc của mình giữa nhiều dân tộc khác. Đức Tin của Kinh Thánh đặt nền tảng trên
Lời hằng sống chứ không phải trên một cuốn sách.
12.Nếu Kinh Thánh được đọc
trong một tinh thần tương tự với tinh thần mà nó được viết ra, thì nó sẽ luôn
luôn mới mẻ. Cựu Ước không bao giờ trở thành cũ kỹ khi nó là một phần của Tân Ước,
vì tất cả đều được biến đổi nhờ vào một Thần Khí, Đấng linh hứng cho nó. Toàn bộ
Kinh Thánh có một chức năng Ngôn Sứ: điều này không liên quan tới tương lai,
nhưng tới cái hôm nay của những ai nuôi sống mình bằng Lời Chúa. Chính Chúa
Giê-su cũng đã nói rõ điều đó khi bắt đầu đời sống hoạt động của mình: „Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị
vừa nghe“ (Lc 4,21). Ai dưỡng nuôi mình mỗi ngày bằng Lời Chúa, thì người ấy
sẽ như Chúa Giê-su, trở thành một người đồng thời với những con người mà mình gặp
gỡ; người ấy không bị cám dỗ sa vào một sự luyến tiếc quá khứ khô cằn, hay mơ
tưởng một tương lai vô định.
Kinh Thánh hoàn tất những
hoạt động mang tính Ngôn Sứ của mình, đặc biệt là nơi những ai lắng nghe nó. Nó
khơi dậy cả sự ngọt ngào lẫn sự cay đắng. Ở đây Cha chợt nhớ tới những lời của
Ngôn Sứ Ê-dê-ki-en. Khi Thiên Chúa yêu cầu ông phải nhai cuốn Kinh Thánh, thì
ông nhận ra rằng: „Nó ngọt như mật ong
trong miệng tôi“ (Ed 3,3). Khi sống trên đảo Patmos, Thánh Gio-an Tông Đồ
cũng có được kinh nghiệm của Ngôn Sứ Ê-dê-ki-en với việc ăn cuốn sách, nhưng bổ
sung thêm một chi tiết: „Nó ngọt ngào như
mật ong trong miệng tôi, nhưng khi tôi nuốt rồi, thì bụng dạ tôi cay đắng“
(Kh 10,10).
Sự ngọt ngào của Lời Chúa
thôi thúc chúng ta chia sẻ nó với những con người mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc
sống của mình, hầu diễn tả sự xác tín vào niềm hy vọng được chứa đựng trong đó
(xc. 1Pr 3,15-16). Trái lại, sự cay đắng thường xuất hiện khi chúng ta phải quyết
định sống Lời Chúa cách nhất quán – một điều khó khăn đối với chúng ta biết chừng
nào -, hay khi chúng ta vấp phải một sự khước từ cách cụ thể, vì người ta không
tin rằng, Lời Chúa có thể trao ban ý nghĩa cho cuộc sống. Vì thế, chúng ta
không bao giờ được phép lấy làm nhàm tai với Lời Chúa, nhưng phải dùng Lời Chúa
để nuôi dưỡng mình hầu khám phá ra mối tương quan của chúng ta đối với Thiên
Chúa, cũng như đối với những người anh chị em của chúng ta, rồi sống mối tương
quan ấy cách sâu đậm hơn.
13.Một thách đố to lớn mà
Kinh Thánh đưa ra liên quan tới Đức Ái. Kinh Thánh không ngừng kêu gọi người ta
sống Đức Ái nhân hậu như Thiên Chúa Cha, Đấng đòi hỏi con cái mình phải sống
trong Tình Yêu. Cuộc sống của Chúa Giê-su chính là một sự diễn tả hoàn hảo về
Tình Yêu của Thiên Chúa, mà Tình Yêu ấy không giữ lại bất cứ điều gì cho mình,
nhưng trao hiến cách không giới hạn bản thân mình cho tất cả. Trong dụ ngôn về
ông La-gia-rô nghèo túng, chúng ta thấy được một sự chỉ dẫn đầy giá trị. Khi
ông La-gia-rô và người phú hộ qua đời, và khi viên phú hộ thấy người nghèo
trong lòng Tổ Phụ Ab-ra-ham, thì ông đã xin vị Tổ Phụ sai La-gi-a-rô đến với những
người anh em của mình để khuyên họ phải sống Đức Ái, hầu giúp họ không phải chịu
cực hình như ông. Câu trả lời của Tổ Phụ Ab-ra-ham rất cứng cỏi: „Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng
cứ nghe lời các vị ấy“ (Lc 16,29). Lắng nghe Kinh Thánh để thực thi Lòng
Nhân Hậu: đó là một thách đố to lớn đối với cuộc sống chúng ta. Lời Thiên Chúa
luôn có khả năng mở to cặp mắt chúng ta để chúng ta bước ra khỏi chủ nghĩa cá
nhân mà nó luôn bóp nghẹt chúng ta và khiến chúng ta trở nên cằn cỗi. Do đó, Lời
Chúa luôn mở ra cho chúng ta con đường của sự cộng tác và tình liên đới.
14.Một trong những sự kiện
quan trọng nhất trong mối tương quan giữa Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài
chính là biến cố Hiển Dung. Cùng với Thánh Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, Chúa
Giê-su đã đi lên một ngọn núi cao để cầu nguyện. Các sách Tin Mừng kể lại rằng,
trong khi dung mạo và y phục Chúa Giê-su trở nên chói sáng, thì hai người khác
đã đến đàm đạo với Ngài: đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a, hai vị đại diện cho Lề
Luật và các Ngôn Sứ, nghĩa là đại diện cho toàn bộ Kinh Thánh. Thánh Phê-rô đã
phản ứng trước cảnh tượng ấy bằng một sự kinh ngạc đầy vui mừng: „Thưa Thầy, chúng con được ở đây thì tốt quá.
Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a“
(Lc 9,33). Lúc đó, một đám mây đã bao phủ các Ngài, và các môn đệ hết sức sợ
hãi.
Biến cố hiển dung nhắc nhớ
tới Lễ Lều, khi ông Ét-ra và ông Nơ-hê-mi-a đọc sách Thánh cho dân Nghe sau khi
họ đã hồi hương từ cảnh lưu đầy. Đồng thời, biến cố ấy cũng tiên đoán về vinh
quang của Chúa Giê-su hầu chuẩn bị sẵn sàng cho biến cố khổ hình có tính gây sốc.
Đám mây mà nó bao phủ các môn đệ và là biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên
Chúa, cũng lưu ý tới vinh quang thần tính ấy. Cuộc biến hình của Chúa Giê-su
cũng giống như „cuộc biến hình“ của
Kinh Thánh mà nó vượt lên trên chính mình khi nó nuôi dưỡng sự sống của các tín
hữu. Tông Huấn Verbum Domini cũng nhắc tới điều đó: „Nếu sự xếp đặt giữa những tư tưởng khác nhau của Kinh Thánh được ấn định,
thì việc tiến hành một cuộc vượt qua từ chữ viết tới tinh thần, cũng được xác định.
Sự vượt qua này không tự động diễn ra, và cũng không phát xuất từ chính mình;
đúng hơn, cần phải vượt qua mặt chữ“ (số 82).
15.Trên con đường tiếp nhận
Lời Thiên Chúa, Thân Mẫu Chúa Ki-tô sẽ luôn đồng hành với chúng ta. Mẹ được gọi
là người có phúc, vì Mẹ đã tin rằng, tất cả những gì Thiên Chúa hứa cùng Mẹ sẽ được
thực hiện (xc. Lc 1,45). Mối phúc của Đức Maria xuất hiện trước tất cả mọi mối
phúc mà Chúa Giê-su đã dành cho những ai nghèo túng, buồn sầu, dịu hiền, kiến tạo
hòa bình và bị bách hại, vì mối phúc ấy chính là điều kiện tiên quyết và cần
thiết cho mọi mối phúc khác. Không có bất cứ người nghèo nào được chúc phúc vì
họ nghèo cả; người ta chỉ được chúc phúc khi người ta tin vào sự viên mãn của Lời
Chúa. Thánh Augustinô, một môn đệ và là một bậc thầy vĩ đại về Kinh Thánh, đã
nhắc nhớ rằng: „Từ trong đám đông, có một
người đã nói với tất cả sự thán phục như sau: „Phúc thay lòng dạ nào đã cưu
mang Ngài“. Và Chúa Giê-su đáp lại: „Phúc thay người nào lắng nghe Lời Chúa và
đem ra thực hành“. Ngài có ý nói rằng: Nếu như Thân Mẫu của Thầy mà anh chị em
khen là có phúc, sở dĩ như vậy là vì Mẹ đã luôn bảo tồn Lời Chúa; không phải vì
Ngôi Lời đã trở thành xác phàm trong Mẹ và cư ngụ giữa chúng ta, nhưng vì Mẹ đã
bảo toàn Lời ấy của Thiên Chúa, mà nhờ vào Lời ấy, Mẹ đã trở thành Mẹ, và Lời ấy
đã trở thành xác thịt trong Mẹ“ (Tract. in Io. Ev., 10,3).
Ước chi Ngày Chúa Nhật Lời
Chúa sẽ làm cho sự gắn bó mật thiết đầy thành kính và không ngừng với Kinh
Thánh được phát triển trong Dân Thiên Chúa, giống như một vị Thánh của thời cổ
đại đã từng dậy: „Lời hoàn toàn ở gần bạn,
Lời ấy ở trên môi miệng bạn và trong lòng bạn, bạn có thể giữ lấy lời ấy“
(Deut 30,14).
Ban
hành tại Rô-ma
Trong
Vương Cung Thánh Đường Thánh Gio-an Lateran
Ngày
30 tháng 09 năm 2019
tức
ngày kính nhớ Thánh Giê-rô-ni-mô
Khai
mạc Năm Thánh kỷ niệm 1600 năm ngày qua đời của Ngài
ĐTC
Phan-xi-cô
Chú thích:
[1] Xc. AAS 102 (2010),
692-787.
[2] „Đặc tính Bí Tích của Lời có thể được hiểu tương tự như sự hiện diện của
Chúa Ki-tô trong hình bánh và rượu. Khi chúng ta tiến lên bàn Thánh và tham dự
bữa tiệc Thánh Thể, thì chúng ta sẽ thực sự lãnh nhận mình và máu Chúa Ki-tô.
Việc công bố Lời Chúa trong khi cử hành Phụng Vụ diễn ra trong sự nhận thức rằng,
chính Chúa Ki-tô đang hiện diện trong đó và đang hướng về chúng ta để được đón
nhận“ (Verbum Domini, 56).
Lm. Đa-minh Thiệu, O.Cist – chuyển ngữ