THƯ CỦA ĐỨC PHANXICÔ GỞI CÁC GIÁM MỤC VỀ TỰ SẮC TRADITIONIS CUSTODES : “TÔI XIN ANH EM CHIA SẺ GÁNH NẶNG NÀY VỚI TÔI”

(xuanbichvietnam.net) - Tháng Bảy 17th, 2021.

« Chính anh em là người cho phép trong các Giáo hội của anh em, với tư cách là các Đấng Bản quyền địa phương, việc sử dụng Sách lễ Rôma năm 1962, bằng cách áp dụng các chuẩn mực của Tự sắc Traditionis Custodes (“Những người giữ gìn truyền thống”) này », Đức Phanxicô đã nói như thế trong thư gởi cho các Giám mục trên toàn thế giới nhân dịp công bố Tự sắc mới hôm 16/7/2021.

Quả thế, sau khi tham khảo ý kiến các Giám mục, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tự sắc trên đây, kèm với một lá thư giải thích câu trả lời cho những thỉnh cầu của các ngài : từ nay những quyết định trong lĩnh vực phụng vụ thuộc về trách nhiệm của các Giám mục.

Đồng thời, Đức Thánh Cha yêu cầu các nhóm gắn bó với phụng vụ theo Sách lễ được Đức Gioan XIII ban hành không được loại trừ tính hợp pháp của cải cách phụng vụ, các bản văn của Công đồng Vatican II lẫn huấn quyền Giáo hoàng.

Do đó, Đức Thánh Cha đã sửa đổi các quy luật quản lý việc sử dụng Sách lễ năm 1962, « Nghi lễ Rôma ngoại thường », được Đức Bênêđíctô XVI cho phép vào năm 2007.

Đức Thánh Cha cho thấy quyết định mục vụ này với hai mục tiêu : “Một mặt, mang lại lợi ích cho những ai đã gắn bó sâu xa nơi hình thức cử hành trước đây và cần thời gian để trở lại với Nghi lễ Rôma được các thánh Phaolô VI và Gioan-Phaolô II ban hành ; mặt khác, gián đoạn việc thành lập các giáo xứ tòng nhân mới, vốn gắn liền với ước ao và ý muốn của một số linh mục hơn là với nhu cầu thực sự của ‘dân thánh trung tín của Thiên Chúa’”.

Đồng thời, Đức Thánh Cha lấy làm tiếc về những lạm dụng trong một số cử hành theo nghi lễ sau Công đồng và ngài mời gọi các Giám mục canh chừng “để mỗi phụng vụ được cử hành cách xứng đáng và trung tín với các sách phụng vụ được ban hành sau Công đồng Vatican II, mà không có những hình thức kỳ quặc dễ biến thành lạm dụng. Các chủng sinh và các tân linh mục phải được đào tạo về lòng trung tín với các quy định của Sách lễ và các sách phụng vụ, vốn phản ảnh cuộc cải cách phụng vụ được Công đồng Vatican II mong muốn”.

 

Dưới đây là toàn văn lá thư của Đức Thánh Cha Phanxicô :

Anh em Giám mục thân mến,

Như Đức Bênêđíctô XVI vị tiền nhiệm của tôi đã làm với Tự sắc Summorum Pontificum, tôi cũng có ý định kèm theo Tự sắc Traditionis Custodes này một lá thư, để minh họa những lý do dẫn tôi đến quyết định này. Tôi ngỏ lời với anh em cách tin tưởng và thẳng thắn, nhân danh sự chia sẻ này về “mối ưu tư của toàn thể Giáo hội, vốn đóng góp cách tuyệt vời vào thiện ích của Giáo hội hoàn vũ”, như Công đồng Vatican II nhắc nhớ (1).

Những lý do đã từng thúc đẩy thánh Gioan-Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI ban năng quyền sử dụng Sách lễ Rôma được thánh Piô V ban hành, được Đức Gioan XXIII phổ biến vào năm 1962, để cử hành Hy lễ tạ ơn, là hiển nhiên đối với mọi người. Năng quyền, được ban cho bởi đặc quyền của Bộ Phụng Tự vào năm 1984 (2) và được thánh Gioan-Phaolô II xác nhận trong Tự sắc Ecclesia Dei năm 1988 (3),  trước hết đã được thúc đẩy bởi ước muốn tạo điều kiện cho việc chữa lành cuộc ly giáo với phong trào được Đức cha Lefebvre dẫn dắt. Lời thỉnh cầu các Giám mục đón nhận cách quảng đại “những khát vọng đúng đắn” của các tín hữu xin sử dụng Sách lễ này, do đó có một lý do của Giáo hội tái tạo sự hiệp nhất của Hội Thánh.

Nhiều người trong Giáo hội đã giải thích năng quyền này như là khả năng sử dụng cách tự do Sách lễ Rôma được Đức Piô V ban hành, xác định việc sử dụng song song với Sách lễ Rôma do thánh Phaolô VI ban hành. Để điều chỉnh hoàn cảnh này, Đức Bênêđíctô XVI đã can thiệp về vấn đề trong những năm sau đó, điều chỉnh một sự kiện nội bộ của Giáo hội, tức là nhiều linh mục và nhiều cộng đoàn đã « sử dụng với lòng biết ơn năng quyền được ban cho bởi Tự sắc » của thánh Gioan-Phaolô II. Nhấn mạnh rằng sự tiến triển này không thể dự kiến vào năm 1988, Tự sắc Summorum Pontificum năm 2007 muốn đưa vào « một quy chế pháp lý rõ ràng hơn » (4). Để tạo điều kiện tiếp cận thuận lợi cho những người – ngay cả trẻ tuổi – , “mà khám phá hình thức phụng vụ này, cảm thấy được nó lôi cuốn và nhận thấy ở nó một hình thức đặc biệt thích hợp đối với họ, gặp gỡ với Mầu nhiệm Thánh Thể” (5), Đức Bênêđíctô XVI đã tuyên bố “Sách lễ được thánh Piô V ban hành và một lần nữa được phổ biến bởi chân phước Gioan XXIII như là lối diễn đạt ngoại thường của cùng một lex orandi (luật cầu nguyện)”, trao ban một “năng quyền rộng rãi hơn để sử dụng Sách lễ 1962” (6).

Để chứng minh sự chọn lựa của mình, ngài đã xác tín rằng quyền sử dụng này không được phép nghi ngờ một trong những quyết định quan trọng của Công đồng Vatican II, bằng cách làm suy yếu thẩm quyền của Công đồng : Tự sắc đã hoàn toàn công nhận rằng “Sách lễ do Đức Phaolô VI ban hành là lối diễn đạt thông thường của lex orandi của Giáo hội Công giáo Latinh” (7). Việc công nhận Sách lễ do thánh Piô V ban hành “như là lối diễn đạt ngoại thường của chính lex orandi” không muốn bằng bất cứ cách nào không biết đến cuộc cải cách phụng vụ, nhưng được đặt ra do ước muốn đáp ứng cho “ những lời cầu xin tha thiết của các tín hữu này”, cho phép họ “cử hành Hy tế Thánh lễ theo ấn bản điển hình của Sách lễ Rôma được chân phước Gioan XXIII ban hành vào năm 1962 và không bao giờ bị bãi bỏ, như là hình thức ngoại thường của Phụng vụ của Giáo hội” (8). Ngài đã được củng cố thêm trong sự phân định của mình bởi sự kiện là những người ao ước “tìm thấy lại hình thức, vốn rất yêu quý của họ, về Phụng vụ thánh”, “chấp nhận cách rõ ràng đặc tính bó buộc của Công đồng Vatican II và trung thành với Giáo hoàng và các Giám mục” (9). Ngài cũng đã tuyên bố là vô căn cứ nỗi sợ chia rẽ trong các cộng đoàn Giáo xứ, bởi vì “hai hình thức sử dụng Nghi lễ Rôma đã có thể làm phong phú cho nhau” (10). Đó là lý do tại sao ngài đã mời gọi các Giám mục vượt lên trên những nghi ngờ và sợ hãi và đón nhận các chuẩn mực, “bằng cách canh chừng để mọi sự được diễn ra trong bình an và thanh thản”, với lời hứa rằng “chúng ta có thể tìm kiếm những con đường để tìm thấy một phương thuốc”, trong trường hợp « những khó khăn nghiêm trọng được đưa ra ánh sáng » trong việc áp dụng chuẩn mực sau khi “Tự sắc có hiệu lực” (11).

Mười ba năm sau, tôi đã ủy thác cho Bộ Giáo lý Đức tin gởi đến anh em một bảng câu hỏi về việc áp dụng Tự sắc Summorum Pontificum. Các câu trả lời nhận được đã cho thấy một hoàn cảnh đau đớn làm cho tôi lo lắng, xác nhận cho tôi sự cần thiết can thiệp. Bất hạnh thay, ý hướng mục vụ của các vị tiền nhiệm của tôi, vốn đã từng muốn « làm hết sức để tất cả những ai thực sự ao ước sự hiệp nhất đều có khả năng ở lại trong sự hiệp nhất này hay tìm lại được nó » (12), thường bị coi thường cách nghiêm trọng. Một khả năng được thánh Gioan-Phaolô II ban cho và với sự cao thượng còn lớn hơn nữa bởi Đức Bênêđíctô XVI để tái tạo sự hiệp nhất của thân thể Giáo hội trong sự tôn trọng các nhạy cảm phụng vụ khác nhau đã được sử dụng để gia tăng khoảng cách, làm chai cứng những khác biệt, xây dựng những đối lập làm tổn thương Giáo hội và cản trở sự tiến triển, khiến Giáo hội có nguy cơ chia rẽ.

Tôi cũng đau buồn bởi những lạm dụng của cả hai bên trong việc cử hành phụng vụ. Như Đức Bênêđíctô XVI, tôi cũng tố giác việc “ở nhiều nơi người ta không cử hành cách trung thành với những quy định của Sách lễ mới, nhưng thậm chí nó còn được hiểu như là một sự cho phép hay thậm chí như là một nghĩa vụ đối với óc sáng tạo, vốn thường dẫn đến những méo mó ở giới hạn của những gì có thể chịu được” (13). Nhưng tôi không kém đau buồn hơn khi sử dụng công cụ Sách lễ Rôma 1962, ngày càng có đặc điểm là ngày càng khước từ không chỉ cuộc cải cách phụng vụ, nhưng cả Công đồng Vatican II, với lời khẳng định vô căn cứ và không thể bênh vực được rằng Công đồng đã phản bội Truyền Thống và “Giáo hội đích thực”. Nếu quả thật con đường của Giáo hội phải được hiểu trong sự năng động của Truyền Thống, “vốn bắt nguồn từ các Tông đồ và tiến triển trong Giáo hội với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần” (DV 8), thì Công đồng Vatican II, trong đó các Giám mục Công giáo đã lắng nghe để phân định con đường mà Chúa Thánh Thần chỉ ra cho Giáo hội, đã tạo nên giai đoạn gần đây nhất của sự năng động này. Nghi ngờ Công đồng có nghĩa là nghi ngờ chính các ý hướng của các Nghị Phụ, vốn đã thực thi quyền hạn tập thể của mình cách long trọng “cum Petro và sub Petro” (cùng với Phêrô và dưới Phêrô) ở Công đồng đại kết (14), và, xét đến cùng, đó là nghi ngờ chính Chúa Thánh Thần đang dẫn dắt Giáo hội.

Công đồng Vatican II đã làm sáng tỏ chính xác ý nghĩa của sự chọn lựa xem xét lại sự nhượng bộ mà các vị tiền nhiệm của tôi đã cho phép. Trong số các mong ước mà các Giám mục đã nhấn mạnh nhất, nổi lên ước mong sự tham dự vào phụng vụ cách đầy đủ, ý thức và chủ động của toàn Dân Thiên Chúa (15), trong đường hướng của những gì mà Đức Piô XII đã từng khẳng định trong thông điệp Mediator Dei về việc canh tân phụng vụ (16). Hiến chế Sacrosanctum Concilium đã xác nhận lời thỉnh cầu này, bằng cách cân nhắc về « việc cải cách và sự tăng trưởng của phụng vụ » (17), chỉ ra những nguyên tắc vốn phải dẫn dắt việc cải cách (18). Cách riêng, Hiến chế đã thiết lập rằng những nguyên tắc này liên quan đến Nghi lễ Rôma, đang khi đối với các nghi lễ khác được công nhận cách hợp pháp, Hiến chế đòi hỏi chúng phải “được thận trọng xem xét cách toàn diện trong tinh thần của truyền thống lành mạnh và chúng phải được ban cho một hiệu lực mới mẻ theo những hoàn cảnh và nhu cầu của thời gian” (19). Chính trên cơ sở của những nguyên tắc này, mà cuộc cải cách phụng vụ được thực hiện, cuộc cải cách vốn có lối diễn đạt cao nhất của nó nơi Sách lễ Rôma, được công bố trong editio typica (ấn bản điển hình) bởi thánh Phaolô VI (20) và được sửa đổi bởi thánh Gioan-Phaolô II (21). Vì thế, chúng ta phải coi rằng Nghi lễ Rôma, được thích nghi nhiều lần, trong nhiều thế kỷ, với những nhu cầu của các thời đại, không chỉ được bảo tồn, nhưng còn được đổi mới « trong sự tôn trọng trung thành với Truyền Thống » (22). Bất cứ ai ao ước cử hành cách sốt sắng theo hình thức phụng vụ trước đây sẽ không có bất kỳ khó khăn nào để tìm thấy trong Sách lễ Rôma được cải  cách theo tinh thần của Công đồng Vatican II, tất cả các yếu tố của Nghi lễ Rôma, cách riêng lễ quy Rôma, vốn tạo nên một trong những yếu tố đặc trưng nhất.

Có một lý do sau cùng mà tôi muốn thêm vào nền tảng của sự chọn lựa của tôi: nó là mối tương chặt chẽ giữa việc chọn lựa các cử hành theo các sách phụng vụ trước Công đồng Vatican II và việc từ chối Giáo hội và các cơ chế của Giáo hội nhân danh những gì họ coi như là ‘Giáo hội đích thực’ xuất hiện càng ngày càng rõ ràng trong những lời nói và thái độ của nhiều người. Đó là một lối hành xử mâu thuẫn với sự hiệp thông, nuôi dưỡng sự xui giục chia rẽ này – “Tôi thuộc về Phaolô ; trái lại, tôi thuộc về Apôlô ; tôi thuộc về Cêpha ; tôi thuộc về Chúa Kitô” – mà thánh Phaolô đã phản ứng mạnh mẽ (23). Chính để bảo vệ sự hiệp nhất của Thân Thể của Chúa Kitô mà tôi bó buộc phải thu hồi năng quyền được các vị tiền nhiệm của tôi ban cho. Việc sử dụng nó bị làm cho hỏng đi là trái ngược với những lý do đã khiến các ngài ban cho họ được tự do cử hành thánh lễ với Sách lễ Rôma 1962. Vì “những cuộc cử hành phụng vụ không phải là những hành vi riêng tư, nhưng là những cử hành của Giáo hội, vốn là “bí tích của sự hiệp nhất” (24), nên chúng phải được thực hiện trong sự hiệp thông với Giáo hội. Công đồng Vatican II, đang khi tái khẳng định những mối liên hệ bên ngoài của việc kết hợp với Giáo hội – tuyên xưng đức tin, các bí tích, sự hiệp thông – vẫn khẳng định cùng với thánh Augustinô rằng việc ở lại trong Giáo hội không  chỉ “bằng thân xác”, nhưng còn “bằng tâm hồn” là một điều kiện cho ơn cứu độ (25).

Anh em Giám mục thân mến, Hiến chế Sacrosanctum Concilium đã giải thích rằng Giáo hội, “bí tích của sự hiệp nhất” là như thế bởi vì Giáo hội là “Dân thánh được quy tụ và truyền lệnh dưới quyền bính của các Giám mục” (26). Hiến chế Lumen Gentium, khi nhắc nhớ Giám mục Rôma là “nguyên lý vĩnh hằng và hữu hình và là nền tảng của sự hiệp nhất của cả các Giám mục và của vô số tín hữu”, đã nói rằng anh em là “nguyên lý hữu hình và là nền tảng của sự hiệp nhất trong các Giáo hội địa phương của anh em, mà từ đó chỉ có một Giáo hội Công giáo duy nhất và độc nhất” (27)

Đáp ứng những thỉnh cầu của anh em, tôi quyết định cách vững chắc bãi bỏ mọi chuẩn mực, những chỉ dẫn, những nhượng bộ và thói quen trước Tự sắc này, và xem các sách phụng vụ được các thánh Giáo hoàng Phaolô VI và Gioan-Phaolô II ban hành, phù hợp với các sắc lệnh của Công đồng Vatican II, như là lối diễn đạt duy nhất của lex orandi của Nghi lễ Rôma. Tôi còn được củng cố thêm trong quyết định này bởi sự kiện rằng sau Công đồng Trentô, thánh Piô V cũng đã bãi bỏ mọi nghi lễ mà không thể viện vào một tính chất cổ xưa được chứng minh, bằng cách thiết lập một Sách lễ Rôma duy nhất cho toàn thể Giáo hội Latinh. Do đó, trong bốn thế kỷ, Sách lễ Rôma được thánh Piô V ban hành này đã là lối diễn đạt chính yếu của lex orandi của Nghi lễ Rôma, làm tròn một chức năng thống nhất trong Giáo hội. Để không mâu thuẫn phẩm giá và sự cao cả của Nghi lễ này, các Giám mục nhóm họp ở Công đồng đại kết đã yêu cầu Nghi lễ này cần được cải cách ; ý hướng của các ngài là “các tín hữu không tham dự vào mầu nhiệm đức tin như những kẻ xa lạ hay như những khán giả câm nhưng, với sự hiểu biết đầy đủ các nghi lễ và kinh nguyện, họ tham dự vào hoạt động thánh thiêng cách ý thức, đạo đức và chủ động” (28). Nhắc lại công việc thích nghi của Sách lễ Rôma đã từng được Đức Piô XII bắt đầu, thánh Phaolô VI đã tuyên bố rằng việc sửa đổi Sách lễ Rôma, được hướng dẫn dưới ánh sáng của các nguồn mạch phụng vụ cổ xưa nhất, có mục đích cho phép Giáo hội, bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, dâng lên « cùng một lời cầu nguyện duy nhất » vốn diễn tả sự hiệp nhất của mình (29). Chính sự hiệp nhất này mà tôi có ý định tái lập trong toàn thể Giáo hội theo Nghi lễ Rôma.

Khi mô tả đặc tính công giáo của Dân Thiên Chúa, Công đồng Vatican II nhắc lại rằng “trong sự hiệp thông của Giáo hội, có các Giáo hội địa phương, thừa hưởng những truyền thống riêng của mình, mà vẫn không phương hại đến quyền tối thượng của Ngai tòa Phêrô vốn chủ trì sự hiệp thông phổ quát của đức ái, bảo đảm những sự đa dạng hợp pháp và đồng thời canh chừng để cái đặc thù không chỉ không làm tổn hại đến sự hiệp nhất, nhưng  đúng hơn là phục vụ nó” (30). Đang khi thực thi thừa tác vụ phục vụ sự hiệp nhất của tôi, tôi quyết định đình chỉ năng quyền mà các vị tiền nhiệm của tôi đã ban, tôi xin anh em chia sẻ gánh nặng này với tôi như là một hình  thức tham dự vào mối quan tâm đối với toàn thể Giáo hội. Trong Tự sắc này, tôi đã muốn khẳng định làm thế nào, với tư cách là người điều hành, cổ võ và gìn giữ đời sống phụng vụ trong Giáo hội mà mình là nguyên lý hiệp nhất, Giám mục có trách nhiệm điều chỉnh những  cử hành phụng vụ. Vì thế, chính anh em là người cho phép trong các Giáo hội của anh em, với tư cách là các Đấng Bản quyền địa phương, việc sử dụng Sách lễ Rôma 1962, bằng cách áp dụng các chuẩn mực của Tự sắc Traditionis Custodes này. Nhất là chính anh em có nhiệm vụ làm việc để chúng ta trở lại với một hình thức cử hành hiệp nhất, bằng cách chứng thực từng trường hợp thực tại của các nhóm cử hành với Sách lễ Rôma này.

Những chỉ dẫn về cách tiến hành nơi các giáo phận chủ yếu được quy định bởi hai nguyên tắc : Một mặt, mang lại lợi ích cho những ai đã gắn bó sâu xa nơi hình thức cử hành trước đây và cần thời gian để trở lại với Nghi lễ Rôma được các thánh Phaolô VI và Gioan-Phaolô II ban hành ; mặt khác, gián đoạn việc thành lập các giáo xứ tòng nhân mới, vốn gắn liền với ước ao và ý muốn của một số linh mục hơn là với nhu cầu thực sự của “dân thánh trung tín của Thiên Chúa”.  Đồng thời, tôi xin anh em canh chừng để mỗi phụng vụ được cử hành cách xứng đáng và trung tín với các sách phụng vụ được ban hành sau Công đồng Vatican II, mà không có những hình thức kỳ quặc dễ biến thành lạm dụng. Các chủng sinh và các tân linh mục phải được đào tạo về lòng trung tín với các quy định của Sách lễ và các sách phụng vụ, vốn phản ảnh cuộc cải cách phụng vụ được Công đồng Vatican II mong muốn.

Đối với anh em, tôi khẩn cầu Thánh Thần của Chúa Phục Sinh, để Ngài làm cho anh em mạnh mẽ và cương nghị trong việc phuc vụ Dân mà Chúa đã giao phó cho anh em, để việc săn sóc và sự canh phòng của anh em diễn tả chính sự hiệp thông trong sự hiệp nhất của một Nghi lễ duy nhất, trong đó sự phong phú lớn lao của truyền thống phụng vụ Rôma được gìn giữ. Tôi cầu nguyện cho anh em. Anh em hãy cầu nguyện cho tôi.

PHANXICÔ

—————————-

(1) Xem Công đồng đại kết Vatican II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21/11/1964, số 23: AAS 57 (1965) 27.

(2) Xem Bộ Phụng Tự, Thư gởi các Chủ tịch của các Hội đồng Giám mục “Quattuor abhinc annos”, 3/10/1984: AAS 76 (1984) 1088-1089.

(3) Gioan-Phaolô II, Tông thư dưới hình thức Tự sắc “ Ecclesia Dei”, 2/7/1988: AAS 80 (1998) 1495-1498.

(4) Bênêđíctô XVI, Thư gởi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư dưới hình thức Tự sắc Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải cách năm 1970, 7/7/2007: AAS 99 (2007) 796.

(5) Bênêđíctô XVI, Thư gởi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư dưới hình thức Tự sắc Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải cách năm 1970, 7/7/2007: AAS 99 (2007) 796.

(6) Bênêđíctô XVI, Thư gởi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư dưới hình thức Tự sắc Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải cách năm 1970, 7/7/2007: AAS 99 (2007) 797.

(7) Bênêđíctô XVI, Tông thư dưới hình thức Tự sắc “ Summorum Pontificum”, 7/7/2007: AAS 99 (2007) 779.

(8) Bênêđíctô XVI, Tông thư dưới hình thức Tự sắc “ Summorum Pontificum”, 7/7/2007: AAS 99 (2007) 779.

(9) Bênêđíctô XVI, Thư gởi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư dưới hình thức Tự sắc Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải cách năm 1970, 7/7/2007: AAS 99 (2007) 796.

(10) Bênêđíctô XVI, Thư gởi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư dưới hình thức Tự sắc Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải cách năm 1970, 7/7/2007: AAS 99 (2007) 797.

(11) Bênêđíctô XVI, Thư gởi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư dưới hình thức Tự sắc Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải cách năm 1970, 7/7/2007: AAS 99 (2007) 798.

(12) Bênêđíctô XVI, Thư gởi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư dưới hình thức Tự sắc Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải cách năm 1970, 7/7/2007: AAS 99 (2007) 797-798.

(13) Bênêđíctô XVI, Thư gởi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư dưới hình thức Tự sắc Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải cách năm 1970, 7/7/2007: AAS 99 (2007) 796.

(14) Xem Công đồng đại kết Vatican II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21/11/1964, số 23: AAS 57 (1965) 27.

(15) Xem Acta et Documenta Concilio Oecumenico Vaticano II apparando, Series I, Volumen II, 1960.

(16) Piô XII, Thông điệp về Phụng vụ thánh “ Mediator Dei”, 20 /11/ 1947: AAS 39 (1949) 521-595.

(17) Xem Công đồng đại kết Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh “ Sacrosanctum Concilium”, 4 /12/ 1963, các số 1, 14: AAS 56 (1964) 97.104.

(18) Xem Công đồng đại kết Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh “ Sacrosanctum Concilium”, 4 /12/ 1963, số 3 : AAS 56 (1964) 98.

(19) Xem Công đồng đại kết Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh “ Sacrosanctum Concilium”, 4 /12/ 1963, số 4 : AAS 56 (1964) 98.

(20) Missale Romanum ex decreto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum auctoritate Pauli PP. VI promulgatum, editio typica, 1970.

(21) Missale Romanum ex decreto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum auctoritate Pauli PP. VI promulgatum Ioannis Pauli PP. II cura recognitum, editio typica altera, 1975; editio typica tertia, 2002; (reimpressio emendata 2008)

(22) Xem Công đồng đại kết Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh “ Sacrosanctum Concilium”, 4 /12/ 1963, số 3 : AAS 56 (1964) 98.

(23) 1 Cr 1,12-13.

(24) Xem Công đồng đại kết Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh “ Sacrosanctum Concilium”, 4 /12/ 1963, số 26 : AAS 56 (1964) 107.

(25) Xem Công đồng đại kết Vatican II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21/11/1964, số 14: AAS 57 (1965) 19.

(26) Xem Công đồng đại kết Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh “ Sacrosanctum Concilium”, 4 /12/ 1963, số 6 : AAS 56 (1964) 100.

(27) Xem Công đồng đại kết Vatican II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21/11/1964, số 23: AAS 57 (1965) 27.

(28) Xem Công đồng đại kết Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh “ Sacrosanctum Concilium”, 4 /12/ 1963, số 48 : AAS 56 (1964) 113.

(29) Phaolô VI, Tông hiến “Missale Romanum” về Sách lễ Rôma mới, 3/4/1969, AAS 61 (1969) 222.

(30) Xem Công đồng đại kết Vatican II, Hiến chế Tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21/11/1964, số 13: AAS 57 (1965) 18.

——————————————

Lm. Võ Xuân Tiến chuyển ngữ (theo ZENIT)

https://fr.zenit.org/2021/07/16/lettre-aux-eveques-sur-le-motu-proprio-traditionis-custodes-traduction-complete/

 


Văn Kiện Giáo Hội