Tông Thư dạng
“Tự Sắc”
“Aperuit Illis”
của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô,
thiết lập CHÚA NHẬT LỜI CHÚA
1. “Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh” (Lc 24,45). Đó là một trong những cử chỉ
cuối cùng Chúa phục sinh đã thực hiện trước khi Người lên trời. Các môn đệ đang
tụ họp một nơi thì Người hiện ra, bẻ bánh với các ông và mở trí cho các ông
hiểu Kinh Thánh. Những con người đang kinh hãi này đã được Người mặc khải ý
nghĩa của mầu nhiệm phục sinh : đó là, theo kế hoạch muôn đời của Chúa
Cha, Đức Giê-su phải chịu đau khổ và phục sinh từ những kẻ chết, để tặng ban ơn
sám hối và tha tội (x. Lc
24,26.46-47) ; rồi Người hứa ban Thánh Thần, Đấng sẽ làm cho các ông nên
mạnh mẽ mà làm chứng cho mầu nhiệm cứu độ (x. Lc 24,49).
Giữa Đấng Phục Sinh với cộng đoàn tín hữu và Sách Thánh
có mối tương quan cực kỳ trọng yếu cho căn tính của chúng ta. Nếu Chúa không
dẫn chúng ta vào sâu trong mối tương quan này, chúng ta không thể nào hiểu sâu
Kinh Thánh. Mà nói ngược lại cũng hoàn toàn đúng : Không có Kinh Thánh,
những biến cố trong sứ mệnh của Đức Giê-su và Hội Thánh Người giữa thế gian sẽ
muôn đời không thể giải mã. Thánh Giê-rô-ni-mô đã có thể viết cách đúng đắn
rằng : “Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô” (Chú giải sách I-sai-a, Lời
tựa : PL 24, 17).
2. Dịp kết thúc Năm Thánh ngoại thường về Lòng Thương Xót,
tôi đã xin mọi người suy nghĩ xem nên chăng có “một ngày Chúa nhật dâng hiến
trọn vẹn cho Lời Chúa, để hiểu về nguồn phong phú bất tận đến từ cuộc đối thoại
không ngừng giữa Thiên Chúa với dân Ngài” (Misericordia
et misera, số 7). Đặc biệt dâng hiến cho Lời Chúa một ngày Chúa
nhật trong Năm phụng vụ thì, trên tất cả, việc này giúp cho Hội Thánh sống lại
cử chỉ của Đấng Phục Sinh, và cử chỉ đó cũng mở ra cho chúng ta kho tàng của
Lời Người, khiến chúng ta có thể loan báo cho thế gian nguồn phong phú bất tận
ấy. Nói về chủ đề này, tôi nhớ ngay đến những lời dạy của thánh Ép-rem :
“Ai hiểu hết được sự phong phú của một lời thôi trong các lời của Ngài, lạy
Chúa ? Về lời ấy, điều chúng con hiểu được thì ít oi bé nhỏ hơn nhiều sánh
với những gì chúng con để vuột mất, y như những người khát uống nơi một nguồn
suối vậy. Lời của Chúa mở ra nhiều viễn cảnh thế nào thì những ai học hỏi lời
ấy cũng có nhiều hướng nhìn như vậy. Chúa đã tô điểm nhiều vẻ đẹp khác nhau cho
lời của Người, để khi nghiên cứu kỹ càng, mỗi người có thể chiêm ngắm vẻ đẹp mà
mình yêu thích. Và trong lời của Ngài, Ngài đã chôn giấu tất cả mọi kho tàng,
để mỗi chúng ta đểu tìm được một sự phong phú trong điều mình suy gẫm” (Chú giải sách Diatessaron,1,
18).
Ra Tông Thư này, tôi muốn đáp lại nhiều lời thỉnh cầu mà
dân Thiên Chúa đã gửi đến tôi, để trong toàn Hội Thánh, mọi người có thể hiệp ý
cử hành ngày ‘Chúa Nhật Lời Chúa’. Từ nay sẽ thành một thực hành thông thường,
việc sống những giờ phút cộng đoàn Ki-tô hữu tập trung vào giá trị cao cả mà
Lời Chúa vẫn có trong cuộc sống hằng ngày. Một số Giáo Hội địa phương đã có
nhiều sáng kiến giúp cho các tín hữu dễ tiếp cận hơn với Kinh Thánh, khiến họ
đầy lòng biết ơn trước món quà tặng quá lớn lao này mà ra sức ngày ngày sống
với món quà ấy và tự lãnh trách nhiệm làm chứng về nó một cách nhất quán.
Công Đồng Chung Va-ti-ca-nô II đã mạnh mẽ thúc đẩy việc
tái khám phá Lời Chúa qua hiến chế tín lý Dei Verbum. Vẫn luôn xứng đáng cho chúng
ta suy gẫm và sống, những trang hiến chế này nêu lên rõ ràng trước hết là bản chất
của Kinh Thánh, bộ sách lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác (chương II),
rồi đến ơn linh hứng (ch. III) bao trùm cả Cựu lẫn Tân Ước (ch. IV và V), sau
cùng là tầm quan trọng của Sách Thánh đối với đời sống của Giáo Hội (ch. VI).
Để làm cho giáo huấn này thêm phong phú, năm 2008, Đức Giáo Hoàng Biển-đức XVI
đã triệu tập Đại Hội Thượng Hội Đồng các Giám Mục về đề tài “Lời Chúa trong đời
sống và sứ vụ của Hội Thánh”, rồi liền sau đó ban hành Tông Huấn Verbum Domini, thiết định những giáo
huấn tuyệt đối cần thiết cho các cộng đoàn chúng ta [x. AAS 102 (2010),
692-787]. Tài liệu này đặc biệt đào sâu đặc tính sinh hiệu lực tức thời của Lời
Chúa, nhất là khi hiển hiện tính chất thực sự bí tích của Lời trong hoạt động
phụng vụ [“Trong trường hợp này, bí tích tính của Lời được hiểu theo nghĩa loại
suy, tương tự như sự hiện diện đích thực của Đức Ki-tô dưới hình bánh hình rượu
sau lời truyền phép. Khi tới gần bàn thờ và dự phần vào tiệc Thánh Thể, chúng
ta hiệp thông thực sự với mình và máu Đức Ki-tô. Việc công bố Lời Chúa trong cử
hành phụng vụ bao hàm sự nhìn nhận rằng : Đức Ki-tô đang đích thân hiện
diện và ngỏ lời với chúng ta để được chúng ta lắng nghe”, Verbum Domini, 56].
Vậy nên sẽ thật tốt nếu cuộc sống của chúng ta, dân Chúa,
không bao giờ thiếu mối tương quan quyết định này với Lời hằng sống, Lời mà
Chúa không bao giờ thấy chán khi ngỏ với Hiền thê Người, để Hiền thê Người có
thể lớn lên trong tình yêu và trong việc làm chứng cho đức tin.
3. Vì thế, tôi thiết định dành riêng Chúa nhật thứ III
Thường niên để cử hành, suy tư và loan truyền Lời Chúa. Như vậy Chúa Nhật Lời
Chúa hôm ấy sẽ là một thời khắc thích hợp trong giai đoạn này của năm, thời
khắc chúng ta được mời gọi tăng cường các mối dây liên kết với cộng đoàn
Do-thái giáo và cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các Ki-tô hữu. Đây không phải
là một sự trùng hợp đơn thuần về thời gian : cử hành Chúa Nhật Lời Chúa diễn
tả giá trị đại kết, bởi vì những ai lắng nghe, Kinh Thánh sẽ chỉ cho họ thấy
con đường phải theo để đạt tới một sự hiệp nhất đích thực và vững bền.
Các cộng đoàn nên tìm cách sống Chúa nhật này như một
ngày trọng đại. Trong mọi hoàn cảnh, điều quan trọng là khi cử hành thánh lễ,
có thể giới thiệu bản văn thánh cách nào cho cộng đoàn thấy rõ giá trị quy phạm
vẫn có nơi Lời Chúa. Chúa nhật này, sẽ đặc biệt hữu ích nếu nhấn mạnh đến việc
công bố Lời và thích ứng bài giảng lễ sao cho việc phục vụ Lời Chúa được nổi
bật lên. Vào Chúa nhật này, các Giám Mục có thể cử hành nghi thức trao tác vụ
đọc sách hay một tác vụ tương tự để nhắc nhớ về tầm quan trọng của việc công bố
Lời Chúa trong phụng vụ. Thực ra, cơ bản là thực hiện mọi nỗ lực cần thiết để
đào tạo một số giáo dân thành những người thực sự loan báo Lời, được chuẩn bị
thích đáng, cũng như từ nay sẽ tạo thói quen làm điều đó cho các thầy giúp lễ
hay các thừa tác viên ngoại thường cho rước lễ. Tương tự, các linh mục tại giáo
xứ (les prêtres en paroisse) có thể tìm hình thức nào thích đáng nhất để
trao sách Kinh Thánh hay một cuốn trong các sách đó cho cả cộng đoàn, nhằm làm
nổi bật tầm quan trọng của việc tiếp tục đọc Kinh Thánh trong đời sống hằng
ngày, của việc đi sâu vào Kinh Thánh và cầu nguyện với Kinh Thánh, đặc biệt dựa
theo phương pháp Lectio Divina.
4. Cuộc hồi hương của dân Ít-ra-en sau thời lưu đày
Ba-by-lon được đánh dấu một cách đầy ý nghĩa bằng việc đọc sách Luật. Kinh
Thánh cho chúng ta một đoạn rất cảm động mô tả thời khắc này trong sách
Nơ-khe-mi-a. Dân tụ họp tại Giê-ru-sa-lem, chỗ cửa Nước, để lắng nghe Luật. Sau
khi bị phân tán bởi cuộc lưu đày, nay họ gặp lại nhau, quy tụ quanh Kinh Thánh,
“muôn người như một” (Nkm 8,1). Khi
cuốn sách thánh được đọc lên, dân “lắng nghe” (Nkm 8,3) và biết rằng trong những lời đó, họ tìm lại được ý nghĩa
của những biến cố họ đã sống qua. Phản ứng trước việc công bố những lời này là
xúc động và khóc lóc : “Ông Ét-ra đọc một đoạn sách Luật của Thiên Chúa,
rồi các thầy Lê-vi dịch, giải nghĩa, và mọi người hiểu được. Ông
Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là
những người giảng giải, nói với toàn dân rằng : ‘Hôm nay là ngày thánh
hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc’.
Vì toàn dân đều khóc khi nghe lời sách Luật. […] Anh em đừng buồn bã, vì niềm
vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em !” (Nkm 8,8-10).
Những từ ngữ này chứa đựng một giáo huấn quan trọng. Kinh
Thánh không thể chỉ là gia sản của một ít người, và càng không thể là một bộ
sách sưu tập dành cho vài người được ưu đãi. Kinh Thánh, trước hết mọi sự,
thuộc về dân tộc được triệu tập để lắng nghe và nhận ra mình trong Lời đó.
Thường hay có những khuynh hướng cố giữ độc quyền trên bản văn thánh, giam hãm
nó trong một số vòng tròn khép kín hay hội nhóm ưu tuyển nào đấy. Đâu có như
vậy được. Kinh Thánh là sách của dân Chúa, giống dân đang phân tán và chia cách
nhau nghe được sách này liền quy về hiệp nhất. Lời Chúa kết hợp những ai tin và
biến họ thành một dân duy nhất.
5. Trong sự hiệp nhất này, thứ hiệp nhất hoa trái của lắng
nghe, trách nhiệm trước tiên của các mục tử là giải thích Kinh Thánh và giúp cho
mọi người có thể hiểu. Kinh Thánh là cuốn sách của dân, nên những ai được ơn
gọi làm thừa tác viên Lời Chúa phải cảm thấy họ bị đòi hỏi mạnh mẽ là phải làm
sao cho cộng đoàn của mình dễ dàng tiếp cận được với Kinh Thánh.
Bài giảng lễ, cách riêng, gánh một phận sự hết sức đặc
thù, bởi nó mang “tính chất gần như bí tích” (Evangelii Gaudium, số 142). Đưa người nghe
đi sâu vào Lời Chúa bằng một ngôn ngữ đơn sơ và thích ứng, việc này khiến linh
mục cũng có thể giúp mọi người khám phá ra “vẻ đẹp của những hình ảnh Chúa đã
dùng để thúc đẩy thực hành việc thiện” (Ibid). Đây
là một thuận lợi mục vụ không nên bỏ qua !
Quả vậy, đối với nhiều tín hữu thì đây lại là cơ hội duy
nhất họ có được để cảm thụ nét đẹp của Lời Chúa và nhìn ra rằng vẻ đẹp ấy có
liên quan tới cuộc sống thường ngày của họ. Thế nên phải dành thời gian cần
thiết cho việc dọn bài giảng. Các bài đọc thánh, không bình luận ứng khẩu được.
Đối với chúng ta, những người giảng, đúng ra nên đòi hỏi là chớ miên man quá đà
với những bài giảng lễ ra vẻ thông thái hay những dòng luận chứng xa lạ. Chừng
nào chúng ta ngừng đọng để gẫm suy và cầu nguyện trên bản văn thánh, chừng đó
chúng ta mới có khả năng nói với lòng mình để chạm được vào cõi lòng người
nghe, để diễn tả ra điều cốt yếu đã lãnh nhận và đang sinh hoa trái. Đừng bao
giờ ngán ngẩm việc dành thời gian và cầu nguyện với Sách Thánh, để Sách Thánh
là gì thì được đón nhận theo đúng bản tính thực sự của nó, “không phải như lời
người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa” (1Tx
2,13).
Cũng mong các giáo lý viên, do thừa tác vụ đã được trao
ban để giúp cho người khác lớn lên trong đức tin, hãy cảm nhận việc cấp thiết
phải canh tân chính mình nhờ việc thân thiết với Kinh Thánh và học hỏi sách
này. Việc thân thiết và học hỏi như thế khiến họ có thể giúp cho những ai nghe
họ biết đối thoại thực sự với Lời Chúa.
6. Trước khi tỏ mình ra cho các môn đệ đang cửa đóng then
cài trong phòng tiệc ly và mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (x. Lc 24,44-45), Đấng Phục Sinh hiện ra với
hai người trong nhóm họ trên đường từ Giê-ru-sa-lem đi Em-mau (x. Lc 24,13-35). Trình thuật của tác giả Tin
Mừng Lu-ca ghi nhận hôm đó là ngày Phục Sinh, tức Chúa nhật. Hai môn đệ bàn tán
với nhau về những biến cố cuối cùng trong cuộc thương khó và cái chết của Đức
Giê-su. Đoạn đường họ đi ghi dấu những muộn phiền và vỡ mộng trước kết cục bi
thảm của Đức Giê-su. Họ đã từng hy vọng nơi Người vì xem Người như vị Mê-si-a
giải cứu, mà nay họ lại đang đứng trước nỗi ô nhục không sao chấp nhận được của
Đấng bị đóng đinh. Rất kín đáo, Đấng Phục Sinh tiến lại gần và sánh bước với
môn đệ, nhưng các ông này không nhận ra (x. c. 16). Dọc đường, Chúa hỏi han các
ông, vỡ lẽ ra rằng các ông không hiểu ý nghĩa cuộc thụ hình và chịu chết của
Người, Người gọi các ông là những kẻ “trí chẳng hiểu và lòng chậm tin” (c. 25).
“Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông
những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (c. 27). Đức Ki-tô là nhà
chú giải đệ nhất ! Không những các Sách Thánh xưa đã báo trước những gì
Người sẽ thực hiện, mà chính Người cũng muốn trung thành với Lời chép trong đó,
cho mọi người thấy rõ một lịch sử cứu độ duy nhất được hoàn thành nơi Đức
Ki-tô.
7. Do đó, xét như một bộ Sách Thánh thì Thánh Kinh nói về
Đức Ki-tô và báo trước về Người như Đấng phải trải qua đau khổ để được vào
trong vinh quang (x. c. 26). Không phải chỉ có phần nào đó, mà toàn bộ Sách
Thánh đều nói về Người. Cái chết và sự phục sinh của Người sẽ không cách chi
hiểu được nếu không có Sách Thánh. Chính vì thế mà một trong những lời tuyên
xưng đức tin cổ xưa nhất nhấn mạnh rằng “Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta
đúng như lời Kinh Thánh, và đã được đặt trong mồ ; ngày thứ ba Người đã
phục sinh đúng như lời Kinh Thánh, đã hiện ra với ông Phê-rô” (1Cr 15,3-5). Vì Sách Thánh nói về Đức
Ki-tô, nên nó khiến chúng ta có thể tin rằng cái chết và sự phục sinh của Người
không thuộc về huyền thoại, mà thuộc về lịch sử, và chiếm vị trí trung tâm
trong đức tin của các môn đệ Người.
Giữa Sách Thánh và đức tin của các tín hữu có một mối
liên hệ sâu xa. Vì đức tin đến từ nghe, và nghe thì tập trung vào lời của Đức
Ki-tô (x. Rm 10,17), do đó, các tín
hữu được mời gọi hãy coi việc lắng nghe Lời Chúa là khẩn thiết và hệ trọng, cả
trong hoạt động phụng vụ lẫn trong cầu nguyện và suy tư cá nhân.
8. “Hành trình” của Đấng Phục Sinh với các môn đệ Em-mau
kết thúc bằng một bữa ăn. Vị Lữ hành bí nhiệm chấp nhận lời van xin nài nỉ của
hai kẻ đồng hành : “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và
ngày sắp tàn” (Lc 24,29). Ngồi vào
bàn với các ông, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho
các ông. Bấy giờ, mắt các ông mở ra và các ông nhận ra Người (x. c. 31).
Đoạn trình thuật này cho chúng ta hiểu giữa Thánh Kinh và
Thánh Thể có một mối liên hệ đúng là bất khả phân. Công Đồng Va-ti-ca-nô II
dạy : “Hội Thánh luôn tôn kính Thánh Kinh như tôn kính Thân Thể Chúa ;
nhất là trong phụng vụ thánh, Hội Thánh không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn
tiệc Lời Thiên Chúa và từ bàn tiệc Mình Đức Ki-tô mà tặng ban cho các tín hữu”
(Dei Verbum, số 21).
Việc tiếp cận đều đặn với Kinh Thánh và cử hành Thánh Thể
khiến cho những con người vẫn thuộc về nhau có thể nhận ra nhau. Trong tư cách
Ki-tô hữu, chúng ta là một dân duy nhất tiến bước trong lịch sử, mạnh mẽ vì có
Chúa hiện diện giữa chúng ta, nói năng với chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta. Ước
mong ngày dành riêng cho Kinh Thánh này không chỉ diễn ra “một lần duy nhất mỗi
năm”, nhưng là một biến cố liên hệ tới suốt năm, vì chúng ta có nhu cầu khẩn
thiết phải trở nên người nhà và bạn thân của Kinh Thánh và của Đấng Phục Sinh,
Đấng vẫn không ngừng chia Lời và bẻ Bánh giữa cộng đoàn những kẻ tin. Chính vì
thế, chúng ta cần liên tiếp tiến sâu vào mối tương giao đầy tin cậy với Kinh
Thánh, chẳng vậy, con tim chúng ta sẽ lạnh hoài, cặp mắt chúng ta sẽ nhắm mãi
như bị đập bởi vô vàn những thứ mù lòa.
Vậy thì Kinh Thánh và các Bí tích không thể tách rời
nhau. Khi được Lời thấm nhập và chiếu soi, các bí tích sẽ tỏ hiện rõ ràng hơn
như đích đến của con đường trong đó chính Đức Ki-tô khai trí mở lòng cho chúng
ta nhận ra hành vi cứu độ của Người. Trong bối cảnh ấy, nhất thiết không được
quên giáo huấn của sách Khải huyền. Sách này nói Chúa đứng ngoài cửa và gõ, ai
nghe tiếng Người và mở cho Người thì Người vào dùng bữa với kẻ ấy (x. Kh 3,20). Qua Kinh Thánh, Đức Giê-su
Ki-tô gõ cửa chúng ta. Nếu chúng ta mở cửa trí lòng chúng ta, Người sẽ bước vào
cuộc sống chúng ta và ở lại với chúng ta.
9. Trong thư thứ hai gửi ông Ti-mô-thê, bức thư gọi được là
một bản di chúc thiêng liêng, thánh Phao-lô khuyên người cộng tác trung kiên
của ngài hãy bền lòng gần gũi với Sách Thánh. Vị Tông đồ xác tín rằng “toàn bộ
Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng và có ích cho việc giảng dạy, vạch ra
cái xấu, uốn nắn, giáo dục để trở nên công chính” (x. 2Tm 3,16). Lời Phao-lô khuyên Ti-mô-thê ấy đã tạo nên một nền tảng,
trên đó hiến chế Dei
Verbum của Công Đồng bàn về chủ đề quan trọng là ơn linh hứng
trong Kinh Thánh, và trên đó đặc biệt hiện rõ mục đích tính cứu độ, chiều kích thiêng liêng và nguyên lý nhập thể của
Kinh Thánh.
Trước hết, nhắc lại lời thánh Phao-lô khuyên ông
Ti-mô-thê, Dei
Verbum nhấn mạnh rằng : “Các sách trong Kinh Thánh dạy
cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm về chân lý mà Thiên Chúa đã muốn
thấy ghi lại trong Kinh Thánh nhằm cứu độ chúng ta” (số 11). Vì các sách này
đưa ra những chỉ dạy nhắm tới “ơn cứu độ nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô” (2Tm 3,15), nên những chân lý chứa đựng
trong đó đều giúp cho chúng ta được cứu độ. Kinh Thánh không phải là một bộ sưu
tập các sách lịch sử hay sử biên niên, mà hoàn toàn hướng tới ơn cứu độ trọn
vẹn cho con người. Các sách chứa đựng trong bản văn thánh đều cắm rễ trong lịch
sử ; điều này không thể chối cãi, nhưng cũng không được làm cho chúng ta
quên mất mục đích tính đã có ngay từ đầu : ơn cứu độ chúng ta. Mọi chuyện
đều hướng về mục đích tính đã ghi khắc vào ngay bản chất của Kinh Thánh, một bộ
sách được soạn tác như lịch sử cứu độ, trong đó, Thiên Chúa nói năng và hành
động nhằm việc đến gặp gỡ mọi người để cứu họ khỏi sự ác và cái chết.
Để đạt tới mục đích cứu độ này, Kinh Thánh, dưới tác động
của Thánh Thần, biến Lời của Thiên Chúa thành lời của những con người được ghi
lại theo cách thức loài người (x. Dei
Verbum, số 12). Trong Kinh Thánh, Thánh Thần giữ vai trò căn
bản. Không có tác động của Ngài, nguy cơ bị giam hãm trong bản văn sẽ rất cao,
khiến người ta dễ dàng chỉ giải thích Kinh Thánh theo mặt chữ. Điều này chúng
ta phải tránh xa để khỏi phản bội đặc tính linh hứng, năng động và thiêng liêng
vốn có nơi bản văn thánh. Như vị Tông đồ đã nhắc nhở, “chữ viết thì giết chết,
còn Thần Khí mới ban sự sống” (2Cr
3,6). Vậy là Chúa Thánh Thần biến Kinh Thánh thành Lời hằng sống của Thiên Chúa
được sống và lưu truyền trong đức tin của dân thánh Ngài.
10. Tác động của Thánh Thần không những liên quan đến việc
hình thành Kinh Thánh, nhưng còn hoạt động nơi những ai giữ thái độ lắng nghe
Lời Chúa. Thật quan trọng, xác quyết sau đây của các Nghị phụ Công Đồng :
“Kinh Thánh đã được viết bởi Thánh Thần thì cũng phải được đọc và giải thích
nhờ ánh sáng của chính Thánh Thần” (Dei
Verbum, số 12). Với Đức Giê-su Ki-tô, mặc khải của Thiên Chúa
đã đạt mức hoàn thành và viên mãn ; tuy nhiên, Thánh Thần vẫn tiếp tục
hoạt động của Ngài. Quả vậy, sẽ là giảm bớt nếu chỉ giới hạn tác động của Thánh
Thần nơi bản chất được linh hứng của Kinh Thánh và nơi nhiều tác giả khác nhau
của bộ sách này. Vậy phải tin tưởng vào tác động của Thánh Thần trong việc Ngài
tiếp tục thể hiện hình thức linh hứng đặc thù của Ngài khi Hội Thánh giảng dạy
Kinh Thánh, khi Huấn quyền chính thức giải thích Kinh Thánh (x. Ibid., 10) và khi mỗi
kẻ tin lấy Kinh Thánh làm quy phạm thiêng liêng cho mình. Chúng ta có thể hiểu
theo nghĩa đó những lời Đức Giê-su nói với môn đệ khi các ông xác định đã bắt
được ý nghĩa của các dụ ngôn Người kể ; Người nói thế này : “Bởi vậy,
bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia
lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ” (Mt 13,52).
11. Sau cùng, Dei Verbum xác định rõ : “Khi đi
qua các ngôn ngữ của loài người, Lời của Thiên Chúa đã nên giống với tiếng nói
của loài người, cũng như xưa kia, khi nhận lấy nỗi yếu đuối của xác thịt chúng
ta, Ngôi Lời của Chúa Cha đời đời hằng hữu đã nên giống như loài người chúng
ta” (số 13). Khác nào Công Đồng nói : Cuộc Nhập thể của Ngôi Lời Thiên
Chúa đã đem lại sự hình thành và ý nghĩa cho mối tương quan giữa Lời của Thiên
Chúa với ngôn ngữ loài người, thứ ngôn ngữ vốn gắn liền với những điều kiện
lịch sử và văn hóa. Chính trong biến cố nhập thể này, Thánh Truyền bắt đầu
thành hình, vì Thánh Truyền cũng là Lời Chúa (x. Ibid., số 9). Thường
hay có nguy cơ tách biệt Thánh Kinh và Thánh Truyền ra khỏi nhau mà không hiểu
rằng cả hai đi chung với nhau thành một nguồn Mặc khải duy nhất. Đặc tính thành
văn của Kinh Thánh không giảm thiểu chút nào sự việc Kinh Thánh hoàn toàn là
Lời sống động ; cũng như khi không ngớt lưu truyền Lời qua các thế kỷ từ
đời này sang đời khác, Thánh Truyền sống động của Hội Thánh vẫn sở hữu cuốn
sách thánh kia như quy luật tối thượng của đức tin” (Ibid, số 21). Đàng
khác, trước khi trở thành bản văn viết, Kinh Thánh đã được truyền miệng và giữ
gìn cho sống động bởi đức tin của một dân vẫn nhìn nhận nó như lịch sử và
nguyên ủy làm phát sinh căn tính riêng của mình giữa bao nhiêu dân khác. Vậy là
đức tin do Kinh Thánh dựa trên Lời sống động chứ không phải trên một cuốn sách.
12. Kinh Thánh được viết với tinh thần nào mà được đọc cũng
trong tinh thần ấy thì sẽ cứ mới mãi. Cựu Ước không bao giờ cũ mỗi khi chúng ta
đưa nó vào Tân Ước, vì tất cả đều được biến đổi bởi một Thánh Thần duy nhất,
Đấng ban linh hứng cho tất cả. Toàn bộ bản văn thánh có chức năng ngôn
sứ : bản văn không liên quan đến tương lai, nhưng đến ngày hôm nay của
người nào nuôi mình bằng Lời trong đó. Chính Đức Giê-su đã khẳng định điều ấy rõ
ràng ngay từ khi Người khởi đầu sứ vụ : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh
Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Ai
nuôi mình bằng Lời Chúa mỗi ngày thì, như Đức Giê-su, người đó trở thành kẻ
đang sống cùng thời với những ai mình gặp gỡ, không bị cám dỗ muốn chìm vào
những hoài niệm vô bổ về quá khứ hay vào những điều không tưởng về một tương
lai mình sẽ được hoàn toàn thoát xác.
Kinh Thánh triển khai hoạt động ngôn sứ của mình trước
hết đối với người nào lắng nghe. Kinh Thánh khơi dậy ngọt ngào và cay đắng. Chúng
ta hãy nhớ lại những lời Ê-dê-ki-en đã nói khi Chúa mời gọi ông ăn cuộn sách.
Ông thổ lộ : “Nó ngọt như mật trong miệng tôi” (x. 3,3). Rồi cả tác giả
Tin Mừng Gio-an trên đảo Pát-mô cũng lại được sống cùng một kinh nghiệm ăn sách
như Ê-dê-ki-en, nhưng Gio-an kể thêm một điều đặc biệt hơn : “Trong miệng
tôi, nó ngọt ngào như mật ong, nhưng khi tôi nuốt rồi, thì bụng dạ tôi cay
đắng” (Kh 10,10).
Hiệu quả ngọt ngào của Lời Chúa thúc đẩy chúng ta chia sẻ
với những ai chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hằng ngày, diễn tả cho họ về niềm
hy vọng chắc chắn chứa đựng trong Lời Chúa (x. 1 Pr 3,15-16). Còn, đến lượt nó, nỗi đắng cay thường đến khi chúng ta
hiểu ra sẽ khó khăn biết chừng nào cho chúng ta khi phải sống Lời Chúa một cách
nhất quán, hoặc phải nghiệm thấy nơi bản thân mình là Lời Chúa đã bị từ khước
vì không còn được giữ như một giá trị đem lại ý nghĩa cho cuộc sống. Vậy nên
chúng ta đừng bao giờ đến với Lời Chúa theo thói quen phải đến, nhưng hãy nuôi
mình bằng Lời Chúa để khám phá và sống sâu mối tương quan của chúng ta với
Thiên Chúa và với anh em chúng ta.
13. Một thách thức khác đến từ Kinh Thánh là thách thức liên
quan đến đức bác ái. Lời Chúa cứ nhắc mãi nhắc hoài đến tình yêu đầy thương xót
của Chúa Cha. Người đòi con cái Người sống trong tình bác ái. Cuộc sống của Đức
Giê-su là một diễn tả đầy đủ và tuyệt trần về tình yêu của Thiên Chúa, thứ tình
yêu không giữ lại một chút gì cho mình, nhưng tự hiến trọn vẹn cho mọi người.
Trong dụ ngôn anh La-da-rô nghèo khó, chúng ta tìm được một chỉ dẫn quý báu. Khi
La-da-rô và ông nhà giàu chết, ông này thấy anh nghèo được ôm trong lòng
Áp-ra-ham, liền xin tổ phụ sai anh về với các anh em nhà ông, răn bảo họ yêu
thương người thân cận để khỏi phải chịu khổ sở như ông đang chịu bây giờ. Câu
trả lời của Áp-ra-ham như quất mạnh vào người ông : “Chúng đã có Mô-sê và
các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó” (Lc 16,29). Nghe lời Kinh Thánh để thực hành lòng thương xót :
một thách đố lớn cho cuộc sống chúng ta đấy. Lời Chúa có sức mở mắt cho chúng
ta, giúp chúng ta ra khỏi chủ nghĩa cá nhân, thứ chủ nghĩa dẫn chúng ta đến khô
bại và cằn cỗi. Lời Chúa mở rộng cho chúng ta con đường chia sẻ và liên đới.
14. Một trong những đoạn ý nghĩa nhất về tương quan giữa Đức
Giê-su và các môn đệ là trình thuật Hiển dung. Đức Giê-su lên núi với Phê-rô,
Gia-cô-bê và Gio-an để cầu nguyện. Các tác giả Tin Mừng nhớ lại : đang khi
dung mạo và trang phục Đức Giê-su tỏa sáng chói lòa thì có hai nhân vật đến đàm
đạo với Người : Mô-sê và Ê-li-a, hai vị lần lượt là hiện thân cho Lề Luật
và các Ngôn sứ, tức là cho Kinh Thánh. Trước cảnh tượng ấy, Phê-rô liền tràn
ngập vui mừng và kinh ngạc : “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là
hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và
một cho ông Ê-li-a” (Lc 9,33). Ngay
lúc đó, một đám mây rợp bóng bao phủ các môn đệ, và các ông hoảng sợ.
Hiển dung nhắc lại chuyện lễ lều, Ét-ra và Nơ-khe-mi-a
đọc cho dân nghe bản văn thánh sau khi bị lưu đày trở về. Đồng thời, để chuẩn
bị cho ô nhục thập giá, Hiển dung báo trước vinh quang của Đức Giê-su, thứ vinh
quang của Thiên Chúa cũng được gợi lên bởi đám mây đang bọc lấy các môn đệ, đám
mây biểu trưng cho sự hiện diện của Đức Chúa. Cuộc biến đổi hình dạng này cũng
giống như cuộc biến đổi của Sách Thánh : nó vượt lên trên chính mình khi
nuôi sống người tin. Như Verbum
Domini nhắc nhở : “Muốn nắm bắt được sự ăn khớp giữa
những ý nghĩa khác nhau của Kinh Thánh, thì việc mang tính quyết định là phải
biết từ chữ nghĩa bước sang tinh thần. Không có chuyện bước qua tự động tự phát
đâu, nhưng đúng là phải vượt lên khỏi mặt chữ” (số 38).
15. Trên hành trình đón nhận Lời Thiên Chúa, Thân Mẫu Chúa
đồng hành với chúng ta. Mẹ được nhìn nhận là diễm phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ
thực hiện những gì Người đã nói với Mẹ (x. Lc
1,45). Mối phúc của Đức Ma-ri-a dẫn trước mọi mối phúc Đức Giê-su tuyên bố cho
những ai nghèo, sầu khổ, khiêm tốn, xây dựng hòa bình và bị bách hại, vì đó là
điều kiện cần thiết cho mọi mối phúc khác. Không có người nghèo nào hạnh phúc
vì bị nghèo ; người nghèo sẽ trở nên người có phúc, như Đức Ma-ri-a, nếu
người đó tin Lời Chúa sẽ được thực hiện. Đây chính là điều mà một vị đại môn
sinh của Lời và đại tôn sư dạy Kinh Thánh, thánh Au-gút-ti-nô, nhắc nhở chúng
ta : “Có một người giữa đám đông đã đặc biệt phấn khích kêu lên :
Phúc thay lòng dạ đã cưu mang Thầy ! Người liền đáp : Đúng ra là phúc
thay những ai lắng nghe Lời Chúa và tuân giữ. Nói thế cũng như thể Người bảo
rằng : Mẹ tôi mà chị gọi là phúc đức đó, bà được phúc thì chính xác là vì
bà giữ lời Thiên Chúa ; không phải vì trong bà, Ngôi Lời đã trở nên người
phàm và đã sống giữa chúng ta, nhưng vì bà đã canh giữ chính Ngôi Lời Thiên
Chúa, Đấng mà nhờ Người, bà đã được tạo dựng, Đấng mà trong bà, Người đã nên
xác phàm” (Chú giải Tin Mừng
Gio-an, 10, 3).
Ước chi Chúa
Nhật Lời Chúa sẽ làm triển nở thêm trong dân Chúa sự thân mật
đạo đức và chuyên cần với Kinh Thánh, vì, như một tác giả Sách Thánh đã dạy từ
những thời xa xưa : “Lời đó ở rất gần anh (em), ngay trong miệng,
trong lòng anh (em), để anh (em) đem ra thực hành”.
Ban hành tại Rô-ma, gần Đền thờ Thánh Gio-an La-tê-ra-nô,
ngày 30 tháng 9 năm 2019,
Ngày phụng vụ kính nhớ thánh Giê-rô-ni-mô, khai mạc kỷ
niệm 1600 năm ngài tạ thế.
PHAN-XI-CÔ
Bản dịch do Nhóm Phiên Dịch CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ
thực hiện 16-10-2019
Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích
Prot. N. 602/20
LƯU Ý VỀ CHÚA NHẬT LỜI
CHÚA
Đức Giáo Hoàng Phanxicô mong muốn, Chúa nhật Lời Chúa được
cử hành hằng năm vào Chúa nhật III Thường niên.[1]
Chúa nhật này nhắc nhớ mọi thành phần dân Chúa, các Mục tử và các tín hữu, tầm quan
trọng và giá trị của Kinh Thánh đối với đời sống Kitô hữu, cũng như mối liên hệ
giữa Lời Chúa và Phụng vụ: “Chúng
ta là Kitô hữu, như một dân đang lữ hành trong lịch sử, được nâng đỡ nhờ sự
diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta, Đấng đang nói với chúng ta và nuôi dưỡng
chúng ta. Ngày dành riêng cho Kinh Thánh không phải là ‘mỗi năm một lần’, nhưng
là một lần cho cả năm, vì chúng ta rất khẩn thiết cần phải trở nên gần gũi, mật
thiết với Sách Thánh và với Chúa Giêsu phục sinh, Đấng không ngừng bẻ bánh Lời Chúa
và bánh Thánh Thể giữa cộng đoàn tín hữu. Vì vậy, chúng ta cần phải gắn bó mật
thiết với Kinh Thánh, nếu không, trái tim chúng ta sẽ băng giá, đôi mắt sẽ khép
lại, và vô số hình thức đui mù sẽ tấn công chúng ta”.[2]
Do đó, Chúa nhật này là dịp thuận tiện để đọc lại một số
tài liệu của Giáo hội,[3]
trước hết là Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Roma, trình bày tổng hợp các nguyên tắc
thần học, cử hành và mục vụ liên quan đến Lời Chúa được công bố trong Thánh lễ,
nhưng cũng có giá trị với mọi cử hành phụng vụ (Các Bí tích, các Á Bí tích và
Các Giờ kinh phụng vụ).
1. Qua các bài Sách Thánh được công bố trong phụng vụ,
Thiên Chúa nói với dân Người, và chính Chúa Kitô công bố Tin Mừng của Ngài.[4]
Chúa Kitô là trung tâm và là sự viên mãn của tất cả Kinh Thánh, Cựu ước cũng
như Tân ước.[5]
Lắng nghe Tin Mừng, cao điểm của Phụng vụ Lời Chúa,[6]
được diễn tả qua một sự tôn kính đặc biệt,[7]
được thể hiện không chỉ bằng những cử chỉ và lời tung hô, mà bằng chính sách
Tin Mừng.[8]
Một trong những nghi thức thích hợp cho Chúa nhật này là cuộc rước sách Tin
Mừng,[9]
hoặc, nếu không có, thì sách Tin Mừng được đặt trên bàn thờ.[10]
2. Các bài đọc Kinh Thánh được Giáo hội sắp xếp trong
Sách bài đọc mở ra cho chúng ta sự hiểu biết về toàn bộ Lời Chúa.[11]
Vì vậy, cần phải tôn trọng các Bài đọc được chỉ định, không được thay thế hoặc
loại bỏ các Bài đọc này, và sử dụng các ấn bản Kinh Thánh được chấp thuận sử
dụng trong phụng vụ.[12]
Việc công bố các bài đọc Kinh Thánh trong Sách Bài đọc tạo thành mối dây hiệp
nhất giữa các tín hữu khi họ nghe các bài Sách Thánh này. Hiểu được cấu trúc và
mục đích Phụng vụ Lời Chúa giúp cộng đoàn tín hữu đón nhận lời cứu độ của Thiên
Chúa.[13]
3. Nên hát Thánh vịnh Đáp ca, vì đây là lời đáp của Giáo
hội cầu nguyện.[14]
Do đó, việc phục vụ của người hát Thánh vịnh Đáp ca cần phải được gia tăng
trong mỗi cộng đoàn.[15]
4. Trong suốt năm phụng vụ, khởi đi từ các bài Sách
Thánh, các mầu nhiệm đức tin và các chuẩn mực của đời sống Kitô hữu được trình
bày trong các bài giảng.[16]
“Các Mục tử, trước hết có
trách nhiệm rất lớn lao là giải thích và giúp mọi người hiểu Kinh Thánh. Vì
Kinh Thánh là sách của dân Chúa, nên những người có ơn gọi là thừa tác viên của
Lời Chúa có sứ mạng làm cho Lời Chúa đến được với cộng đoàn”.[17]
Các Giám mục, các Linh mục và các Phó tế cần phải nhận ra bổn phận của mình là
phải thực hiện sứ mạng này một cách đặc biệt bằng cách tận dụng những phương
tiện do Giáo hội đề xuất.[18]
5. Sự thinh lặng có tầm quan trọng đặc biệt, phù
hợp cho việc suy gẫm và giúp người nghe đón nhận Lời Chúa trong nội tâm của họ.[19]
6. Giáo hội luôn đặc biệt quan tâm đến những người công
bố Lời Chúa trong cộng đoàn: Linh mục, Phó tế, và Thừa tác viên đọc sách. Thừa
tác vụ này đòi hỏi việc chuẩn bị bề trong và bề ngoài, xem trước bài đọc và tập
rượt trước, tránh tùy cơ ứng biến.[20]
Có thể nói vài lời ngắn gọn và thích hợp trước các bài đọc.[21]
7. Vì giá trị của Lời Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy
lưu tâm đến tòa giảng, nơi Lời Chúa được công bố.[22]
Tòa giảng không phải là đồ trang trí, nhưng là vị trí xứng hợp với phẩm giá của
Lời Chúa, trong sự tương xứng với bàn thờ: chúng ta vẫn nói, bàn tiệc Lời Chúa
và bàn tiệc Mình Thánh Chúa Kitô, liên quan đến tòa giảng và nhất là bàn thờ.[23]
Tòa giảng được dành riêng cho việc đọc các bài Sách Thánh, Thánh vịnh Đáp ca,
các bài hát đối đáp, Tin Mừng phục sinh (Exsultet), giảng, lời nguyện tín hữu.
Tòa giảng là nơi không phù hợp cho việc thông báo, điều khiển hát.[24]
8. Các cuốn sách chứa đựng những đoạn Sách Thánh, mà
những đoạn sách này khơi dạy nơi tâm hồn những người nghe lòng tôn kính Thiên
Chúa, Đấng nói với dân của Ngài.[25]
Vì lý do này, cần phải lưu tâm đến sách phụng vụ và sử dụng sách phụng vụ cách
tốt nhất. Không được sử dụng tờ rơi, bản sao chụp để thay thế sách phụng vụ.[26]
9. Gần hoặc trong những ngày tiếp theo Chúa nhật Lời
Chúa, là thời gian thuận tiện cho việc quy tụ các nhóm với mục đích giúp cho họ
nhận ra giá trị của Kinh Thánh trong các cử hành phụng vụ.[27]
10. Chúa nhật Lời Chúa cũng là dịp thuận tiện để đào sâu
mối liên hệ giữa Kinh Thánh và Các Giờ kinh phụng vụ, cầu nguyện với các Thánh
vịnh và các Thánh ca trong giờ Kinh sách, các bài đọc Kinh Thánh, cổ võ cử hành
cộng đoàn giờ Kinh sáng và Kinh chiều.[28]
Giữa vô số các vị Thánh nam nữ, là chứng nhân cho Tin
Mừng của Chúa Giêsu, có thể coi thánh Giêrônimô như là tấm gương cho tình yêu
tuyệt vời mà ngài dành cho Lời Chúa. Như Đức Giáo hoàng Phanxicô mới nhắc lại
gần đây, thánh Giêrônimô là một “học giả, dịch giả, nhà chú giải không mệt mỏi,
hiểu biết sâu sắc và đam mê phổ biến Kinh Thánh […] Bằng cách lắng nghe Lời
Chúa, thánh Giêrônimô tìm thấy chính mình, tìm thấy dung mạo của Thiên Chúa và
của anh chị em, đồng thời thay đổi đời sống cho phù hợp với đời sống của cộng
đoàn.[29]
Dưới ánh sáng Chúa nhật Lời Chúa, Thông tư ý này nhằm làm
cho chúng ta ý thức tầm quan trọng của Kinh Thánh đối với đời sống Kitô hữu,
khởi đi từ các bài Kinh Thánh được đọc trong phụng vụ, Lời Chúa đặt chúng
ta vào cuộc đối thoại sống động và liên lỉ với Ngài.[30]
Làm tại Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, ngày 17 tháng 12
năm 2020.
Hồng Y Robert
Sarah
Tổng Trưởng (đã ký)
Tổng Giám Mục Arthur
Roche
Tổng thư ký (đã ký)
Ngày 19/12/2020, Bộ
Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã đưa ra một thông tư liên quan đến Chúa Nhật Lời
Chúa, nhắc lại một số “nguyên tắc thần học, cử hành và mục vụ liên quan đến Lời
Chúa được công bố trong Thánh lễ”. Lm. Giuse Đào Hữu Thọ chuyển ngữ Thông tư
này (tonggiaophanhanoi.org).
[1] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông thư
dưới hình thức Tự sắc “Người mở trí cho các ông” (Aperuit illis),
ngày 30 tháng 9 năm 2019.
[2] Người mở trí cho các ông (Aperuit
illis), số 8; Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Lời Chúa (Dei
Verbum), số 25: “Vì thế, tất cả các giáo sĩ, trước hết là các linh mục của
Chúa Kitô và những người có bổn phận phục vụ lời Chúa, như các phó tế và những
người dạy giáo lý, phải gắn bó với Thánh Kinh nhờ việc chăm đọc và ân cần học
hỏi, để khi họ phải truyền đạt kho tàng bao la của lời Chúa, nhất là trong
phụng vụ thánh, cho các giáo hữu được ủy thác cho họ, không ai trong họ sẽ trở
thành “kẻ huênh hoang rao giảng lời Thiên Chúa ngoài môi miệng bởi không lắng
nghe lời Thiên Chúa trong lòng”. Thánh Công Ðồng cũng tha thiết và đặc biệt
khuyến khích mọi Kitô hữu, cách riêng các tu sĩ hay năng đọc Thánh Kinh để học
biết “khoa học siêu việt của Chúa Giêsu Kitô” (Pl 3,8). ‘Vì không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô’”.
[3] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Lời
Chúa (Dei Verbum); Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI, Tông huấn Verbum
Domini.
[4] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Phụng
vụ, số 7 và 33; Quy chế tổng quát sách lễ Rôma (Institutio generalis
Missalis Romani [IGMR]), số 29; Mục lục các bài đọc trong Thánh lễ (Ordo
lectionum Missae), số 12.
[5] Mục lục các bài đọc trong Thánh
lễ (Ordo
lectionum Missae [OLM]), số 5.
[6] IGMR, số 60; OLM, số 13.
[7] OLM, số 17; Nghi thức Giám mục,
số 74.
[8] OLM, số 36 và 113.
[9] IGMR, số 120 và 133.
[10] IGMR, số 117.
[11] IGMR, số 57; OLM, số 60.
[12] OLM, số 12,14,37,111.
[13] OLM, số 45.
[14] IGMR, số 61; OLM, số 19-20.
[15] OLM, số 56.
[16] OLM, số 24; Bộ Phụng Tự và Kỷ
Luật Bí Tích, Quy tắc giảng lễ, số 16.
[17] Người mở trí cho các ông”
(Aperuit illis), số 5; Quy tắc giảng lễ, số 26.
[18] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông
huấn Niềm vui Tin Mừng, số 135-144; Quy tắc giảng lễ.
[19] IGMR, số 56; OLM, số 28.
[20] OLM, số 14 và 49.
[21] OLM, số 15 và 42.
[22] IGMR, số 309; OLM, số 16.
[23] OLM, số 32.
[24] OLM, số 33.
[25] OLM, số 35; Nghi thức Giám mục, số 115.
[26] OLM, số 37.
[27] OLM, số 58-110; Chỉ nam giảng lễ, số 37-156.
[28] Văn Kiện Trình Bày và Quy
Định về Các Giờ kinh phụng vụ, số 140.
[29] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông
thư Scripturae sacrae affectus, nhân dịp 1600 năm, ngày qua đời
của thánh Giêrônimô, 30 tháng 10 năm 2020.
[30] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Tông
huấn Niềm vui Tin Mừng, số 174.