Tuyên Ngôn
"DOMINUS JESUS"

Duy nhất tính và phổ quát tính của ơn cứu độ
nơi Chúa Giêsu Kitô và Giáo Hội


Lm. Phêrô Nguyễn Quang Sách dịch

Dẫn nhập 1. Chúa Giêsu, trước khi lên trời, đã truyền lệnh cho các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng cho khắp thế giới và rửa tội muôn dân: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án" (Mc 16, 15-16). "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 18-20; x. Lc 24, 46-48: Ga17,18-20; Cv1,8).

Sứ vụ phổ quát của Giáo Hội phát sinh từ mệnh lệnh của Chúa Giêsu Kitô và hoàn thành qua các thế kỷ qua việc loan báo mầu nhiệm Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần, và mầu nhiệm nhập thể của Chúa Con, như biến cố cứu độ cho toàn nhân loại. Những nội dung nền tảng của việc tuyên xưng đức tin Kitô giáo được diễn tả như sau: "Tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha toàn năng, Ðấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Ðức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Ðức Chúa Cha. Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế: Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng tôi; chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô. Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh; Người lên trời ngự bên hữu Ðức Chúa Cha. Và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng. Tôi tin kính Ðức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Ðấng ban sự sống. Người bởi Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh với Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy. Tôi tin có Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Tôi tuyên xưng có một phép Rửa để tha tội. Tôi trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau". (*1)

2. Qua các thế kỷ, Giáo Hội đã công bố và trung thành làm chứng cho Tin Mừng của Chúa Giêsu. Dầu vậy, vào cuối ngàn năm thứ hai, sứ vụ còn lâu nữa mới hoàn thành.(2) Vì vậy, lời Thánh Phaolô về bổn phận truyền giáo của tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích rửa tội vẫn còn thích hợp hơn bao giờ hết: "Ðối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng !"(1 Cr 9, 16). Ðiều này giải thích việc Huấn Quyền đặc biệt chú ý nêu lên những lý do để cổ võ và nâng đỡ sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội, nhất là trong tương quan với các truyền thống tôn giáo trên thế giới.(3)

Khi xem xét những giá trị mà các tôn giáo đó minh chứng và đem đến cho nhân loại, với thái độ cởi mở và tích cực, Tuyên ngôn về Liên Lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo của Công đồng Vatican II khẳng định: "Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy có nhiều điểm khác với chủ trương mà Giáo Hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng chân lý. Chân lý chiếu soi cho hết mọi người".(4) Tiếp tục theo đường hướng suy nghĩ này, khi Giáo Hội rao giảng Chúa Giêsu Kitô là "Ðường, Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14, 6), thì Giáo Hội cũng sử dụng việc đối thoại liên tôn. Cuộc đối thoại thế đó chắc chắn không thay thế, nhưng đúng hơn, đi kèm theo sứ vụ truyền giáo, hướng về "mầu nhiệm hiệp nhất", từ đó mà "tất cả người nam và nữ, những kẻ được cứu chuộc, chia sẻ, dù cách khác nhau, cùng một mầu nhiệm cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô nhờ Thần Khí của Người".(5) Cuộc đối thoại liên tôn, thành phần trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội,(6) đòi buộc một thái độ hiểu biết và một mối quan hệ của sự nhận biết nhau và làm giàu cho nhau, trong sự vâng phục chân lý và tôn trọng tự do.(7)

3. Trong khi thực hiện đối thoại giữa đức tin Kitô giáo và các truyền thống tôn giáo khác, cũng như khi tìm hiểu nền tảng lý thuyết của nó cách sâu xa hơn, nảy sinh những vấn đề mới cần được chiếu cố bằng cách theo đuổi những con đường tìm kiếm mới, đưa ra những đề nghị, và gợi ý những cách hành động kêu gọi sự phân định kỹ lưỡng hơn. Trong trách nhiệm này, bản Tuyên Ngôn này muốn nhắc lại cho các Giám Mục, các nhà thần học, và tất cả người tín hữu Công giáo, những yếu tố cần thiết của giáo lý Kitô giáo, những yếu tố này may ra giúp cho suy tư thần học trong việc khai triển những giải pháp thích hợp với các nội dung đức tin và những giải pháp đáp ứng với các nhu cầu cấp bách của nền văn hoá hiện nay.

Tuyên Ngôn này là một bản tường trình xét theo mục đích của nó. Ðây không phải là một chuyên luận có hệ thống về vấn đề duy nhất tính và phổ quát tính của ơn cứu độ trong mầu nhiệm của Chúa Kitô và Giáo Hội, cũng không phải là đưa ra những giải pháp cho các vấn đề thần học đang được tranh luận. Nhưng đúng hơn, mục đích là nêu lại giáo lý đức tin Công Giáo trong các lãnh vực đó, đồng thời chỉ rõ một số vấn đề nền tảng còn mở ngõ để được nghiên cứu sâu rộng hơn, và bác bỏ những lập trường sai lạc hay mơ hồ. Vì lẽ đó, bản Tuyên Ngôn xét đến những gì đã được dạy bảo trong các văn kiện trước đây của Huấn Quyền, để mà nhắc lại một số chân lý nền tảng đức tin trong Giáo Hội.

4. Việc rao giảng kiên định Tin Mừng của Giáo Hội ngày nay gặp nguy hiểm do các thuyết tương đối muốn biện minh cho thuyết đa nguyên tôn giáo, không những trên thực tế mà còn trên nguyên tắc nữa. Vì thế, những thuyết tương đối này coi những chân lý sau là lỗi thời ví dụ: tính cách chung cuộc và trọn vẹn của mạc khải nơi Chúa Kitô, bản chất của đức tin Kitô giáo đối với bản chất của niềm tin trong các tôn giáo khác, sự linh ứng của Kinh Thánh, duy nhất tính cá vị của Ngôi Lời vĩnh cửu và Chúa Giêsu Nadareth, duy nhất tính của nhiệm cục cứu độ của Ngôi Lời Nhập Thể và của Chúa Thánh Thần, duy nhất tính và phổ quát tính của ơn cứu độ nơi mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, sự trung gian cứu độ phổ quát của Giáo Hội, sự không thể tách rời, tuy phân biệt - của Nước Thiên Chúa, Nước Chúa Kitô, và Giáo Hội, và sự tồn tại (subsistance) của Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô trong Giáo Hội Công giáo.

Những lý thuyết này dựa trên một số tiền đề vừa có tính thần học vừa có tính triết học, những tiền đề làm cho chân lý mặc khải trở nên khó hiểu và khó được chấp nhận. Sau đây là một số tiền đề như vậy: Sự xác tín rằng chân lý về Thiên Chúa không thể lãnh hội và diễn đạt được, dù trong mặc khải Kitô giáo; thái độ tương đối hoá đối với chính chân lý, theo đó cái gì là thật đối với những người này, thì lại không thật đối với những người khác; sự đối nghịch triệt để giữa não trạng luận lý Tây phương và não trạng biểu tượng Ðông phương; thuyết chủ quan, xem lý trí như là nguồn mạch duy nhất của tri thức, nên không có khả năng hướng "cái nhìn của mình lên cao để dám đạt tới chân lý của hữu thể"; (8) sự khó khăn trong việc nhận ra và thấu hiểu sự hiện diện của những biến cố chung cuộc và cánh chung trong lịch sử; sự tước bỏ hết ý nghĩa siêu hình của mầu nhiệm Nhập Thể trong lịch sử của Ngôi Lời vĩnh cửu, coi đó như một sự xuất hiện đơn thuần của Thiên Chúa trong lịch sử; thuyết chiết trung (electicisme) của những người, khi suy tư thần học, lấy mà không chọn lọc những tư tưởng trong những trào lưu triết học và thần học khác nhau, mà không đếm xỉa gì tới sự gắn kết có tính hệ thống hay sự tương hợp với chân lý Kitô giáo; sau hết, khuynh hướng đọc và giải thích Kinh Thánh vượt ra ngoài Truyền Thống và Huấn Quyền của Giáo Hội.

Trên nền tảng những tiền đề mang những sắc thái khác nhau này mà người thì coi như những khẳng định nguời thì coi như những gỉa thuyết, một số đề nghị thần học được sọan thảo. Những đề nghị này hoặc làm cho mặc khải Kitô giáo và mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô và Giáo Hội mất đi tính chất là chân lý tuyệt đối và là ơn cứu độ phổ quát hoặc chí ít cũng gieo bóng tối của sự hoài nghi và không chắc chắn vào các chân lý này.

I. Sự trọn vẹn và dứt khoát nơi mạc khải của Chúa Giêsu Kitô

5. Muốn sửa chữa não trạng tương đối hoá đó, một não trạng ngày càng lan rộng, thì trước tiên cần xác nhận lại đặc tính chung cuộc và toàn vẹn của mặc khải Chúa Kitô. Trên thực tế, phải tin chắc rằng, trong mầu nhiệm Chúa Kitô Giêsu, Con Thiên Chúa Nhập Thể, Người là "đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14, 6), là mặc khải trọn vẹn về chân lý thần linh đã được ban cho: "Không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho" (Mt 11, 27); "Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết" (Ga 1, 18); "Thật vậy, nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể" (Cl 2, 9-10).

Trung thành với Lời Chúa , Công Ðồng Vatican II dạy: "Nhờ mặc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về phần rỗi con người, được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Ðấng trung gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn thể mặc khải".(9) Hơn nữa, "Quả vậy, Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể" được sai "như một con người tới với những con người", "thì nói những lời của Thiên Chúa" (Ga 3, 34), và hoàn thành công trình cứu độ mà Cha của Người đã giao cho Người thực hiện (x. Ga 3, 36; 17, 4). Thấy Chúa Giêsu là thấy Cha của Người (x. Ga 14, 9). Vì lẽ đó, Chúa Giêsu đã hoàn thành việc mặc khải qua toàn công trình của Người làm cho chính mình hiện diện và tỏ bày chính mình: bằng lời nói và bằng việc làm của Người, bằng những dấu lạ và điềm thiêng của Người, nhưng đặc biệt bằng sự chết và sự phục sinh vinh hiển của Người từ cõi chết và cuối cùng với: sự sai đến Thần Khí Chân Lý, Người đã hoàn thành đầy đủ mặc khải và củng cố mặc khải bằng chứng từ thần linh... Nhiệm cục cứu độ Kitô giáo, xét như một giao ước mới và chung cuộc, sẽ không bao giờ qua đi, vànhư vậy, không có một mặc khải mới mẻ nào khác được trông đợi trước khi Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta xuất hiện trong vinh quang (x. 1 Tm 6, 14; Tt 2, 13) .(10)

Như vậy, Thông điệp Redemptoris Missio lại kêu gọi Giáo Hội thi hành trách nhiệm rao giảng Tin Mừng như sự viên mãn của chân lý: "Trong lời chung cuộc này thuộc về mặc khải của Người, Thiên Chúa đã tỏ mình cách hoàn hảo nhất có thể. Người đã mặc khải cho nhân loại Người là ai. Sự tự mặc khải chung cuộc này của Thiên Chúa là lý do cơ bản tại sao Giáo Hội tự bản tính là truyền giáo. Giáo Hội không thể làm gì khác hơn là rao giảng Tin Mừng, nghĩa là, trọn vẹn chân lý mà Thiên Chúa cho chúng ta biết về Người".(11) Do đó, chỉ mặc khải của Chúa Giêsu Kitô, mang vào trong lịch sử chúng ta một chân lý phổ quát và tối hậu, chân lý đó thúc giục trí khôn con người cố gắng không ngừng.(12)

6. Bởi đó, luận đề cho rằng mặc khải của Chúa Giêsu Kitô còn bị giới hạn, không đầy đủ và bất toàn, trong khi, đáng lẽ mạc khải này phải làm cho mặc khải hiện có trong các tôn giáo khác trở nên trọn vẹn. Luận đề như vậy trái nghịch với đức tin của Giáo Hội. Lập trường đó rêu rao dựa trên quan niệm cho rằng chân lý về Thiên Chúa không thể đạt thấu hay tỏ bày nguyên vẹn và đầy đủ do một tôn giáo lịch sử nào, không do Kitô giáo cũng không do Ðức Giêsu Kitô.

Lập trường đó trái ngược hẳn với những tuyên xưng lâu nay của đức tin Công Giáo, theo đó mặc khải về mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa đã được ban cho cách đầy đủ và trọn vẹn nơi Chúa Giêsu Kitô. Do đó, những lời nói, việc làm và toàn thể biến cố lịch sử của Chúa Giêsu, tuy hạn chế như những thực tại con người, có đối tượng là Ngôi Thiên Chúa của Ngôi Lời Nhập Thể, "Chúa thật và người thật".(13) Vì lẽ đó, những thực tại nói trên tự thân có được tính chung cuộc và đầy đủ thuộc mặc khải của những cách thế cứu độ của Thiên Chúa, cho dù chiều sâu mầu nhiệm thần linh tự nó vẫn là siêu việt và vô tận. Chân lý về Thiên Chúa không bị xoá bỏ hay giảm thiểu vì được nói qua ngôn ngữ loài người; đúng hơn, chân lý đó là duy nhất, đầy đủ và hoàn hảo, bởi vì kẻ nói và hành động chính là Người Con Nhập Thể của Thiên Chúa. Như thế, đức tin đòi hỏi chúng ta tuyên xưng rằng Ngôi Lời Nhập Thể, trong toàn diện mầu nhiệm của Người, Ðấng chuyển động từ việc nhập thể tới vinh quang, (Ngôi Lời Nhập Thể) là nguồn mạch, chia sẻ nhưng có thật, cũng là sự viên mãn của mọi mặc khải cứu độ của Thiên Chúa đối với nhân loại,(14) và tuyên xưng Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Chúa Kitô, sẽ dạy "trọn vẹn sự thật này" (Ga 16, 13) cho các Tông đồ và, qua các ngài, cho toàn thể Giáo Hội.

7. Cách đáp trả xứng hợp đối với Thiên Chúa là "sự vâng phục của đức tin" (Rm 6, 26; Rm 1,5 ; 2 Cr 10, 5-6) qua đó con người tự nguyện phó thác trọn vẹn mình cho Thiên Chúa, bằng cách dâng hiến "và tự nguyện tán thành mặc khải Ngài ban cho"(15) Ðức tin là một ơn ban của ân sủng: "muốn có đức tin, ân sủng của Thiên Chúa phải đến trước và trợ giúp; cũng cần có sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần, Ðấng thúc đẩy tâm hồn và đem tâm hồn trở về với Thiên Chúa, Ðấng mở mắt trí khôn và ban cho "mỗi người niềm vui và sự thanh thản trong khi tán thành và tin vào chân lý".(16)

Sự vâng phục của đức tin gồm có sự chấp nhận chân lý mặc khải của Chúa Kitô, được Thiên Chúa bảo đảm, vì người chính là chân lý:(17) "Tin trước hết là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, đồng thời cũng là sự tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mặc khải"(18). Do đó, đức tin, như là "hồng ân của Thiên Chúa" và là "nhân đức siêu nhiên do Người phú bẩm",(19) gồm có sự liên quan gắn bó kép (dual adherence): với Thiên Chúa mặc khải và với chân lý Người mặc khải, khác với niềm tin tưởng người ta đặt vào người phát ngôn. Như vậy, "chúng ta không được tin ai khác ngoài Thiên Chúa, là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần".(20)

Vì lẽ đó, phải nắm vững sự phân biệt giữa đức tin thần học và niềm tin trong các tôn giáo khác. Nếu đức tin là sự chấp nhận trong ân sủng chân lý mặc khải, chân lý này "ban khả năng thấm nhập mầu nhiệm đến nổi cho phép chúng ta hiểu mầu nhiệm đó một cách chặt chẽ",(21) thì niềm tin, trong các tôn giáo khác, là tổng số kinh nghiệm và tư tưởng cấu tạo nên kho tàng nhân loại của sự khôn ngoan và khát vọng của tôn giáo, một khát vọng của con người khi tìm kiếm sự thật đã cưu mang và hành động theo, trong tương quan của mình với Thiên Chúa và với Ðấng tuyệt đối(22)

. Sự phân biệt này không luôn luôn nảy sinh trong tâm trí đang lúc suy tư thần học. Như thế, đức tin thần học (sự chấp nhận chân lý một Chúa Ba Ngôi mặc khải) thường là đồng hoá với niềm tin trong các tôn giáo khác, niềm tin này là kinh nghiệm của tôn giáo khác, niềm tin này là kinh nghiệm tôn giáo còn đang đi tìm chân lý tuyệt đối và còn thiếu sự chấp nhận Thiên Chúa Ðấng mạc khải chính mình. Ðó là một trong những lý do làm cho những khác biệt giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác có xu hướng bị giảm thiểu đến mức triệt tiêu.

8. Giả thuyết về giá trị linh hứng của các Sách Thánh trong các tôn giáo khác cũng được đặt ra. Chắc chắn, phải nhìn nhận là có một số yếu tố trong các văn bản đó, thật sự là những công cụ nhờ đó vô số người trải qua các thế kỷ, đã và ngày nay còn có thể nuôi dưỡng và duy trì tương quan sự sống của mình với Thiên Chúa. Như vậy, như nói ở trên, công đồng Vatican II khi xem xét những tập quán, những luật lệ, và những huấn giáo của các tôn giáo khác, dạy rằng "tuy có nhiều niềm tin khác với xác tín mà Giáo Hội tuyên xưng, nhưng những niềm tin đó thường cũng mang ánh sáng của chân lý, chân lý chiếu soi cho hết mọi người"(23)

. Dầu vậy, truyền thống Giáo Hội dành riêng sự xác định rõ các sách được linh hứng cho những sách thuộc Thư Qui của Cựu và Tân Ước, bởi vì những sách này được Chúa Thánh Thần linh hứng. (24) Theo truyền thống này, Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải của Thiên Chúa của công đồng Vatican II, phát biểu : "Thực vậy Giáo Hội Mẹ Thánh, nhờ đức tin tông truyền xác nhận rằng toàn bộ sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với tất cả các thành phần đều là sách thánh và được ghi vào bản chính lục Thánh Kinh; bởi lẽ được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần (x. Ga 20, 31; 2 Tm 3,16; 2 Pr 1,19-21; 3, 15-16) nên tác giả của các sách ấy chính là Thiên Chúa và chúng được lưu truyền cho Giáo Hội với tình trạng như vậy"(25). Những sách này "dạy cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, những chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Kinh Thánh ghi lại vì phân rỗi chúng ta".(26)

Mặc dầu vậy, Thiên Chúa, Ðấng muốn kêu gọi tất cả mọi người đến với mình trong Chúa Kitô và thông truyền cho họ sự viên mãn mặc khải và tình yêu của Người, "không thể bỏ qua việc làm Người hiện diện bằng nhiều cách, không những đối với từng cá nhân, mà còn đối với toàn thể các dân tộc, nhờ những kho tàng thiêng liêng của họ, tôn giáo của họ là sự diễn tả chính và thiết yếu của những kho tàng đó cho dầu những tôn giáo đó chứa đựng "những thiếu sót, những khuyết điểm và những sai lầm".(27) Do đó, những sách thánh của các tôn giáo khác, mà trên thực tế hiện nay đang hướng dẫn và nuôi dưỡng cách sống của các tín đồ của họ, nhận lãnh từ mầu nhiệm của Chúa Kitô những yếu tố của lòng nhân lành và ân sủng chứa đựng trong các tôn giáo đó.

II. NGÔI LỜI NHẬP THỂ VÀ CHÚA THÁNH THẦN TRONG CÔNG TRÌNH CỨU ÐỘ

9 . Trong suy tư thần học đương thời thường xuất hiện một sự nhích gần lại với Chúa Giêsu thành Nadareth, xem Người như là một gương mặt lịch sử, giới hạn, cá biệt, Người mặc khải thần linh không phải một cách độc chiếm, nhưng một cách bổ sung với các gương mặt khác có tính thiên khải và cứu độ. Mầu nhiệm vô tận, tuyệt đối và tối hậu của Thiên Chúa như vậy được toả ra cho nhân loại bằng nhiều cách thức và nhiều gương mặt lịch sử : Ðức Giêsu thành Nadareth là một trong những gương mặt đó. Cụ thể hơn, đối với một số người, Ðức Giêsu là một trong các gương mặt Ngôi Lời đã nhận lấy trong dòng thời gian để giao tiếp với nhân loại trong một phương cách cứu rỗi.

Hơn nữa, để biện minh tính phổ quát của mặc khải Kitô giáo cũng như thực tại đa nguyên tôn giáo, người ta nêu lên một nhiệm cục của Ngôi Lời vĩnh cửu, cũng có giá trị bên ngoài Giáo Hội và không liên hệ gì tới Giáo Hội, bổ sung cho nhiệm cục của Ngôi Lời nhập thể. Nhiệm cục thứ nhất có giá trị phổ biến hơn nhiệm cục thứ hai, vì nhiệm cục này hạn chế cho người Kitô hữu, mặc dầu sự hiện diện của Thiên Chúa tràn đầy hơn trong nhiệm cục thứ hai.

10. Những luận điểm này trái ngược sâu xa với đức tin Kitô giáo. Phải tin vững chắc giáo lý đức tin tuyên xưng rằng Ðức Giêsu thành Nadareth, con của Ðức Maria, và chỉ một mình Người, là Con và là Lời của Chúa Cha. Ngôi Lời, Ðấng "từ đầu đã ở với Thiên Chúa" (Ga 1, 2) cũng là một với Ðấng "đã biến thành nhục thể" (Ga 1, 14). Trong Ðức Giêsu, "Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16), "tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể" (Cl 2, 9). Người là "Con Một Chúa Cha, là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha" (Ga,18), là "Con chí ái Chúa Cha, trong Người ta được ơn cứu chuộc . Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời" (Cl 1, 13-14; 19-20).

Trung thành với Kinh Thánh và bác bỏ những giải thích sai lầm và giảm thiểu, Công Ðồng Nicê thứ nhất đã ấn định đức tin của mình vào: "Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Con Một được sinh ra bởi Chúa Cha, nghĩa là bởi bản thể của Chúa Cha, là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, là Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra chớ không phải tạo thành, cùng một bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, trên trời và dưới đất. Vì loài người chúng ta và để cứu chuộc chúng ta, Người đã xuống thế và đã nhập thể, làm người, chịu khổ hình và sống lại ngày thứ ba. Người lên trời và sẽ trở lại để phán xét kẻ sống và kẻ chết". (28)Vâng theo những huấn giáo của các Giáo Phụ, Công Ðồng Chalcedon cũng đã tuyên xưng: "Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta là Con Một và là chính Chúa Con, vừa trọn hảo trong thần tính vừa trọn hảo trong nhân tính, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. cùng một bản thể với Chúa Cha theo thần tính và cùng một hữu thể với chúng ta theo nhân tính . được sinh ra theo thần tính bởi Chúa Cha trước mọi thời đại và, trong những ngày sau hết, vì chúng ta và vì phần rỗi chúng ta, được sinh ra theo nhân tính bởi Ðức Maria, Mẹ Ðồng Trinh của Thiên Chúa"(29)

. Vì lẽ đó, Công Ðồng Vaticanô II phát biểu rằng Ðức Kitô "Ađam mới", "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình" (Cl 1, 15), chính Người "là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của Ađam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch . Là Chiên vô tội, Người tự ý đổ máu để cho chúng ta được sống, và chính trong Người, Thiên Chúa đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa và hoà giải chúng ta với nhau, cũng như đem chúng ta ra khỏi ách nô lệ của ma quỷ và tội lỗi, do đó mỗi người chúng ta có thể nói như Thánh Tông đồ rằng: Con Thiên Chúa đã yêu thương tôi, lại hiến thân cho tôi nữa" (Gl 2, 20).(30)

Về phương diện này, Ðức Gioan Phaolô II đã công khai tuyên bố: "Ðưa vào bất cứ một thứ ohân cách nào giữa Ngôi Lời và Ðức Giêsu Kitô là điều trái ngược với đức tin Kitô giáo. Ðức Giêsu là Ngôi Lời Nhập Thể - một ngôi duy nhất và không thể phân chia. Chúa Kitô không là ai khác hơn Ðức Giêsu thành Nadareth; Người là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người vì phần rỗi mọi người. Trong tiến trình khám phá và lượng giá nhiều hồng ân - cách riêng những kho tàng thiêng liêng - mà Thiên Chúa đã ban cho mỗi dân tộc, chúng ta không thể tách biệt những hồng ân này khỏi Ðức Giêsu Kitô, Ðấng là trung tâm chương trình cứu độ của Thiên Chúa"(31)

. Cũng là điều trái ngược với đức tin Công Giáo, đó là đưa vào một sự tách biệt giữa hành động cứu rỗi của Ngôi Lời vì là Ngôi Lời và hành động cứu rỗi của Ngôi Lời làm người. Với mầu nhiệm Nhập Thể, tất cả những hành động cứu rỗi của Ngôi Lời Thiên Chúa luôn luôn được thực hiện trong sự hợp nhất với nhân tính mà Ngôi Lời đã nhận lấy vì phần rỗi muôn dân. Một chủ thể, Ðấng hoạt động trong hai bản tính, nhân tính và thần tính, chỉ là một ngôi vị của Ngôi Lời.(32)

Do đó, lý thuyết muốn gán, dĩ nhiên sau mầu nhiệm Nhập Thể, một hoạt động cứu rỗi cho Ngôi Lời xét như là Ngôi Lời trong thần tính của Người, hoạt động thực hiện "bổ sung cho" hay là "vượt quá" nhân tính Ðức Kitô, thì lý thuyết đó không phù hợp với đức tin công giáo.(33)

11. Cũng vậy, giáo lý đức tin liên hệ tới tính độc nhất của nhiệm cục cứu rỗi theo ý muốn của một Thiên Chúa Ba Ngôi thì phải được tin vững vàng, tại nguồn mạch và trung tâm của nhiệm cục đó, là mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, Ðấng trung gian ân sủng thần linh trên bình diện sáng tạo và cứu chuộc (x. Cl 1, 15-20). Người là Ðấng quy tụ mọi loài (x. Ep 1, 10), Người là "Ðấng Thiên Chúa đã trở nên sự khôn ngoan, sự công chính, sự thánh hoá và sự cứu chuộc của chúng ta" (1 Cl 1, 30). Trên thực tế, mầu nhiệm Chúa Kitô có sự duy nhất nội tại của nó, sự duy nhất trải dài từ sự tuyển chọn đời đời trong Thiên Chúa cho tới ngày quang lâm: "trong Chúa Kitô, Người (Chúa Cha) đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước Thánh Nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người" (Ep 1, 4); "Trong Chúa Kitô chúng ta là những kẻ thừa tự, đã được tiền định theo kế hoạch của Người, Ðấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của người " (Ep 1, 11) ; "Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người là trưởng tử giữa một đàn em đông đúc; những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi, những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính, những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang" (Rm 8, 29-30).

Huấn Quyền Giáo Hội, trung thành với mặc khải của Thiên Chúa, tái xác nhận rằng Ðức Giêsu Kitô là trung gian và là Ðấng cứu chuộc phổ quát: "Ngôi Lời Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, đã làm người, để vì là con người hoàn hảo, Người có thể cứu rỗi mọi người và kết thân vạn vật nơi Người. Chúa. là Ðấng Chúa Cha phục sinh từ kẻ chết, đã tôn vinh và cho ngự bên hữu, đặt làm thẩm phán kẻ sống và kẻ chết".(34) Sự trung gian cứu độ này cũng bao hàm tính độc nhất của hy lễ cứu chuộc của Chúa Kitô, vị Thượng Tế đời đời (x. Dt 6, 20; 9, 11; 10, 12-14).

12. Cũng có những người nêu lên giả thuyết một nhiệm cục của Chúa Thánh Thần, với bề rộng phổ biến hơn là bề rộng của Ngôi Lời Nhập Thể, chịu đóng đinh và sống lại. Lập trường này cũng trái ngược với đức tin Công Giáo, vì đức tin này, ngược lại, coi sự nhập thể cứu rỗi của Ngôi Lời như là một biến cố có chiều kích Ba Ngôi. Trong Tân Ước, mầu nhiệm Ðức Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể, tạo nên một chỗ đứng cho sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, cũng như nguyên lý của sự đổ tràn Thần Khí xuống trên nhân loại không những trong thời cứu độ. (x. Cv 2, 32-36; Ga 7, 39; 20-22; 1 Cr 15, 45) mà còn trước khi Người đến trong lịch sử (x. 1 Cr 10, 4; 1 Pr 1, 10-12).

Công Ðồng Vatican II đã nhắc lại chân lý cơ bản này để ý thức về đức tin của Giáo Hội. Khi trình bày chương trình cứu rỗi của Chúa Cha đối với toàn thể nhân loại, Công Ðồng liên kết chặt chẽ mầu nhiệm Chúa Kitô từ những bước đầu của nó với mầu nhiệm của Thần Khí.(35) Toàn bộ công trình xây dựng Giáo Hội mà Chúa Giêsu Kitô, là Ðầu, đã thực hiện dọc suốt các thế kỷ, được thấy như là một hành động Người thực hiện trong sự hiệp thông với Thần Khí.(36)

Hơn nữa, công trình cứu rỗi của Chúa Giêsu Kitô, với và qua Thần Khí của Người, trải dài vượt quá biên giới hữu hình của Giáo Hội, cho tới toàn thể nhân loại. Khi nói về mầu nhiệm Vượt Qua, trong mầu nhiệm này, ngay bây giờ Chúa kết hợp người tín hữu với mình một cách sống động trong Thần Khí và ban cho họ niềm hy vọng sống lại, thì Công Ðồng phát biểu: "Ðiều nói trên không phải chỉ có giá trị cho các tín hữu, nhưng cho tất cả những ai có thiện chí được ơn thánh hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn. Thực vậy, vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người, và vì mọi người thực sự được kêu gọi đến cùng một số phận như nhau, số phận thần linh, nên ta phải tin chắc là Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm phục sinh ấy, cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi"(37).

Như vậy, sự liên kết thực rõ ràng giữa mầu nhiệm cứu rỗi của Ngôi Lời Nhập Thể và mầu nhiệm của Thần Khí, Ðấng khiến cho thành hiện thực hiệu quả cứu độ của người Con làm người, trong đời sống của mọi người, được Thiên Chúa kêu gọi tới cùng một mục đích, cả những kẻ, theo lịch sử, đi trước Ngôi Lời làm người, cũng như những kẻ sống sau khi người đến trong lịch sử: Thần Khí Chúa Cha, được ban vô ngần vô tận bởi Chúa Con, người cổ vũ mọi người (x. Ga 3,34). Như thế, Huấn Quyền mới đây của Giáo Hội đã nhắc lại cách chắc chắn và sáng sủa chân lý của duy một nhiệm cục của Thiên Chúa: "Sự hiện diện và sự sinh hoạt của Thần Khí ảnh hưởng đến không những từng cá nhân mà còn cả xã hội và lịch sử, các dân tộc, các nền văn hoá và các tôn giáo . Chúa Kitô phục sinh bây giờ hành động trong lòng nhân loại nhờ sức mạnh của Thần Khí Người . Lại nữa, chính Thần Khí Ðấng gieo "những hạt giống Lời" hiện diện trong các tập quán và văn hoá khác nhau, chuẩn bị chúng được trưởng thành đầy đủ trong Chúa Kitô".(38) Ðang khi nhìn nhận chức năng cứu rỗi lịch sử của Thần Khí trong toàn thể vũ trụ và trong toàn thể lịch sử nhân loại,(39) Huấn quyền khẳng định: "Này cũng một Thần Khí hành động trong mầu nhiệm nhập thể và trong đời sống, sự chết, và sự sống lại của Ðức Giêsu và hành động trong Giáo Hội. Do đó, Người không phải là kẻ thay thế cho Chúa Kitô, Người cũng không lấp đầy một thứ lỗ trống mà thỉnh thoảng người ta gợi ý như đang hiện hữu giữa Ðức Kitô và Ngôi Lời. Những gì Thần Khí mang đến trong tâm hồn con người và trong lịch sử các dân tộc, nơi các nền văn hoá và tôn giáo, đều giúp chuẩn bị cho Tin Mừng và chỉ có thể hiểu được trong sự quy chiếu về Chúa Kitô, Ngôi Lời mang lấy xác phàm do quyền năng của Thần Khí "ngõ hầu với tư cách là con người hoàn hảo, Người có thể cứu chuộc mọi người và quy tụ mọi sự"."(40)

Nói tóm lại, hành động của Thần Khí không phải ở bên ngoài hay là song song với hành động của Chúa Kitô. Chỉ có một nhiệm cục cứu rỗi của một Thiên Chúa Ba Ngôi, được thể hiện trong mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Con Thiên Chúa, được hiện thực nhờ sự hợp tác của Chúa Thánh Thần, và được trải dài nhờ giá trị cứu rỗi của nó cho tới toàn thể nhân loại và toàn thể vũ trụ: "Không ai, do đó, có thể vào trong sự hiệp thông với Thiên Chúa nếu không qua Chúa Kitô, nhờ hành động của Chúa Thánh Thần."(41)

III. TÍNH DUY NHẤT VÀ TÍNH PHỔ QUÁT NƠI MẦU NHIỆM CỨU ÐỘ CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ

13. Thuyết chối bỏ tính duy nhất và tính phổ quát của cứu độ trong mầu nhiệm Chúa Kitô cũng được nêu ra. Một lập trường như thế không có cơ sở Kinh Thánh. Thực sự, chân lý về Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, là Chúa và là Ðấng Cứu Thế duy nhất, Ðấng qua biến cố nhập thể, tử nạn và phục sinh của Người, đã đem lịch sử cứu độ tới chỗ viên mãn, và lịch sử cứu độ được viên mãn trong Người và lấy Người làm trung tâm, chân lý đó phải được tin vững vàng như là một yếu tố kiên định của đức tin Giáo Hội.

Tân Ước minh chứng sự kiện này cách minh bạch: "Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Ðấng cứu độ thế gian" (1 Ga 4, 14), "Ðây là Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá tội trần gian" (Ga 1, 29). Trong bài diễn từ của Ngài trước Thượng Hội đồng, Thánh Phêrô, đã minh chứng sự chữa lành cho một người què từ lúc mới sinh nhân danh Chúa Giêsu, công bố: "Ngoài Người ra không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ vào Danh đó mà được cứu độ" (Cv 4, 12). Hơn nữa, Thánh Phaolô nói rằng Chúa Giêsu Kitô"là Chúa mọi người", "là quan xét kẻ sống và kẻ chết", và như vậy "phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ Danh Người được ơn tha thứ" (Cv 10, 36.42.43).

Thánh Phaolô khi ngỏ lời với cộng đoàn Côrintô, viết: "Thật thế, mặc dầu người ta cho là có những vị thần ở trên trời hay dưới đất - quả thật thần cũng lắm, mà chúa cũng nhiều - nhưng đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Ðấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta, và cũng chỉ có một Chúa là Ðức Giêsu Kitô, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, nhờ người mà chúng ta được hiện hữu" (1 Cr 8, 5-6). Hơn nữa, Thánh Gioan tông đồ tuyên bố: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả thật, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ." (Ga, 3, 17-17). Trong Tân Ước, ý muốn cứu độ phổ biến của Thiên Chúa liên kết chặt chẽ với sự trung gian của một Chúa Kitô mà thôi: "(Chúa) muốn cho mọi người được ơn cứu độ và nhận biết chân lý. Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Ðấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người, đó là một con người, Ðức Giêsu Kitô Ðấng tự hiến và làm giá chuộc mọi người"(1 Tm 2, 4-6).

Chính vì ý thức có một ơn cứu độ phổ quát do Chúa Cha ban cho qua Ðức Giêsu Kitô trong Thần Khí (x. Ep 1, 3-14), mà các người Kitô hữu đầu tiên đã đương đầu với dân Do Thái, minh chứng cho sự viên mãn của ơn cứu độ vượt quá lề luật và cũng do ý thức đó họ chạm trán với thế giới ngoại đạo ở thời đại của họ, một thế giới ước mong sự cứu rỗi qua nhiều đấng cứu thế. Mới đây, Huấn Quyền Giáo Hội đã nhắc lại di sản đức tin này: "Giáo Hội tin rằng Ðức Kitô, Ðấng đã chết và sống lại cho mọi người (x. 2 Cr 5, 15) có thể nhờ Thần Khí của Người ban cho con người ánh sáng và sức mạnh, để con người có thể đáp lại thiên chức cao cả nhất của mình, vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ"(x. Cv 4, 12). Cũng vậy, Giáo Hội tin rằng đầu mối, trung tâm, và cùng đích của toàn thề nhân loại gặp được trong Chúa và Thầy của Giáo Hội.(42)

14. Do đó, phải tin vững vàng như một chân lý đức tin Công Giáo, là ý muốn cứu độ phổ quát của Một Thiên Chúa Ba Ngôi được ban tặng và hoàn thành dứt khoát một lần trong mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Con Thiên Chúa.

Vì cưu mang trong tâm trí đề mục đức tin này, khoa thần học ngày nay, trong khi suy tư về sự hiện hữu những kinh nghiệm tôn giáo khác và về ý nghĩa của nó trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, được mời gọi khám phá, nếu có, và trong cách thức nào, những gương mặt lịch sử và các yếu tố tích cực của các tôn giáo đó nằm trong chương trình cứu rỗi của Chúa? Trong việc định làm này, sự nghiên cứu thần học có một lãnh vực hành động rộng lớn dưới sự hướng dẫn của Huấn Quyền Giáo Hội. Thực sự, Công Ðồng Vatican II đã dạy: "Sự trung gian duy nhất của Ðấng Cứu Thế không những không loại bỏ mà còn khuyến khích các thụ sinh cộng tác trong sự tuỳ thuộc vào nguồn mạch duy nhất".(43) Nội dung sự tuỳ thuộc trung gian này, có thể được khám phá cách sâu sắc hơn, nhưng nó luôn phải thích hợp với nguyên lý của sự trung gian độc nhất của Chúa Kitô: "Cho dầu không loại trừ những hình thức trung gian tuỳ thuộc nhiều kiểu và nhiều cấp bậc khác nhau, những hình thức tuỳ thuộc đó có được ý nghĩa và giá trị do chính sự trung gian của Chúa Kitô mà thôi, và cũng không được hiểu là song song hay là bổ sung cho sự trung gian Chúa Kitô". (44) Vì vậy, những giải pháp nào nêu lên một hành động cứu rỗi của Thiên Chúa mà vượt quá sự trung gian độc nhất của Chúa Kitô, (những giải pháp đó) sẽ nghịch lại với đức tin Kitô giáo và công giáo.

15. Cũng thường có đề nghị khoa thần học phải tránh dùng các từ ngữ "duy nhất tính", "phổ quát tính", tuyệt đối tính", vì những từ ngữ đó gây ra cảm giác nhấn mạnh thái quá về ý nghĩa và giá trị thuộc biến cố cứu rỗi của Chúa Giêsu Kitô, trong tương quan với các tôn giáo khác. Dầu sao, trên thực tế, những từ ngữ đó chỉ trung thành với mặc khải, bởi vì nó diễn tả sự tiến triển của các nguồn mạch đức tin. Từ đầu, cộng đồng tín hữu đã nhìn nhận nơi Chúa Giêsu một giá trị cứu rỗi, nên chỉ một mình Người thôi, là Người Con Thiên Chúa làm người, chịu đóng đinh và sống lại, do sứ mạng lãnh nhận từ Chúa Cha và trong quyền lực Chúa Thánh Thần, thông ban mặc khải (x. Mt 11, 27) và sự sống thần linh (x. Ga 1, 12; 5, 25-26; 17, 2) cho toàn thể nhân loại và cho từng người một.

Theo nghĩa đó, ta có thể và phải nói rằng Chúa Giêsu Kitô mặc lấy một ý nghĩa và một giá trị cho nhân loại và lịch sử nhân loại, độc nhất và riêng biệt, xứng hợp với một mình Người, độc chiếm, phổ biến và tuyệt đối. Thật sự, Ðức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người vì phần rỗi mọi người. Khi diễn tả ý thức này về đức tin, Công Ðồng Vatican II dạy: "Quả thực, Ngôi Lời Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, đã làm người, là con người hoàn hảo. Người cứu rỗi mọi người và kết thân vạn vật nơi Người. Chúa là cùng đích của lịch sử nhân loại, là điểm quy tụ mọi ước vọng của lịch sử và văn minh, là trung tâm của nhân loại, là niềm vui của tâm hồn và đáp ứng mọi niềm khao khát. Chính Người là Ðấng Chúa Cha đã phục sinh từ kẻ chết, đã tôn vinh và cho ngự bên hữu, đặt làm thẩm phán kẻ sống và kẻ chết". "Chính sự độc nhất này của Chúa Kitô mang lại cho Người một ý nghĩa tuyệt đối và phổ quát, qua đó, cho dù tuỳ thuộc vào lịch sử, Người vẫn là trung tâm và là cùng đích lịch sử: "Ta là Anpha và Ômêga, là Ðầu và Cuối,là Khởi Nguyên và Tận Cùng". (Kh 22, 13)(46)

IV. ÐỘC NHẤT TÍNH VÀ DUY NHẤT TÍNH CỦA GIÁO HỘI

16. Chúa Giêsu, Ðấng Cứu Thế độc nhất, không những thiết lập Giáo Hội như một cộng đồng đơn giản gồm các môn đệ, nhưng đã tạo nên Giáo Hội như một mầu nhiệm cứu rỗi: Chính Người ở trong Giáo Hội và Giáo Hội ở trong Người (x. Ga 15, 1tt; Ga 3, 28; Ep 4,15-16; Cv 9, 5). Do đó, sự viên mãn của mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Kitô cũng thuộc Giáo Hội, liên kết không thể phân ly với Chúa của mình. Thật vậy, Chúa Giêsu Kitô tiếp tục sự hiện diện và công trình cứu rỗi trong Giáo Hội và bằng các phương thế của Giáo Hội ( x. Cl 1, 24-27),(47) là thân thể của Người (x.1 Cr 12, 12-13, 27; Cl 1, I8),(48) Và như thế, như đầu và các thành phần của một thân thể sống động, tuy không giống hệt nhau, nhưng không thể chia cắt với nhau, thì cũng vậy, Chúa Kitô và Giáo Hội không thể lẫn lộn nhau, cũng không thể phân ly nhau, và tạo thành một "Chúa Kitô toàn diện".(49) Cũng một sự bất khả phân ly này được diễn tả trong Tân Ước bởi so sánh Giáo Hội tương tự như hiền thê của Chúa Kitô (x. 2 Cr 11, 2; Ep 5, 25-29; 21, 9).(*50)

Do đó vì kết hợp với tính độc nhất và tính phổ quát của sứ mạng cứu rỗi của Chúa Kitô, tính độc nhất của Giáo Hội do Người thiết lập phải được tin vững vàng như một chân lý của đức tin Công Giáo. Ðúng như chỉ có một Chúa Kitô, thì cũng chỉ có một thân thể Chúa Kitô, một hiền thê của Chúa Kitô: "một Giáo Hội Công Giáo và tông truyền". (51) Hơn nữa, những lời hứa của Chúa Kitô sẽ không từ bỏ Giáo Hội Người (x. Mt 16, 18; 28, 20) và hướng dẫn Giáo Hội nhờ Thần Khí của Người (x. Ga 16, 13) có nghĩa là, theo đức tin Công Giáo, tính độc nhất và duy nhất của Giáo Hội - cũng như tất cả thuộc về sự nguyên vẹn của Chúa Kitô - sẽ không bao giờ thiếu đi được.(52)

Người tín hữu Công giáo bị buộc phải tuyên xưng rằng có một sự liên tục lịch sử - bén rễ trong sự liên tục tông đồ(53) - giữa Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập và Giáo Hội Công Giáo: "Ðây là Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô.. Giáo Hội mà Ðấng Cứu Chuộc chúng ta, sau khi sống lại đã phó thác cho Phêrô chăm lo mục vụ (x. Ga 21, 17), ra lệnh cho Phêrô và các Tông Ðồ khác phải phổ biến và quản trị Giáo Hội (x. Mt 28, 18tt), được thiết lập cho mọi thời đại như là "là cột trụ và chỗ tựa cho Chân Lý" (1 Tm 3, 15). Giáo Hội này được cấu tạo và tổ chức như một xã hội trong thế giới ngày nay, tồn tại trong (subsistit in) Giáo Hội Công Giáo, được quản trị bởi Thánh Phêrô và các Giám Mục hiệp thông với người". (54) Với kiểu nói subsistit in, Công Ðồng Vatican II có ý dung hoà hai lời tuyên bố có tính giáo lý: một bên, Giáo Hội Chúa Kitô, mặc dầu có chia rẽ giữa người Kitô hữu, vẫn tiếp tục hiện hữu đầy đủ trong Giáo Hội Công Giáo mà thôi và một bên, "bên ngoài cấu trúc của Giáo Hội Công Giáo, ta thấy có nhiều yếu tố của sự thánh hoá của chân lý" ,(55) đó là, trong những Giáo Hội và cộng đồng Giáo Hội chưa hiệp thông đầy đủ với Giáo Hội Công Giáo. (56) Nhưng với sự tôn trọng những Giáo Hội này, cần phải khẳng định rằng "các Giáo Hội đó nhận được năng lực từ chính sự sung mãn của ơn thánh và chân lý được uỷ thác cho Giáo Hội Công Giáo".(57)

17. Do đó có một Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô, Giáo Hội này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo, được lãnh đạo bởi người kế vị Thánh Phêrô và các giám mục hiệp thông với ngài.(58) Những Giáo Hội nào không sống hiệp thông hoàn toàn với Giáo Hội Công Giáo nhưng vẫn liên kết với Giáo Hội Công Giáo bằng những mối liên kết chặt chẽ nhất, nghĩa là bằng sự liên tục tông truyền và bằng bí tích Thánh Thể thành sự, (những Giáo Hội đó) là những Giáo Hội địa phương thật sự.(59) Do đó, Giáo Hội Chúa Kitô đang hiện diện và hành động trong các Giáo Hội đó, cho dù họ thiếu hiệp thông đầy đủ với Giáo Hội Công Giáo, chỉ vì họ không chấp nhận giáo lý Công Giáo về Quyền Tối Thượng, một quyền mà do ý muốn Thiên Chúa, Vị Giám Mục Rôma hiện đang nắm giữ cách khách quan và thi hành trên toàn thể Giáo Hội.(60)

Mặt khác, những cộng đồng Giáo Hội nào không bảo toàn được chức Giám Mục hợp luật và bản chất đích thực và toàn vẹn của mầu nhiệm Thánh Thể,(61) thì không phải là Giáo Hội theo đúng nghĩa; tuy nhiên, những ai được rửa tội trong các cộng đồng này, thì nhờ phép Rửa Tội được tháp nhập vào Chúa Kitô và như vậy được ở trong sự hiệp thông nào đó, tuy chưa hoàn hảo, với Giáo Hội.(62) Thực sự phép Rửa Tội, tự bản tính, nhằm đạt tới sự sống sung mãn trong Chúa Kitô, nhờ sự tuyên xưng trọn vẹn đức tin, Thánh Thể và sự hiệp thông đầy đủ trong Giáo Hội. (63)

"Người tín hữu Kitô giáo, do đó, không được phép nghĩ rằng Giáo Hội Chúa Kitô không là gì khác hơn là một sưu tập - có phân rẽ nhưng cách nào đó vẫn là một - nhiều Giáo Hội và cộng đồng giáo hội, họ cũng không được tự do chủ trương rằng ngày nay Giáo Hội Chúa Kitô thực sự không hiện hữu ở nơi nào hết, và phài được xem mà thôi, như một cùng đích mà tất cả các giáo hội và cộng đồng giáo hội phải ra sức đạt tới "(64) Trên thực tế, "các yếu tố của giáo hội được ban sẵn này đều hiện hữu, liên kết nhau cách đầy đủ trong Giáo Hội Công Giáo và không có sự đầy đủ đó, trong các cộng đồng khác".(65) "Do đó, dầu chúng ta tin là họ còn khiếm khuyết, nhưng chính các giáo hội và cộng đồng ly khai ấy vẫn chưa trở thành vô nghĩa và vô giá trị trong mầu nhiệm cứu rỗi. Thật vậy, Thánh Thần của Chúa Kitô không khước từ sử dụng họ như những phương tiện cứu rỗi mà năng lực xuất phát từ sự sung mãn của ơn thánh và chân lý đã được uỷ thác cho Giáo Hội Công Giáo"(66)

. Sự thiếu hợp nhất giữa các Kitô hữu chắc chắn là một vết thương cho Giáo Hội, không phải theo nghĩa là Giáo Hội bị cướp đoạt sự hợp nhất của mình, nhưng "theo nghĩa là nó ngăn cản sự viên mãn trọn vẹn của tính phổ quát của Giáo Hội trong lịch sử".(67)

V. GIÁO HỘI: NƯỚC THIÊN CHÚA VÀ NƯỚC CỦA CHÚA KITÔ

18. Sứ mạng của Giáo Hội là "rao truyền và thiết lập Nước Chúa Kitô và Nước Thiên Chúa giữa mọi dân tộc, Giáo hội là mầm móng và khai nguyên nước ấy trên trần gian". (68)( Một bên, Giáo Hội là một "bí tích, tức là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hợp nhất toàn thể nhân loại"(69) Do đó, Giáo Hội là dấu chỉ và khí cụ của Vương Quốc, Giáo Hội được kêu mời rao giảng và thiết lập vương quốc. Mặt khác, Giáo Hội là "dân được qui tụ do sự hợp nhất của Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần";(70) nên Giáo Hội là "Nước Chúa Kitô đã hiện diện cách mầu nhiệm" (71) và cấu tạo nên hạt giống và sự khởi đầu của mình. Nước Thiên Chúa, thật sự, có một chiều kích cánh chung: nó là một thực tại hiện diện trong thời gian, nhưng chỉ được thực hiện đầy đủ vào lúc lịch sử được hoàn thành hay viên mãn.(72)

Những kiểu nói Nước Trời, Nước Thiên Chúa, và Nước Chúa Kitô trong Kinh Thánh, nơi các Giáo Phụ, cũng như trong những văn kiện của Huấn Quyền không luôn luôn có ý nghĩa giống y nhau, cũng )không như nhau những liên hệ của chúng đối với Giáo Hội, là một mầu nhiệm mà khái niệm con người không thể hàm chứa hoàn toàn được. Do đó, có thể có những chú giải thần học khác nhau về những kiểu nói đó. Tuy nhiên, không một giải thích hợp lý nào có thể phủ nhận hay huỷ bỏ cách nào đó mối liên kết chặt chẽ giữa Chúa Kitô, Vương Quốc và Giáo Hội. Trên thực tế, Nước Thiên Chúa mà chúng ta biết được qua mặc khải, "không thể bị tách rời khỏi Chúa Kitô và Giáo Hội. Nếu vương quốc bị tách ra khỏi Chúa Giêsu, thì nó không còn là Nước Thiên Chúa mà Người mặc khải. Hậu quả là ý nghĩa của Vương Quốc bị bóp méo, vương quốc có nguy cơ biến thành một cùng đích thuần nhân loại hay thuộc ý thức hệ, và căn tính của Ðức Kitô bị xuyên tạc, Ngài không còn xuất hiện như Ðức Chúa mà mọi vật một ngày kia phải khuất phục (x. 1 Cr 15, 27). Cũng vậy, ta không thể phân ly Vương Quốc với Giáo Hội. Quả thật, Giáo Hội không phải là cùng đích cho chính mình, bởi vì Giáo Hội được xếp đặt hướng về Nước Thiên Chúa, và Giáo Hội là hạt giống, là dấu chỉ và khí cụ của nước ấy. Nhưng, dù khác với Chúa Kitô và Vương Quốc, Giáo Hội vẫn hợp nhất với cả hai cách bền chặt." (73)

19. Tuyên bố mối liên hệ không thể phân ly giữa Chúa Kitô và Vương Quốc không phải là không nhận thấy Nước Thiên Chúa - dù xét trên phương diện lịch sử - không đồng hoá với Giáo Hội trong thực tại hữu hình và xã hội của Giáo Hội. Trên thực tế, "hành động của Chúa Kitô và Thần Khí bên ngoài giới hạn hữu hình của Giáo Hội" không bị loại trừ.(74) Do đó, ta cũng phải ghi nhớ rằng "Nước Thiên Chúa là mối quan tâm của mỗi một người: từng cá nhân, xã hội và thế giới. Làm việc cho Vương Quốc có nghĩa là hiểu biết và cổ vũ hoạt động của Thiên Chúa, đang hiện diện trong lịch sử nhân loại và biến đổi lịch sử ấy. Xây dựng Vương Quốc có nghĩa là hoạt động để giải phóng khỏi sự dữ dưới mọi hình thức của nó. Tóm lại, Nước Thiên Chúa là sự tỏ bày và thực hiện chương trình cứu chuộc của Chúa với tất cả sự viên mãn của nó". (75)

Khi xem xét mối liên hệ giữa Nước Thiên Chúa, Nước Chúa Kitô, và Giáo Hội, cần phải tránh những kiểu nhấn mạnh một chiều, như trường hợp với "những khái niệm có ý đề cao Nước Trời và diễn tả những khái niệm đó như là "Qui Nước Trời" (regnocentrism). Họ nhấn mạnh hình ảnh một Giáo Hội không quan tâm gì đến chính mình, nhưng hoàn toàn quan tâm làm chứng và phục vụ Vương quốc. Ðó là "một Giáo Hội cho người khác", cũng như Chúa Kitô là "người cho người khác". Cùng với những phương diện tích cực, các khái niệm đó cũng cho thấy những phương diện tiêu cực. Trước hết, họ làm thinh về Chúa Kitô: Nước mà họ đang nói đây "qui Thần" (theocentrism), bởi vì theo họ, Chúa Kitô không thể được hiểu bởi những ai không có đức tin Kitô giáo, đang khi nhiều dân tộc, nhiều nền văn hoá và nhiều tôn giáo khác nhau có khả năng tìm được một lãnh địa chung trong một thực tại thần linh, dầu gọi bằng tên gì đi nữa. Cũng vì một lẽ đó, họ nhấn mạnh đến mầu nhiệm sáng tạo, phản chiếu trong sự khác biệt giữa các nền văn hoá và niềm tin, nhưng họ lại làm thinh về mầu nhiệm cứu chuộc. Hơn nữa, Vương Quốc, như họ hiểu, kết thúc, hoặc bằng cách để lại ít cơ hội cho Giáo Hội, hoặc hạ giá Giáo Hội để phản ứng với cái mệnh danh là "thuyết Qui Giáo Hội" (ecclesiocentrism) của ngày xưa, và bởi vì họ xem Giáo Hội như là một dấu chỉ, đối với việc này là một dấu chỉ không rõ rệt".(76)

Những luận điểm này trái ngược với đức tin Công giáo bởi vì nó chối bỏ tính độc nhất mối tương quan mà Chúa Kitô và Giáo Hội có được với Nước Thiên Chúa.

VI. GIÁO HỘI VÀ NHỮNG TÔN GIÁO KHÁC TRONG TƯƠNG QUAN VỚI ƠN CỨU ÐỘ

20. Từ những gì đã nói trên, mấy điểm sau đây cần cho việc suy tư thần học vì nó khám phá sự liên hệ của Giáo Hội và các tôn giáo khác với ơn cứu độ. Trước hết, cần phải tin vững vàng rằng "Giáo Hội, lữ hành trên trần gian này, cần thiết cho cho ơn cứu rỗi. Thực vậy, chỉ mình Chúa Kitô là Trung Gian và là Con Ðường cứu độ. Người hiện diện giữa chúng ta trong Thân Thể Người là Giáo Hội; chính Người đã minh nhiên công bố sự cần thiết của đức tin và của phép Thánh Tẩy (Mc 16, 16; Ga 3, 5), đồng thời Người đã xác nhận sự cần thiết của Giáo Hội mà mọi người bước vào qua cửa phép Thánh Tẩy". (77) Giáo lý này không được cho là ngược lại ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa (1 Tm 2, 4); "cần phải giữ cho hai chân lý này đi chung với nhau, đó là, toàn thể nhân loại thật sự có thể được cứu độ trong Chúa Kitô và sự cần thiết của Giáo Hội cho việc cứu rỗi này". (78)

Giáo Hội là "bí tích phổ quát của ơn cứu rỗi",(79) bởi vì, luôn được liên kết cách mầu nhiệm với Chúa Giêsu Kitô Ðấng Cứu Thế, là Ðầu của mình, và thần phục Người, nên Giáo Hội, trong chương trình của Thiên Chúa, có một quan hệ cần thiết đối với sự cứu rỗi mọi người.(80) Ðối với những ai không là thành viên của Giáo Hội cách chính thức và hữu hình, "sự cứu rỗi trong Chúa Kitô có thể đạt được nhờ một ân sủng, bao lâu còn có một tương quan mầu nhiệm với Giáo Hội, ân sủng đó không làm cho họ nên thành viên của Giáo Hội cách chính thức, nhưng soi sáng họ trong cách xứng hợp với hoàn cảnh thiêng liêng và vật chất của họ. Ân sủng này đến từ Chúa Kitô và được truyền thông bởi Chúa Thánh Thần"(81) ân sủng có tương quan với Giáo Hội, vì "chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên Chúa Cha". (82)

21. Với sự tôn trọng đường lối mà ân sủng cứu độ của Chúa - ân sủng này luôn được ban nhờ Chúa Kitô trong Thần Khí và có một sự tương quan mầu nhiệm với Giáo Hội - được ban cho những người không phải là Kitô hữu, Công đồng Vatican II quả quyết rằng Chúa ban ân sủng này "theo đường lối chỉ mình Chúa biết".(83) Các nhà thần học phải nghiên cứu để hiểu vấn đề này cách đầy đủ hơn: Công việc của họ được khuyến khích, bởi vì chắc chắn nó hữu ích để giúp hiểu hơn chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa và những đường lối đưa nó đến hoàn tất. Dầu vậy, từ những gì được phát biểu ở trên về trung gian của Chúa Giêsu Kitô và về "tương quan duy nhất và đặc trưng" (84) mà Giáo Hội đang có với Nước Chúa giữa loài người - Nước này theo bản thể là Nước phổ quát của Chúa Kitô Cứu Thế - thật rõ ràng là nghịch với đức tin nếu xem Giáo Hội như là một con đường cứu rỗi bên cạnh những con đường được thiết lập do những tôn giáo khác, (những tôn giáo này) được xem như bổ sung cho Giáo Hội hoặc bản chất tương đương với Giáo Hội, cho dù có bảo rằng các tôn giáo ấy sẽ cùng với Giáo Hội qui hướng về Nước cánh chung của Thiên Chúa.

Chắc chắn, các truyền thống tôn giáo khác nhau chứa đựng và cung cấp những yếu tố đến từ Thiên Chúa,(85) và là thành phần của điều "Thần Khí mang đến trong tâm hồn con người và lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hoá và tôn giáo",(86) Thật vậy, một số kinh đọc và nghi lễ các tôn giáo có thể nhận lấy một vai trò chuẩn bị cho Tin Mừng, vì các thứ đó là những cơ hội và những sự trợ giúp có tính giáo dục, qua đó con tim loài người được thúc giục mở rộng đón hành động của Chúa.(87) Dù sao, người ta không thể gán cho những thứ đó một nguồn gốc thần linh hay là một hiệu năng cứu rỗi có hậu quả do sự (ex opere operato), mà chỉ riêng các bí tích Kitô giáo mới có.(88) Hơn nữa, không thể quên rằng những nghi lễ khác, bao lâu tuỳ thuộc vào những mê tín hay những sai lạc khác (x. 1 Cr 10, 20-21), tạo nên một ngăn trở cho ơn cứu độ.(89)

22. Khi Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế đến, Thiên Chúa muốn rằng Giáo Hội do Người thiết lập phải trở nên khí cụ cứu rỗi cho toàn thể nhân loại (x. Cv 17, 30-31).(90) Chân lý đức tin này không giảm nhẹ lòng kính trọng chân thành của của Giáo Hội đối với các tôn giáo trên thế giới, nhưng đồng thời cũng tuyên bố, một cách quyết liệt, không thể chấp nhận não trạng trung lập "với đặc tính là thuyết tương đối tôn giáo, một thuyết đưa tới niềm tin "đạo nào cũng tốt". (91) thật thì những người theo các tôn giáo khác có thể nhận lãnh ân sủng Chúa, nhưng cũng là điều chắc khách quan mà nói, là họ ở trong một hoàn cảnh thiếu thốn trầm trọng sánh với những người, trong Giáo Hội, có đầy đủ những phương tiện cứu rỗi.(92) Dầu vậy, "các con cái Giáo Hội phải nhớ rằng địa vị cao trọng của họ không phải do công đức riêng mình, nhưng do đặc ân của Chúa Kitô; nếu họ không đáp lại hồng ân ấy bằng tư tưởng, lời nói và việc làm, thì không những họ không được cứu rỗi mà còn bị xét xử nghiêm khắc hơn".(93) Bấy giờ ta hiểu rằng, theo mệnh lệnh Chúa (x. Mt 28, 19-20) và như là sự bắt buộc đo tình yêu của mình đối với mọi người, Giáo Hội "rao giảng và và có bổn phận phải kiên trì rao giảng Chúa Kitô, Ðấng là Con Ðường, Sự Thật và Sự Sống" (Ga 14, 6). Nơi Người, con người tìm thấy đời sống tôn giáo sung mãn và nhờ Người, Thiên Chúa giao hòa mọi sự với mình (x. 2 Cr 5, 18-19).(94)

Cũng trong việc đối thoại liên tôn, việc truyền giáo "ngày nay và luôn mãi vẫn còn giữ trọn vẹn hiệu lực và cần thiết".(95) Thật vậy " "Chúa muốn cho mọi người được ơn cứu độ và nhận biết chân lý" (1 Tm 2, 4); tức là, Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ nhờ nhận biết chân lý. Trong chân lý có ơn cứu độ. Những ai để cho Chúa Thánh Thần thúc đẩy thì đã ở trên đường cứu độ. Vì đã được ủy thác chân lý, Hội Thánh phải nắm bắt khát vọng của con người để mang chân lý đến cho họ. Vì tin vào ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, nên Hội Thánh phải truyền giáo".(96) Do đó, đối thoại liên tôn, như là thành phần của sứ mệnh truyền giáo, đúng là một trong những hành động của Giáo Hội trong sứ mệnh truyền giáo của mình (97). Sự bình đẳng, là một phỏng định trước của việc đối thoại, chớ không phải về nội dung giáo lý, càng không phải về địa vị của Chúa Giêsu Kitô - Ngài là chính Thiên Chúa đã làm người - trong tương quan với các sáng lập viên các tôn giáo khác. Thật vậy, Giáo Hội, được hướng dẫn bởi đức ái và lòng tôn trọng tự do, (98) trước hết phải dấn thân rao giảng cho các dân tộc chân lý do Chúa đã dứt khoát mặc khải, và loan truyền sự cần thiết kết hợp với Giáo Hội qua bí tích Rửa tội và các bí tích khác, ngõ hầu tham gia đầy đủ trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Như vậy, sự chắc chắn của ý định cứu rỗi phổ quát của Chúa không làm giảm sút, nhưng đúng hơn làm gia tăng trách nhiệm và sự khẩn cấp rao giảng ơn cứu độ và sự trở lại với Chúa Giêsu Kitô.
,

KẾT LUẬN

23. Mục đích của Tuyên Ngôn này, khi lặp lại và làm sáng tỏ một số chân lý đức tin, là theo gương thánh Tông Ðồ Phaolô, khi viết cho tín hữu Côrintô (1 Cr 15, 3): "Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận". Ðứng trước một số đề nghị mơ hồ và còn sai lạc nữa, suy tư thần học kêu mời tái củng cố đức tin của Giáo Hội và đưa ra những lý do vì sao mình hy vọng một cách xác tín và hiệu lực

Khi bàn cãi vấn đề tôn giáo thật, các Nghị Phụ Công Ðồng Vatican II đã dạy: "Chúng tôi tin rằng tôn giáo chân thật, duy nhất này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo và Tông Truyền, Giáo Hội mà Chúa Giêsu đã ủy thác nhiệm vụ truyền bá cho mọi người. Vì, Người phán cùng các Tông Ðồ:"Vậy các con đi dạy dỗ muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần; hãy dạy họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con" (Mt 28,19-20). Vậy mọi người đều có nhiệm vụ tìm kiếm chân lý, nhất là những chân lý có liên quan tới Thiên Chúa và Giáo Hội Người, và khi đã nhận biết rồi, họ phải tin theo và tuân giữ"(99)

. Trong lịch sử, Mặc khải của Chúa Kitô vẫn tiếp tục là "Ngôi sao đích thật"(100) mà toàn thể nhân loại qui hướng về đó: "Chân lý, là Chúa Kitô, đòi hỏi mình phải được kính nể như một uy quyền bao trùm tất cả".(101) Mầu nhiệm Kitô giáo, thật sự, vượt hết mọi rào cản của thời gian và không gian, và hoàn thành sự hợp nhất gia đình nhân loại: "Từ những vị trí và truyền thống khác nhau của họ, tất cả đều được kêu gọi trong Chúa Kitô để chia sẻ sự hiệp nhất của gia đình con cái Chúa. Chúa Giêsu phá huỷ những vách tường chia rẽ và tạo dựng sự hiệp nhất bằng một đường lối mới và không gì vượt qua được nhờ sự chúng ta chia sẻ trong mầu nhiệm của Người. Sự hiệp nhất này sâu xa đến nỗi Giáo Hội có thể nói cùng với Thánh Phaolô: "Vậy anh em không còn phải là xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các thánh, và là người nhà của Thiên Chúa"(Ep 2,19)(102)

. ( ) Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong cuộc tiếp kiến ngày 18 tháng 6 năm 2000 dành riêng cho Ðức Hồng Y Chủ Tịch Bộ Giáo Lý Ðức Tin ký tên dưới đây, với sự hiểu biết chắc chắn và với uy quyền tông đồ của người, đã phê chuẩn và củng cố bản Tuyên Ngôn này, đã được chấp nhận trong kỳ họp khoáng đại và ban lệnh công bố.

Làm tại Rôma, Văn phòng Bộ Giáo lý Ðức Tin,
ngày 6 tháng 8 năm 2000, lễ Chúa Giêsu Hiển Dung
Hồng Y Joseph Ratzinger
Chủ Tịch
Tarcisio Bertone, S.D.B. Tổng Giám Mục Hiệu Toà Vercelli,
Thư Ký

CHÚ THÍCH

(1) Công Ðồng Constantinople I, Symbolum Constantinopolitanum: DS 150.
(2) Cf. Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 1: AAS 83 (1991), 249-340.
(3) Cf. Công Ðồng Vatican II, Sắc lệnh Ad gentes and Tuyên Ngôn Nostra aetate; xem thêm Phaolô VI Tông Khuyến Thư Evangelii nuntiandi: ASS 68 (1976), 5-76; Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptorismissio.
(4) Công Ðồng Vatican II, Tuyên Ngôn Nostra aetate, 2.
(5) Pontifical Council for Inter-religious Dialogue and the Congregation for Peoples, Instruction Dialogue and Proclamation, 29: AAS 84 (1992), 424; cf. Công Ðồng Vatican II, Pastoral Constiution Gaudium et sản phẩmes, 22.
(6) Cf. Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 55: AAS 83 (1991), 302-304.
(7) Cf. Pontifical Council for Inter-religious Dialogue and the Congregation for the Evangelization of Peoples, Instruction Dialogue and Proclamation, 9: AAS 84 (1992), 417ff.
(8) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Fides et ratio, 5: AAS 91 (1991), 5-88.
(9) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Dei verbum, 2.
(10) Ibid., 4.
(11) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 5.
(12) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Fides et ratio, 14.
(13) Công Ðồng Chalcedon, Symbolum Chalcedonense: DS 301; cf. St. Athanasius, De Incarnatione, 54, 3: SC 199, 458.
(14) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Dei verbum, 4.
(15) Ibid., 5.
(16) Ibid.
(17) Cf. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 144.
(18) Ibid., 150.
(19) Ibid., 153.
(20) Ibid., 178.
(21) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Fides et ratio, 13.
(22) Cf. Ibid., 31-32.
(23) Công Ðồng Vatican II, Tuyên Ngôn Nostra aetate, 2; cf. Công Ðồng Vatican II, Sắc Lệnh Ad gentes, 9, nói rằng những yếu tố sự thiện hiện diện "trong các phong tục và các nền văn hoá riêng biệt của các dân tộc"; Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 16, đề cập đến những yếu tố sự thiện và chân lý hiện diện giữa người không phải là Kitô hữu, có thể được xem là để chuẩn bị đón nhận Tin Mừng.
(24) Cf. Công Ðồng Trentô, Decretum de libris sacris et de traditionibus recipiendis: DS 1501; Công Ðồng Vatican I, Hiến Chế Tín Lý Dei Filius, cap. 2: DS 3006.
(25) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Dei verbum, 11.
(26) Ibid.
(27) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 55, cf. 56 and Phaolô VI, Tông Khuyến Thư Evangelii nuntiandi, 53.
(28) Công Ðồng Nicê I, Symbolum Nicaenum: DS 125.
(29) Công Ðồng Chalcedon, Symbolum Chalcedonense: S301.
(30) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et spes, 22.
(31) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 6.
(32) Cf. St. Leo the Great, Tomus ad Flavianum: DS 294.
(33) Cf. St. Leo the Great, Letter to the Emperor Leo I omsisse me memini: DS 318: "... in tantam unitatem ab ipso conceptu Virginis deitate et humanitate conserta, ut nec sine homine divina, nec sine Deo agerentur humana". Cf. Also ibid. DS 317.
(34) Công Ðồng Vatican II, Pastoral Hiến Chế Gaudium et sản phẩmes, 45; cf. Also Công Ðồng Trentô, Decretum de peccato originali, 3: DS 1513.
(35) Cf. Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 3-4.
(36) C. Ibid., 7; cf. St. Irenaeus, who wrote thát it is in the Church "that communion with Christ has bên deposited, that is to say: the Holy Spirit" (Adversus haereses III, 24, 1: SC 211,2).
(37) Công Ðồng Vatican II, Pastoral Hiến Chế Gaudium et spes, 22.
(38) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 28. For the "seeds of the Word" cf. Also St. Justin Martyr, Second Apology 8, 1-2; 10, 1-3; 13, 3-6: ed. E.J. Goodspeed, 84; 85; 88-89.
(39) Cf. Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp, Redemptoris missio, 28,29.
(40) Ibid., 29.
(41) Ibid., 5.
(42) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et spes, 10. Cf. St. Augustine, Ngài viết: Ðức Kitô là con đường, mà "không bao giờ thiếu cho nhân loại... và tách xa khỏi con đường này thì không ai hiện được giải thoát, cũng không ai sẽ được giải thoát". De civitate Dei 10, 32, 2: CCSL 47, 312.
(43) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 62.
(44) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 5.
(45) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et spes, 45. Sự thiết yếu và đơn nhất tuyệt đối của Ðức Kitô trong lịch sử con người được Thánh Irênê trình bày rõ ràng trong khi chiêm ngưỡng sự trổi vượt của Ðức Kitô như là Người Con đầu lòng: "Trên trời, là Con đầu lòng do ý định của Chúa Cha, Ngôi Lời hoàn hảo cai trị và ban lề luật cho mọi loài; dưới đất, là Con đầu lòng của Ðức Trinh Nữ, một con người công chính và thánh thiện, kính tôn Thiên Chúa và làm hài lòng Thiên Chúa, tốt lành và hoàn hảo mọi đàng, Người cứu khỏi hỏa ngục tất cả những ai theo Người vì Người là trưởng tử từ trong cõi chết và là Tác Giả sự sống của Thiên Chúa" (Demonstratio apostolica, 39: SC 406, 138).
(46) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 6.
(47) Cf. Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 14.
(48) Cf. Ibid., 7.
(49) Cf. St. Augustine, Enarratio in Psalmos, Ps. 90, Sermo 2,1: CCSL 39, 1266; St. Gregory the Great, Moralia in Iob, Praefatio, 6, 14: PL 75, 525; St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae, III, q. 48, a. 2 ad 1.
(50) Cf. Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 6.
(51) Symbolum mai Ecclesiae Armeniacae: DS 48. Cf. Boniface VIII, Unam sanctam: DS 870-872; Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 8.
(52) Cf. Công Ðồng Vatican II, Sắc Lệnh Unitatis redintegratio, 4; Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Ut unum sint, 11: AAS 87 (1995), 927).
(53) Cf. Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 20; cf. Also St. Irenaeus, Adversus haereses, III, 3, 1-3: SC 211, 20-44; St. Cyprian, Epist. 33,1: CCSL 3B, 164-165; St. Augustine, Contra adver. Legis et prophet., 1, 20, 39: CCSL 9, 70.
(54) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium 8.
(55) Ibid.; cf. Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Ut unum sint, 13. Xem thêm Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 15 và Sắc Lệnh Unitatis redintegratio, 3.
(56) Sự giải thích của những người này, là những người muốn rút ra từ công thức subsistit trong luận thuyết cho rằng một Giáo Hội Chúa Kitô có thể tồn tại vừa trong Giáo Hội không Công giáo vừa trong những cộng đồng Giáo Hội, (sự giải thích đó) ngược lại với ý nghĩa đích thực của Lumen gentium. "Công Ðồng, ngược lại, chọn chính xác từ subsistit để minh xác rằng chỉ tồn tại một "bản thể" (subsistence) của Giáo Hội đích thực, trong khi bên ngoài cơ ca hữu hình của Giáo Hội chỉ tồn tại elementa Ecclesiae, - là những yếu tố của cùng Giáo Hội đó - hướng chiều và dẫn đến Giáo Hội Công Giáo" (Thánh bộ Giáo Lý Ðức Tin, Notification on the Book "Church: Charism and Power" by Father Leonardo Boff: AAS 77 [1985], 756-762).
(57) Công Ðồng Vatican II, Sắc Lệnh Unitatis redintegratio, 3.
(58) Cf. Thánh Bộ Giáo Lý Ðức Tin, Tuyên Ngôn Mysterium Ecclesiae, 1: AAS 65 (1973), 396-398).
(59) Cf. Công Ðồng Vatican II, Sắc Lệnh Unitatis redintegratio, 14 and 15; Thánh Bộ Giáo Lý Ðức Tin, Letter Communionis notio, 17: AAS 85 (1993), 848.
(60) Cf. Công Ðồng Vatican I, Hiến Chế Pastor aeternus: DS 3053-3064; Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 22.
(61) Cf. Công Ðồng Vatican II, Sắc Lệnh Unitatis redintegratio, 22.
(62) Cf. Ibid., 3.
(63) Cf. Ibid., 22.
(64) Thánh Bộ Giáo Lý Ðức Tin, Tuyên Ngôn Mysterium Ecclesiae, 1.
(65) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Ut unum sint, 14.
(66) Công Ðồng Vatican II, Sắc Lệnh Unitatis redintegratio, 3.
(67) Thánh Bộ Giáo Lý Ðức Tin, Letter Communionis notio, 17; cf. Công Ðồng Vatican II, Sắc Lệnh Unitatis redintegratio, 4.
(68) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 5.
(69) Ibid., 1.
(70) Ibid., 4. Cf. St. Cyprian, De Dominica oratione 23: CCSL 3A, 105.
(71) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 3.
(72) Cf. Ibid., 9: xem thêm lời nguyện dâng lên Thiên Chúa trong Didache 9,4: SC 248, 176: "Xin cho Giáo Hội được thu về từ khắp cùng cõi đất va trong Vương Quốc của Ngài" and ibid. 10, 5: SC 248, 180: "Xin hãy nhớ đến, lạy Chúa, Giáo Hội Ngài... và, thánh hoá, thu tập Giáo Hội ấy từ khắp bốn phương vào trong Vương Quốc mà Ngài đã dọn sẵn cho".
(73) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 18; cf. Tông Khuyến Thư Ecclesia in Asia, 17: L'Osservatore Romano (November 7, 1999). Vương Quốc không thể bị tách rơ khỏi Ðức Kitô, đến nỗi, trong nghĩa nào đó, vương quốc được đồng hóa với Người (cf. Origen, In Mt. Hom., 14, 7: PG 13, 1197; Tertullian, Adversus Marcionem, IV 33, 8: CCSL 1, 634).
(74) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 18.
(75) Ibid., 15.
(76) Ibid., 17.
(77) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 14; cf. Sắc Lệnh Ad gentes, 7; Sắc Lệnh Unitatis redintegratio, 3.
(78) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 9; cf. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 846-847.
(79) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 48.
(80) Cf. St. Cyprian, De catholicae ecclesiae unitate, 6: CCSL 3, 253-254; St. Irenaeus, Adversus haereses, III, 24, 1: SC 211, 472-474.
(81) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 10.
(82) Công Ðồng Vatican II, Sắc Lệnh Ad gentes, 2. The famous formula extra Ecclesiam nullus omnino salvatur is to be interpreted in this sense (cf. Fourth Lateran Council, Cap. 1. De fide catholica: DS 802). Cf. also the Letter of the Holy Office to the Archbishop of Boston: DS 3866-3872.
(83) Công Ðồng Vatican II, Sắc Lệnh Ad gentes, 7.
(84) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 18.
(85) Ðây là những hạt giống Lời Chúa (semina Verbi), mà Giáo Hội nhận biết cách vui mừng và trân trọng (cf. Công Ðồng Vatican II, Sắc Lệnh Ad gentes, 11; Tuyên Ngôn Nostra aetate, 2).
(86) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 29.
(87) Cf. ibid.; Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 843.
(88) Cf. Công Trentô, Decretum de sacramentis, can. 8, de sacramentis in genere: DS 1608.
(89) Cf. Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 55.
(90) Cf. Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 17; Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 11.
(91) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 36.
(92) Cf. Pius XII, Thông Ðiệp Mystici corporis: DS 3821.
(93) Công Ðồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, 14.
(94) Công Ðồng Vatican II, Tuyên Ngôn Nostra aetate, 2.
(95) Công Ðồng Vatican II, Sắc Lệnh Ad gentes, 7.
(96) Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, 851; cf. also 849-856.
(97) Cf. Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Redemptoris missio, 55; Tông Khuyến Thư Ecclesia in Asia, 31.
(98) Cf. Công Ðồng Vatican II, Tuyên Ngôn Dignitatis humanae, 1.
(99) Ibid.
(100) Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Fides et ratio, 15.
(101) Ibid., 92.
(102) Ibid., 70.


Trở về Trang Mục Lục Giáo Hội
Trở Về Trang Nhà