Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung
tín và liên đới *
“Tôi không muốn một mình sống
hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”
Có lẽ đó là lời tóm tắt đời sống
và sứ vụ của Môsê; và có lẽ cũng qua lời đó, Môsê phơi bày con người chân thật
của mình trước mặt Thiên Chúa, khi ông dừng chân bên ngưỡng của Hứa Địa và nằm
xuống đó.
Thật vậy, dựa trên Kinh Thánh và
truyền thống dân Chúa, khuôn mặt của Môsê nổi bật như một người tôi tớ trung
thành của Thiên Chúa (Xh 14,31; Ds 12,7; Tl 34,5; x. Yôs 1,1-2; Tv 105,26; Ma
3,22; Đn 9,11; Ba 2,28; Kng 10,16; Hr 3,5; Kh 15,3), đồng thời như một vị lãnh
đạo quảng đại, đầy lòng xót thương, tuyệt đối liên đới với dân Chúa. Hai tâm
tình này đã chi phối hoàn toàn con người Môsê, đã giằng co xâu xé con người ông
đến độ ông muốn sống trọn vẹn cùng một lúc cả hai tâm tình mà bên ngoài xem ra
như mâu thuẫn, không thể hoà hợp với nhau.
Xuất thân từ một gia tộc tư tế
(Xh 2,1), và bản thân ông là tư tế (Tv 99,6), Môsê đã quá rõ những trách nhiệm
đòi buộc ở chức vụ mình. Đó là con người luôn luôn hiện diện trước mặt Thiên
Chúa để “hành lễ” – shèrèt – (Xh 28,35.43; 29,30) đảm nhiệm mọi điều liên quan
đến Tế đàn và phần bên trong Bức Màn – abad – (Ds 18,7); “tiến lại gần trước
Nhan Đức Chúa” – qarab, nagash – (Lv 16,1; 21,17); “vào cung thánh trước Nhan
Đức Chúa” – bô-el-haqôdesh – (Xh 28,35). Có thể nói, nhiệm vụ của một tư tế là
gắn liền với bàn thờ và Lời Chúa (A. Gelin, Le sacerdoce dans l’Ancienne
Alliance, trong La tradition sacerdotale, trang 48-52). Rồi, từ ngày được Thiên
Chúa mời gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín
rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn trung tín với
Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa là anh em của mình! Mà
vì hằng ngày đồng hành, chia sẻ cuộc sống và liên đới với một đoàn dân cứng cổ,
tội lỗi, bất trung; nên ông cảm thấy thấm thía thân phận và sứ vụ của mình ngay
trong lúc ông muốn thật sự trung thành với Thiên Chúa.
Vì thế, khuôn mặt và đời sống
của Môsê không những là lời mời gọi mà còn là tiếng nói chất vấn lương tâm
những người được đặt làm lãnh đạo Dân Chúa trong sứ mạng phục vụ ơn cứu độ, mưu
cầu hạnh phúc đích thực cho mọi người.
I. Môsê, con người
trung tín với Thiên Chúa
Trên cương vị tư tế, Môsê đã
thay cho dân đối với Thiên Chúa và trình việc của dân lên Thiên Chúa (Xh
18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh
33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa
và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn và
con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa
để tác thành họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với lãnh vực
thánh đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã
không ngần ngại gọi ông là “người của Thiên Chúa” (Tl 33,1; Yôs 14,6).
Là “người của Thiên Chúa”, Môsê
đã sống trọn vẹn hai chiều kích của tình yêu: thân mật và kính trọng. Trong mọi
tiếp xúc của ông với Thiên Chúa, tâm tình kính trọng luôn xen lẫn với thân mật.
Ông quả xứng đáng tước hiệu cao quý và sáng chói mà sách Kinh Kôran đã giới
thiệu ông như “người tâm phúc của Thiên Chúa” (Najiy, Le confident de Dieu).
Ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên với
Thiên Chúa, Môsê đã sống hai tâm tình trên (Xh 3,1-12). Còn gì êm ái, thân mật
hơn, khi một mình đơn độc ở giữa hoang địa Madian, Môsê được Thiên Chúa âu yếm
gọi tên mình: “Môsê! Môsê” (Xh 3,4), để rồi kể ông như người bạn tri kỷ,
giãi bày tâm sự ra với ông: “Ta thấy rõ nổi khổ của dân Ta bên Ai cập và Ta
đã nghe tiếng than chúng kêu lên trước mặt đốc công, quả Ta đã biết các nỗi khổ
đau của chúng. Nên Ta xuống giựt chúng thoát tay Ai Cập và dẫn chúng ra khỏi xứ
ấy, lên xứ vừa đẹp vừa rộng, lên xứ chan hoà sữa mật... Bây giờ, này tiếng oán
thán của con cái
Thật là dị thường! Tương quan
giữa Môsê và Thiên Chúa như tương quan của một đôi tình nhân! Môsê muốn xáp lại
gần, muốn ôm trọn trong vòng tay, muốn chiếm đoạt Thiên Chúa – lưu ý động từ
“thấy” Môsê dùng trong Xh 33,18 – và cũng chính lúc đó Môsê đụng chạm đến lằn
mức, đến ranh giới của đức tin mà bất cứ phàm nhân nào trong quá trình tiến đến
gần Thiên Chúa đều cảm nghiệm một cách thấm thía trong cuộc đời mình.
Trên chiều hướng đó, như để minh
hoạ ra một Môsê tuyệt đối đứng về phía Thiên Chúa, trọn vẹn thuộc về Người,
trong khi vẫn muốn hoàn toàn và triệt để liên đới với dân Chúa, truyền thống Do
Thái giáo đã không ngần ngại hiểu lệch câu Kinh Thánh nói về cái chết của Môsê:
“và Môsê, tôi tớ của Đức Chúa, đã chết ở đó, trong xứ Moab, trên miệng của
Đức Chúa” (Tl 34,5).
Từ ngữ “trên miệng Đức Chúa”
được bản Targum Giêrusalem quảng diễn rõ hơn, khi nói: “và Môsê, tôi tớ Đức
Chúa, đã chết ở đó, trong xứ
Như vậy, không phải truyền thống
Do Thái giáo không hiểu ý nghĩa lời Kinh Thánh trong Tl 34,5; nhưng khi cố tình
hiểu lệch đi; niềm tin Do Thái giáo như muốn lịch sử dân Chúa đừng nghĩ rằng sự
kiện Môsê nằm chết bên ngưỡng cửa Hứa Địa là do lỗi phạm của cá nhân ông. Ngược
lại, Môsê là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn gắn bó và thuộc về
Người cho đến độ trở nên “cô độc” ở giữa một dân mà Kinh Thánh khoác cho danh
hiệu “cứng cổ” (Xh 32,9; 33,3; 34,9; Tl 9,13); và sự kiện ông không được vào
Hứa Địa – xem như hình phạt – chính vì ông muốn hoàn toàn liên đới với toàn dân
mà ông đã theo lệnh Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, tiến qua Biển
Đỏ, lãnh nhận Giao ước Sinai, hành trình trong sa mạc và đã được thanh luyện vì
tội bất trung của mình!
II. Môsê, con người
liên đới với dân Chúa
Thật vậy, nhìn kỹ vào con người
của Môsê, chúng ta sẽ nhận ra: ngay trong lúc ông được sống bên cạnh, thân mật
với Thiên Chúa, thì tâm trí ông lại hướng về dân Chúa.
Qua câu chuyện Môsê được nhìn
thấy dung nhan Thiên Chúa từ phía sau lưng – câu chuyện mà nhiều nhà Kinh Thánh
đã dám sánh với một câu chuyện khác được tác giả Tin Mừng thứ tư thuật lại: “Người
Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha” (Yn 1,18) khi so sánh mối tương quan
giữa Môsê và Thiên Chúa cũng như mối tương quan giữa Đức Giêsu Kitô với Thiên
Chúa Cha - chúng ta lại bắt gặp một Môsê hoàn toàn đứng về phía dân Chúa: “Nếu
quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì
đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi
làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).
Từ ngữ “chúng tôi” ở đây thật
cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn
toàn liên đới đến độ đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi
của dân.
“Đức Chúa phán với Môsê và
Aharôn: Bởi vì các ngươi đã không tin vào Ta để làm Ta được hiển thánh nơi mắt
con cái Israel, cho nên các ngươi sẽ không đem đoàn hội này vào đất Ta định ban
cho chúng” (Ds 20,12).
Tìm hiểu về hình phạt này, cha
Nguyễn Thế Thuấn trong lời chú thích câu Ds 20,12 đã viết: “Lỗi của Môsê và
Aharôn vẫn là một điều bí nhiệm. Phải chăng Môsê đã thiếu lòng tin mà đập tảng
đá hai lần?” Nếu chúng ta dựa trên Tl 32,51; 1,37; 3,26; 4,21, thì rõ ràng
không phải do hành động đó, nhưng Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông
muốn liên đới với tội của dân ông:
“Đức Chúa đã phẫn nộ với cả
ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!”
(Tl 1,37).
Hình phạt này đối với Môsê thật
nặng nề và đau khổ. Đã có lần ông biện bạch và khẩn nài Thiên Chúa:
“Thuở ấy ta đã van nài Đức
Chúa rằng: lạy Đức Chúa, chính Người đã khởi sự tỏ cho tôi tớ Người thấy sự lớn
lao và tay mạnh mẽ của Người, vì có thần nào trên trời dưới đất làm được như
những việc của Người và những chiến công của Người. Xin cho phép tôi qua mà
nhìn thấy đất lành bên kia sông Yordan, núi non tốt lành kia và dãy Liban”
(Tl 3,23-25).
Nhưng rốt cuộc, ông đã phải nằm
xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Với cái chết bi thảm này, cái chết của
con người chưa được toại nguyện, Môsê không những chia sẻ hoàn toàn số phận của
dân ông mà dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai Cập, thế hệ mà
ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương
cũng như đã chịu đựng... Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê vì thế cũng
“không muốn” vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng họ!
Về cái chết của Môsê, một chi
tiết nhỏ mà Kinh Thánh ghi lại đã gợi lên suy nghĩ cho các nhà chuyên môn; đó
là tương quan giữa nơi Môsê yên nghỉ và địa danh Bet-Pơor.
“Và người ta đã chôn cất ông
trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Bet-Pơor” (Tl 34,6).
Đối với Kinh Thánh, địa danh
Bet-Pơor trong xứ Môab nhắc lại hành động điên cuồng của dân Chúa khi họ bỏ rơi
Giao ước, quay lại cuộc sống như dân ngoại, chạy theo các tà thần để thờ kính.
Bet-Pơor được ghi lại trong lịch sử dân Chúa để phơi bày thái độ bất trung,
cuộc sống phản bội của họ (Ds 25,1-18; 26,16). Hành động điên cuồng ấy sau này
sẽ được ngôn sứ Giêrêmia đánh giá bằng những lời lẽ thẳng thắn, dứt khoát:
“Nơi Ta, cha ông các ngươi đã
gặp gì trái để chúng rời xa Ta, và đi theo đồ khí gió, mà như ra đồ khí gió?”
(Yr 2,5).
Và như để làm nổi bật tính chất
nghiêm trọng của vụ Bet-Pơor, Yêrêmya đã cảnh cáo dân Chúa:
“Dân Ta đã làm hai điều bất
hảo: chúng đã bỏ Ta, mạch nước hằng sống, để đào cho mình bể nước, nhưng các bể
rò không chứa được nước” (Yr 2,13).
Vì thế Bet-Pơor đối với truyền
thống Kinh Thánh được đồng hoá với tội lỗi.
Vậy, khi ghi lại nấm mồ của Môsê
đối diện với Bet-Pơor, đối diện với tội lỗi, tác giả Kinh Thánh muốn chúng ta
phải hiểu thế nào?
Truyền thống Do Thái giáo khi
nhận định sự kiện này đã cho chúng ta những dòng suy niệm thật lạ kỳ và quý
báu. Bản Targum Yêrusalem giải thích đoạn sách Tl 34,6 đã viết:
“Và người đã chôn cất ông
trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Bet-Pơor, để toàn dân Israel, mỗi khi
hướng nhìn về Bet-Pơor, có thể nhớ lại tội lỗi của mình”.
Rabbi Haam, con của Rabbi Hanina
còn nói thêm:
“Tại sao lại chôn cất Môsê
trước mặt Bet-Pơor? – Ấy là để Môsê xoá sạch vụ bê bối Bet-Pơor” (Sotah
14a).
Từ suy nghĩ đó, truyền thống Cựu
ước đã kết luận: cái chết của Môsê – vì muốn liên đới với dân ông – đã khơi
nguồn cứu rỗi cho cả thế hệ đó:
“Tại sao Môsê phải chết trong
sa mạc? – là để nhờ công trạng của ông, thế hệ hành trình sa mạc được trở về
(với Thiên Chúa)” (Pesiqta K., tr. 159b; Pesiqta R., tr. 199a).
Dựa vào các suy niệm trên, nhìn
lại toàn bộ cuộc đời của Môsê, chúng ta có thể quả quyết: Môsê đã đau khổ cùng
dân Chúa và cho dân Chúa! Môsê đã chết với dân Chúa và cho dân Chúa! Khuôn mặt
và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa, đến nỗi 7 thế kỷ
sau, một tác giả Thánh Kinh đã vẽ lại cho dân Chúa thời bấy giờ dưới dung mạo
“Người tôi tớ của Đức Chúa”:
“Chính các bệnh tật của chúng
tôi, ngài đã mang, chính các đau khổ của chúng tôi, ngài đã vác. Còn chúng tôi,
chúng tôi lại kể ngài như kẻ bị trời đánh, bị Thiên Chúa trừng phạt và đày đoạ.
Nhưng ngài đã bị đâm vì những sự ngỗ nghịch của chúng tôi, và vì tội vạ của
chúng tôi, ngài đã bị nghiền nát. Đã giáng xuống ngài hình phạt đổi lấy an bình
cho chúng tôi. Và nhờ những vết hằn ngài chịu, chúng tôi có phương được lành...
Huyệt ngài, người ta
đặt giữa bọn ác ôn, và nấm mồ ngài nơi quân trọc phú, dẫu rằng ngài không làm
điều gian ác và gian dối không có ở nơi miệng ngài...
Chính vì ngài đã thí
mạng mình không màng cái chết và đã bị liệt hàng những kẻ ngỗ nghịch, là đã
mang lấy tội lỗi nhiều người và đứng ra bầu chữa cho những kẻ ngỗ nghịch” (Ys 53,4-5.9.12).
Ngoài ra, một nét khác biểu hiện
sự liên đới của Môsê đối với dân Chúa – và đây cũng là một trong những nét nổi
bật nhất của Môsê – đó là ông luôn luôn đứng lên bênh đỡ, cầu bàu cho dân trước
mặt Thiên Chúa:
“Môsê thưa với Đức Chúa:
– Sao Người lại làm
khổ tôi tớ Người? Sao tôi lại không được nghĩa trước mắt Người khi Người đặt
trên tôi gánh nặng là tất cả dân này? Phải chăng tôi đã cưu mang tất cả dân
này? Phải chăng tôi đã sinh ra chúng?... Tôi không thể gánh nổi một mình tất cả
dân này, vì nó quá nặng cho tôi! Quả nếu Người xử với tôi như vậy, thì thà giết
quách tôi đi, nếu tôi đã được nghĩa trước mắt Người, xin đừng để tôi phải thấy
tôi khổ như thế này nữa” (Ds 11,10-15).
“Phải! dân này đã phạm một
tội rất lớn... Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin
Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết...” (Xh 32,30-32).
Lòng yêu thương, tình liên đới,
thái độ bàu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo
dân. Lòng thương xót quảng đại đó khiến cho chúng ta khi đọc lại những trang
trong bộ Ngũ Kinh có khi lại hình dung ra một Môsê “đương đầu” với Thiên Chúa
vì bênh đỡ Dân Chúa! Ông xem ra như kiên nhẫn, chịu đựng đoàn dân cứng cổ, lòng
chai dạ đá, thường xuyên ngụp lặn trong tội lỗi hơn cả Thiên Chúa!
“Đức Chúa phán với Môsê: Cho
đến bao giờ nữa dân sẽ còn khi thị Ta? Cho đến bao giờ nữa chúng sẽ không tin
vào Ta, trước bấy nhiêu dấu lạ Ta đã làm giữa chúng? Ta sẽ đánh phạt chúng bằng
ôn dịch, Ta sẽ huỷ diệt chúng đi, rồi Ta sẽ làm cho ngươi thành một nước lớn
mạnh hơn chúng!” (Ds 14,10-12).
Đứng trước phán quyết nghiêm
khắc và quyết liệt của Thiên Chúa, Môsê đã “nhắc khéo” Người, nại đến vinh dự
của Người (Ds 14,13-16) và nhỏ nhẹ thưa với Người:
“Vậy bây giờ xin để cho sức
mạnh của Chúa tôi ra uy, chiếu theo điều Người đã phán, rằng: Đức Chúa bao dung
và đầy nhân nghĩa, chịu đựng lỗi lầm quá phạm, nhưng không coi tội dường thể vô
can, Đấng trị tội cha ông trên con cháu ba bốn đời. Xin tha thứ tội của dân
này, chiếu theo lượng nhân nghĩa lớn lao, cũng một thể như Người đã từng chịu
đựng dân này từ Ai Cập cho đến đây” (Ds 14,17-19).
Thật lạ kỳ! Thật mầu nhiệm! Tấm
lòng quảng đại, đầy tình thương xót của một Môsê tư tế, một Môsê trung gian
Giao ước, một Môsê lãnh đạo đối với đoàn dân thường xuyên quên lãng Giao ước,
thất kính và bội phản. Tuy nhiên, trong tư thế đầy lòng thương xót đối với dân,
Môsê vẫn hoàn toàn và trọn vẹn trung tín, đứng về phía Thiên Chúa!
III. Chứng từ Môsê
như một thách đố
Cuộc đời và sứ mạng của Môsê
trung tín với Thiên Chúa và liên đới với dân Chúa vẫn luôn luôn sống động để
trở nên một sức mạnh lớn lao và kỳ diệu trong lịch sử dân Chúa. Đúng như cha
Albert Gelin đã nhận định: “Toàn bộ Kinh Thánh đều nói về Môsê, bởi vì Kinh
Thánh sống nhờ Môsê, nhờ công trình và tính chất nền tảng của Môsê” (A.Gelin,
Moïse dans l’Ancien Testament, trích trong tuyển tập “Moïse, l’homme de l’Alliance”,
tr. 47).
Vì thế, trong lịch sử dân Chúa,
khuôn mặt này đã in sâu vào lòng dân Chúa, để trở nên không những là một lời
mời gọi, mà còn là một thách đố cho bất cứ ai đã nhận lãnh nơi Thiên Chúa sứ
mạng lãnh đạo phục vụ dân Người.
Được tuyển chọn, mời gọi, gắn bó
mật thiết với Thiên Chúa và theo lệnh Người mà lãnh đạo dân, thế nhưng sứ mạng
của Môsê hình như thất bại; vì dân ông, dân của Giao ước Sinai, dân mà ông đã
dùng máu mà nối kết với Thiên Chúa (Xh 24,8) đều ngã gục trong sa mạc; ngay cả
bản thân ông cũng phải chia sẻ hoàn toàn số phận của họ khi ông nằm xuống bên
kia ngưỡng cửa Hứa Địa! Máu ông dường thể máu Abel luôn luôn đối diện với trời
để tìm một lời đáp của Thiên Chúa: ông đã trung tín với Thiên Chúa cũng như
liên đới với dân Chúa. Tại sao ông không thể đưa tất cả họ vào Hứa Địa, vào
phần đất mà cả ông và đoàn dân có thể tìm gặp sự nghỉ ngơi, hạnh phúc bên cạnh
Thiên Chúa?
Nguyện vọng và lời thách đố của
Môsê bắt gặp lời đáp xuất phát từ một con người trong số hậu duệ của ông. Đó là
Đức Giêsu, người Nazareth, người mà lịch sử dân Chúa sẽ xưng tụng là Đấng Kitô,
là vị Môsê mới của Dân Chúa, người mà tác giả thư gửi tín hữu Hipri quả quyết:
“Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế
lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho
dân” (Hr 2,17). Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở
nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa
(Hr 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với
mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Hr 5,9) qua hành động tự
nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của
Thiên Chúa cho dân Chúa (Hr 5,8).
Phải chăng, để đền tội cho dân
và đem ơn cứu độ đến cho mọi người mà Đức Giêsu Nazareth đã dùng chính máu mình
để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc
14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện tủi
nhục trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc
23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; x. Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê?
Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại
lời này:
“Tôi muốn sống hạnh phúc bên
cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!”
Nha Trang, ngày 24
tháng 4 năm 2012
ngày kỷ niệm 41 năm
tôi lãnh chức linh mục
do Đức cha
Simon Hoà Nguyễn Văn Hiền, Giám mục Giáo phận Đà Lạt, chủ phong
+ Giuse Võ Đức Minh, Giám mục Giáo phận Nha Trang
* Bài này tôi đã viết
năm 1982, với tựa đề “Môsê, cô độc và liên đới “dịp Ngân khánh Linh mục của Đức
cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm, Giám mục Giáo phận Đà Lạt, để chúc mừng ngài.
Qua dòng thời gian, với một số kinh nghiệm mục vụ, tôi duyệt lại và bổ sung bài
này, cộng thêm phần xác tín về vai trò của người linh mục mục tử “trung tín và
giàu lòng xót thương”. Xin kính gửi anh em linh mục thân yêu, cách riêng các
linh mục đang phục vụ ở giữa Dân Chúa, như gói ghém tâm tình tri ân của một
linh mục nhìn lại quãng thời gian phục vụ của mình, đồng thời cũng hàm chứa tâm
tình chia sẻ đối với các thế hệ anh em của mình trong cùng một ơn gọi và lý
tưởng.
+ Gm. Giuse Võ Đức Minh
(emty.org Cập nhật: 13/05/2012 -
20:47:59)