Hộ Giáo – Kinh Thánh
Huyền Thoại hay Lịch Sử?
(dongten.net)
Kinh Thánh, phép lạ và sự phục sinh được liên kết chặt chẽ trong hộ
giáo hiện đại. Chúng đứng vững vàng hay sụp đổ cùng nhau. Hầu hết những người
không tin rằng Chúa Kitô sống lại từ cõi chết về mặt thể lý vì hai lý do. (1) “Phép
lạ như thế không thực sự xảy ra”, và (2) “Kinh Thánh là huyền thoại, không phải
lịch sử.”
Ngay từ đầu, rất quan trọng để làm rõ trình tự logic và mối quan hệ
giữa ba vấn đề Kinh Thánh, phép lạ và sự phục sinh, bởi vì những người lập luận
chống lại sự phục sinh và chống lại phép lạ dựa trên cơ sở rằng Kinh Thánh là
chuyện huyền thoại, không phải lịch sử, như thế là họ đang lập luận ngược.
Trình tự logic đi theo một hướng khác: nếu sự phục sinh thực sự đã xảy ra thì
giả định “phép lạ không xảy ra” bị loại trừ; trong trường hợp đó, những câu
chuyện phép lạ trong Kinh Thánh có thể là lịch sử, không là huyền thoại.
Chúng ta hãy đặt điểm logic đó theo một cách khác. Lập luận rằng sự
phục sinh đã không thực sự xảy ra bởi vì Kinh Thánh là huyền thoại là câu trả
lời không có câu hỏi. Đối với những người không tin khi được hỏi tại sao họ
nghĩ rằng Kinh Thánh là huyền thoại hơn là lịch sử, họ nói đó là vì nó đầy
những câu chuyện thần kỳ không thể tin được như sự phục sinh. Đây là lập luận
lòng vòng. Lập luận rằng sự phục sinh là chuyện hoang đường bởi vì Kinh Thánh
là huyền thoại, và Kinh Thánh là huyền thoại bởi vì nó rõ ràng chứa những câu
chuyện lạ lùng huyền hoặc giống như sự phục sinh.
Vai trò của Kinh Thánh trong Hộ giáo
Chúng tôi muốn tránh hai thái cực ở đây: thái cực những người theo
chủ nghĩa chính thống và thái cực những người theo chủ nghĩa tân thời.
Thái cực những người theo chủ nghĩa chính thống. Hầu hết những người
theo chủ nghĩa chính thống, cũng như nhiều người gọi mình không là chính thống
nhưng là người rao giảng Tin Mừng, sẽ làm hộ giáo chỉ từ điểm khởi đầu về thẩm
quyền của Kinh Thánh. Chúng tôi nghĩ rằng đây là một lỗi trong phương pháp. Có
ba điểm đối với phương pháp của họ có vẻ đáng nghi vấn.
1.
Họ cho rằng điều thật là cần thiết để bắt đầu bằng cách
thuyết phục bạn về thẩm quyền của Kinh Thánh, vì họ nghĩ rằng chỉ một mình lý
trí con người tự nhiên, ngoài Kinh Thánh, là không đủ mạnh hoặc đủ tốt để hướng
những người không tin tới niềm tin.
2.
Vì thế, họ nghĩ rằng chỉ trật tự đúng trong hộ
giáo đầu tiên là chứng minh thẩm quyền của Kinh Thánh, và sau đó chuyển sang
những vấn đề hộ giáo khác với tất cả vũ khí quan trọng trong tay.
3.
Họ nghĩ rằng những tiêu chuẩn đặc biệt phải
được sử dụng để hiểu và giải thích Kinh Thánh vì, không giống như tất cả các
sách khác, nó không phải là lời của con người về Thiên Chúa, nhưng là lời của
Thiên Chúa về con người.
Nhưng hãy nhớ điều này: nhiều năm đầu các nhà hộ giáo Kitô giáo và
các giáo phụ lập luận khá hiệu quả cho Kitô giáo mà không hề có Kinh Thánh Tân Ước như được định
nghĩa cách có thẩm quyền, vì giáo luật chưa được thiết lập cho đến các thế hệ
sau đó. Và thực tế qua các thế kỷ có nhiều người đã được dẫn đến với niềm tin –
ít nhất là niềm tin vào một Thiên Chúa Tạo Hóa và trong khả năng của sự cứu rỗi – qua những
lập luận hợp lý không dựa trên Kinh Thánh. (Tất nhiên, đức tin cứu độ,
khác biệt với niềm tin lý trí, không phải là công việc của một mình lý trí.)
Ngoài ra, ban đầu
rất khó khăn để chứng minh thẩm quyền của Kinh Thánh cho người không tin. Dễ
dàng hơn nhiều để chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa (chương ba), hoặc ngay
cả thiên tính của Chúa Kitô (chương tám), ở đó các luận chứng có thể đơn giản,
ngắn và rõ ràng theo một cách thế mà các luận chứng đối với thẩm quyền của Kinh
Thánh có thể không bao giờ là như thế. Hộ giáo truyền thống, Tin Lành cũng như
Công giáo, thường sử dụng hơn trật tự đối ngược, về thẩm quyền của Kinh Thánh
sau này. Thay vì
1. Kinh Thánh là tuyệt đối đáng tin cậy;
2. Thế nên Chúa Kitô là đáng tin;
3. Vậy Chúa Kitô là Thiên Chúa;
Thứ tự thuyết phục hơn là
1. Kinh Thánh là đáng tin
cậy như ghi chép lịch sử, như nguồn dữ liệu;
2. Những khẳng định của Chúa Kitô về thiên tính của Ngài được tìm
thấy trong Kinh Thánh;
3. Sau đó đến lập luận cho sự thật của những khẳng định này (chương
tám).
Ngay từ đầu bạn không cần phải chứng minh tính không sai lầm của
Kinh Thánh để đối chất với ai đó về các khẳng định của Chúa Kitô.
Khó khăn thứ ba là những người không tin sẽ không chấp nhận bất kỳ
việc sử dụng các tiêu chuẩn đặc biệt hoặc các giả định hay các thái độ nào hướng
về Kinh Thánh từ ban đầu, vì họ rõ ràng thừa nhận một câu trả lời cho một câu
hỏi không được hỏi. Bạn phải chứng minh trước tiên rằng Kinh Thánh xứng đáng như Lời của Thiên Chúa,
và bạn phải chứng minh điều này mà không cần tiền giả định nó, mà không trao
cho Kinh Thánh vai trò đặc biệt đó. Nếu không, bạn lập luận luẩn quẩn giả thiết
những gì bạn cần để chứng minh.
Thái cực những người theo chủ nghĩa tân thời. Những người
theo chủ nghĩa tân thời mắc sai lầm ngược với những người theo chủ nghĩa chính
thống về Kinh Thánh. Nếu những người theo chủ nghĩa chính thống tôn sùng Kinh
Thánh thì những người theo chủ nghĩa tân thời vất bỏ nó. Nhưng lạ thay, cả hai
thái cực cùng có một sai lầm chung. Cả hai đều sử dụng các tiêu chuẩn đặc biệt
để đánh giá Kinh Thánh, các tiêu chuẩn không được sử dụng để đánh giá những
cuốn sách khác.
Những người theo chủ nghĩa chính thống giải thích tất cả mọi thứ,
hoặc tất cả mọi thứ mà họ có thể, theo từng chữ và khẳng định ngay từ đầu vào
một thái độ tin tưởng hướng về Kinh Thánh. Những người theo chủ nghĩa tân thời
giải thích tất cả mọi thứ, hoặc ít nhất là tất cả mọi thứ phi thường hoặc siêu
nhiên (hoặc không phổ biến về mặt đạo đức), không theo nghĩa đen và nhấn mạnh
ngay từ đầu vào một thái độ không tin tưởng hay hoài nghi đối với Kinh Thánh.
Giới học giả Kinh Thánh tân thời tiêu biểu thì không khách quan hay không phải là
giới trung lập, có tính lịch sử và trung thành với bản văn. Đó là lối chú giải Kinh Thánh bằng cách đưa tư tưởng mình
vào (tìm một ý nghĩa nào đó) thay vì chú giải Kinh Thánh (giải thích như
nó là); giới này đọc theo một thế giới quan hiện đại riêng biệt – chủ nghĩa tự
nhiên, từ chối tính siêu nhiên và các phép lạ – đi vào trong các văn bản và
đánh giá các văn bản trên cơ sở thế giới quan đó. Quả thực, người theo chủ
nghĩa tân thời mắc phải một dạng y khuôn của chính cái lỗi mà họ lên án những
người theo chủ nghĩa chính thống, đối với những người theo chủ nghĩa chính
thống là chỉ đọc vào bản văn cùng thế giới quan nó có – chủ nghĩa siêu nhiên –
trong khi những người theo chủ nghĩa tân thời áp đặt một thế giới quan lạ lẫm
và hiện đại vào nó. Những người theo chủ nghĩa chính thống không thêm các phép
lạ vào dữ liệu bản văn; những người theo chủ nghĩa tân thời loại trừ chúng. Đây
là sự chắp vá vụng về để dữ liệu phù hợp với lý thuyết – Sai lầm cơ bản
của một khoa học thiếu phương pháp. Chính những người theo thuyết tân thời thì
không khoa học ở điểm này.
Những người không tin nói rằng (1) Kitô giáo là những gì Tân Ước
dạy và (2) Kitô giáo là sai lầm. Còn người Kitô hữu thì nói (1) Kitô giáo
là những gì Tân Ước dạy và (2) Kitô giáo là đúng đắn. Các nhà thần học theo chủ
nghĩa tân thời muốn dung hòa với cả hai bên, do đó, họ nói rằng (1) xét về giá
trị bề mặt, Kitô giáo không
phải là điều Tân Ước dạy mà thay vào đó là những gì mà những người theo chủ
nghĩa tân thời chọn ra từ Tân Ước (những gì là đạo đức về tình thương không có
những điều nhiệm mầu) như là điều sẽ được chấp nhận cho cả những người không
tin và người tin (2) điều này tái định nghĩa Kitô giáo là đúng đắn.
Nhưng phải chăng Kinh Thánh sẽ cho phép Kitô giáo được tái định
nghĩa? Để có một câu trả lời, xem thư Galat 1:8.
Về mặt lý thuyết, toàn thể Kinh Thánh, “Ngôi Lời của Thiên Chúa”,
là biểu lộ và dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô là “Ngôi Lời của Thiên Chúa” trong
xác phàm. Trong chương về thiên tính của Chúa Kitô, lập luận của chúng ta đã
giả định các dữ liệu lịch sử của Phúc Âm. Bây giờ chúng ta phải lý luận cho dữ
liệu đó. Vì trong lập luận của chúng ta về thiên tính của Chúa Kitô, cả ba giả
thuyết – Thiên Chúa, kẻ nói dối và người mất trí – giả định rằng Chúa Giêsu đã xác nhận thiên tính mình. Giả sử
Ngài không xác nhận. Giả sử việc này là một huyền thoại (trong nghĩa hư cấu).
Giả sử kẻ nói dối không phải là Chúa Giêsu, nhưng là các bản văn Tân Ước.
Giả thuyết này thì rất phổ biến, đó là lý do tại sao các Kitô hữu
trong thế kỷ XX mất đi đức tin của họ. Vì mỗi người nghĩ rằng vấn đề sự dữ hay
sự tiến bộ của khoa học loại trừ tôn giáo, có người nghĩ rằng giới học giả theo
bản văn, với các “phương pháp lịch sử-phương pháp phê bình” và “phê bình cao
hơn” biến đổi các bản văn Tân Ước thành huyền thoại. Không phải các triết gia
vô thần hay các nhà khoa học theo chủ nghĩa hoài nghi nhưng các nhà thần học
Kinh Thánh thực hiện phép lạ đổi rượu thành nước này, đức tin thành huyền
thoại.
Các dữ liệu tự nó làm cho các giả thuyết huyền thoại là điều không
thể. Đây là lý do tại sao:
1. Nếu cùng một phương pháp trung lập, khách quan, khoa học được sử
dụng trên những bản văn Tân Ước như được sử dụng trên tất cả các tài liệu cổ xưa
khác, thì các bản văn chứng minh thật đáng tin cậy. Giả thuyết phức tạp, tinh
vi tiếp sau một giả thiết khác với sự nhanh chóng gây hoang mang và sự phức tạp
trong cố gắng tuyệt vọng để vạch trần, để “loại bỏ những đặc tính thần thoại”
hay để hạ thấp dữ liệu – thì giống như nhổ móng vuốt một con sư tử vậy. Không
có cuốn sách nào trong lịch sử bị tấn công như thế, bị chơi khăm, được tái tạo
và đứng vững như là Tân Ước. Tuy nhiên, nó vẫn sống như chính Chúa Kitô.
2. Tình trạng của các bản viết tay là rất tốt. So với bất kỳ và tất
cả các tài liệu cổ xưa khác, Tân Ước đứng vững gấp mười lần. Ví dụ, chúng ta có
năm trăm bản sao khác nhau trước năm 500. Bản văn đáng tin cậy nhất tiếp theo
chúng ta có là Iliad,
mà chúng ta chỉ có bản năm mươi bản sao trong thời điểm đó từ năm trăm năm hoặc
ít hơn sau khi nó xuất hiện.
Chúng ta chỉ có một bản viết tay rất muộn là Biên niên sử của Tacitus, nhưng
không ai do dự xem nó như lịch sử đích thực. Nếu các sách Tân Ước không chứa
những mô tả về các phép lạ hoặc đưa ra những khẳng định quyết liệt, không nhẹ
nhàng về cuộc sống chúng ta, thì chúng sẽ được chấp nhận bởi tất cả các học giả
trên thế giới. Nói cách khác, nó không phải là khoa học khách quan, trung lập
nhưng thành kiến chủ quan hay hệ tư tưởng đổ đầy giới học giả Kinh Thánh theo
chủ nghĩa hoài nghi.
Các bản chép tay mà chúng ta có, bên cạnh tính cổ xưa, thì chúng
cũng củng cố lẫn nhau và thống nhất với nhau. Có rất ít sự khác biệt và
không có sự khác biệt nào thực sự quan trọng. Và tất cả những khám phá về những
bản chép tay sau này, như các Cuộn sách ở Biển Chết, xác nhận hơn là bác bỏ
những bản chép tay tồn tại trước đó trong mọi điểm quan trọng. Đơn giản là
không có bản văn cổ nào khác gần thời điểm đó có hình dạng tốt như thế.
3. Nếu thiên tính của Chúa Giêsu là một huyền thoại được tạo ra bởi
các thế hệ sau này (“cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên”, thường được gán cho là “các
nhà phát minh của huyền thoại”), thì phải có được ít nhất hai hoặc ba thế hệ
giữa những chứng nhân ban đầu về Chúa Giêsu lịch sử và niềm tin phổ quát
về Chúa Giêsu mới, huyền thoại, thần thiêng; ngược lại, huyền thoại không bao
giờ có thể đã được coi như là thực, bởi vì nó sẽ bị bác bỏ bởi những chứng nhân
về Chúa Giêsu thực. Cả các môn đệ và kẻ thù đã có thể có lý do để phản đối
huyền thoại mới này.
Tuy nhiên, chúng ta thấy không có bằng chứng nào ở tất cả những
người phản đối cái gọi là huyền thoại về Chúa Giêsu thần thánh nhân danh Chúa
Giêsu mà trước đó chỉ đơn thuần là một con người. “Những người theo chủ nghĩa
loại trừ tính huyền thoại” ban đầu khẳng định rõ ràng rằng các bản văn Tân Ước
đã được viết sau năm 150 (để huyền thoại bắt đầu có một hiệu quả.) Nhưng
ngày hôm nay không học giả có đủ khả năng nào phủ nhận hầu hết tất cả Tân Ước
thuộc thế kỷ thứ nhất – các thư của thánh Phaolô, trong đó khẳng định rõ ràng
và tiền giả định thiên tính của Chúa Giêsu và thực tế rằng giáo thuyết này đã
là chính thống Kitô giáo phổ quát.
4. Nếu một “lớp” huyền thoại đã được thêm vào sau đó về một Chúa
Giêsu mà ban đầu chỉ đơn thuần là con người, thì chúng ta nên tìm một số chứng cứ, ít nhất là gián
tiếp và bởi con đường gián tiếp, về lớp trước này. Chúng ta thấy sự vắng mặt
tuyệt đối và hoàn toàn của bất kỳ bằng chứng như thế ở bất cứ nơi nào, hoặc nội
bộ (trong chính các bản văn Tân Ước) hoặc bên ngoài, bất cứ nơi nào khác, những
nguồn trong Kitô giáo, chống Kitô giáo hay không Kitô giáo.
5. Văn phong các Phúc Âm không phải là văn phong huyền thoại nhưng
là thể văn của hiện thực, mặc dù sự mô tả nhân chứng không khoa học. Bất cứ ai
nhạy cảm với các văn phong có thể so sánh các Phúc Âm với bất kỳ văn phong tôn
giáo thần thoại nào của thời đại, và sẽ thấy sự khác biệt đáng kể và không thể
nhầm lẫn được: ví dụ, lối văn chương Khải huyền thuộc Tân ước của cả người Do
Thái và dân ngoại, hoặc huyền thoại ngoại giáo như Metamorphoses của Ovid hay
câu chuyện về người công nhân tuyệt vời Apollonius thành Tyana (năm 220) của
Flavius Philostratus.
Nếu những sự kiện ghi trong Phúc Âm đã không thực sự xảy ra, thì
các tác giả này đã phát minh ra điều tưởng tượng về hiện thực mang tính hiện
đại cách đây mười chín thế kỷ. Các Phúc Âm thì đầy những chi tiết nhỏ mà chỉ
được tìm thấy trong những mô tả bởi nhân chứng hay điều tưởng tượng về hiện
thực mang tính hiện đại. Chúng cũng bao gồm hàng tá các chi tiết của cuộc sống
của dân Do Thái ở thế kỷ thứ nhất mà không thể được biết đến bởi những ai không
sống trong thời gian và địa điểm đó (ví dụ, xem Ga 12:03). Và không có sự sai lệch niên đại thế
kỷ thứ hai trong ngôn ngữ hay nội dung.
6. Khẳng định Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm cho cuộc cám dỗ và cuộc
khổ nạn thập giá của Ngài có ý nghĩa. Thái độ của người Do Thái về sự phạm
thượng là duy nhất, không một ai ngoài người Do Thái lên án tử cách cuồng nhiệt
cho một khẳng định về thần tính. Trong khi thế giới La Mã, thái độ lúc bấy giờ
hướng về các vị thần là “càng nhiều, càng hạnh phúc.”
Về thái độ chính trị của Chúa Giêsu thì không thể giải thích việc
đóng đinh Ngài. Ngài không có tham vọng chính trị. Lý do chính khiến hầu hết
người Do Thái bác bỏ khẳng định của Ngài là Đấng Messia chính là Ngài đã không
giải phóng họ khỏi sự áp bức chính trị của La Mã.
Tại sao sau đó Ngài bị đóng đinh? Giới chính trị lấy cớ rằng Ngài
là đối thủ của Caesar, đây là một lời nói dối được bịa ra để biện hộ cho cuộc
hành hình của Ngài, vì luật La Mã đã không công nhận sự phạm thượng như là cơ
sở để hành hình và theo luật người La Mã, người Do Thái không có quyền lực pháp
lý để thi hành luật pháp của chính tôn giáo của họ về hình phạt tử hình.
7. Có bốn Phúc Âm, không phải chỉ là một. Matthêu, Maccô, Luca và
Gioan được viết bởi bốn tác giả khác nhau, tại bốn thời điểm khác nhau, có thể
cho bốn đối tượng độc giả khác nhau và với bốn mục đích và tầm quan trọng có
phần khác nhau. Vì vậy, nhiều việc kiểm tra chéo là điều có thể. Bởi một phép
lượng giác học hoặc phép tam giác trắc lượng bản văn, chúng ta có thể sửa chữa
được những sự kiện với sự bảo đảm chắc chắn hơn ở đây so với bất kỳ nhân vật
cổ đại nào khác hay chuỗi các sự kiện nào. Những mâu thuẫn chỉ nằm trong tiến
trình thời gian (chỉ Tin Mừng Luca thì theo thứ tự chính xác) và những mâu
thuẫn trong những điều thứ yếu như số (ví dụ, có phải các phụ nữ đã nhìn thấy
một hay hai thiên sứ tại ngôi mộ trống hay không?).
8. Nếu Chúa Giêsu thần thánh của Phúc Âm là một huyền thoại, thì ai
là người phát minh ra nó? Cho dù đó là môn đệ đầu tiên của Ngài hoặc một vài
thế hệ sau đó, thì không có động cơ khả thể có thể đưa ra lời giải thích nào
cho phát minh này. Cho đến khi Sắc lệnh Milan vào năm 313, thì các Kitô hữu là
đối tượng bị bách hại, bị tra tấn và bị hành hình thường xuyên, bị ghét bỏ và
bị áp bức vì niềm tin của họ. Không ai phát minh ra một trò đùa công phu để bị
đóng đinh, bị ném đá hay bị chặt đầu cả.
9. Người Do Thái và các Kitô hữu thế kỷ thứ nhất không có khuynh
hướng tin vào những chuyện huyền thoại. Họ đã là “những người bác thần thoại”
hơn bất cứ dân nào khác. Người chính thống thì cứng rắn, thậm chí khó tính và
cố chấp, đối lập với các ngoại giáo huyền thoại và với bất kỳ đa thần giáo phổ
biến nào. Cũng không có bất cứ ai ít nhầm lẫn giữa truyền thuyết và thực tế hơn
là một người Do Thái. Thánh Phêrô làm rõ điểm này, Phúc Âm là sự kiện lịch sử,
không phải là “những chuyện huyền thoại khéo léo được nghĩ ra” (2 Pr 1:16).
10. Cuối cùng, nếu bạn đọc Phúc Âm với một tâm trí và tấm lòng rộng
mở, bạn có thể kết luận cùng với Dostoyevsky và Kierkegaard rằng không có người
nào có thể có khả năng phát minh ra câu chuyện này.
Nguyên tác: Pocket Handbook of Christian Apologetics
Tác giả: Peter Kreeft, Ronald K. Tacelli