Điều
Ước Của Thánh Phaolô
Ước chi
tôi chẳng hãnh diện về điều gì
ngoài Thập
Giá của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta
(Gl 6,14)
Gương mẫu của tất cả chúng ta là thánh Phaolô:
“Hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá.”
(1Cr 2,2)
Giêrusalem
20-8-2020
Lm. Giuse
Nguyễn công Đoan SJ.
Mừng 350 năm thành lập Dòng Mến Thánh Giá.
Năm nay Dòng Mến Thánh Giá tại Việt Nam, Thái Lan, Đức,
Úc và Hoa Kỳ mừng kỷ niệm 350 thành lập, với bao hồng ân và bao thành quả tông
đồ nhờ “chọn Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh thập giá làm đối tượng duy
nhất của lòng trí con”, và thể hiện bằng cuộc sống đơn sơ, nghèo
khó, khiêm nhường giữa người dân bình thường.
Dòng Mến Thánh Giá là một hạt giống nhỏ bé
như hạt cải, Chúa đã gieo xuống đất của Mẹ Âu Cơ, và đã mọc lên thành một cây,
nhánh vươn vươn dài, không chỉ “tới đại dương” như lời thánh vịnh
(79/80,11) mà qua đại dương, tới châu Âu, châu Mỹ, châu Úc (Mt 13,31-32; Mc 4,30-32; Lc 13,18-19).
Tôi cũng hãnh diện mình “có gốc Mến Thánh Giá”, [không
phải vì mẹ tôi xuất thân từ dòng Mến Thánh Giá!!!] vì tôi đã có một người cô và
một người em họ “trọn kiếp” [không phải yêu anh lính trẻ xa nhà, như một bài
hát thời chiến] “nhận Đức Giêsu chịu dóng đinh làm đối tượng duy nhất của
lòng trí con”, và nay tôi ở tuổi có cháu gọi bằng cụ, lại được thấy năm
cháu gái gọi tôi bằng bác, bằng ông, cũng dấn thân vào “đường tình đó Ngài
dành cho con”. Trong những năm phục vụ Hội Thánh tại Việt Nam
(1975-2003), tôi cũng đã có nhiều dịp phục vụ các dòng Mến Thánh Giá từ Nam ra
Bắc.
Bản thân tôi cũng đã tự ý chọn ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá
năm 1966 để bước vào nhà tập Dòng Tên. Ở đó Thánh Inhaxiô dạy chúng tôi phải tập và tha thiết xin ơn này: nếu
được chọn giữa hai con đường để rỗi linh hồn và làm vinh Thiên Chúa ngang nhau, một con đường đi trong vinh
quang, một con đường đi trong tất cả những gì bao gồm trong cây
thập giá, thì sẽ chọn “con đường nào Chúa đã đi qua” để nên giống Chúa
hơn! (x. Linh thao của thánh Inhaxiô, s. 167): Nghĩa là chọn
cái mà thế gian cho là ngu ngốc, điên khùng nhất, như thánh Phaolô viết cho tín
hữu Côrintô:
Trong khi người Dothái đòi hỏi
những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hylạp tìm kiếm lẽ
khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Dothái coi là ô nhục
không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ (1Cr 1,22-23).
Bản thân thánh Phaolô chẳng hãnh diện vì là một người Dothái sùng đạo, hay vì đã rao giảng Tin Mừng và gầy dựng
được bao nhiêu cộng đoàn tín hữu, hoặc vì đã viết được những bức thư mà nay là
một phần quan trọng trong Sách Thánh Tân Ước, cũng không phải vì ơn mà ngài kể:
Phải tự hào ư ? Nào có ích
gì ! Dù thế, tôi cũng xin nói về những thị kiến và mặc khải Chúa đã ban cho
tôi. Tôi biết có một người môn đệ Đức Kitô, trước
đây mười bốn năm đã được nhắc lên tới tầng trời thứ ba – có ở
trong thân xác hay không, tôi không biết, có ở ngoài thân xác hay không, tôi
cũng không biết, chỉ có Thiên Chúa biết. Tôi biết rằng người ấy đã
được nhắc lên tận thiên đàng –trong thân xác hay ngoài thân xác, tôi không
biết, chỉ có Thiên Chúa biết–, và người ấy đã được nghe những lời khôn tả
mà loài người không được phép nói lại. Về một người như thế, tôi sẽ tự
hào; còn về bản thân tôi, tôi chỉ tự hào về những yếu đuối của tôi. (2Cr 12,1-5).
Tại sao lại thế?
Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những
mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái
dằm đâm vào, một thủ hạ của Xatan được sai đến vả
mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho
thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi : “Ơn của
Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự
yếu đuối.” Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của
tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở
mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu
đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh (2Cr 12,7-10).
Kết thư gởi tín hữu Galát, thánh Phaolô khẳng định:
Những
ai muốn nở mày nở mặt vì những lý do thuần tuý con người, thì ép anh em phải
chịu cắt bì, chỉ là để khỏi bị ngược đãi vì thập giá Đức Kitô…
Ước
chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối
với tôi, và tôi đối với thế gian.
Từ nay, xin đừng có ai gây phiền toái cho tôi nữa, vì
tôi mang trên mình tôi những dấu tích của Đức Giêsu.
(Gl 6,12.14.17)
Những
“dấu tích” mà thánh Phaolô nói ở đây không phải như của thánh Phanxicô Átxidi,
thánh Maryam của nhà Kín Cát Minh ở Belem (thế kỷ 19) hay thánh Piô thời chúng
ta (Padre Piô) và một số vị thánh khác, nhưng là dấu tích của những trận đòn
bởi tay người Dothái ( 5 lần) và Rôma (3 lần), của trận ném đá (2Cr 11, 24-25;
x. Cv 14,19-20).
Thánh
Phaolô là người môn đệ chân chính, thực hiện đúng lời mời gọi của Chúa Giêsu:
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23)
Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm
môn đệ tôi được. (14,27)
Thế
là không có con đường nào khác để làm môn đệ! Sao mà Chúa khó thế?! Tại vì làm
môn đệ của Chúa thì phải theo đàng sau
chứ không thể bắt chước Tôn Ngộ Không, đi trước chỉ đường: “Sư phụ! Đi lối
này!”. Lần đầu tiên Chúa nói về con đường Chúa phải đi, “ông Phêrô liền
kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người”, ông liền bị Chúa đuổi về vị
trí: “Xatan! Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư
tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Ông bỗng trở thành phát ngôn
viên của Xatan. Khi Chúa ở trong hoang địa Xatan đã đề nghị con đường dễ dãi và
đã bị Chúa Đuổi thẳng tay: “Xatan kia, xéo đi!” (Mt 4,10). Với môn
đệ Phêrô Chúa không đuổi “xéo đi!” nhưng đuổi về vị trí môn đệ: “Lui
lại đàng sau Thầy”, vì ông đang nói theo tư tưởng của loài người, còn Chúa
Giêsu đang theo đường lối của Thiên Chúa, vốn cao hơn tư tưởng loài người như
trời cao hơn đất:
Thật
vậy, tư tưởng của Ta
không
phải là tư tưởng của các ngươi,
và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta
–
sấm ngôn của ĐỨC
CHÚA.
Trời
cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta
cũng
cao hơn đường lối các ngươi,
và
tư tưởng của Ta
cũng
cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.
(Is
55,8-9)
Nhưng
ta có thể thắc mắc thêm: tại sao Thiên Chúa Toàn Năng lại chọn cho Con Một Yêu
dấu của mình con đường cực kỳ khó đi này mà không chọn con đường nào dễ dàng
hơn một chút?
Lần
nào nói với môn đệ về con đường để hoàn thành sứ mạng là “Đấng Kitô” Chúa cũng
nói: “Con người phải chịu đau khổ nhiều…” (Lc 9,22);
“Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị
nộp vào tay người đời. Nhưng các ông không hiểu lời đó… Các ông sợ không dám
hỏi lại Người về lời ấy” (9, 44-46).
Lần
thứ ba, khi đã tới gần Giêrikhô, Đức Giêsu kéo riêng nhóm Mười Hai ra và nói
với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã
viết về Con Người sẽ được hoàn tất…” (18,31).
Vậy
thì đây không phải là chuyện tình cờ nhưng là kế hoạch Thiên Chúa đã ấn định từ
ngàn xưa và đã sai các ngôn sứ loan báo chi tiết.
Tại
sao Chúa Cha lại lên kế hoạch cho con mình phải đau khổ và phải chết nhục nhã
đến như thế?
Tại
sao Chúa Giêsu lại chấp nhận con đường này, thay vì xin Chúa Cha thay đổi?
Trong
bữa Tiệc Ly, theo Tin Mừng thứ tư, Chúa giải thích: “Thủ
lãnh thế gian đã đến, đã hẳn nó không làm gì được thầy đâu, nhưng
phải cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha và làm theo đúng như Cha đã truyền”
(Ga,14,31).
Tại
sao lại phải chấp nhận con đường thập giá này để tỏ cho thế gian biết điều ấy?
Cũng trong bữa Tiệc Ly Chúa bảo môn đệ: “Không có tình thương nào cao cả
hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”
(Ga 15,13).
Rõ
rồi, tất cả là để giải nghĩa yêu: yêu mến Cha và yêu mến anh em.
Hàn
Mặc tử trong bài “Đà lạt trăng mờ” đã tìm ra một lối giải thích “thính
thị” có thể áp dụng chí lý: để nghe tơ liễu ru trong gió và để xem trời
giải nghĩa yêu”.
Trên
đồi Gôngôta, Thiên Chúa giải nghĩa YÊU bằng chính Con Một của Thiên
Chúa. Chúng ta xem thấy gì và nghe thấy gì?
Chúng
ta xem thấy ba cây thập giá sừng sững.
Chúng ta nghe một dàn âm thanh nổi,
vang những câu sỉ nhục, chế diễu và thách đố, những tiếng cười ngạo nghễ đắc
thắng. Theo Mt 27,44 và Mc 15,32, “cả hai tên trộm cướp cùng bị
đóng đinh cũng chế diễu Người”. Theo Lc 23,39-45 thì cuộc tranh luận nổi
lên giữa hai kẻ cùng bị đóng đinh, một kẻ cất giọng “solo” rót vào tai Người
những lời chế diễu từ dưới vọng lên, một kẻ thì lên tiếng bênh vực và cầu xin.
Chúa im lặng trước mọi lời chế diễu, nhưng đáp lời kẻ cầu xin: “Ngay hôm nay
anh sẽ được ở trên thiên đàng với tôi!”
Bóng
tối ập xuống phủ không gian. Tiếng Chúa Giêsu vang lên lời phó dâng: “Lạy
Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.” Viên sĩ quan chỉ huy cuộc hành
quyết đáp lại bằng một lời tuyên xưng, như một gáo nước lạnh tạt và mặt bọn
người đắc thắng kia, khiến họ tiu nghỉu ra về. Đám đông tò mò tới xem cũng đấm
ngực ra về (Lc 23,48).
Im
lặng bao trùm tất cả.
Phải
tỏ cho thế gian biết …
Thế
gian phải biết bốn điều này:
1/
một là Thiên Chúa yêu loài người đến mức nào;
2/
hai là Thiên Chúa yêu Con Một như thế nào;
3/ ba là Con Một Thiên Chúa yêu mến Cha như thế nào;
4/
bốn là Con Một Thiên Chúa yêu mến anh chị em của mình như thế nào.
Tất
cả được phô bày trên thập giá.
1/
Thiên Chúa yêu loài người đến mức nào
Trong
Cựu Ước, sách Đệ Nhị Luật và nhiều sách, nhiều thánh vịnh nhắc nhở cho dân Chúa
về tình yêu của Thiên Chúa dành cho họ, nhưng họ luôn quên lãng và chạy theo
những gì trước mắt hấp dẫn họ. Môsê đã giải thích lý do: “Đức Chúa chưa ban
cho anh em mắt để thấy, tai để nghe và lòng để biết” (Đnl 19,3). Được yêu
là một chuyện, nhận biết mình được yêu là một chuyện và đáp lại tình yêu là
khác nữa. Để nhận biết mình được yêu thì phải có mắt để thấy, có tai để nghe và
có con tim biết rung động nữa. Những đứa con cưng nhiều khi chẳng nhận biết
tình yêu của cha mẹ. Trong dụ ngôn người cha nhân hậu và hai người con (Lc
15,11-32), cả hai người con đều không nhận biết tình yêu của người cha. Người
con thứ bỏ nhà đi thật xa để tìm hạnh phúc. Người con cả ở nhà với cha thì tự
coi mình là tôi tớ trung thành tận tụy “hầu hạ cha”. Cả hai đều không nghe,
không thấy và không biết cha yêu mình như thế nào. Người con thứ lâm cảnh khốn
cùng quay về, được cha chạy ra ôm vào lòng mới mở mắt, mở tai, mở lòng để nhận
ra và để cho cha yêu. Người con cả thì vẫn chưa mở mắt, mở tai, mở lòng để biết
tình yêu của cha và chưa biết rung động theo nhịp tim của cha.
Các
ngôn sứ, đặc biệt Êdêkien (36, 1-38) đã loan báo sự can thiệp quyết liệt của
Thiên Chúa để dân của Giao Ước nhận biết và đáp lại tình yêu của Thiên Chúa và
cho mọi dân nhận biết Thiên Chúa.
2/ Thiên Chúa yêu Con Một của Người như thế nào
Hai
bài thánh ca trong thư Êphêxô 1,3-14 và thư Côlôxê 1,15-20 cho ta
chiêm ngắm Thiên Chúa Cha yêu Con Một như thế nào.
Trong
Tin Mừng thứ tư thì chính Chúa Giêsu diễn tả:
Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi
điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến
chính các ông cũng phải kinh ngạc. Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và
ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ
ý. Quả thật, Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con
mọi quyền xét xử, để ai nấy đều tôn kính người Con như tôn kính Chúa Cha.
Kẻ nào không tôn kính người Con, thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai
người Con. Thật, tôi bảo thật các ông : ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã
sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước
vào cõi sống. (5,20-24)
Con
là trung gian duy nhất: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không
ai đấn được với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy thì anh em
biết Chúa Cha” (14,6-7). Con Một là thừa kế duy nhất: “Mọi sự của Chúa
Cha là của Thầy” (16,15)
Con
Một thành Trường Tử giữa mọi loài thọ tạo (Cl 1,15); “đứng
đầu mọi loài trên trời dưới đất” (Ep 1,10); “Trưởng Tử giữa một đàn em
đông đúc” (Rm 8,29).
Cha yêu Con nên không bao giờ bỏ Con một mình, ngay cả trên thập
giá: “Này đến giờ –và giờ ấy đã đến rồi–
anh em sẽ bị phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy
không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy”
Khi Ápraham dẫn con lên núi để dâng con làm của lễ toàn
thiêu, con vác củi, cha cầm lửa và dao, “hai cha còn cùng đi”. Sự thinh
lặng chỉ bị ngắt quãng bởi cuộc đối thoại ngắn ngủi, đầy âu yếm mà ta chỉ được
nghe có một lần một lần: “Cha ơi!”… “Cha đây con!”… “Con
của Cha à!” rồi “Hai cha con cùng đi” (St 22,6-8).
Hai cha con cùng đi lên núi để tế lễ cho Thiên Chúa. Cha là người tế lễ, con là
của lễ. Hai cha con cùng đi.
Trong Tin Mừng thứ tư không có Simong vác thập giá đỡ
Chúa Giêsu, Chúa Giêsu tự vác lấy thập giá đi thẳng tới Gôngôtha (Ga 19,17).
Cuộc đối thoại giữa hai cha con đã diễn ra ở chương (12,27-30). Trên đường lên
Gôngôtha, mắt ta chỉ thấy Chúa Giêsu vác thập giá, nhưng Người đã cho ta biết
trước là có Cha ở với Người : "Hai cha con cùng đi !".
Lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên thập giá trong Tin Mừng
thứ tư là : "Đã hoàn tất !". Trong
Tin Mừng thứ ba là: “Cha ơi, con phó linh hồn con trong tay Cha!”.
Tin
Mừng Matthêu và Máccô kể một tiếng kêu lớn, một tiếng thét lên. Tiếng thét này
có thể hiểu theo thánh vịnh 37/38: “Tim thét
gào thì miệng phải rống lên”. Nhưng
cũng có thể hiểu là tiếng quát nạt của Thiên Chúa trên những kẻ chống
lại Đấng Người đã xức dầu tấn phong: Rồi nổi trận lôi đình,
Người quát nạt, trút cơn thịnh nộ, khiến chúng kinh hoàng (Tv 2,5);
bởi vì cả hai sách Tin Mừng này đã kể cuộc hiển linh của Thiên Chúa theo hình
ảnh cuộc hiển linh trên núi Xi-nai (Xh 19: 16-19;20,21) và thánh vịnh 17/18,7-15;
và Chúa Giêsu đã dâng lên Cha lời cầu nguyện của người công chính bị bách hại
(Tv 21/22,2-3)
Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi
đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn
tiếng : “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”, nghĩa
là “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi
con?” Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói : “Hắn ta gọi ông Êlia!” Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng
bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho
Người uống. Còn những người khác lại bảo : “Khoan đã, để xem ông Êlia có đến cứu hắn không!”. Đức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.
Thiên
Chúa lấy mây mù che cho Con đang trần truồng trên thập giá và ở với Con cho đến
khi mọi sự hoàn tất. Trên núi Xinai ông Môsê chỉ tiến đến gần đám mây mù Thiên
Chúa ngự. Trên thập giá, ngay giữa trưa, bóng tối bao trùm cả trời đất. Tiếng
thét của Con vừa là tiếng hô của võ sĩ khi tung tuyệt chiêu hạ gục đối thủ, vừa
là tiếng Cha quát nạt kẻ thù.
3/
Trên thập giá, Con đã yêu mến Cha bằng trót cả trái tim, trót cả mạng
sống và trót cả sức lực
Trong
Cựu Ước (Đnl 6,4-5) cũng như trong Tân Ước (Mt 22,34-37; Mc
12,28-30; Lc 10,25-28), điều răn lớn nhất và đứng đầu mọi điều răn của Thiên
Chúa là: “Nghe đây, hỡi Ítraen! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh
(em).”
Trong Cựu Ước, sau ba vị tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp thì suốt
lịch sử là một cuộc vật lộn giữa Thiên Chúa với dân của Giao Ước qua các ngôn
sứ, các biến cố… chỉ có một số “sót lại” trung thành với Thiên Chúa.
Trong sách Đệ nhị Luật, Môsê loan báo Thiên Chúa sẽ “cắt bì” trái tim để dân có
thể thực thi điều răn này (30,6). Giêrêmia loan báo Thiên Chúa sẽ khắc luật
trong tim (31,33-34); Êdêkien loan báo Thiễn Chúa sẽ thay tim cho dân trong
Giao Ước mới (36, 26).
Trên
thập giá, Trưởng Tử, Anh Cả Giêsu thay mặt cho cả đàn em đông đúc yêu mến Cha
bằng trót cả sức lực, trót cả mạng sống và trót cả trái tim, rồi trao thần khí
cho đàn em để có thể yêu mến Cha như vậy. Và để chứng thực Người đã yêu mến Cha
bằng tất cả trái tim thì đã để cho tên lính Rôma đâm thủng cạnh sườn, cho giọt
máu, giọt nước cuối cùng chảy ra.
4/
Trên thập giá, Trưởng Tử đã yêu mến các em hơn cả chính mình
Điều
răn thứ hai giống như điều thứ nhất và không thể tách rời là: “Yêu mến người
thân cận như chính mình” (Lv 19,18; Mc 12,33b; Mt 22,19; Lc 19,27). Trong
cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với người thông luật ở Luca chương 10, Chúa
Giêsu đã mở rộng ý nhĩa của “người thân cận” ra ngoài phạm vi chủng tộc đến bất
cứ con người nào.
Trong
Tin Mừng thứ tư thì Chúa Giêsu chết để “quy tụ con cái Thiên Chúa tản mác
khắp nơi lại làm một” (11,52). Trong diễn từ giã biệt sau bữa Tiệc Ly, thì
Chúa Giêsu cho một tiêu chuẩn mới để biết phải yêu tha nhân như thế nào: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh
em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh
em.” (13,34). Sau đó Chúa còn
giải thích thêm:
“Chúa
Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.
“Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả
hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy
truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết
việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì
Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết (15,9.12-15). Gương mẫu và mức độ yêu mến của Chúa
Giêsu là Chúa Cha. Mức độ ấy Chúa Giêsu xác định: “Hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình”. Nhưng Chúa Giêsu lại vượt lằn mức ấy khi hiến mạng sống để
làm cho chúng ta trở thành bạn hữu, anh em của Chúa.
Thánh
Phaolô giải thích:
Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là
hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết
vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện
chăng. Thế mà Đức Kitô đã
chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng
chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Phương chi bây giờ chúng ta đã
được nên công chính nhờ máu Đức Kitô đổ
ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Thật
vậy, nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho
Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Người (Rm 5,6-10).
Hãnh diện vì Thánh Giá của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta
Ngày
thứ sáu Tuần Thánh, sau khi đọc bài Thương Khó và dâng lời nguyện long trọng
cho Hội Thánh, cho mọi nhu cầu của con người, chúng ta long trọng rước Thánh
Giá vào và tung hô ba lần: “Đây là Cây Thánh Giá, nơi treo Đấng Cứu Độ
Trần Gian – Chúng ta hãy đến thờ lạy.” Sau mỗi lần, mọi
người quỳ gối thờ lạy trong thinh lặng. Rồi Thánh Giá được đặt nơi trang trọng,
hoặc linh mục, phó tế cầm cho từng người lên hôn kính. Và sau đó suốt ngày Thứ
Sáu Tuần Thánh chúng ta tỏ dấu tôn kính trước Thánh Giá như thường ngày chúng
ta vẫn tỏ dấu tôn kính Bí Tích Thánh Thể.
Chúng
ta hãnh diện vì cây Thánh Giá, không phải vì nó bằng vàng, bằng bạc
nạm đá quý mà người ta đeo làm huy hiệu cho các vị chức sắc trong Hội Thánh,
hay đồ trang sức của phụ nữ…, nhưng vì nó là Nơi Treo Đấng Cứu Độ Trần
Gian, là công cụ của Đấng Cứu Độ Trần Gian, để chiến thắng tử thần và mở
cửa Nước Trời cho chúng ta.
Chúa
Giêsu chẳng mất tiền sắm quà để tặng cho những ai muốn làm môn đệ, vì Chúa bảo:
“Ai muốn theo làm môn đệ của tôi thì phải từ bỏ chính mình, vác thập
giá của mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23). Mỗi người đều có
thập giá cài đặt sẵn trong cuộc sống của mình. Chẳng phải tìm đâu xa, chẳng
phải tốn tiền mua sắm. Muốn hay không cũng phải vác. Vác miễn cưỡng và đi một
mình thì chẳng ích gì. Tự ý vác lên vai và đi đàng sau Chúa thì nó được biển
đổi, vì nó trở nên thánh giá nhờ tham dự vào thánh giá của Chúa để cứu độ mình
và cứu độ trần gian.
Cựu
Ước có một hình ảnh giúp hiểu sức biến đổi do thánh giá mang lại. Khi dân Chúa
vừa ra khỏi Ai Cập và đi vào hoang địa, gặp được nguồn nước thì lại là nước
mặn. Dân chúng kêu trách ông Môsê. Thiên Chúa chỉ cho ông một khúc cây. Ông
quăng khúc cây ấy xuống nước thì nước liền trở thành nước ngọt (Xh 15,23-25).
Thánh
giá của Chúa biến đổi thánh giá hàng ngày của chúng ta nên ngọt ngào và mưu ích
cho bản thân và cho Hội Thánh, như thánh Phaolô viết cho tín hữu Côlôxê:
Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em.
Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì
lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh (1,24).
Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng,
khi khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để
giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Kitô. Chính vì mục đích ấy
mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ
trong tôi (1,24.29).
Thập
giá hàng ngày của người tông đồ là những đau khổ, vất vả, gian truân gắn với sứ
mạng. Đối với mỗi người tín hữu, thập giá hàng ngày là những vất vả, khổ đau
gắn liền với bổn phận làm cha làm mẹ, làm vợ làm chồng, lao động, học hành và
tất cả những phiền toái “không mời mà đến” trong cuộc sống hàng ngày.
Thánh Luca kể rằng một trong hai người trộm cướp cùng bị đóng đinh
trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu, nhận biết Chúa Giêsu không làm chi gian ác,
còn anh ta chịu như thế là đáng với tội mình, rồi xin Chúa: “Ông Giêsu
ơi, khi Ngài đến trong nước của Ngài, xin nhớ đến tôi nhé!”, anh liền được
đáp lại: “Thật, tôi bảo thật anh, ngay hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên
thiên đàng”. Thập giá của anh đã được biến
đổi tức thì, “ngay hôm nay”, “cùng với Chúa Giêsu” (Lc 23,40-43).
Thập
giá là biểu tượng của sự từ bỏ chính mình. Từ bỏ chính mình không phải là tự
quăng vào sọt rác hay xuống sông xuống biển, nhưng là đặt Chúa, anh chị em, bổn
phận, làm trọng tâm đời sống của mình. Khi hai người yêu nhau thì người này
thành trọng tâm đời sống người kia, con cái là trọng tâm đời sống của cha mẹ…
Khẩu hiệu “vì nước quên thân, vì dân quên mình” là lấy đất nước, dân tộc
làm trọng tâm đời mình, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống vì dân vì nước.
Từ
bỏ chính mình để theo làm môn đệ của Chúa là đặt Chúa và sứ mạng của Chúa,
chương trình của Chúa làm trọng tâm của đời mình. Sống như Chúa đã sống, yêu
như Chúa đã yêu, tìm những gì Chúa tìm, bỏ những gì Chúa bỏ, chọn những gì Chúa
chọn, chịu những gì Chúa chịu. Không sợ lỗ, vì Chúa đã hứa: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở
đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người
ấy.” (Ga 12,26).
Trên thập giá, trọng tâm của Chúa Giêsu là Cha và anh em.
Trong Tin Mừng thứ tư thì Chúa ôm lấy thập giá là để tỏ lòng yêu mến Cha, và để
quy tụ con cái Thiên Chúa khắp nơi lại làm một. Trong Tin Mừng Nhất Lãm thì lời
cầu xin trong Vườn Gietsemani cho thấy Chúa ôm lấy thập giá để thi hành ý muốn
của Cha. Tin Mừng Luca cho thấy rõ hơn: lời đầu tiên trên thập giá là “xin
Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”, lời thứ hai là hứa cho người
cùng bị đóng đinh: “Ngay hôm nay anh sẽ được ở trên thiên đàng với tôi”.
Lời cuối cùng là: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha”.
Trong
những cuộc bách hại Kitô hữu suốt mấy trăm năm trên đất nước chúng ta, nhất là
ở thế kỷ 19, người ta đề nghị tín hữu dẫm chân lên thánh giá hay bước qua thánh
giá để tỏ ra mình chối bỏ Đạo Chúa.
Các
anh hùng tử đạo, không chỉ 117 vị đã được phong thánh để làm gương, đều đã chọn
ngục tù, lưu đầy và chết chứ không chối bỏ Đạo. Năm 1858, cuộc bắt đạo dữ dội
xảy ra ở miền Tây: Cái Nhum, Cái Mơn, Đầu Nước. Thánh Phêrô Quý và Emmanuen
Phụng bị bắt ở Đầu Nước và xử trảm. Có hai mẫu gương nữ tu Mến Thánh Giá, nhưng
sau khi bị đòn gần chết và ở tù hơn ba năm lại được tha về, nên chẳng ai nhớ
tới ngoài ba tu viện Mến Thánh Giá Cái Nhum, Cái Mơn, và Chợ Quán: Bà Matta
Lành và Dì Ysave Ngọ. Bà Matta Lành là bề trên tiên khởi của tu viện Cái Mơn và
bị bắt đang khi là bề trên.
Theo
sử liệu của tu viện Cái Mơn và Chợ quán:
Ròng rã suốt 3 năm, 3 tháng, 20 ngày (08.12.1858 – 28.03.1862)
trong ngục tù, Bà Matta Lành và Dì Isave Ngọ bị đeo gông, nhiều lần bị tra tấn
hết sức dã man. Có những lần bị tra tấn tưởng như đã chết![1]
Khi thành Vĩnh Long thất thủ, lính Pháp tràn
vào phá cửa ngục, phóng thích các tù nhân, Bà Matta và Dì Ngọ cũng được trả tự
do trở về với Tu Viện Cái Mơn.
Sau 2 tháng nghỉ dưỡng bà
xây lại nhà dòng Cái Mơn.
1865 bà được Đức Cha
Lefèbvre sai bà đi phục hưng tu viện MTG Cái Nhum.
Năm 1867 bà được Đức cha Isodore Colombert
sai đến Chợ Quán cùng 5 chi em khác (Quyền - Vui - Quý - Sửu - Thọ) và là Bề
Trên tiên khởi của dòng MTG Chợ Quán. Năm 1873, khi Tu Viện MTG Chợ Quán đã được ổn
định, Bà tình nguyện dạy dự tòng tại các miền phụ cận Sài Gòn và lập các họ đạo
như: Trảng Bàng, Bà Điểm, Hóc Môn, Mỹ Huê, Tân Đông, Tân Hưng…
Sau khi lập xong các họ đạo, Bà xin trở về Tu
Viện Cái Mơn của mình, khiêm tốn sống nếp sống của một nữ tu bình thường, và đi
truyền giáo ở những vùng lân cận. Lập các họ đạo: Giồng Luông, Cái Cá… thuộc
tỉnh Bến Tre.
Trong lúc Bà đang hăng say truyền giáo tại
các họ đạo mới nầy, thì các bổn đạo ở Tân Đông, Tân Hưng, nài xin Đức Cha cho
Bà trở lại để dạy dỗ, dìu dắt họ sống đạo. Vâng lời Đức Cha, Bà trở lại Tân
Hưng…
Dù tuổi đời còn khá trẻ, nhưng do ảnh hưởng của
những năm tháng trong lao tù, sức khoẻ của Bà ngày càng suy kiệt. Vào ngày
08.05.1883, tại họ đạo Tân Hưng, Bà Mat-ta đã an bình trút hơi thở cuối cùng
giữa những tiếc thương của bao người. Hưởng dương 58 tuổi.
Về Dì Ysave Ngọ, Cụ Petrus Trương vĩnh Ký nhiều điều lý thú về
từng lần tra khảo, tôi chỉ xin trích lời kể về trận tra khảo cuối cùng:
Trong cuộc đấu cuối cùng này, quan lên cơn thạnh nộ đánh chị không
đếm số. Nếu anh em muốn biết con số chắc chắn, thì rõ ràng chị đã bị đánh 115
hèo. Nhưng sau khi chị đã kiệt sức và nói không nổi nữa nên không còn đủ hơi để
kêu Giêsu ! Maria ! chỉ còn nghe tiếng hèo vun vút, kẻ đánh cũng mệt
vì như đánh xác chết, hắn dừng cây hèo, hô lên : nó bất tỉnh rồi !
Phần nó xong rồi !
Bấy giờ quan truyền cầm gông lôi chị qua Thập
Giá. Song le chị cảm thấy mình bị lôi trên đầu gối, chị tỉnh lại, mạnh mẽ kháng
cự : nhờ đức tin thêm sức, chị lấy tay trái đỡ gông, và tay mặt đẫm máu
hồng nâng cây Thập Giá lên trời như chiến lợi phẩm tuyệt vời của cuộc chiến
thắng và khải hoàn của chị, môi chị im lặng nhưng lòng chị rộn ràng và mấp máy
lời ca ngợi Đấng Cứu Độ.[2]
Đọc đến đây tôi nhớ mỗi lần dự lễ tuyên khấn của các nữ
tu Mến Thánh Giá, sau khi các chị nhận thánh giá khấn: các chị mới tuyên khấn,
cầm thánh giá bằng hai bàn tay mịn màng, giơ cao và hát bài ca suy tôn Thánh
Giá…
Tôi không ước được thấy các nữ tu Mến Thánh Giá – cách
riêng các cháu của tôi - đưa hai bàn tay đẫm máu hồng cầm Thánh Giá dâng cao
như Dì Ysave Ngọ, chỉ xin cho lời cam kết mà các chị tuyên lại hàng ngày trở
thành sự thật như cuộc đời Bà Mátta Lành: “Chúa Giêsu chịu đóng đinh là đối
tượng duy nhất của lòng
trí con”.
Gương mẫu của tất cả chúng ta là thánh Phaolô: “Hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến
chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô,
mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng
đinh vào thập giá” (1Cr 2,2)
“Ước chi tôi chẳng hãnh diện về
điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Ki-tô, Chúa
chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với
tôi, và tôi đối với thế gian” (Gl 6,14).
[1] Theo
một bức thư của Cụ Petrus Trương vĩnh Ký, bà Matta Lành bị tra khảo 4 trận,
trận đầu bị đánh 29 hèo, trận thứ hai, 18 hèo, trận thứ ba 14 hèo, trận thứ tư
39 hèo, tên lính thấy bà đã bất tỉnh, kêu lên: “Nó chết rồi!” quan mới cho
ngừng tay.
[2] Gợi
lại cảnh trong sách Công Vụ các Tông Đồ (5, 40-41) cả Mười Hai
Tông Đồ bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng của người Do Thái. Sau khi cho đưa các
ông ra ngoài để tòa nghị án : “Họ cho gọi các Tông Đồ vào mà đánh
đòn… Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng
đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu”. Chúa Giêsu đã căn dặn các môn đệ khi
bị bắt bớ, xỉ nhục, hành hạ vì là môn đệ của Chúa : “Ngày đó anh em hãy
vui mừng nhảy múa, vì nà đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn
lao…” (Luca 6,23)