NGƯỜI LÀM CHỨNG
(tìm hiểu Tin Mừng theo thánh Gio-an) - Bài 2
Tác giả: Nguyễn Công Đoan S.J., ngày 28
tháng 4 năm 2018
Làm chứng là
một khái niệm và một chức năng quan trọng bậc nhất trong sách
Tin Mừng Thứ Tư, vì Tin Mừng này muốn đưa chúng ta theo Chúa Giê-su Ki-tô vào
trong lòng Thiên Chúa Cha, nơi Người vẫn ở tự đời đời, từ trước khi có trời
đất, và Người đến làm người, cư ngụ giữa chúng ta trên mặt đất này, trong một
giai đoạn lịch sử nhất định, để khi “bỏ thế gian mà về cùng Cha” thì đưa chúng
ta vào trong lòng Chúa Cha cùng với Người : “Thầy đi dọn chỗ cho anh
em, rồi Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu thì
anh em cũng được ở đó với Thầy” (Ga 14, 3).
Nội dung của Tin Mừng là Thiên Chúa bày
tỏ tột đỉnh Tình Yêu của Người đối với loài người chúng ta. “Thiên Chúa thì
chưa có ai thấy bao giờ”. Chỉ có Con Một vốn ở trong lòng Cha mà đến mới có
thể kể ra cho chúng ta, kể bằng chính bản thân, bằng lời nói và việc làm, bằng
chính cuộc sống và chính mạng sống của Người nữa. Người làm chứng là người đem
tính mạng của mình để bảo đảm rằng lời mình nói là đúng sự thật. Từ Hy-lạp và
la-tinh “MARTYR” mà chúng ta dịch là TỬ VÌ ĐẠO, thì ý nghĩa chung của nó là
“người làm chứng”. Áp dụng vào người đem mạng sống của mình ra làm chứng về đức
tin, chúng ta gọi là “tử vì đạo”.
Con Một Thiên Chúa đã nên một trong
chúng ta để kể cho chúng ta về Thiên Chúa, Cha của Người và Cha của chúng ta,
mà loài người chúng ta chưa ai được thấy, nên chúng ta tin là nhờ vào lời của
Người thôi, vì thế Người là người làm chứng. Chúa Cha làm chứng về Người bằng
cách cho Người quyền năng để làm những việc sức loài người không thể làm được,
Người làm chứng về Chúa Cha và tình yêu của Chúa Cha bằng cách nói những lời
Chúa Cha dạy Người nói và làm những việc Chúa Cha dạy Người làm (x. Ga 5,19-20),
cuối cùng bằng cách thí mạng sống mình để chứng tỏ Người yêu mến Chúa Cha và
yêu mến chúng ta.
Có một người Thiên Chúa sai đến làm
chứng về Chúa Giê-su để mọi người nhờ ông mà tin rằng Chúa Giê-su quả là Đấng
Thiên Chúa sai đến, đó là ông Gio-an Tẩy Giả. Ông cũng đã làm chứng bằng chính
mạng sống của mình. “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi”, tới số
không, “dê-rô” ! (x. Ga 3,30).
Mấy môn đệ của ông Gio-an trở thành
những người đầu tiên đã tin vào Chúa Giê-su và trở thành những môn đệ đầu tiên
của Chúa Giê-su (x. Ga 1,36-39). Trước khi Chúa Giê-su bị nộp,
vì giờ của Người chưa đến, Người lành về nơi ông Gio-an đã làm chứng về Người,
ở Bê-ta-ni-a bên kia sông Gio-đan, thì chúng ta được biết ở đó “Họ bảo
nhau : ‘Ông Gio-an đã không làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi người ông ấy
nói về người này đều đúng’. Ở đó, nhiều người đã tin vào Đức Giê-su.” (Ga10,40-42).
Trong sách Tin Mừng này lòng tin được
chuyển đạt qua người làm chứng : nhờ ông Gio-an Tẩy Giả làm chứng, môn đệ
của ông tin và theo Chúa Giê-su ; hai người môn đệ đầu tiên này, ông An-rê
thì đi tìm em (Trong bản văn tiếng Hy-lạp cũng như các ngôn ngữ phương Tây,
từ adelphos, frater… không phân biệt “anh”, “em” như
trong tiếng Việt và một số ngôn ngữ ở Phi Châu có hai từ riêng biệt để chỉ anh
và em. Khi dịch sang tiếng Việt thì bắt buộc phải xác định ai là anh ai là em
mới dịch được câu ông An-rê tìm gặp em/hay anh là Si-mon, và dẫn đến với Chúa
Giê-su. Chúng tôi dựa trên hai lý do để dịch ông Si-mon là em
của ông An-rê : một là trong Kinh Thánh, người em thường được
Thiên Chúa chọn vào sứ mạng quan trọng: Ông Mô-sê là em ông A-ha-ron (Xh 4,13-14 ;
7,1-2) vua Sa-un là con một gia đình thuộc chi tộc út Ben-gia-min (x. 1
Sm 9,21 ; 15,17)); vua Đa-vít cũng là em út của gia đình nhà
Giê-sê (1 Sm 16,11). Hai là cách thức ông
An-rê dẫn Si-mon đến với Chúa Giê-su, so với cách thức ông Phi-líp-phê đi
rủ ông Na-tha-na-en trong cùng một đoạn văn. Là bạn bè, ông Phi-líp-phê phải
tìm lời thuyết phục ông Na-tha-na-en rồi đề nghị “cứ đến mà xem !”
Còn ông An-rê, ông chỉ khoe với Si-mon, “bọn anh đã gặp Đấng Mê-si-a!”
rồi dẫn em đến với Chúa Giê-su. Rõ ràng cung cách của ông An-rê là cung cách
của người anh và cung cách của ông Si-mon là cung cách của người em, tin tưởng
và đi theo anh, chẳng thắc mắc gì cả ! Có người lại đưa lý do để nói ngược
lại : Ông Phê-rô đã có vợ, ông An-rê chưa có vợ, nên ông Si-mon phải lớn
tuổi hơn. Nhưng lý luận như thế là giả thiết một điều trái với nguyên tắc căn
bản: Sách Tin Mừng không nhằm thỏa mãn tò mò của chúng ta, không sách Tin Mừng
nào trực tiếp cho chúng ta biết về hoàn cảnh Mười Hai Tông Đồ: ai đã có vợ, ai
chưa có vợ. Sở dĩ chúng ta được biết ông Phê-rô đã có vợ là nhờ một thông tin
gián tiếp, khi Tin Mừng Nhất Lãm kể Chúa chữa bà mẹ vợ ông Si-mon
Phê-rô. Thông tin gián tiếp này không cho phép mở rộng sang ông An-rê và
các môn đệ khác, không thể dựa vào đó mà nói rằng mười một môn đệ kia đều là
con trai chưa vợ !) là Si-mon, dẫn em mình đến với Chúa Giê-su. Người phụ
nữ Sa-ma-ri sẽ làm chứng cho dân làng và mời người ta ra mà xem... Dân làng ra
gặp, mời Chúa Giê-su ở lại với họ và sau ba ngày thì họ nói với bà : “Không
còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật chính chúng tôi đã nghe và
biết rằng Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian” (Ga 4,42). Người
làm chứng đưa người ta đến gặp Chúa Giê-su là hoàn thành nhiệm vụ của mình rồi,
phải biến đi để Chúa Giê-su chinh phục người ta, kết quả tùy thuộc ở cuộc gặp
gỡ giữa người ta với Chúa Giê-su. Đó là thái độ của ông Gio-an Tẩy Giả khi môn
đệ của ông “đánh ghen” giùm ông, ông so sánh chàng rể và người phù rể
trong đám cưới : “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi” (x. Ga 4,25-30).
Đến cuối thì Chúa Giê-su sẽ bảo các môn
đệ :
26 Khi
Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là
Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. 27 Cả
anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu. (Ga 15,
26-27).
Trong khi các sách Tin Mừng Nhất Lãm,
đặc biệt Lu-ca, dùng kiểu nói giảng dạy, loan báo Tin Mừng, thì
Gio-an dùng kiểu nói LÀM CHỨNG để nói về việc Loan báo Tin Mừng. Ngay từ đầu
trong Lời Tựa : “Có một người được Thiên Chúa sai đến… ông đến làm
chứng để mọi người nhờ ông mà tin”. Chuỗi người làm chứng nối tiếp nhau cho
đến chúng ta, và chúng ta đã lãnh nhận đức tin thì đương nhiên chúng ta trở
thành người làm chứng bằng cách để cho đức tin tỏa sáng trong cuộc đời và cả
cái chết của chúng ta.
Lời chứng của ông Gio-an
Ngày thứ nhất
Thuở ấy dân Do-thái sống dưới ách thống
trị của đế quốc Rô-ma, thượng tế đương nhiệm là người nắm quyền tối cao, có
Thượng Hội Đồng gọi là “san-he-drin” như là hội đồng cố vấn giúp ông thực thi
quyền này. Thượng tế và thượng hội đồng lo bảo vệ tôn giáo và trật tự dân sự
như thời dân chưa có vua trong Cựu Ước. Nhưng Rô-ma không cho họ quyền kết án
tử hình. Họ nghe biết có ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng và làm phép rửa ở ven sông
Gio-đan, là con sông chảy từ biển hồ Ga-li-lê xuống Biển Chết trong thung lũng
gọi là thung lũng sông Gio-đan (Đây là một hiện tượng địa chất rất đặc
biệt : một đường gãy sụp của mặt đất kéo dài từ đây xuống tới hồ Victoria
ở Phi Châu, khiến cho Biển hồ Ga-li-lê và Biển Chết ở dưới mực nước biển Địa
Trung Hải gần bốn trăm mét. Thung lũng này là miền đất trù phú giữa vùng núi đá
và sa mạc, nhờ nguồn nước từ vùng núi Héc-mon đổ vào Biển hồ rồi chảy thành
dòng sông Gio-đan. Thung lũng này là đường bay của loài chim di trú, vì đường
sụp mặt đất này tạo ra luồng gió nóng nâng cánh loài chim di trú từ Bắc xuống
nam, để tránh mùa đông băng giá chẳng còn gì ăn, và trở về miền Bắc hưởng mùa
hè nắng ấm và phong phú thức ăn). Họ cử phái đoàn đi điều tra về ông và công
việc ông làm. Đoàn đại biểu đến gặp ông với những câu hỏi đặt sẵn giống như các
mẫu giấy tờ khai báo lý lịch hiện nay. Câu hỏi mở đầu đi thẳng vào đề tài
chính : “Ông là ai ?” Câu trả lời của ông khiến ta thắc mắc :
tại sao ông có vẻ vòng vo, trả lời đàng sau câu hỏi. Đúng thế, ông trả lời đàng
sau câu hỏi đấy. Trong cái không khí xao động háo hức chờ Đấng Mê-si-a thời đó
cho tới cuộc nổi dạy cuối cùng vơi Bar Kochebah khoảng năm 130, khiến người ta
cứ như em bé mong mẹ về chợ, thấy bóng người ngoài lối vào nhà là chạy ra xem
có phải mẹ về không… Thấy cách rao giảng của ông Gio-an là người ta tưởng Đấng
Mê-si-a tới. Vì thế mà khi nghe hỏi ông là ai thì ông biết ngay họ đang tìm ai,
nên trả lời trước một cách rất trang trọng nghiêm túc : “Ông tuyên bố
rằng :Tôi không phải là Đức Ki-tô”. Ông đoán trúng. Họ liền đưa
tiếp những chức danh in sẵn để ông đánh dấu vào chữ nào đúng với
ông : Ê-li-a ? Vị ngôn sứ ? Ông cho thấy chẳng
có chức danh nào họ vừa đưa ra hợp với ông. Họ liền khẩn khoản xin ông tự khai
theo ý ông, vì họ phải trả lời cho cấp lãnh đạo đã sai họ đi.
Họ để giấy trăng cho ông thì ông khai
theo cách của ông. Ông không là ai cả, thậm chí không phải là người hô, mà chỉ
là “tiếng người hô trong hoang địa”. Ông đã mượn ngay lời sách An Ủi của
I-sai-a, nhưng lại di chuyển dấu phết : bản văn I-sai-a nói : Có
tiếng người hô : trong hoang địa hãy dọn sẵn con đường cho Chúa (Is 40,3),
ám chỉ việc Chúa sắp đưa dân lưu đày trở về. Ông Gio-an nhận ông là “tiếng
người hô trong hoang địa”, vì ông đang rao giảng ở vùng hoang địa gần sông
Gio-đan. Nhưng thắc mắc chính của họ là, nếu ông không phải là một trong những
vị mang danh chức vừa kể thì “tại sao ông làm phép rửa ?” Một lối
hỏi có tính bắt chẹt. Ông có dịp xác định thêm : tôi chỉ dìm người ta
trong nước để tỏ lòng ăn năn sám hối thôi. Chẳng là gì cả. Tôi là tiếng hô kêu
gọi dọn đường, tôi dọn đường bằng phép rửa tỏ lòng sám hối thôi. Tôi hô dọn
đường tức là chuẩn bị cho ai đó tới sau. Người ấy mới là nhân vật các ông phải
chờ đợi, chứ tôi chẳng là gì. Thế là ông đưa họ về vị trí khởi đầu, nhưng gỡ
cho họ khỏi thắc mắc về ông. Nếu họ muốn thì lo mà dọn đường cho Đấng ấy thôi.
Thắc mắc về bản thân ông làm gì ; cũng như ngày nay nghe xe cảnh sát hụ
còi sau lưng thì cứ tự dẹp trống lòng đường, đứng đó mà tò mò xem cái anh chàng
cảnh sát ấy tên là gì, cấp bậc nào… thì coi chừng dập đầu, bẹp ruột không kịp
ngáp đấy. Ông tranh thủ phác họa một nét về nhân vật sắp tới : “Tôi đây
không đáng cởi quai dép cho Người !” Kiểu nói giống kiểu tiếng
ta : “không đáng xách dép cho ông ấy !” Chúng ta được biết tên
nơi này. Ở cuối chương 10, khi người Do-thái đã hai lần toan ném đá Chúa Giê-su
rồi tìm bắt Chúa, thì Người đã lánh xuống nơi này. Từ đây Người sẽ lên
Bê-ta-ni-a gần Giê-ru-sa-lem để gọi “cục cưng” La-da-rô ra khỏi mồ. Sau đó lại
lánh sang Ép-ra-im cách Giê-ru-sa-lem chừng 20 cây số về phía Bắc (Hiện nay tại
đây có xứ đạo đông đúc, sầm uất nhất và nhà máy bia duy nhất trong vùng
Pa-lét-tin. Cha Charles de Foucault cũng từng sống ở đây ít lâu trong thời gian
ngài ở Thánh Địa.). Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, khi người Do-thái sắm chiên
Vượt Qua và nhốt riêng thì Chúa Giê-su lại về Bê-ta-ni-a gần Giê-ru-sa-lem, ở
trong gia đình ba chị em mà Chúa thương mến (x. Ga 11,1-6) và
trong bữa ăn, bà Mác-ta làm bếp, La-da-rô ngồi ăn với Chúa, còn bà Ma-ri-a đem
một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá, đổ lên chân Chúa Giê-su, rồi
lấy tóc mà lau.
Ngày hôm sau
29 Hôm
sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói : "Đây
là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. 30 Chính
Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng : Có người đến sau tôi, nhưng
trổi hơn tôi, vì có trước tôi.
31 Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho
dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước." 32 Ông
Gio-an còn làm chứng : "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời
xuống và ngự trên Người. 33 Tôi đã không biết Người. Nhưng
chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi : "Ngươi
thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa
trong Thánh Thần." 34 Tôi đã thấy, nên xin chứng thực
rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn."
Ở đây có hai điểm quan trọng mà chúng ta
cần tìm hiểu cặn kẽ : một là danh hiệu “Con chiên của Thiên Chúa, Đấng
xóa bỏ tội trần gian”, hai là nhờ đâu ông Gio-an biết được
Đức Giê-su chính là Đấng ông loan báo, Đấng mà ông nói là ông không đáng cởi
quai dép cho Người.
Danh hiệu Con chiên của Thiên
Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian bao trùm từ đầu đến cuối sách Tin Mừng
thứ tư này mà tột đỉnh là cuộc tôn vinh Chúa Giê-su trên thập giá và trong ánh
sáng Phục Sinh. Tước hiệu này ở đâu ra và có ý nghĩa thế nào ? Đây là danh
hiệu chỉ gặp trongTin Mừng thứ tư, và ngày nay thành lời tuyên xưng đức tin
trước khi rước lễ. Ta thử cắt làm đôi và tìm hiểu từng vế.
1/ Con Chiên của Thiên
Chúa
Trong sách Sáng Thế, chương
22 kể truyện ông Áp-ra-ham vâng lời Thiên Chúa, dẫn con một yêu dấu là I-xa-ác
lên núi để dâng làm lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa. I-xa-ác vác củi, cha cầm dao
và lửa, hai cha con cùng nhau đi lên núi. I-xa-ác hỏi cha : có củi và lửa
đây, còn con chiên để làm của lễ đâu ? Ông Áp-ra-ham trả lời : “Con
chiên để làm của lễ thì Thiên Chúa sẽ tự lo liệu cho Người, con ạ !”
Rốt cuộc khi ông Áp-ra-ham giơ tay ra cầm lấy con dao để sát tế con thì Sứ Thần
Thiên Chúa gọi giật, bảo ông dừng tay lại. Ông vâng lời dừng tay lại, không hại
đứa con.
Lời đầy tin tưởng phó thác của ông
Áp-ra-ham, có vẻ như để trấn an con, đã được Thiên Chúa cho thành sự thật ngay
lúc đó. Ông quay lại lần nữa thì thấy có con cừu mắc sừng trong bụi gai, ông
liền bắt nó dâng làm của lễ thế cho con. Sau đó Thiên Chúa xác nhận lại lời đã
hứa cho ông Áp-ra-ham một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển. Thần học
Do-thái vẫn coi việc tế lễ này là nguồn mạch mọi ơn lành Thiên Chúa ban cho dòng
dõi Áp-ra-ham.Ta tưởng câu chuyện kết thúc ở đó. Không biết còn mắt xích nào
khác dẫn tới danh hiệu mà ông Gio-an đưa ra ở đây không, nhưng ta có thể nhận
ra vài chỉ dẫn trong sách Tin Mừng để hiểu ý nghĩa danh hiệu này. Tin Mừng Thứ
Tư mời ta chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa với lời này :
16 Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời.17 Quả vậy, Thiên Chúa sai
Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế
gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 18 Ai tin vào Con
của Người, thì không bị lên án ; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì
đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.
Chúng ta có thể nhận ra một sự
đối chiếu tinh vi giữa một bên là lòng tôn kính và yêu mến của
ông Áp-ra-ham, khiến ông đã không tiếc cả đứa con một yêu dấu
của mình đối với Thiên Chúa, một bên là lòng Thiên Chúa yêu mến
thế gian, đến nỗi ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì không
phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Thiên Chúa là Thiên Chúa hằng sống và là
Đấng ban sự sống chứ không phải sự chết. Sự chết là do Xa-tan đưa vào thế giới
loài người ! (Kn 1,12 và 2,24). Thiên Chúa nhận tấm lòng của ông Áp-ra-ham
nhưng không muốn I-xa-ác phải chết. Và đáp lại lòng tôn kính tuyệt vời của ông
Áp-ra-ham Thiên Chúa hứa cho ông sự sống thật phong phú, biểu lộ qua dòng dõi
đông như sao trời cát biển.
Trước khi mời chiêm ngắn Tình Yêu của
Thiên Chúa lớn lao thế nào, Chúa Giê-su đã nói mục đích việc Chúa bị treo lên
cao, như con rắn bằng đồng Thiên Chúa đã truyền ông Mô-sê treo lên cây trong
hoang địa, để ai bị rắn cắn mà nhìn lên thì khỏi chết nhưng được sống
Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê
rằng : "Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để chúng tôi
chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống ? Chúng
tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này."
6 Bấy
giờ ĐỨC CHÚA cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en
phải chết. 7 Dân đến nói với ông Mô-sê : "Chúng
tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách ĐỨC CHÚA và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu
ĐỨC CHÚA để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi." Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân. 8 ĐỨC
CHÚA liền nói với ông : "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một
cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống." 9 Ông
Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ
ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống. (Ds 21,
5-9).
Để tránh sự mê tín và thờ ngẫu tượng,
sách Khôn Ngoan đã giải thích :
6 Họ
phải chịu hành hạ ít lâu như là chịu một lời cảnh cáo ; rồi họ
được một dấu hiệu cứu thoát nhắc họ nhớ đến luật Ngài truyền. 7 Vì
bất cứ ai ngước trông lên đều được cứu, không phải do bởi vật họ nhìn, nhưng là
do chính Ngài, Đấng cứu độ muôn người hết thảy. 8 Như
thế, Ngài cho thù địch chúng con biết rằng : chính Ngài là Đấng cứu khỏi
mọi sự dữ. 9 Chúng chết vì châu chấu cắn, vì mòng
đốt, mà không tìm được thuốc để cứu mạng sống mình, bởi chúng đáng chịu phạt do
những con vật ấy. 10Nhưng con dân Ngài, nanh rắn độc cũng không
làm hại được, vì có Ngài xót thương và ra tay cứu chữa. (Kn 16,3-10).
Rắn cắn ai là người ấy phải chết. Chỉ có
Thiên Chúa mới cứu được họ khỏi chết và được sống. Thiên Chúa đã ban con rắn
bằng đồng như dấu hiệu để họ nhìn lên mà nhớ lại Lời Người, nhận biết tội của
họ và tin vào Thiên Chúa, thì khỏi phải chết nhưng được sống.
Bài học Chúa đã ban cho dân của Chúa
trong hoang địa, nay được ứng dụng cho toàn thể nhân loại. Thiên Chúa muốnCon
Một Yêu Dấu của Người được giương cao để ai nhìn lên và tin vào Người
Con Ấy thì không phải chết nhưng được sống (x. Ga 3, 14-15).
Mọi người đều mang tội nên mọi người phải chết, nhưng nếu nhìn lên Con Một của
Thiên Chúa đã được giương cao thì sẽ không phải chết mà được sống. Con Một
Thiên Chúa vốn ở trong lòng Thiên Chúa, chẳng mắt phàm nào thấy được. Để trở
thành dấu hiệu cho mắt loài người có thể nhìn thấy thì Con Một của Thiên Chúa
vô hình đã trở thành người phàm, cho người ta thấy được, sờ được. Nhưng không
phải thấy hay sờ vào là được sống, nhưng phải tin vào Người, tuyên xưng Người
là Con Thiên Chúa Hằng Sống, “Đấng đã đến để cho chúng ta được sống và sống
dồi dào hơn” (x. Ga10, 10). Câu chuyện người đàn bà loạn huyết
sờ vào tua áo của Chúa mà đươc chữa lành, lòng tin của bà lập tức được Chúa
khen và dùng làm gương mẫu khích lệ viên trưởng Hội Đường đang đưa Chúa về nhà
để cứu đứa con gái đau sắp chết : “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi là con
gái ông sẽ được cứu (Lc 8, 50). Không có cây nào cao đủ
cho mọi người có thể nhìn thấy con rắn bằng đồng. Con Một Thiên Chúa hằng sống,
từ trong lòng Cha vào thế gian qua “cửa sinh” mà làm người, rồi lại ra
khỏi thế gian bằng “cửa tử” và trở về trong lòng Cha, trong Vinh Quang
của Cha, Vinh Quang Người vẫn có nơi Cha tự đời đời, vì thế Người trở thành dấu
hiệu của ơn Cứu Độ, để ai tin vào Người thì không phải chết nhưng được sống.
Người đã biến “cửa tử” thành “cửa sinh” đưa vào cuộc sống đời
đời, vì Người là Đấng Hằng Sống đã đi qua cửa ấy.
Tin Mừng Gio-an không dùng từ phép
lạ nhưng dùng từ dấu hiệu, để nói về những việc mà
các Tin Mừng khác cũng kể, tỏ bày quyền năng Chúa Cha đã trao cho Người. Khi
nhìn một dấu hiệu (như bảng chỉ đường…) thì ta phải chú ý tới cái gì dấu hiệu
nói với chúng ta chứ không phải chính cái dấu hiệu ; Chúa Giê-su đã quở
trách nhưng người được ăn bánh rồi đi tìm Chúa mà không có lòng tin : “Các
ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu hiệu, nhưng vì các ông đã được ăn
bánh no nê”. Chúa cho ăn một lần để làm dấu hiệu, nhưng họ lại không đọc ra
ý nghĩa mà dấu hiệu “BÁNH” chỉ cho họ (x. Ga 6,26) (Có
người đi đường thấy một cây cột trước một ngôi nhà, có treo cái bảng đề chữ
“BÁN”, anh ta mua luôn cây cột với bảng đề chữ BÁN vác lên vai đi tiếp !).
Con Một Thiên Chúa đã được tôn vinh lại cho các môn đệ thấy và rờ vào các dấu
đinh nơi tay chân và vết đâm nơi cạnh sườn (x. Ga 20,20 ; Lc 24,39-43).
Người được giương cao trong vinh quang của Thiên Chúa nên người muôn nước muôn
dân trên khắp địa cầu có thể thấy được nhờ đức tin, và ai tin thì được sống đời
đời. Tông đồ Tô-ma đòi thấy tận mắt sờ tận tay mới tin là Chúa đã trỗi dậy từ
cõi chết. Ước muốn của ông cũng là của chúng ta. Chúa đầy lòng thương xót, như
Mục Tử nhân lành, đã đến tìm ông và dịu dàng đáp lại mong ước của ông, như MỘT
ĐẠI DIỆN của tất cả những kẻ kém tin chúng ta, và tuyên bố : “Phúc cho
ai không thấy mà tin” (Ga 20,29).
Con Chiên Thiên Chúa tự lo liệu cho mình
là chính Con Một của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã lo liệu cho ông Áp-ra-ham một
con chiên để dâng làm của lễ thế cho con để lòng ông được thỏa lòng kính tôn vì
đã hết tình phụng sự Thiên Chúa của ông. Còn bây giờ đến lượt Thiên Chúa lo
liệu cho chính mình một con chiên để ban cho loài người, cho thỏa lòng Thiên
Chúa yêu thương loài người, thì con chiên ấy chính là Con Một của Thiên Chúa.
Chúa Giê-su là Con Chiên của Thiên Chúa. Sau này khi kể về Chúa Giê-su được tôn
vinh qua hai thì Thương Khó và Phục Sinh, sách Tin Mừng thứ tư sẽ xoáy vào các
chỉ thị về con chiên Vượt Qua trong sách Xuất Hành, chương 12, để giúp chúng ta
nhận ra Chúa Giê-su là Con Chiên của Thiên Chúa như thế nào. Thánh Phao-lô
không thông qua hình ảnh con chiên, nhưng nói thẳng : “Đến như chính
Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta.
Một khi đã ban người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng ban tất cả cho chúng
ta.” Vậy là chúng ta thấy được suy nghĩ của tác giả sách Tin Mừng thứ tư và
của Thánh tông đồ dân ngoại giống nhau, nhìn vào Chúa Giê-su mà chiêm ngắm Tình
yêu của Thiên Chúa. Lời đầu tiên và lời cuối cùng, lời mở đầu và lời cuối cùng
của Tthiên Chúa để tỏ bày tình yêu cho chúng ta là chính Con Một Thiên Chúa,
được ban cho chúng ta như lời tạo dựng, lời Mô-sê và các ngôn sứ rồi cuối cùng
là chính Lời Con Một được trao ban trọn khối cho chúng ta, ban không đòi lại.
Lời chỉ trở về với Cha khi kéo được mọi người cùng lên với cha, như trưởng tử
giữa đàn em đông đúc.
Trong trình thuật hiến tế I-xa-ác, sau
khi Thiên Chúa ngăn tay ông Áp-ra-ham lại và cho ông thấy con cừu để dâng làm
lễ toàn thiêu, Thiên Chúa xác nhận lại lời hứa cho ông một dòng dõi đông đúc
như sao trời cát biển, không thể nào đếm được, ta thấy một mình ông Áp-ra-ham
đi xuống núi quay lại với hai người tôi tớ và con lừa, rồi cùng đi Bơ-e Se-va…
không thấy I-xa-ác xuống cùng với ông như đã đi lên cùng với ông. Nghệ thuật kể
chuyện ở đây đạt tới đỉnh cao, dùng khoảng trống mênh mông của sự vắng mặt để
diễn tả cái không thể diễn tả. Ông Áp-ra-ham một mình đi xuống, về một nơi có
tên gọi rõ ràng là Bơ-e Se-va. Lúc ông vấng lệnh đem con lên núi thì ta không
biết ông xuất phát từ đâu, cũng không được biết tên ngọn núi Thiên Chúa chỉ cho
ông. Thay vì đứa con một yêu dấu ông đã dâng và Thiên Chúa đã nhận, Thiên Chúa
trao cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển để ôm vào lòng mà đi
xuống. Tác giả như đặt người nghe đứng lại trên núi, nhìn ông Áp-ra-ham quay
lưng xa dần trên đường xuống núi. Ông không đi một mình, ông ôm trong lòng cả
dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển đi về một nơi có tên gọi rõ ràng, nhưng
người kể, giống như đạo diễn phim hiện đại, cho chúng ta nhìn từ sau lưng, thấy
lưng ông xa dần, nhưng không thể thấy cái gì ông đang ôm trong lòng. Bây giờ
tương lai của ông đã có định hướng rõ ràng sau hai lần ra đi : lần thứ
nhất ông không biết mình đi đâu (x. Hr 11, 8), vì Thiên Chúa
chỉ nói “đi tới miền đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12, 2) và
lần thứ hai “trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St22, 2). Cuộc đời
phiêu lưu của ông đã kết thúc. Lần lên đường thứ ba này, ông đã có tương lai rõ
ràng, như có điểm tới rõ ràng cho chuyến đi này là Bơ-e Se-va, nơi ông sẽ định
cư cho đến khi an nghỉ cùng bà Sa-ra trong phần đất ông đã bỏ ra 450 lượng bạc
mà mua để mai táng bà, hang Mác-pe-la ở Khép-rôn (x. St 25,7-10),
chờ ngày dòng dõi “như sao trời cát biển” của ông xuất hiện theo lời hứa cuối
cùng của Thiên Chúa. Lại so sánh với phim ảnh hiện đại : ta như thấy trên
màn hình, bóng ông Áp-ra-ham xa dần rồi xuất hiện hàng chữ :
Hết hồi thứ nhất : ĐỨA CON
MỘT
Đón xem hồi thứ hai sẽ ra mắt ngày gần
đây :
MỘT DÒNG DÕI ĐÔNG NHƯ SAO TRỜI CÁT BIỂN.
Đấng xóa bỏ tội trần gian
Ơn tha tội và sự sống gắn liền với Con
Một của Thiên Chúa, và cũng chính là Con Chiên của Thiên Chúa, đẩy chúng ta tìm
hiểu riêng vế thứ hai : Đấng xóa bỏ tội trần gian. Xóa bỏ bằng
cách nào ?
Chúng ta chạm vào một đoạn sách I-sai-a
mà cả bốn sách Tin Mừng, sách Tông Đồ Công Vụ,
và một số thư của các Tông Đồ, vận dụng đế lý giải cuộc Thương Khó của Chúa
Giê-su, Phụng Vụ thứ sáu Tuần Thánh đọc đoạn này như bài đọc thứ nhất, rồi một
đoạn thư Hip-ri làm bài đọc thứ hai, trước khi đọc Bài Thương Khó theo thánh
Gio-an. Mỗi sách Tin Mừng đều bắt đầu trích dẫn, hoặc gợi nhớ bài ca này vào
một thời điểm nào đó trong trình thuật về đời sống công khai rao giảng của Chúa
Giê-su. Tin mừng thứ tư gợi lên ngay trong danh hiệu đầu tiên do ông Gio-an Tẩy
Giả xướng lên. Đoạn sách ấy là bài ca thứ tư về người Tôi Tớ của Thiên
Chúa : “Người tôi tớ đau khổ” (x. Is 52,13 –
53,12). Bài ca này vừa diễn tả những đau khổ người Tôi Tớ phải chịu, phần
thưởng Người sẽ được, và lý do tại sao Người phải chịu đau khổ đến như thế.
Người được ví như con chiên, như cừu khi bị xén lông, không hề mở miệng kêu một
tiếng (Kinh nghiệm đầy ấn tượng cho khách hành hương khi đuợc tới núi Ga-ri-dim
dự lễ Vượt Qua của người Sa-ma-ri. Họ chỉ còn vỏn vẹn 750 người sống tại
Sa-ma-ri và một khu phố khác (Holon) gần Tel Aviv. Ngày lễ Vượt Qua họ tụ họp
nhau trên núi Ga-ri-dim. Họ nghe đọc Sách Thánh [họ cũng có Ngũ Thư] bằng tiếng
Sa-ma-ri, kể về lễ Vượt Qua. Họ căn giờ, đọc vừa xong là mặt trời khuất núi, họ
bắt đầu giết 50 con chiên [theo tỷ lệ 15 người ăn một con]. Vậy mà không ai
nghe thấy một tiếng kêu nào. Người Do-thái không có Đền thờ nên không giết
chiên Vượt Qua, vì từ thời vua Giô-si-a canh tân Do-thái giáo, chiên Vượt Qua
phải được sát tế trong Đền Thờ, do tay các tư tế . Ngày áp lễ, đúng mười hai
giờ trưa người ta bắt đầu đưa chiên lên Đền Thờ giao cho các tư tế, và ba giờ
chiều thì các tư tế bắt đầu sát tế chiên Vượt Qua. Những chi tiết này sẽ có tầm
quan trọng riêng khi chúng ta đọc trình thuật Cuộc Thương Khó trong Tin
Mừng Gio-an.).
Ở đây chúng ta hãy chú ý tới và suy gẫm
những câu trong bài ca nói về lý do và mục đích của những đau khổ Người
Tôi Tớ phải chịu.
4 Sự
thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta,
đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta,
còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người
bị phạt,
bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê
chề.
5 Chính
người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội,
bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm ;
người đã chịu sửa trị để chúng ta được
bình an,
đã phải mang thương tích cho chúng ta
được chữa lành.
6 Tất
cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu,
lang thang mỗi người một ngả.
Nhưng ĐỨC CHÚA đã đổ trên đầu người
tội lỗi của tất cả chúng ta
ĐỨC CHÚA đã muốn người phải bị nghiền
nát vì đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội,
người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được
trường tồn,
và nhờ người, ý muốn của ĐỨC
CHÚA sẽ thành tựu.
11 Nhờ
nỗi thống khổ của mình,
người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn
nguyện.
Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính,
tôi trung của Ta,
sẽ làm cho muôn người nên công chính
và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ.
12 Vì
thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản,và cùng với những bậc anh
hùng hào kiệt,
nó sẽ được chia chiến lợi phẩm,
bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị
liệt vào hàng tội nhân ; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và
can thiệp cho những kẻ tội lỗi. (Is 53,4-6.10-12)
Tôi đã không biết Người
Ông Gio-an cho mọi người biết nhờ đâu
ông biết Người :
31 Tôi
đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến
làm phép rửa trong nước." 32 Ông Gio-an còn làm
chứng : "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự
trên Người. 33 Tôi đã không biết Người. Nhưng chính
Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi : "Ngươi thấy Thần
Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh
Thần." 34 Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người
là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn."
Đấng Thiên Chúa tuyển chọn lại
ám chỉ tới bài ca thứ nhất về người tôi tớ trong sách I-sai-a :
Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ,
là người Ta tuyển chọn và
quý mến hết lòng,
Ta cho thần khí Ta ngự trên nó ;
nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn
dân (Is 42,1)
Ngày hôm sau : các môn đệ đầu tiên
35 Hôm
sau, ông Gio-an lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. 36 Thấy
Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói : "Đây là Chiên Thiên
Chúa." 37 Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi
theo Đức Giê-su. 38 Đức Giê-su quay lại, thấy các ông
đi theo mình, thì hỏi : "Các anh tìm gì thế ? " Họ
đáp : "Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu ? " 39 Người
bảo họ : "Đến mà xem." Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với
Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. (Ga 1,35-39).
Ngày thứ nhất, ông Gio-an làm chứng
trước phái đoàn chính thức của giới thẩm quyền tại Giê-ru-sa-lem (vô danh),
ngày thứ hai ông làm chứng trước mặt dân chúng, ngày thứ ba ông làm chứng trước
mặt hai môn đệ của ông. Ông chỉ nhắc lại vế thứ nhất của danh hiệu ông đã nói
với đám đông. Nhưng kết quả là hai môn đệ của ông liền đi theo Đức Giê-su.
Đức Giê-su quay lại hỏi : “Các
anh tìm gì thế ?” Sau này khi những kẻ đến bắt Đức Giê-su xuất hiện
thì Người hỏi : “Các anh tìm ai ?” (Ga 18,4). Khi
bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đứng khóc bên mộ, Chúa hỏi : “Bà kia, sao lại
khóc, Bà tìm ai ?”
Ta có thể nhận ra một sắc thái đặc biệt
của mỗi câu hỏi. Bà Ma-ri-a Mađalena khóc vì bà thấy người ta đã lấy mất Chúa
của bà, nên Chúa hỏi : “hỡi người đàn bà, sao bà khóc ? Bà tìm
ai ?” Bà tìm Chúa của bà hay tìm cái xác chết ? Nếu bà tìm cái xác
chết thì đúng là nó không còn trong mộ, nhưng nếu bà tìm Chúa của bà thì là
chuyện khác. Trong bữa Tiệc Ly Chúa đã so sánh nỗi đau của Chúa và nỗi buồn của
môn đệ như nỗi đau sinh con của người đàn bà… Khi đã sinh xong đứa con thì bà
vui mừng, quên hết mọi ưu phiền. Chúa gọi “hỡi người đàn bà, sao bà khóc ?”
Sự sống mới đã có rồi, loài người mới đã sinh ra rồi, sao bà còn khóc ?
Rồi như người Mục Tử gương mẫu, Chúa gọi tên bà, bà liền đáp lại : “Ráp-bu-ni”
(Lạy Thầy). Với những kẻ đến bắt thì Chúa hỏi “các anh tìm ai ?” vì
họ đang tìm Chúa để bắt, mà họ không biết mặt Chúa, Giu-đa phải cho họ một dấu
hiệu để họ nhận ra : nụ hôn phản nộp. Còn với hai người hôm nay đi theo
sau Chúa, thì Chúa muốn họ xác định rõ họ tìm cái gì ở Chúa.
Họ xin địa chỉ. Nhưng địa chỉ của Chúa
không diễn tả được, Chúa mời họ đi theo, Chúa dẫn họ về nơi Chúa ở. “Họ đến,
xem nơi Chúa ở và ở lại với Người hôm ấy”. Rồi họ ở luôn với Chúa và đi dẫn
anh em bè bạn đến với Chúa. Người làm chứng chỉ cho người khác thấy Chúa
Giê-su, giới thiệu, rồi để cho người ta gặp Chúa và Chúa chinh phục người ta.
Ngay bước đầu, ông Gio-an đã để cho hai người môn đệ đang đứng với ông, rời ông
mà đi theo Đấng mà ông vừa giới thiệu cho họ : “Con Chiên của Thiên
Chúa”. “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.” (Ga 3,30).
“Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”.
Có thể đây là kỷ niệm cá nhân không bao giờ quên được. Có thể gợi ý nghĩa tượng
trưng của con số 10 : sự tròn đầy, viên mãn. Thời gian đã mãn. Niềm mong
đợi của họ đã thành hiện thực. Họ đã gặp được Đấng Mê-si-a, như ông An-rê khoe
với em mình ngay sau đó.
Một trong hai người đầu tiên đi theo
Chúa Giê-su là ông An-rê. Ông liền đi tìm và khoe với em là Si-mon, rồi đưa em
đến với Chúa Giê-su (Từ Hy-lạp chỉ chung anh em, không phân biệt. Các tiếng gốc
La-tinh và Hy-lạp cũng vậy. Tiếng Việt và một số ngôn ngữ Phi Châu thì có hai
từ khác nhau để chỉ anh và em. Tôi đã giải thích ở trên tại sao chúng tôi dịch
ông An-rê là anh (x. chú thích 1)). Chúa dành cho ông Si-mon một bất ngờ. Vừa
thấy ông, Chúa nói ngay tên cha của ông và cho ông một cái tên mới. Trong Kinh
Thánh, khi Thiên Chúa đổi tên cho một người là để chỉ người đó có một sứ mạng
đặc biệt : Ap-ram thành Áp-ra-ham, Sa-rai thành Sa-ra, Gia-cóp thành
Ít-ra-en. Sách Tin Mừng Mát-thêu nói rõ hoàn cảnh Chúa đổi tên cho ông Si-mon
và ý nghĩa cái tên mới (x. Mt 16,18). Trường hợp hai anh em
Gia-cô-bê và Gio-an chung cái biệt danh “thiên lôi con”, thì chỉ diễn tả
cá tính “thiên lôi” của hai anh em nhà này, muốn làm môn đệ ông Ê-li-a, đòi lấy
lửa từ trời xuống đốt người ta ! Thậm chí dám xé rào đi nói nhỏ với Chúa
Giê-su để dành chỗ trong Nước Chúa, mà họ tưởng là nước ở trần gian này. Các
sách Tin Mừng Nhất Lãm chỉ kể như câu chuyện kỷ niệm giữa thầy trò thế thôi,
chứ không bao giờ thành tên gọi của hai ông ; trái với tên Kê-pha Chúa đặt
cho ông Si-mon Phê-rô, vì nó thành tên gọi của ông và tương ứng với sứ mạng
Chúa trao cho ông.
Ngày hôm sau
Hôm sau, tức là ngày thứ tư kể
từ khi ông Gio-an làm chứng trước mặt phái đoàn từ Giê-ru-sa-lem tới. Chúa
quyết định đi tới Ga-li-lê, Người gặp ông Phi-líp-phê, Người liền nói :
“Anh hãy theo tôi !” Có lẽ là người đã cùng gặp Chúa với ông An-rê
hôm trước, vì hai ông là đồng hương Bết-sai-đa, phía Bắc Hồ Ga-li-lê (Một lý do
khiến ta có thể nghĩ ông Phi-líp-phê là người cùng đi với An-rê, đó là mẩu đối
thoại giữa ông với Chúa Giê-su trong bữa Tiệc Ly. Chúa như trả lời câu hỏi hai
ông đã thưa Chúa: “Thầy ở đâu?” Hôm nay Chúa mới trả lời trực tiếp: “Thầy
ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy!”(x. Ga 14,
9-10)). Hôm trước thì ông An-rê lập tức đi tìm em và dẫn em tới gặp Chúa Giê-su,
Chúa liền đổi tên cho ông Si-mon. Cách kể này cho ta hiểu là ngay hôm ấy hai
anh em An-rê và Si-mon đã đi theo Chúa. Còn ông Phi-líp-phê thì hôm sau mới gặp
lại Chúa, lập tức được Chúa gọi đi theo. Ông cũng lập tức đi tìm người bạn là
Na-tha-na-en, quê ở Ca-na (x. Ga 21, 2), cách Na-da-rét chừng
6 cây số. Ông khoe với bạn và rủ bạn tới gặp Chúa. Phản ứng của Na-tha-na-en tỏ
ra ông là người thông thạo Sách Thánh. Nhưng Phi-líp-phê đã thuộc bài, lặp lại
lời mời của Chúa mà ông đã nghe : “Cứ đến mà xem !” Nể bạn,
ông Na-tha-na-en đến gặp Chúa. Chúa “đánh phủ đầu” bằng cách cho ông thấy Chúa
biết ông rõ lắm : “Đây là một người Ít-ra-en đích thật, lòng dạ không
có gì gian dối !” Chúa làm ông sững sờ : “Làm sao Ngài lại
biết tôi ?” Chúa bồi thêm một đòn : “Trước khi Phi-líp-phê gọi
anh, lúc anh còn dưới gốc cây vả, tôi đã thấy anh rồi !” Na-tha-na-en
liền đầu hàng vô điều kiện : “Thưa Thầy, Thầy chính là Con Thiên Chúa,
là Vua It-ra-en !”
Đây là một cuộc đấu trí tinh vi và thú
vị giữa Chúa Giê-su với Na-tha-na-en bằng lời Kinh Thánh ngầm chứa sau những
câu đối đáp, mà ta nên thưởng thức, vừa để hiểu chiều sâu của Sách Thánh, vừa
để thấy cách thức Chúa chinh phục mỗi người theo cá tính và khả năng của mỗi
người. Phi-líp-phê, đồng hương với hai anh em An-rê và Si-mon, chẳng tỏ ra có
nhiều kiến thức, nghe Thầy Gio-an Tiền Hô giới thiệu “Đây là Con Chiên Thiên
Chúa” chẳng thắc mắc gì, chỉ tìm gặp Chúa, “rồi ở lại với Chúa ngày hôm
ấy” (Tức là đến chiều, vì người Do-thái tính ngày từ lúc mặt trời lặn tới
lúc mặt trời lặn. Mặt trời lặn là sang ngày hôm sau rồi.), sau đó lần lượt, kẻ
dẫn em, người dẫn bạn đến theo Chúa. Phi-líp-phê biết bạn là người “có học”nên
giới thiệu Chúa với Na-tha-na-en một cách rào đón trang trọng : “Đấng
mà Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giê-su, con ông
Giu-se, người làng Na-da-rét !” Làng Ca-na của Na-tha-na-en ở cách
làng Na-da-rét của ông Giê-su chừng 6 cây số, truyện tiệc cuới Ca-na sau đó
(x. Ga 2,1-12), chứng tỏ giữa hai làng này có những gia đình
họ hàng thân thích với nhau, nên Na-tha-na-en chẳng lạ lẫm gì, nghe cái tên
Na-da-rét ông liền bỉu môi (tôi xin phép diễn bằng kiểu nói Việt Nam) : “Cái
xóm [Na-da-rét] chết rét đó mà có cái gì hay được chứ ! ?”
Phi-líp-phê biết mình không đủ khả năng tranh luận với ông bạn thông thái, liền
sử dụng tình bạn rủ Phi-líp-phê : “Thì anh cứ đến mà xem !”
Na-tha-na-en nể bạn mà đến gặp Chúa Giê-su. Phi-líp-phê đã hoàn thành vai trò
của mình là đưa cho được người bạn thông thái đến trước mặt Chúa Giê-su. Phần
còn lại Chúa làm ngay.
Nói tiếp về cuộc đấu trí bằng Sách Thánh
giữa “Ông Giê-su làng Na-da-rét” với ông thông thái làng Ca-na. Chúa Giê-su bắt
đầu từ lúc Phi-líp-phê gặp Na-tha-na-en. Đòn phủ đầu của Chúa Giê-su : “Đây
là một người Ít-ra-en đích thật…” như xác nhận lời của Phi-líp-phê giới
thiệu đồng thời đáp lại câu ông nói về Na-da-rét, vì ám chỉ tới lời sách I-sai-a 63,8
nói về dân Ít-ra-en khi đã được Thiên Chúa cứu chuộc : “Người đã phán,
thật chúng là dân của Ta, là những đứa con không lừa dối”. Lời sách I-sai-a lại
vang vọng truyện Gia-cóp (x. St 25,19 – 33,20). Gia-cóp là
người mánh mung, lừa được cả cha để đoạt quyền trưởng nam của Ê-sau, rồi làm
giàu nhờ đàn vật của bố vợ ; khi gặp lại Ê-sau trên Đất Hứa thì dùng của
lễ và dàn cảnh cho Ê-sau lóa mắt, để mua lòng và tránh được sự kềm tỏa của
Ê-sau. Trước khi gặp lại Ê-sau, ông đã vật lộn với Thiên Chúa ở sông Giáp-bốc,
được Thiên Chúa đổi tên là Ít-ra-en : “vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa
và với người ta, và ngươi đã thắng”. Gặp nhà thông thái, Chúa chỉ cần gại vào
hai giây đàn, giây đàn của Mô-sê kể truyện Gia-cóp và giây đàn I-sai-a ca người
Ít-ra-en đích thật, là ông đã phải nhận ra những lời Mô-sê và các ngôn sứ. Khác
nào Người nói với Na-tha-na-en : Phi-líp-phê nói đúng, mà anh nói cũng
đúng, vì đúng là Sách Thánh không nói gì về Na-da-rét cũng như không nói gì về
Ca-na, nhưng từ Ca-na lại có một người được lời Mô-sê và ngôn sứ I-sai-a nói
tới, một người Ít-ra-en đích thật, đó là anh đấy !
Trúng đòn phủ đầu, Na-tha-na-en ngơ ngác
hỏi : Bởi đâu mà Ngài biết tôi ? Câu hỏi của ông lại gợi lên giai
điệu của thánh vịnh 139/138 : “Lạy Chúa, Chúa đã dò xét con và Ngài
biết rõ con”. Chúa Giê-su như ngâm liền câu thánh vịnh ông vừa dạo
đàn : “Biết cả khi con đứng con ngồi, con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt
từ xa… Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài, lẩn nơi nào
cho khuất được thánh nhan”. Người đáp lại : “Trước khi Phi-líp-phê
gọi anh. Lúc anh còn dưới gốc cây vả, tôi đã thấy anh rồi”. Lời Chúa nói
như làm vang lên trong đầu nhà thông thái Na-tha-na-en đồng thời toàn bộ thánh
vịnh (Độc giả nên đọc chậm rải toàn bộ thánh vịnh này rồi đọc lại cuộc đối
thoại Phi-líp-phê – Na-tha-na-en và Chúa Giê-su với Na-tha-na-en thì mới thấm
thía. Thánh vịnh 139/138 ví như “nhạc nền” của hai cuộc đối thoại.). Lời ấy còn
vang vọng lời sách Da-ca-ri-a (3,10) loan báo ngày Đấng
Mê-si-a xuất hiện : “Ngày ấy các ngươi sẽ mời mọc nhau dưới bóng cây
nho, dưới gốc cây vả” (bản Hy-lạp của Da-ca-ri-a và Gio-an khớp
với nhau : hypokato sykès). Thêm cả lời sách Mi-kha nói
về thời Thiên Chúa hiển trị tại Xi-on : “Mỗi người sẽ ngồi dưới cây
nho, cây vả của mình” (Mk 4,4).
Bấy nhiêu quá đủ rồi. Nhà thông thái bị
choáng ngợp, bị hạ “đo ván” rồi ! Ta như thấy ông phủ phục trước mặt “ông
Giê-su người làng Na-da-rét” mà ông vừa bỉu môi khi thoạt nghe Phi-líp-phê giới
thiệu. Ông tuyên xưng : “Thầy chính là Con Thiên Chúa, Thầy chính là
Vua Ít-ra-en”. Thế là điều mà ông Phi-líp-phê (Bết-sai-đa là một làng
chài ở phía bắc hồ Ga-li-lê, cách Ca-phác-na-um không xa, nhưng cuộc động đất
làm sụp đổ Ca-phác-na-um (cuối thế kỷ thứ sáu) đã đưa làng Bết-sai-đa trồi lên
núi và đổi cửa nước vào hồ Ga-li-lê trước kia ở bên trái đã dời sang bên phải
của Bết-sai-đa. Quả là “thế gian biến cải vũng nên đồi”; “thanh hải biến
vi tang điền, tang điền biến vi thanh hải” (Biển xanh biến thành vườn dâu, vườn
dâu biến thành biển xanh --> “Trải qua một cuộc bể dâu, những điều
trông thấy mà đau đớn lòng” [Nguyễn Du, Truyện Kiều]).) dân làng chài nói chung
chung rằng “Mô-sê và các ngôn sứ đã nói”, thì bây giờ Chúa Giê-su nhẹ
nhàng nhắc bài cho nhà thông thái, khiến ông nhận ra ông đang được phúc sống
ngày của Đấng Mê-si-a và được đứng trước mặt ngài nữa cơ ! Ôi hạnh phúc
tuyệt vời ! Cám ơn bạn Phi-líp-phê nhé và xin lỗi bạn vì tôi đã hồ
đồ… !
Chúa thưởng cho nhà thông thái và các
bạn vừa cùng nhau theo Chúa một lời hứa hẹn tuyệt vời :
Đức Giê-su đáp : "Vì tôi nói
với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin ! Anh sẽ còn được
thấy những điều lớn lao hơn thế nữa." 51 Người lại
nói : "Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và
các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người."
Bây giờ thì Chúa nói về bản thân Người
trong lời Mô-sê. Nhắc đến Gia-cóp và “Ít-ra-en mới”, tức là tới hồi
Gia-cóp trở lại Đất Hứa, thì Chúa đẩy lui một bước nữa, trở lại giấc mơ của
Gia-cóp khi Gia-cóp lên đường trốn cơn thịnh nộ của Ê-sau, đó là truyện cái
thang trong giấc mơ của Gia-cóp (x.St 28, 10-19). Giấc Mơ của
Gia-cóp thành sự thực nơi Người : Người chính là cái thang nối đất với
trời, vì các thiên thần mà Gia-cóp thấy lên lên xuống xuống trên cái thang
trong giấc mơ của ông, bây giờ lên lên xuống xuống trên cái thang thật, chính
là Người, người làng Na-da-rét đang nói với các ông đấy. Mô-sê và các ngôn sứ
không nói về làng Na-da-rét, nhưng nói về một người của làng Na-da-rét.
Đến đây thì ta có thể rút một bài học
tuyệt vời về tầm quan trọng của người làm chứng và vai trò quyết định của chính
Chúa Giê-su. Nhờ ông Gio-an làm chứng, hai môn đệ thân tín của ông đi theo
Chúa. Rồi chính Chúa ân cần đón tiếp hai người này, mời đến xem nơi Chúa ở và
cho ở lại làm quen, thân mật với Chúa. Hai người này gặp Chúa rồi, lập tức
người đi tìm em, kẻ đi tìm bạn thân, giới thiệu và đưa đến với Chúa, nhờ tình
anh em, tình bạn bè. Mỗi người đến lại được Chúa thâu phục một cách khác nhau
tùy cá tính, khả năng của mỗi người. Cả hai bị chinh phục ngay từ lần đầu gặp
Chúa và vào số những người bạn thân tín nhất của Chúa. Phục tài chinh phục của
Chúa chưa ! Cứ lấy tình bạn bè dẫn nhau đến với Chúa, Chúa biết mỗi người
được nhồi nắn bằng gì… Càng cua giương lên hay lông nhím xù ra Chúa cũng chẳng
sợ đâu ! Tay không Chúa bắt được hết đấy ! Cứ an tâm. Sau các tông
đồ, truyện các thánh cũng minh họa thực tế ấy cả. Cứ nghiệm mà xem. Chúng ta
chắc ít ai dám giương càng cua hay xù lông nhím với Chúa như các thánh, nhưng
lại dễ lủi dưới cát như Chử Đồng Tử… Thôi thì đành khiêm tốn vọng tiếng lên từ
trong lòng đất, xin Chúa làm ơn xối nước lên cát cho con ló cái đầu ra để Chúa
túm vậy !
Thế là bốn ngày do ông Gio-an mở đầu với
việc làm chứng trước mặt phái đoàn chính thức của Giê-ru-sa-lem, rồi trước mặt
toàn dân, trước mặt hai môn đệ thân tín của ông, thì nhờ lời làm chứng của ông,
Chúa đã thâu nạp được bốn người môn đệ thân tín khi lên đường đi Ga-li-lê.
Muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra ở
Ga-li-lê, xin mời đón đọc hồi sau sẽ rõ.
Lễ thánh
Mác-cô, tác giả sách Tin Mừng 25/4/2018