Đã Đến Giờ
(Tìm hiểu Tin Mừng theo thánh Gio-an) – Bài 11
Tác giả: Linh mục Giu-se Nguyễn Công
Đoan, S.J., ngày 3 tháng 11 năm 2018
Tại Ca-na, trong tiệc cưới, Chúa Giê-su
đã nói với thân mẫu một lời bí ẩn : “Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4)
Đó là lần đầu trong sách Tin Mừng thứ tư này, tác giả làm như đạo diễn phim,
cho chúng ta thấy chiếc đồng hồ trên tường tíc tắc, với hai cây kim phút và giờ
lững thững di chuyển, khiến ta hồi hộp chờ đợi. Bao giờ mới đến giờ của
Ngài ? Giờ ấy đến thì cái gì sẽ xảy ra ? Suốt những chương tiếp theo,
thỉnh thoảng đạo diễn lại cho chúng ta nghe đồng hồ tích tắc, và thấy kim đồng
hồ vẫn nhích từ từ, “giờ chưa tới”.
Ở chương thứ năm, tại Giê-ru-sa-lem thì
Chúa lại nói đến một giờ khác : “Tôi bảo thật các ông : giờ
đã đến, và chính là lúc này đây – giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên
Chúa ; ai nghe thì sẽ được sống… Giờ đã đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ
sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó.” (Ga 5,25.28).
Hai giờ này có trùng với nhau không ?
Đến chương mười một, ta lại thấy Chúa
Giê-su như minh hoạ “giờ” đã nói ở chương thứ năm, khi Chúa khóc và đến
tận mồ của La-da-rô, “cục cưng của Chúa”. Chúa đứng ngoài, cất tiếng
gọi : “La-da-rô, ra ngoài này !” Lập tức La-da-rô bật ra đứng
trước cửa mồ, “chân tay còn quấn vải, mặt còn phủ khăn”. Chúa phải ra
lệnh : “Cởi khăn và băng vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi !”
“Cục cưng của Chúa” nghe tiếng Chúa gọi liền ra khỏi mồ, trở về cuộc sống, ngồi
ăn với Chúa. Nhưng các thượng tế đã quyết định giết Chúa Giê-su vì Chúa “làm
nhiều dấu lạ”, nay lại “quyết định giết cả anh La-da-rô nữa, vì tại anh
mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin vào Đức Giê-su” (Ga 12,10-11).
Như vậy thì “cục cưng của Chúa” ra khỏi mồ ở đây mới chỉ là dấu hiệu chứ chưa
phải như Chúa đã nói : “Ai nghe thì sẽ được sống… Ai đã làm điều lành,
thì sẽ sống lại để được sống ; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị
kết án” (Ga5,25.29).
Vậy thì “giờ của những kẻ ở trong mồ”
lệ thuộc vào “Giờ” của Chúa Giê-su. “Giờ của Con Người” phải đến
trước. Ở chương 12, Chúa sẽ reo lên và cho ta biết : “Đã đến giờ Con
Người được tôn vinh” (Ga12,23). Ta bỗng nghe tiếng tích tắc rõ hơn,
và thấy kim chỉ phút trên mặt đồng hồ đã nhích tới gần số 12.
Gio-an đang dẫn chúng ta vào
Giờ của Chúa và từng bước giải thích cái gì sắp xảy ra. Ta hãy đi theo và nghe
kỹ lời giải thích.
1. Sáu ngày trước lễ Vượt Qua
Ở đầu sách, Gio-an đếm
ngày, kể từ hôm ông Gio-an Tiền Hô trả lời phái đoàn chính thức từ
Giê-ru-sa-lem tới, bằng ba lần “hôm sau, hôm sau, hôm sau”, rồi “ngày
thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na” (Ga1,29.35.43 ; 2,1), tức
là ngày thứ sáu, tương ứng với ngày Thiên Chúa tạo dựng con người,
“có nam có nữ” (St 1,26-31).
Đến đây, Gio-an lại đếm
lui, lấy điểm tới là Lễ Vượt Qua : “Sáu ngày trước lễ Vượt Qua,
Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi anh La-da-rô ở” (Ga 12, 1).
Đây là điểm then chốt cần tìm hiểu để có thể đọc phần thứ hai của cuốn sách, từ
chương 12 đến hết.
Sau tiệc cưới ở Ca-na, dịp lễ Vượt
Qua, Chúa Giê-su lên Giê-ru-sa-lem và đụng độ với giới lãnh đạo trong Đền
Thờ. Các môn đệ nghe lời Chúa đối đáp, nhưng chỉ đến “khi Người từ cõi chết
trỗi dậy, các môn đệ mới nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và
lời Đức Giê-su đã nói” (Ga 2,22). Tình huống này gợi lại tình
huống của dân được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập và ý nghĩa của Lễ Vượt Qua.
Dân sống dưới ách nô lê không tin vào Thiên Chúa cũng không tin ông Mô-sê ;
họ thà yên thân làm nô lệ hơn là trải qua nguy hiểm để được tự do (x. Xh 5,19-23 ;
14,10-12). Chỉ đến khi đã vượt qua Biển, “thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh
đánh quân Ai-cập, toàn dân mới kính sợ Đức Chúa và tin vào ông Mô-sê, tôi trung
của Người” (Xh 14,31).
Ở chương 11, khi đang lánh nạn ở
Bê-ta-ni-a bên kia sông Gio-đan (x. Ga 10, 39-40) Chúa Giê-su
quyết định trở lại xứ Giu-đê thì các môn đệ run : “Rồi sau đó,
Người nói với các môn đệ : “Nào chúng ta cùng trở lại miền
Giu-đê !” 8 Các môn đệ nói : “Thưa Thầy, mới đây người
Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao ?” (Ga 11,7-8)
Ngay chính “người môn đệ Chúa Giê-su
thương mến” thì cũng chỉ sau khi đã thấy ngôi mộ trống và “thấy các băng
vải và khăn che đầu” còn đó, xếp gọn gàng riêng biệt, mới “đã thấy và đã
tin. Thật vậy, trước đó, hai ông [cả ông Phê-rô] chưa hiểu
rằng : theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.” (Ga 20,8-9).
Nhắc lại những điều này để thấy mối liên
kết giữa ba lần Lễ Vượt Qua mà Gio-an kể tới, và lần thứ ba này thì chính Chúa
Giê-su là Con Chiên Vượt Qua để giải thoát chúng ta, tất cả loài người chứ
không phải riêng một dân nào ; khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết,
mà đưa vào cuộc sống vĩnh cửu trong Thiên Chúa, chứ không phải tới một miền đất
nào trên trần gian này.
Để hiểu ý nghĩa của “sáu ngày trước
lễ Vượt Qua”, chúng ta phải trở lại quy định về Con Chiên để ăn lễ Vượt Qua
trong sách Xuất Hành. Điểm cốt lõi, chính yếu của việc mừng lễ Vượt Qua là ăn
thịt con chiên dành cho ngày lễ này. Sách Xuất Hành quy định :
1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và
ông A-ha-ron trên đất Ai-cập : 2 “Tháng này, các ngươi phải kể
là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. 3 Hãy nói với
toàn thể cộng đồng Ít-ra-en : Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt
một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. 4 Nếu nhà ít người,
không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình
nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao
nhiêu mà chọn con chiên. 5 Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con
đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. 6 Phải
nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng
Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, 7 lấy máu bôi lên khung cửa
những nhà có ăn thịt chiên. 8Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn
với bánh không men và rau đắng. 9 Các ngươi không được ăn sống hay
luộc, nhưng chỉ được ăn nướng, với cả đầu, chân và lòng. 10 Không
được để lại gì đến sáng ; cái gì còn lại đến sáng, phải đốt đi. 11 Các
ngươi phải ăn thế này : lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi
phải ăn vội vã : đó là lễ Vượt Qua mừng ĐỨC CHÚA. (Xh 12,1-11)
Thời gian : ngày
mồng mười thì phải sắm một con chiên tùy theo số người để ăn cho
hết (1), nhà ít người thì có thể hùn chung (miền Bắc nói : đánh đụng) với
nhà khác. Chọn được con chiên đúng cỡ, đúng qui định rồi thì phải nhốt riêng nó
ra. Lúc mặt trời lặn vào ngày mười bốn thì sát tế
(2). Phải nướng chứ không được làm món gì khác. Rồi phải ăn hết, còn dư thì đốt
đi chứ không được để tới hôm sau. Như vậy khi họ ăn thì đã là ngày 15,
vì Sách Thánh tính ngày từ lúc mặt trời lặn tới mặt trời lặn, chứ không tính từ
lúc mặt trời mọc như ta (x. St 1,5). Tính lui lại sẽ thấy
là “sáu ngày trước lễ Vượt Qua” thì phải sắm con chiên và dành
riêng, nhốt riêng ra.
2. Quang cảnh dọn mừng lễ tại Giê-ru-sa-lem
Khi ấy sắp đến lễ Vượt Qua của người
Do-thái. Từ miền quê, nhiều người lên Giê-ru-sa-lem để cử hành các nghi thức
thanh tẩy dọn mình mừng lễ. 56 Họ tìm Đức Giê-su và đứng trong Đền
Thờ bàn tán với nhau : “Có thể ông ấy sẽ không lên dự lễ, các ông có nghĩ
thế không ?” 57 Còn các thượng tế và người Pha-ri-sêu thì ra lệnh :
ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt. (Ga 11,55-57).
Trong khung cảnh chuẩn bị lễ Vượt Qua,
dân chúng “từ miền quê lên Giê-ru-sa-lem để cử hành các nghi thức thanh tẩy
dọn mình mừng lễ”. Mọi người đi tìm sắm con chiên. Thì tại Giê-ru-a-lem
Dân chúng đi tìm Chúa Giê-su, tụm năm tụm ba trong Đền Thờ ban tán về Người.
Còn các thượng tế và người Pha-ri-sêu thì đã phát lệnh truy nã Chúa Giê-su.
Những động thái này gợi nhớ lời ông Gio-an Tiền Hô giới thiệu Chúa
Giê-su là Con Chiên của Thiên Chúa (x. Ga 1,29).
“Con Chiên của Thiên Chúa” đã trở thành Con Chiên Vượt Qua Người
ta đang đi tìm để giết mà “ăn lễ Vượt Qua”. Các thượng tế điệu Chúa
Giê-su đến dinh Phi-la-tô cũng sẽ “không vào kẻo bị nhiễm uế mà
không ăn lễ Vượt Qua được” (Ga 18,28).
3. Tại Bê-ta-ni-a
Trong quang cảnh nhộn nhịp đó, Chúa
Giê-su trở lại Bê-ta-ni-a gần Giê-ru-sa-lem, đến nhà ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a
và La-da-rô,
Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức
Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi anh La-da-rô ở. Anh này đã được Người cho sống
lại từ cõi chết.
Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi
Đức Giê-su ; cô Mác-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong những kẻ
cùng dự tiệc với Người. 3 Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm cam tùng
nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi
thơm. (Ga 12,2-3)
Ba chị em này là những người “Chúa
Giê-su thương mến” (x. Ga 11,5). Ba chị em tiếp đãi
Chúa, mỗi người một vị trí. Chị Mác-ta đứng hầu
bàn ; La-da-rô ngồi ăn với Chúa ; Ma-ri-a lấy
một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất quý giá, ngồi dưới chân Chúa, đổ dầu lên
chân Chúa rồi lấy tóc mà lau. “Cả nhà sực nức mùi thơm”. Hành
động của Ma-ri-a xem ra là trung tâm trình thuật này : gây phản ứng, dẫn
tới lời giải thích và bênh vực của Chúa.
Có nhiều khía cạnh cần tìm hiểu. Trước
hết, trong khung cảnh Chúa Giê-su đang ngả lưng dự tiệc, một khối lượng lớn dầu
thơm, “một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất quý giá” đổ lên chân
Chúa, làm “cả nhà sực nức mùi thơm”, gợi nhớ lời trong sách Diễm
ca :
Lúc quân vương ngự giữa nội cung,
dầu cam tùng của tôi toả hương thơm ngát (Dc 1,12).
Với hình ảnh này, Gio-an đã
dạo lên cung đàn của sách Diễm ca (3) làm nhạc nền cho cả phần
thứ hai này. Giờ của Chúa Giê-su là giờ của Tình Yêu :
“Thiên Chúa yêu thế gian đến
nỗi ban Con Một...“ (Ga 3,16)
Chúa Giê-su muốn tỏ cho “thế gian
biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Người đã
truyền cho Thầy” (Ga 14,31)
Chúa Giê-su tỏ lòng “yêu đến cùng”,
thí mạng vì những kẻ mình yêu mến (x. Ga 10,15 ;
15,13) :
“Trước lễ Vượt Qua, Đức
Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa
Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người
yêu thương họ đến cùng”. (Ga13,1)
Ma-ri-a đại diện cho những người
được Chúa Giê-su yêu mến, đón nhận và đáp lại tình yêu của Chúa bằng dầu thơm
và bằng cả trái tim nồng nàn, như hình ảnh trong sách Diễm ca :
Người tôi yêu là chùm mộc dược
nằm gọn trên ngực tôi. (Dc 1,13)
Ông Ni-cô-đê-mô sẽ làm trọn hình ảnh
này, khi đem một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương
đến tẩm liệm xác Chúa Giê-su (x. Ga 19,39-40).
Cân dầu thơm đổ lên chân Chúa vừa diễn
tả tình yêu của ba chị em dành cho Chúa, vừa cho thấy là nhà này đã chọn được
con chiên để ăn lễ Vượt Qua, là chính Con Chiên của Thiên Chúa.
Sự phản kháng của Giu-đa là dịp để Chúa
Giê-su giải thích cho người ta biết làm thế nào đáp lại tình yêu hải hà của
Chúa. Bố thí cho người nghèo là việc tốt. Nhưng Chúa cũng đáng được yêu mến và
đáp đền. Chúa cũng đang trở thành người nghèo đến tột cùng đây. Chúa sẽ bị lột
hết từ phẩm giá con người cho tới manh áo cuối cùng và không có nơi tựa đầu
trên thập giá. “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có”. Lời
Chúa nói như vang vọng lời sách Đệ nhị luật (4). Trong
kinh “thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối”, mối thứ
bảy là chôn xác kẻ chết. Chúa đón nhận cân dầu thơm này như là tẩm liệm trước
thân xác của Chúa để mai táng. Nghĩa tử là nghĩa tận. Lần đầu và cũng là lần
cuối, không có lần thứ hai đâu. Kẻ không yêu mến thì luôn luôn thấy là lãng
phí, và tìm ra những lý do hào nhoáng nhất để che đậy cho bụng dạ xấu xa hẹp
hòi của mình (5).
4. Chúa Giê-su vào Giê-ru-sa-lem và được chào đón như vua của Ít-ra-en
Ý nghĩa “quân vương” của cân dầu
thơm cam tùng quý giá ở Bê-ta-ni-a và lời sách Diễm ca sẽ bộc
lộ ra ngày hôm sau, khi Chúa Giê-su vào Giê-ru-sa-lem.
12 Hôm sau, dân chúng lũ lượt tuôn
đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giê-su tới Giê-ru-sa-lem, 13 họ
cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò : Hoan hô ! Hoan hô !
Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa ! Chúc tụng vua Ít-ra-en ! 14 Đức
Giê-su gặp một con lừa nhỏ, liền cỡi lên như có lời chép : 15 Hỡi
thiếu nữ Xi-on, đừng sợ ! Này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên lưng
lừa con. 16 Lúc đầu, các môn đệ không hiểu những điều ấy. Nhưng sau
khi Đức Giê-su được tôn vinh, các ông mới nhớ lại là Kinh Thánh đã chép những
điều đó về Người, và dân chúng đã làm cho Người đúng y như vậy. (Ga 12,12-16)
“Họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón
Người và reo hò”. Quang cảnh này gợi lại cảnh đoàn quân trở về sau khi
Đa-vít hạ được Gô-li-át :
Lúc quân dân đến, khi
ông Đa-vít hạ được tên Phi-li-tinh trở về, thì phụ nữ từ
hết mọi thành của Ít-ra-enkéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với
trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Phụ
nữ vui đùa ca hát rằng : “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, ông Đa-vít hàng
vạn.” (1 Sm 18,6-7).
Hôm nay thi họ tung hô Chúa
Giê-su : “Hoan hô ! Hoan hô ! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân
danh Chúa ! Chúc tụng vua Ít-ra-en”.
Khi vua Đa-vít truyền đưa thái tử
Sa-lô-môn lên làm vua thì ra lệnh :
“Hãy đưa các bề tôi của chúa thượng các
ngươi đi theo các ngươi ; để Sa-lô-môn con ta cỡi con la
cái của ta, rồi đưa nó xuống Ghi-khôn. 34 Ở đấy, tư
tế Xa-đốc và ngôn sứ Na-than sẽ xức dầu phong nó làm
vua Ít-ra-en ; các ngươi sẽ rúc tù và, và hô :
‘Vua Sa-lô-môn muôn năm !’ 35 Rồi các ngươi sẽ theo nó
đi lên, nó sẽ vào ngự trên ngai của ta, nó sẽ làm vua thay thế ta,
vì nó chính là người mà ta đã đặt lên cai
quản Ít-ra-en và Giu-đa.
Chúa Giê-su là Vua Ít-ra-en, nhưng không
cỡi con la của Đa-vít, mà cỡi một con lừa con. Gio-angiải nghĩa
việc Chúa cỡi con lừa con bằng lời sách Da-ca-ri-a :
Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan
hỷ !
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui
sướng reo hò !
Vì kìa Đức Vua của ngươi đang
đến với ngươi :
Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng,
khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
một con lừa con vẫn
còn theo mẹ. (Dcr 9,9)
Lúc ấy các môn đệ chẳng hiểu gì, chỉ “sau
khi Chúa Giê-su được tôn vinh, các ông mới nhớ lại là Kinh Thánh đã chép những
điều ấy về Người, và dân chúng đã làm cho Người đúng y như vậy”.
Đám đông dân chúng ra đón Chúa là một
đoàn chứng nhân : một số đã có mặt khi Chúa gọi La-da-rô ra khỏi mồ, một
số thì nghe biết Người đã làm dấu lạ đó.
Còn người Pha-ri-sêu thấy cảnh ấy thì
thất vọng, quay ra cắn xé lẫn nhau : “Các ông thấy chưa, các ông chẳng
làm nên trò chống gì cả ! Thiên hạ đi theo ông ấy rồi kìa !”
5. Đã đến giờ Con Người được tôn vinh
20 Trong số những người lên
Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp. 21 Họ đến
gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng : “Thưa
ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su.” 22 Ông Phi-líp-phê đi nói
với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức
Giê-su. 23 Đức Giê-su trả lời : “Đã đến giờ Con Người được
tôn vinh !
Ở chương 11, Thiên Chúa đã dùng miệng
thượng tế Cai-pha mà nói tiên tri : “Đức Giê-su sắp phải chết thay cho
dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái
Thiên Chúa tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,51-52). Hai
lần Chúa Giê-su đã lánh mặt khỏi Giu-đê và Giê-ru-sa-lem (x. Ga10,39-40 ;
11,54), vì giờ chưa đến. Hôm nay, khi người Hy-lạp đến tìm thì Chúa như reo
lên : “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh !”
Tôn vinh bằng
cách nào ? Ở chương thứ ba, khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa
đã gợi lại hình ảnh con rắn bằng đồng mà ông Mô-sê treo cao trong hoang
địa (x. Ga 3,14) ; ở chương thứ tám, Chúa lại
nói : “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là
tôi hằng hữu…” (Ga 8,28). Ở đây thì Chúa nói “Con Người được
tôn vinh”. Ở chương 2, câu 22, Gio-an nói : “Khi Đức
Giê-su từ cõi chết trỗi dậy…” Khi Chúa vào Giê-ru-sa-lem và được dân chúng
tung hô, Gio-an nói : “Sau khi Đức Giê-su được tôn vinh, các môn đệ mới
nhớ lại…” (Ga 12,16). Ở chương 6, khi nhiều môn đệ bỏ đi sau
bài giảng về bánh ở Ca-phác-na-um, Chúa bảo : “Vậy nếu anh em thấy Con
Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ?” (Ga 6,62). Trong
những lời Chúa nói với các môn đệ sau bữa Tiệc Ly, còn nhiều lời khác giúp ta
hiểu “được tôn vinh” nghĩa là gì và bằng cách nào : đó là Chúa được giương
cao trên thập giá và vào trong vinh quang của Chúa Cha, vinh quang Người
vẫn có nơi Chúa Cha (x. Ga 17,1.5).
Chúa Giê-su được tôn vinh qua hai
thì : chết trên thập giá và về trong vinh quang của Chúa Cha. Chúa dung
quy luật của hạt giống để giải thích sự tôn vinh “hai thì” của Chúa và áp dụng
cho môn đệ :
24 Thật, Thầy bảo thật anh em,
nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ
trọi một mình ; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. 25 Ai
yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất ; cònai coi thường mạng
sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. 26 Ai
phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy ; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy
cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy. (Ga 12,24-26)
“Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng
sẽ ở đó”. Theo làm môn đệ Chúa thì cũng phải qua “hai thì”thập giá
và vinh quang. Không có con đường nào khác để vào hưởng vinh quang.
Biết rằng thập giá là đường vào vinh
quang, nhưng Chúa Giê-su vẫn thú nhận là khi thấy thập giá tới gần thì Chúa
cũng “ngọng”, không biết nói gì :
“Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến !
Thầy biết nói gì đây ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì
giờ này mà con đã đến. 28 Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha.” Bấy giờ có
tiếng từ trời vọng xuống : “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh
nữa !”
Gio-an kể lời cầu nguyện bộc
phát của Chúa ở đây, cùng một nội dung tương ứng với lời cầu nguyện ở
Ghết-sê-ma-ni, hay Núi Cây Dầu, trong các Tin Mừng Nhất Lãm (x. Mt 26,36-44 ; Mc 14,32-42 ; Lc 22,39-46). Gio-an kể
tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống, xác nhận và làm chứng về Người trước mặt đám
đông, tương ứng với tiếng từ trời khi Chúa chịu phép rửa (x. Mt 3,17 ; Mc 1,11 ; Lc3,22),
và khi Chúa Giê-su tỏ vinh quang trên núi (x. Mt 17,5 ; Mc 9,7 ; Lc 9,35).
29 Dân chúng đứng ở đó nghe vậy
liền nói : “Đó là tiếng sấm !” Người khác lại bảo : “Tiếng một
thiên thần nói với ông ta đấy !” 30 Đức Giê-su đáp : “Tiếng
ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người.
Lời đám đông bàn tán và lời Chúa Giê-su
giải thích về tiếng từ trời gợi nhớ cảnh Thiên Chúa phán với ông Mô-sê ở núi
Xi-nai :
9 ĐỨC CHÚA phán với ông
Mô-sê : “Này Ta sẽ đến với ngươi trong đám mây dày đặc, để khi Ta nói với
ngươi thì dân nghe thấy và cũng tin vào ngươi luôn mãi”…
18 Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì
ĐỨC CHÚA ngự trong đám lửa mà xuống ; khói bốc lên như khói lò lửa và
cả núi rung chuyển mạnh. 19 Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất
mạnh. Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. (Xh 19,9.18-19)
Rồi Chúa giải thích ý nghĩa của GIỜ
này :
31 Giờ đây đang diễn ra cuộc phán
xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài !32 Phần
tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với
tôi.” 33 Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
Đây là giờ phán xét thế gian : Chúa
Giê-su chiến thắng Xa-tan và giải thoát cho dòng dõi người đàn bà như lời Thiên
Chúa hứa trong sách Sáng Thế :
15 Ta sẽ gây mối thù giữa mi và
người đàn bà,
giữa dòng giống mi và dòng giống người
ấy ;
dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi
sẽ cắn vào gót nó.” (St 3,15).
Dân chúng bày tỏ thắc mắc của họ và Chúa
Giê-su trả lời ; Chúa nhắc lại điều Người đã công bố dịp Lễ Lều (x. Ga
8,12) và nêu rõ tính khẩn trương :
34 Vậy, dân chúng thưa Người :
“Chúng tôi đã học biết trong sách Luật rằng : Đấng Ki-tô phải trường tồn
mãi mãi. Thế sao ông lại nói : ‘Con Người phải được giương cao’ ? Con
Người đó là ai ?” 35 Đức Giê-su bảo họ : “Ánh sáng còn ở
giữa các ông ít lâu nữa thôi. Các ông hãy bước đi, bao lâu các ông còn có ánh
sáng, kẻo bóng tối bắt chợt các ông. Ai bước đi trong bóng tối, thì không biết
mình đi đâu. 36 Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh
sáng, để trở nên con cái ánh sáng.”
Đã đến giờ, Chiên
Vượt Qua đã được dành riêng, nhưng còn phải đợi tới đúng giờ, tức
là giờ sát tế chiên Vượt Qua (x. Ga 19,14). Vì thế Chúa lại lánh đi, như con
chiên được nhốt riêng : “Nói thế xong, Đức Giê-su rời nơi đó và lánh đi
không cho họ thấy.”
6. Tổng kết tạm thời về sứ mạng rao giảng của Chúa Giê-su :
1/ Sự cứng lòng của một số người :
37 Người đã làm ngần ấy dấu lạ
trước mặt họ, thế mà họ vẫn không tin vào Người. 38 Như
vậy là ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a : Lạy Đức Chúa, ai đã tin lời chúng
tôi rao giảng ? Và quyền lực của Đức Chúa đã được tỏ cho ai ?
39 Sở dĩ họ không thể tin là vì ngôn
sứ I-sai-a còn nói : 40 Thiên Chúa đã làm cho mắt chúng ra đui
mù và lòng chúng ra chai đá, kẻo mắt chúng thấy và lòng chúng hiểu được mà hoán
cải, rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành !
41 Ngôn sứ I-sai-a nói những lời
đó, vì đã thấy vinh quang của Đức Giê-su, và ông đã nói về Người.
Ngôn sứ I-sai-a đã thấy Vinh Quang của
Thiên Chúa khi được Thiên Chúa gọi trong Đền Thờ.Gio-an coi đó là “vinh
quang mà Chúa Giê-su vẫn được hưởng bên Cha từ trước khi có thế gian” (Ga 17,5).
Nhưng Thiên Chúa cho I-sai-a biết là ông sẽ thất bại, vì ông càng rao giảng thì
người ta càng bưng tai bịt mắt và trở nên chai đá, giống như số phận của ông
Mô-sê (x. Is 6,1-10). Chính ông Mô-sê khi giã từ dân chúng để
lên núi Nê-bô và được Thiên Chúa cất đi, đã giải thích sự cứng lòng của họ suốt
40 năm qua : “Nhưng cho đến ngày hôm nay, ĐỨC CHÚA đã không cho
anh em lòng để biết, mắt để thấy, tai để nghe” (Đnl 29,3).
Sách Tin Mừng Mác-cô cho
thấy Chúa Giê-su cũng áp dụng lời này cho các môn đệ trước khi ông Phê-rô tuyên
xưng đức tin :
17 Biết thế, Người nói với các
ông : “Sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có bánh ? Anh em
chưa hiểu chưa thấu sao ? Lòng anh em ngu muội thế ! 18 Anh
em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư ? Anh
em không nhớ sao ? (Mc 8,17-18)
Kiểu nói trong sách I-sai-a mà Gio-an trích
dẫn ở đây khiến chúng ta ngạc nhiên. Sao Thiên Chúa sai ngôn sứ đi rao giảng mà
chính Thiên Chúa lại làm cho người nghe ra đui mù, chai đá, kẻo họ hoán cải mà
được chữa lành ? Đây là kiểu nói quen thuộc trong Sách Thánh, cái gì không
giải thích được thì cho là Thiên Chúa làm, cũng như sách Xuất hành nói, Thiên
Chúa đã làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá để ông không cho dân Ít-ra-en ra đi,
rồi để ông đuổi theo họ và cuối cùng ông bị tiêu diệt dưới đáy biển cùng với
binh lực của ông :
10 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron làm
mọi phép lạ đó trước mặt Pha-ra-ô ; nhưng ĐỨC CHÚA làm cho lòng
Pha-ra-ô ra chai đá, và vua không thả con cái Ít-ra-en ra khỏi đất ấy. (Xh 11,10)
4 Ta sẽ làm cho lòng Pha-ra-ô ra
chai đá và vua ấy sẽ đuổi theo dân. Nhưng Ta sẽ được vẻ vang hiển hách vì đã
đánh bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực của vua ấy, và người Ai-cập sẽ biết Ta
là ĐỨC CHÚA.” Con cái Ít-ra-en đã làm như vậy. (Xh 14,5)
2/ Tuy nhiên ngay cả trong giới lãnh đạo
cũng có nhiều người đã tin
Nhưng không phải tất cả đều cứng lòng
như nhau :
42 Tuy nhiên, ngay cả trong
giới lãnh đạo Do-thái cũng có nhiều người đã tin vào Đức Giê-su. Nhưng họ
không dám xưng ra, vì sợ bị nhóm Pha-ri-sêu khai trừ khỏi hội đường. 43 Thật
thế, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh quang của Thiên
Chúa. (Ga 12,42-43).
Cụ thể, mặc dầu ở chương thứ năm Chúa
Giê-su đã cảnh báo : “Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh
quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được ?”
(Ga 5,44), chúng ta đã thấy ông Ni-cô-đê-mô, ông là một thủ lãnh của người
Do-thái, nhưng ông đến gặp Chúa Giê-su ban đêm (Ga 3,1-2). Sau này
ông sẽ công khai, tuy gián tiếp, bênh vực Chúa (x. Ga 7,50-51).
Rồi khi Chúa đã chết thì ông mang một trăm cân mộc dược, đến mai táng Chúa cùng
với ông Giô-xép. Ông này là “một thành viên có thế giá trong Thượng Hội Đồng”
(Mc 15,42 ; Lc 23,51), nhưng cũng từng là môn
đệ “chui”, “vì sợ người Do-thái” (Ga 19,38-39).
3/ Chúa Giê-su tổng kết sứ mạng và sứ
điệp của mình
44 Đức Giê-su lớn tiếng nói
rằng : “Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào
Đấng đã sai tôi ; 45 ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi. 46 Tôi
là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng
tối. 47 Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải
chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để
cứu thế gian. 48 Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có
quan toà xét xử người ấy : chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong
ngày sau hết. 49 Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là
chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì.50 Và
tôi biết : mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói,
thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi.” (Ga 12,44-50)
(1) Chiên Vượt Qua phải được sát tế trong Đền Thờ, nên ngày nay người
Do-thái không giết chiên Vượt Qua vì không còn Đền Thờ. Người Sa-ma-ri thì vẫn
họp nhau trên núi Ga-ri-dim, giết chiên Vượt Qua và cùng nhau ăn tại chỗ ;
họ tính 15 người ăn một con.
(2) Ngày này, người Sa-ma-ri họp nhau trên núi Ga-ri-dim, vị Thượng
Tế đọc đoạn sách Xuất Hành kể chuyện Thiên Chúa giải thoát dân như thế nào. Họ
căn rất chính xác, đọc sách vừa xong là mặt trời khuất sau núi và họ bắt đầu
giết chiên Vượt Qua. Họ có những cái lò đào xuống đất như những cái giếng, đã
đốt củi suốt buổi chiều cho nóng đỏ. Khi giết chiên xong là củi đã cháy hết,
chỉ còn than, họ bỏ con chiên xuống rồi đậy lại. Chừng hai tiếng đồng hồ sau là
thịt đã chín.
(3) Sách Diễm ca diễn tả “chuyện tình” giữa Thiên Chúa
và dân của Giao Ước. Người Do-thái ngày nay vẫn đọc sách này vào dịp lễ Vượt
Qua.
(4) Đnl 13,4-5.7-8.11 : 4 Tuyệt
nhiên giữa anh (em) sẽ không có người nghèo, vì ĐỨC CHÚA sẽ
chúc phúc dồi dào cho anh (em) trong miền đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh
(em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp để anh (em) chiếm hữu, 5 miễn
là anh (em) thật sự nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mà lo đem ra
thực hành tất cả mệnh lệnh hôm nay tôi truyền cho anh (em) đây… Nếu
giữa anh (em), trong một thành nào của anh (em), trên đất mà ĐỨC CHÚA,
Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), có một người anh em nghèo,
thì anh (em) đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp
người anh em nghèo túng ; 8 nhưng phải mở rộng tay, và cho họ
vay mượn tất cả những gì họ thiếu… Vì trong đất của anh (em) sẽ
không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh (em) : hãy mở rộng
tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh (em), trong miền đất của anh
(em).
(5) Ở Việt Nam, đồng bào sắc tộc xưa kia chịu chết đói trong rừng
chứ không đi ăn xin. Sau này cũng có những bà mẹ sắc tộc bế con, dắt con đi ăn
xin. Nếu ta cho vào tay đứa bé thì bà mẹ sẽ nói : “còn tui nữa !”
Nếu cho vào tay bà mẹ, bà sẽ chỉ đứa con mà nói : “Còn nó nữa”. Nếu
bà bế một đứa trên tay và dắt thêm một đứa thì phải cho cả ba mẹ con, mỗi người
một phần. Nhìn cảnh này tôi thường nghĩ Chúa cũng giống bà mẹ sắc tộc, dắt
người nghèo đi ăn xin. Cho Chúa thì Chúa bảo : “Còn nó nữa” ;
cho người nghèo mà không cho Chúa thì Chúa bảo : “Còn tui nữa” !