Tác giả: Linh mục Giu-se Nguyễn Công Đoan, S.J., ngày 10
tháng 11 năm 2018
1 Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết
giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu
thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến
cùng. 2 Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn
Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su
Sau khi reo lên “Đã đến
giờ” rồi tổng kết sứ mạng và sứ địệp của mình, Chúa Giê-su đi vào
giờ của mình và chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận giờ này với tất cả hệ quả của
nó. Mở đầu sách Tin Mừng, trong lời tựa, Gio-an đã
cho thấy Chúa Giê-su vốn là Lời hằng hữu và hằng ở trong lòng Thiên Chúa, đã
trở nên người phàm. “Giờ” của Người đã được nêu lên
một cách bí ẩn, Người giải thích cho chúng ta từng bước. Đến đây thì chúng ta
biết rõ, giờ đó là giờ “Người phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha”.
Giờ ấy cũng là giờ Chúa trực tiếp
đương đầu với Xa-tan. Những kẻ mà Chúa đã tố cáo : “cha của
các ông thằng quỷ” “từ đầu nó đã là kẻ sát nhân và là cha sự dối
trá” (Ga 8,44), nay đã quyết định giết Người và đã phát
lệnh truy nã (x. Ga 11,57). Xa-tan cũng đã bắt
cóc được một người trong nhóm Mười Hai là Giu-đa, và gieo vào lòng ông ta ý
định nộp Chúa Giê-su. Thế là Xa-tan đã chuẩn bị xong cuộc tấn công cuối cùng.
Chúa Giê-su chuẩn bị đi vào trận
chiến quyết liệt này như thế nào ? Ở thế gian, Người đã tuyển chọn, đã yêu
mến và đã được nhiều người tin theo. Người bỏ họ lại bơ vơ, côi cút hay
sao ? “Người yêu thương họ đến cùng”. Tình yêu đến cùng đối với
Chúa Cha mà Người bày tỏ bằng cái chết, và “tình yêu đến cùng” đối với những kẻ
thuộc về mình “còn ở thế gian”, hòa hợp với nhau thế nào ? Trong
những chương này Chúa Giê-su sẽ từng bước giải thích sự hòa hợp này.
1. Chúa Giê-su rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,2-11)
Gio-an kể chuyện xảy ra trong một bữa ăn, không phải là
bữa ăn mừng lễ Vượt Qua như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, vì Gio-an sẽ
trình bày Chúa Giê-su bị Phi-la-tô trao cho các thượng tế vào lúc 12
giờ trưa ngày áp lễ Vượt Qua, tức là giờ người ta đem chiên Vượt Qua lên
Đền Thờ trao cho các tư tế, để họ bắt đầu giết chiên vào lúc 3 giờ chiều (x. Ga
19, 14-16) (1). Từ lần đầu tiên giới thiệu Chúa Giê-su với công chúng, “người
được sai đến làm chứng”, là Gio-an Tiền Hô, đã nói : “Đây là Con
Chiên của Thiên Chúa, đây là Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,
29). Vậy thì “Giờ của Người” là giờ “Con Chiên Thiên Chúa”
thực hiện việc “xóa bỏ tội trần gian”. Xóa bỏ bằng cách nào ? Cứ
đọc tiếp, hồi sau sẽ rõ.
Đức Giê-su biết rằng : Chúa
Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở
về cùng Thiên Chúa, 4 nên trong một bữa ăn, Người đứng
dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lựng. 5 Rồi
Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt
lưng mà lau.
6 Vậy, Người đến chỗ ông Si-môn Phê-rô, ông liền thưa
với Người : “Thưa Thầy ! Thầy mà lại rửa chân cho con
sao ?” 7 Đức Giê-su trả lời : “Việc Thầy làm,
bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.” 8Ông Phê-rô
lại thưa : “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu !”
Đức Giê-su đáp : “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần
với Thầy.” 9 Ông Si-môn Phê-rô liền thưa : "Vậy,
thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa." 10 Đức
Giê-su bảo ông : "Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa ; toàn thân
người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu
!" 11 Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới
nói : “Không phải tất cả anh em đều sạch.” (Ga13,3-11)
Trong bữa ăn này, Chúa Giê-su làm
một việc mà chính các môn đệ phải ngơ ngác nhìn nhau, chẳng hiểu gì. Ông Phê-rô
là người đầu tiên Chúa bưng nước đến đòi rửa chân cho, thì dãy nảy phản đối.
Chúa bảo ông cứ bình tĩnh, khiêm tốn để cho Chúa làm rồi sau này ông sẽ hiểu.
Nhưng ông lại càng quyết liệt từ chối : “Không đời nào con chịu đâu !”
Chúa giải thích một chút, nhưng quyết
liệt : "Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với
Thầy." Chắc chắn ông Phê-rô chưa hiểu “chung phần” cái
gì, nhưng điều quan trong với ông là “với Thầy”. Ông đầu hàng vô điều
kiện : “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con
nữa.” Chúa lại thêm một lời bí ẩn : “Ai
đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa ; toàn thân người ấy đã sạch. Về
phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu !”. Gio-an giải
thích phần cuối của lời bí ẩn này : “Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới
nói : “Không phải tất cả anh em đều sạch.” Ngay ở chương
thứ sáu, Gio-an đã “bật mí” cho chúng ta rồi : 70 Đức Giê-su đáp : “Chẳng
phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao ? Thế mà một người trong anh
em lại là quỷ !” 71 Người muốn nói về Giu-đa, con ông
Si-môn Ít-ca-ri-ốt ; thật thế, chính y, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, sẽ
nộp Người.” (Ga 6,70-71)
Có vài điểm cần chú ý để hiểu
việc rửa chân này.
Trước hết, phong tục của người
Do-thái là rửa tay trước khi ăn (x. Mt 14,1-9 ; Mc 7,1-9).
Ở đây thì đang bữa ăn, “Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và
lấy khăn mà thắt lưng. 5 Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu,
bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy
thì đây không phải là rửa tay trước khi ăn theo phong tục.
Lc 7,44-46 còn cho thấy khi mời khách tới ăn và đón
khách vào nhà, người ta xối nước cho khách rửa chân, hôn mặt và đổ dầu ô-liu
lên đầu khách. Ở đây đang bữa ăn, Chúa bưng nước đến rửa
châncho các môn đệ. Lời “đầu hàng vô điều kiện” của ông Phê-rô : “xin
Thầy rửa, không những chân, tay mà cả đầu nữa”, có vẻ như gợi lại
phong tục này ? Nhưng đây là đang bữa ăn kia mà !
Thế thì phải đi tìm ý nghĩa ở
đâu ?
Ta hãy đọc tiếp ở cuối chương
này : sau khi Giu-đa, “kẻ không sạch” (x. Ga 13,
10-11) đã ra đi lao vào đêm tối, thì Chúa Giê-su mới tuyên bố :
33 "Hỡi anh em là những người con
bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm
Thầy ; nhưng như Thầy đã nói với người Do-thái : ‘Nơi tôi đi, các
người không thể đến được’, bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy.
34 Thầy ban cho anh em một điều răn
mới là anh em hãy
yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh
em. 35 Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy
ở điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau.
Trở lại với đoạn sách Xuất
Hành kể việc Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê bảo dân chuẩn bị
đón Thiên Chúa đến thiết lập Giao Ước Xi-nai :
5 Vậy giờ đây, nếu các ngươi thật sự
nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở
hữu riêng của Ta. Vì toàn cõi đất đều là của Ta. 6 Ta sẽ
coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân thánh. Đó là những lời ngươi sẽ
nói với con cái Ít-ra-en.”… 10 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê
: "Hãy đến với dân và bảo họ : hôm nay và ngày mai phải giữ mình cho khỏi
nhiễm uế, phải giặt quần áo." (Xh19,5.10)
Trước khi công bố Giao Ước Mới,
Chúa Giê-su rửa chân cho các môn đệ.
Ông Phê-rô phản kháng thì Chúa bảo : “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được
chung phần với Thầy.” Chung phần với Thầy là được vào trong Giao
Ước Mới. Chúa rửa chân ông bằng nước là tượng trưng thôi, Chúa sẽ rửa ông bằng
máu và nước từ cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa nữa. Các ông đã “sạch” vì đã đón
nhận lời : “Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em”
(Ga 15,3),
tuy nhiên các ông còn phải được rửa bằng Máu nữa. Ở núi Xi-nai, dân chúng phải
giữ mình thanh sạch, phải giặt quần áo để đón Thiên Chúa đến ban lời của Thiên
Chúa, sau đó được rảy bằng máu các con vật đã sát tế để vào trong Giao
Ước. Giao Ước được lập bằng lời và máu (x. Xh 24,4-8)
“Chúa Giê-su đứng dậy, rời
bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn mà thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu, bắt đầu
rửa chân cho các môn đệ”. Từ vị trí ngồi bàn ăn, Chúa nhận lấy vị
trí của người tôi tớ, mặc y phục tôi tớ và đi rửa chân cho môn đệ. Cử chỉ “cởi áo
ngoài ra” và “mặc áo vào”, được diễn tả trong bản
văn Hy-lạp bằng hai động từ Chúa Giê-su dùng ở chương 10, để nói về việc Người
có quyền cởi bỏ mạng sống [tithein, ba
lần] và có quyền lấy lại [labein, hai
lần] (Ga 10,14-18) theo lệnh truyền của Chúa Cha.
2. Chúa Giê-su giải thích việc Chúa vừa làm (Ga 13,12-20)
12 Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức
Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói : “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho
anh em không ? 13 Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là
‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. 14 Vậy, nếu
Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa
chân cho nhau. 15 Thầy đã nêu gương cho anh em, để
anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. 16Thật, Thầy bảo thật anh em : tôi tớ không lớn hơn chủ
nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. 17 Anh em
đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh
em ! 18 Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính
Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau
đây : Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con. 19 Thầy
nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự
việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu. 20 Thật, Thầy
bảo thật anh em : ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai
đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”
Sau khi làm xong công việc của
người tôi tớ, Chúa Giê-su trở về vị trí của “Thầy” ngồi giữa các môn đệ và bắt
đầu giải nghĩa việc Chúa vừa làm. Chúa xác nhận lại rằng quả thật Người là Thầy
và là Chúa của các ông đấy. Chúa chỉ làm như thế có một lần này thôi, để làm
gương, làm mẫu cho các ông. “Anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu
gương cho anh em để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (2).
Trong Hội Thánh hiện nay chúng ta
chỉ còn thấy một năm một lần trong phụng vụ Thứ Năm Tuần Thánh, sau khi đọc lại
đoạn Tin Mừng này thì chủ tế “diễn lại” cảnh này, như minh họa lời vừa đọc
thôi ! Chủ tế đóng vai Chúa
Giê-su, mười hai vị chức sắc được vinh dự đóng vai mười hai
môn đệ [các ông thôi nhé, mà phải xếp chỗ ngồi đúng ngôi
thứ nữa đấy !]. Dĩ nhiên là trước khi tới nhà thờ các vị này đã kêu con
cháu đem nước nóng, xà-bông thơm, bàn chải kỳ cọ chân ông sạch sẽ thơm tho rồi,
cha cứ việc an tâm cúi xuống… Xong lễ thì cha lại là cha oai phong lẫm liệt, và
các vị chức sắc lại cúi đầu chào cha đấy !
Chúa làm thế một lần trong đời,
nay ta “diễn lại” một lần trong năm theo chu kỳ mùa phụng vụ. Như thế thì đã
làm đúng như Chúa dạy chưa ?
Nhưng đừng vội kết luận, đừng
giản lược ý nghĩa việc Chúa vừa làm để nêu gương. Ta chưa đọc hết những lời
giải thích, dạy dỗ của Chúa trong tư thế là Thầy và là Chúa mà, lời giáo huấn
vừa nghe mới chỉ là câu mở đầu thôi. Việc Chúa vừa tự ý làm cho môn đệ một lần trong
đời, báo trước một việc khác mà Chúa chỉ có thể làm cho chúng ta một lần – và
Chúa sắp làm ngay sau bữa ăn này. Chúa đã giải thích cho ông Phê-rô và hé cho
thấy ý nghĩa của việc rửa chân này vượt xa thực tại là chút nước trong cái chậu
này và bàn chân ông nhúng vào. Chúa làm gương không phải chỉ có bấy nhiêu.
Yếu tố thứ nhất
để giải thích
Chính Chúa
Giê-su là Giao Ước Mới, như lời sách I-sai-a trong bài ca thứ nhất
về Người Tôi Tớ :
Đây là lời Thiên Chúa, lời ĐỨC
CHÚA,
Đấng sáng tạo và căng vòm trời…
6 Người phán thế này : “Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã gọi
ngươi,
vì muốn làm sáng tỏ đức công
chính của Ta.
Ta đã nắm tay ngươi,
đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao
ước với dân,
làm ánh sáng chiếu soi muôn nước,
7 để mở mắt cho những ai mù loà,
đưa ra khỏi tù những người bị
giam giữ,
dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi
trong chốn tối tăm.”
8 Ta là ĐỨC CHÚA, đó là danh Ta.
Vinh quang của Ta, Ta không
nhường cho ai khác ;
lời tán tụng dành cho Ta, Ta
không để các tượng thần tước đoạt.
9 Chuyện cũ đã qua rồi, nay Ta loan báo những điều mới (Is 42,5-9)
Đón nhận “Điều
Răn Mới” là đón nhận Chúa Giê-su là Thầy
và là Chúa, thì đã vào Giao Ước Mới, vào trong Chúa Giê-su
và ở trong Chúa Giê-su, nên một với Chúa Giê-su và ở trong Thiên Chúa rồi
(x. Ga 15,9-11 ; 17,20-23). Chúa Giê-su đã loan
báo điều này khi nói với người phụ nữ Sa-ma-ri :
23 Nhưng giờ đã đến –và chính là lúc này
đây– giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí
và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. 24 Thiên
Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4,23-24).
Chúa Giê-su là
SỰ THẬT (Ga 14,6). Chúa Giê-su sẽ gởi Thánh Thần là “Thần
Khí Sự Thật” tới để dẫn các môn đệ “tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13).
Thánh Phao-lô sẽ giải thích điều này khi nói :
14 Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên
Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. 15 Phần anh em,
anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt
như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được
kêu lên : “Áp-ba ! Cha ơi !” (Rm 8,14-15)
6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai
Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên : “Áp-ba, Cha
ơi !” (Gl 4,6)
25 Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì
cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. (Gl 5,25)
Ở núi Xi-nai
Thiên Chúa lấy kinh nghiệm của dân đã từng bị áp bức khi họ ngụ cư bên Ai-cập
và được Thiên Chúa giải thoát để dạy họ đừng áp bức kẻ ngụ cư (Xh 22,20).
Nay Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa đã biểu lộ chính Tình Yêu của Chúa Cha cho
môn đệ, nên đưa chính mình làm kiểu mẫu cho họ biết yêu mến nhau :
34 Thầy ban cho anh em một điều răn mới
là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhaunhư Thầy đã
yêu thương anh em. (Ga 13,34)
9 “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào,
Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của
Thầy. 10 Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở
lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở
lại trong tình thương của Người. (Ga 15,9-10)
Yếu tố thứ hai
để giải thích
Yếu tố thứ hai
có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn tại sao Chúa Giê-su lại chỉ ban cho môn đệ “một
điều răn mới” (Ga 13,34), mà Người sẽ gọi là
“điều răn của Thầy” (Ga 15,12).
Các sách Tin Mừng Nhất Lãm đều kể về một cuộc trao đổi giữa Chúa Giê-su và một
kinh sư về điều răn thứ nhất, điều răn đứng đầu mọi điều răn (Mt 22,34-40 ; Mc 12,28-34 ; Lc 10,25-28).
Các nhà thông luật của Do-thái giáo đã tạo ra một rừng điều răn chung quanh
mười điều răn [613 điều, gồm giới (cấm) và răn (phải
làm)] khiến các thế hệ sau tranh luận với nhau xem điều nào là thứ nhất, đứng
đầu. Mt và Mc thì kể rằng Chúa Giê-su
trực tiếp trả lời câu hỏi, Lc kể rằng Chúa “khảo bài” lại
ông kinh sư. Câu trả lời cả ba sách Tin Mừng ăn khớp với nhau, cùng trích dẫn
lời trong sách Đệ nhị luật (6,5) và
sách Lê-vi(19,18).
Điều lý thú
trong Mác-cô là Chúa Giê-su đọc trọn câu “Nghe
đây hỡi Ít-ra-en…” (Đnl 6,5-6) mà tới nay người
Do-thái vẫn tụng niệm hàng ngày, nhiều lần mỗi ngày ; viết trên khung cửa nhà,
cửa phòng (cả bệnh viện, khách sạn !) và cổng thành nữa, theo đúng lệnh
truyền tiếp sau đó (Đnl 6,6-9). Điều lý thú
trong Lu-ca là Chúa Giê-su “khảo bài” ông kinh sư :
“Trong
Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?” Sách thì viết bằng
giấy trắng mực đen, chữ vẫn còn đó, cho mọi người, còn ông đọc thế nào mới là
điều then chốt, ông đọc theo như ông hiểu, ông muốn, nghĩa là ông có thật
sự nghe và nhận đó là lời
Chúa nói với ông, “đèn soi cho ông bước, là ánh sáng chỉ đường ông
đi” (Tv 119/118,105), hay vẫn chỉ là những dòng chữ trên
trang giấy mà ai biết chữ là đọc được. Ông kinh sư trong đoạn Tin Mừng này vẫn
chưa đọc ra ý nghĩa của chữ “người thân cận” và Chúa Giê-su đã tận tình giảng
giải cho ông. Khi ông hiểu rồi thì Chúa bảo : “Ông hãy đi và cũng hãy làm
như vậy”. Luật của Chúa là ánh sáng soi cho ông bước chứ không phải
để tranh luận với nhau mà khoe tài.
Khi nghe và đón nhận lời ấy là đã
nhận “Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất” của mình, chấp nhận vào
trong Giao Ước, yêu mến Người như Người muốn. Nhưng yêu mến Thiên Chúa là tuân
giữ mọi Lời Thiên Chúa truyền, mà mọi lời Thiên Chúa truyền là vế thứ hai của
cùng một Lời, đó là yêu mến tha nhân như chính mình. Đó mới là bằng chứng người
ta thật sự yêu mến Thiên Chúa. “Thiên Chúa chỉ muốn lòng nhân chứ không cần của
lễ” (Hs 6,6). Trong mạch văn của sách Hô-sê thì
có vẻ nhấn mạnh về lòng yêu mến chân thành đối với Thiên Chúa, vì Tình
Yêu đi song song với Biết ; mà
“biết” trong ngôn từ của Hô-sê, chỉ về tình yêu mật thiết
giữa vợ chồng, vì Hô-sê ví Giao Ước của Thiên
Chúa với dân như cuộc hôn nhân và sự phản bội của họ khi thờ các thần khác là
đi làm điếm :
Tình yêu của các ngươi khác nào mây buổi sáng,
mau tan tựa sương mai.
5 Vì vậy, Ta dùng ngôn sứ mà đánh phạt chúng,
lấy lời miệng Ta mà diệt trừ.
Phán quyết của Ta sẽ bừng lên như
ánh sáng.
6 Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ,
thích được các ngươi biết hơn là được của lễ toàn thiêu. (Hs 4-6)
Mát-thêu kể hai lần Chúa Giê-su đuổi người Pha-ri-sêu về
học lại xem lời sách Hô-sê ấy nghĩa là gì. Lần thứ
nhất là khi họ chê trách Chúa Giê-su vì ngồi ăn với “quân
tội lỗi” (x. Mt 9,12), và lần thứ hai khi
Chúa chữa người bại tay trong ngày sa-bát (12,7), có vẻ áp
dụng vào khía cạnh yêu mến tha nhân.
Ngôn sứ A-mốt, cũng rao giảng tại
Sa-ma-ri thì sẽ nói :
21 Lễ lạt của các ngươi, Ta chán ghét khinh thường ;
hội hè của các ngươi, Ta chẳng hề
thích thú.
22 Các ngươi có dâng lên Ta của lễ toàn thiêu...
những lễ vật của các ngươi, Ta
không vui nhận,
chiên bò béo tốt các ngươi đem
hiến tế, Ta chẳng đoái hoài.
23 Hãy dẹp bỏ tiếng hát om sòm của ngươi
Ta không muốn nghe tiếng đàn của
ngươi nữa.
24 Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào,
cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn.
25 Hỡi nhà Ít-ra-en, bốn mươi năm trường trong sa mạc,
các ngươi có dâng lên Ta hy lễ
hay lễ phẩm nào không ? (Am 5,21-25)
Lẽ phải và công lý là hai điều liên quan tới lòng yêu mến tha nhân,
vì ngôn sứ A-mốt tố cáo những bất công, tàn bạo của các dân chung quanh :
Đa-mát, Ga-da, Phi-lít-ti-a, Tia và Phê-ni-xi, Ê-đôm, Am-môn, Mô-áp, Giu-đa
khiến Thiên Chúa trừng phạt họ (Am 1,3 – 2,5), rồi tố cáo
những bất công xã hội, bóc lột người nghèo trong dân Ít-ra-en… như là làm ô
danh Thiên Chúa, và đe sẽ trừng phạt (x. Am 3,6-16). A-mốt còn
coi những việc tế lễ không phải là do Thiên Chúa truyền buộc khi ban Giao Ước
Xi-nai.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a rao giảng tại
Đền Thờ cũng theo cùng hướng với ngôn sứ A-mốt :
3 ĐỨC CHÚA các đạo binh là Thiên Chúa
của Ít-ra-en phán : Hãy cải thiện lối sống và hành động của các
ngươi, Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này. 4 Đừng ỷ
vào lời giả dối sau đây : “Đền Thờ của ĐỨC CHÚA! Đền Thờ của ĐỨC
CHÚA ! Đã có Đền Thờ của ĐỨC CHÚA !” 5 Nếu
các ngươi thật sự cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, nếu các ngươi
thật sự đối xử công bằng với nhau, 6 không ức hiếp ngoại
kiều hay cô nhi quả phụ, nếu các ngươi không đổ máu người vô tội nơi đây, không
đi theo các thần ngoại mà chuốc hoạ vào thân, 7 thì Ta sẽ
cho các ngươi lưu lại nơi này, trong phần đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi
đến muôn đời. 8 Nhưng các ngươi lại ỷ vào những lời dối
trá vô giá trị. 9 Trộm cắp, giết người, ngoại tình, thề
gian, đốt hương tế thần Ba-an và đi theo các thần lạ các ngươi không
biết, 10 rồi lại vào nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn,
đến trước mặt Ta mà nói : “Chúng ta được an toàn !”, sau đó cứ tiếp tục
làm những điều ghê tởm ấy. Thế nghĩa là gì ? 11 Phải
chăng các ngươi coi nhà này, coi nơi danh Ta được kêu khấn là hang trộm cướp
sao ? Ta, Ta thấy rõ hết – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. (Gr 7,3-11)
Chúa Giê-su diễn tả tương quan
giữa môn đệ với Chúa trong Giao Ước Mới như cành nho trên cây nho, chỉ cần ở
lại trong Chúa như cành liền cây. Ở lại bằng cách nào ? Bằng cách ở lại
trong Tình Thương của Chúa, nghĩa là giữ những lời Chúa truyền,
cũng như Chúa Giê-su ở lại trong Tình Thương của Chúa Cha bằng cách giữ mọi lời
Chúa Cha truyền (x. Ga 15,5-11). Mọi lời Chúa
Giê-su truyền quy vào một điều :
12 “Đây là điều răn của Thầy : anh
em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 13 Không
có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình. 14 Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh
em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. (Ga 15,12-14)
Điều răn của Chúa là yêu mến nhau
như Chúa đã yêu chúng ta. Chúa yêu tới mức nào ? “Đến
cùng” (Ga 13,1), đến hy sinh
mạng sống vì đoàn chiên (Ga 10,11) ; tình yêu lớn
nhất, “cao cả nhất, là hy sinh tính mạng vì bạn hữu”. “Anh em là bạn hữu
của Thầy nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy”. Chính
Chúa đã hy sinh mạng sống mình để làm cho chúng ta nên bạn hữu của Chúa. Những
điều Chúa truyền đều quy về một là “yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em”
(3).
Trong thư thứ nhất, thánh Gio-an
sẽ giải thích :
7 Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên
Chúa.
Phàm ai yêu thương,
thì đã được Thiên Chúa sinh ra,
và người ấy biết Thiên Chúa.
8Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa là tình yêu.
9 Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta
được biểu lộ như thế này :
Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế
gian
để nhờ Con Một của Người mà chúng
ta được sống.
11 Anh em thân mến,
nếu Thiên Chúa đã yêu thương
chúng ta như thế,
chúng ta cũng phải yêu thương
nhau.
12 Thiên Chúa, chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.
Nếu chúng ta yêu thương nhau,
thì Thiên Chúa ở lại trong chúng
ta,
và tình yêu của Người nơi chúng
ta mới nên hoàn hảo.
19 Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương,
vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng
ta trước.
20 Nếu ai nói : “Tôi yêu mến Thiên Chúa”
mà lại ghét anh em mình, người ấy
là kẻ nói dối ;
vì ai không yêu thương người anh
em mà họ trông thấy,
thì không thể yêu mến Thiên Chúa
mà họ không trông thấy.
21 Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ
Người :
ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng
yêu thương anh em mình.
Trong cuộc trao đổi với ông kinh
sư về điều răn đứng đầu, sau khi giảng giải cho ông nhận ra “ai là
người than cận của ông” bằng dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, Chúa
bảo ông : “Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10,27).
Hôm nay Chúa Giê-su cũng nói với các môn đệ : “Anh em đã biết những điều
đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em.” Trước khi công
bố điều răn chủ yếu của Giao Ước (Đnl 6,4-5), Mô-sê cũng căn dặn
dân Ít-ra-en :
1 Đây là mệnh lệnh, là những thánh chỉ
và quyết định mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã truyền phải dạy cho anh
em, để anh em đem ra thực hành trong đất anh em sắp sang chiếm hữu. 2 Như
vậy anh (em) cũng như con cháu anh (em) sẽ kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh
(em), mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh
của Người mà tôi truyền cho anh (em), và anh (em) sẽ được sống lâu. 3 Hỡi
Ít-ra-en, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành ; như vậy anh (em)
sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tuôn chảy sữa và
mật, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã phán với anh (em). (Đnl 6,1-3)
3. Lời Chúa Giê-su công bố Giao Ước
Mới (Ga 13,33-35)
33 “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ
của Thầy, Thầy còn ở với
anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy ; nhưng như Thầy đã
nói với người Do-thái : ‘Nơi tôi đi, các người không thể đến được’, bây
giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy.34 Thầy ban cho anh em
một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 35 Mọi người sẽ
nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu
thương nhau.
Mấy lời này rất
giàu ý nghĩa. Trước hết, giọng âu yếm vỗ về như âm vang nhạc điệu của sáchĐệ nhị
luật, một cuốn sách được trình bày như lời Mô-sê giã từ đoàn dân mà
ông đã dắt dìu suốt bốn mươi năm qua, từ khi Thiên Chúa giao trách nhiệm này
cho ông, nay đến lúc ông phải lên núi và chết, mà họ sẽ chẳng bao giờ thấy lại,
cả đến cái xác của ông. Giọng văn ngân vang như một bản trường ca về tình
thương âu yếm của Thiên Chúa đối với dân được tuyển chọn, triển khai những lời
chan chứa tình phụ mẫu trong sách Hô-sê :
1 Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó,
từ Ai-cập Ta đã gọi con Ta về.
3 Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó,
4 Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo
chúng.
Ta xử với chúng như người nựng
trẻ thơ, nâng lên áp vào má ;
Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó
ăn. (Hs 11,1.3-4)
Sách Đệ nhị
luật :
Hãy
xem : tôi đã dạy cho anh em những thánh chỉ và quyết định như ĐỨC
CHÚA, Thiên Chúa của tôi, đã truyền cho tôi, để anh em đem ra thực hành
trong miền đất mà anh em sắp vào chiếm hữu. 6 Anh em
phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn
ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ
nói : “Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông
minh !”7 Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở
gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu
cầu Người ? 8 Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh
chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt
anh em ? (4,6-8)
7 ĐỨC CHÚA đã đem lòng quyến luyến và
chọn anh em, không phải
vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các
dân. 8 Nhưng chính là vì yêu thương anh em,
và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em, mà ĐỨC CHÚA đã ra tay uy quyền
đưa anh em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pha-ra-ô, vua
Ai-cập. (7,7-8).
Mô-sê nói đến
tình thương âu yếm của Thiên Chúa đối với dân mà Thiên Chúa tuyển chọn.
Chúa Giê-su là
Con Thiên Chúa, âu yếm gọi các môn đệ do chính Người tuyển chọn (x. Ga15,16)
là “những người con bé nhỏ của Thầy”. Bây giờ Người cũng
phải tạm thời xa họ vì “Người phải bỏ thế gian mà về cùng Cha”
(Ga 13,1),
nhưng khác với Mô-sê ở chỗ “Người sẽ lại đến và đem họ về ở với Người”
trong Nhà Cha (x. Ga 14,1-3).
Ông Mô-sê chỉ là
trung gian chuyển đạt lời của Thiên Chúa cho dân khi Thiên Chúa lập giao ước
trên núi Xi-nai :
2 ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng
ta, đã lập một giao ước với chúng ta tại núi Khô-rếp. 3 ĐỨC
CHÚA đã lập giao ước này không phải với cha ông chúng ta, mà là với chúng ta,
những người hôm nay đang ở đây, tất cả còn đang sống. 4 ĐỨC
CHÚA đã phán với anh em mặt đối mặt, trên núi, từ trong đám lửa. 5 Còn
tôi, thời ấy, tôi đứng giữa ĐỨC CHÚA và anh em để thông báo cho
anh em lời của ĐỨC CHÚA.
Còn Chúa Giê-su
là chính “Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm” (Ga 1,14),
Chúa đích thân ban cho môn đệ “một điều răn mới”. Thế là Chúa
công bố luật của Giao Ước Mới mà Chúa sẽ lập bằng máu của Chúa đổ ra
trên thập giá, như sẽ thấy, chứ không phải bằng máu con vật được dâng làm lễ tế
như Mô-sê đã làm ở núi Xi-nai (x. Xh 24,4-8).
Ở núi Xi-nai
Thiên Chúa ban “mười điều răn” tóm lại trong hai
điều là “mến Chúa và yêu người”. Chúa Giê-su lại chỉ công bố “một
điều răn mới” thôi. Dân của Giao Ước Xi-nai giữ mọi lời Thiên
Chúa truyền thì “sẽ được các dân coi là khôn
ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ
sẽ nói : “Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông
minh. Còn môn đệ của Chúa Giê-su, dân của Giao Ước Mới,
thì “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ
của Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu
thương nhau.
Trong lịch sử
Hội Thánh ở quê hương chúng ta, ngay những năm đầu tiên khi Tin Mừng được loan
báo cho tổ tiên chúng ta ở miền Bắc (bắt đầu từ tháng 3 năm 1627), bản báo cáo
của cha Gaspar d’Amaral gởi về Rô-ma ngày 31/12/1632 đã kể : “Các tín
hữu ở đây được chừng hơn một ngàn người. Họ yêu thương nhau đến nỗi những người
chung quanh chưa biết tên đạo mới này là gì, nhưng thấy cách họ yêu mến nhau
như vậy thì gọi họ là những người theo “ĐẠO YÊU NHAU”. Ba chữ
“ĐẠO YÊU NHAU” đã được viết như thế trong bản báo cáo. Tổ tiên chúng ta đã làm
chứng bằng cuộc sống cho người ta thấy Đạo của Chúa là “Đạo yêu
nhau”. Tổ tiên đã minh họa cho chúng ta lời Chúa truyền.
4. Chúa loan báo về hành động của
Giu-đa con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt (Ga 13,16-30)
16 Thật, Thầy bảo thật anh em : tôi
tớ không hơn chủ nhà, kể được sai đi không lớn hơn người được sai đi. 17 Anh
em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành thì thật phúc cho anh em. 18 Thầy
không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng
phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây : Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh
lại giơ gót đạp con. 19 Thầy nói với anh em điều đó ngay
từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy
Hằng Hữu. 20 Thật, Thầy bảo thật anh em : ai đón tiếp
người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã
sai Thầy."
21 Nói xong, Đức Giê-su cảm thấy tâm
thần xao xuyến. Người tuyên bố : “Thật, Thầy bảo thật anh em : có một
người trong anh em sẽ nộp Thầy.” 22 Các môn đệ nhìn nhau,
phân vân không biết Người nói về ai. 23Trong số các môn đệ, có
một người được Đức Giê-su thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức
Giê-su. 24 Ông Si-môn Phê-rô làm hiệu cho ông ấy và
bảo : “Hỏi xem Thầy muốn nói về ai ?” 25 Ông này
liền nghiêng mình vào ngực Đức Giê-su và hỏi : “Thưa Thầy, ai
vậy ?” 26 Đức Giê-su trả lời : “Thầy chấm bánh
đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy.” Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho
Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt.27 Y vừa ăn xong miếng bánh,
Xa-tan liền nhập vào y. Đức Giê-su bảo y : “Anh làm gì thì làm mau
đi !” 28Nhưng trong số các người đang dùng bữa, không ai
hiểu tại sao Người nói với y như thế. 29 Vì Giu-đa giữ túi
tiền, nên có vài người tưởng rằng Đức Giê-su nói với y : “Hãy mua những
món cần dùng trong dịp lễ”, hoặc bảo y bố thí cho người nghèo. 30 Sau
khi ăn miếng bánh, Giu-đa liền đi ra. Lúc đó, đã là đêm rồi [tôi dịch cho sát].
Chúa đang nói về việc Chúa làm
gương cho môn đệ, môn đệ vừa là tôi tớ, vừa là
người được Chúa sai đi. Sự liên kết giữa ba tư cách này đưa tới lời căn
dặn : tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ sai đi không lớn hơn người sai đi.
Chúa vừa là chủ, vừa là người sai đi, thế mà Chúa hạ mình làm như một người tôi
tớ, thì môn đệ của Chúa phải cư xử thế nào. Biết suông thì chẳng ích gì. Thực
hành mới là có phúc.
Ở chương thứ sáu (x. Ga 6,64-71)
cũng như ở đây, mỗi lần Gio-an kể Chúa nói về Giu-đa,
ta cảm thấy có chút nghẹn ngào, khó nói. Gio-an cho
ta cảm giác Chúa Giê-su như cố nén lại cảm xúc và không muốn nhắc đến, nhưng
không nén nổi, và sự thật phũ phàng kia như vuột khỏi sự kềm nén mà bật ra. Có
lẽ phản ánh tâm trạng của chính người kể chuyện, ông là người môn đệ đã cảm
nghiệm được tình thương của Chúa (4), nên nhắc đến kẻ phản bội thì vừa nghẹn
ngào vừa có chút gì cay đắng. Có kẻ từ trong hàng môn đệ lại không chịu làm tôi
tớ và người được sai đi, nhưng giơ gót đạp chủ, đạp người sai đi. Không lạ gì.
Kinh Thánh đã nói rồi. Chúa nói ra điều này không phải vì không kềm được, nhưng
là cố tình nói trước “để khi sự việc xảy ra, anh em tin Thầy là Đấng
Hằng Hữu”, Đấng dò xét và thấu suốt lòng mọi người (x. Tv 139/138).
Chúa trở lại với phẩm giá của
người được Chúa sai đi : “Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp
Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Thật là
uổng khi không chấp nhận làm kẻ được sai đi !
Gói ghém như thế cũng không ngăn
được hình ảnh kẻ phản bội như mũi nhọn xoáy vào tim Chúa, khiến Chúa cảm thấy
tâm hồn bồi hồi xao xuyến, cũng như khi Chúa thấy tín hiệu để reo lên : “Đã đến
giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12,23). Chúa nói thẳng
ra : “Thật, Thầy bảo thật anh em : có một người trong anh em sẽ nộp
Thầy”. Lời Chúa như tiếng sét bên tai làm các môn đệ ngơ ngác nhìn
nhau, phân vân tự hỏi Người nói về ai. Như một đạo diễn phim lành nghề, bất ngờ
chĩa ông kính vào đôi mắt của ông Phê-rô, rồi theo tầm mắt của ông Phê-rô, đưa
ta nhìn vào một hình ảnh đối ngược với hình ảnh kẻ phản nộp. Đó là “người
môn đệ Chúa Giê-su thương mến”, trong một tư thế rất đặc biệt tại
bàn ăn, dịch sát là “trong lòng Chúa
Giê-su” (5). Trong phần cuối này (Ga 13-21)
chúng ta thấy ông Phê-rô và môn đệ này luôn xuất hiện cùng với nhau. Ông Phê-rô
làm hiệu cho người môn đệ này hỏi nhỏ Chúa Giê-su xem Chúa nói về ai. Người môn
đệ này ngửa đầu ra sau, thành ra tựa đầu vào ngực Chúa Giê-su, và hỏi : “Thưa
Thầy, ai vậy ?” Chúa không nói tên kẻ phản bội, nhưng cho một
dấu hiệu : “Thầy chấm bánh đưa cho ai thì chính là kẻ ấy”. Ta có thể
nhận ra ở cử chỉ này hai ý nghĩa. Một đàng Chúa Giê-su bày tỏ sự ưu ái, thân
tình với Giu-đa, Chúa không hề ghét bỏ, xua đuổi người môn đệ này ; một
đàng Chúa cho thấy là sự phản nộp của Giu-đa ứng nghiệm lời thánh
vịnh 41/40,10 :
10 Cả người bạn thân con hằng tin cậy,
đã cùng con chia cơm sẻ bánh,
mà nay cũng giơ gót đạp con !
Một nhận xét của người kể làm
chúng ta rùng mình : “Y vừa ăn xong, Xa-tan liền nhập vào y.”
Cử chỉ thân ái của Chúa Giê-su, thay vì kéo ông lại gần Chúa, lại đánh dấu thời
điểm Xa-tan ra tay trước, đoạt một người trong hàng thân tín nhất của Chúa để
làm công cụ cho nó. Chúa Giê-su như mở cửa cho Giu-đa đi ra : “Anh làm
gì thì làm mau đi !” Gio-an nhắc lại thông tin về
Giu-đa (x. Ga 12,6-7), ông là người được Chúa tin tưởng và
trao nhiệm vụ giữ túi tiền chung của nhóm. Lời nói bí ẩn. Các môn đệ hiểu là
Chúa nhắc Giu-đa đi làm nhiệm vụ “quản lý” trước ngày lễ. Điều mỉa mai là ở
chương 12, Gio-an đã cho thấy sự giả hình của Giu-đa khi ông
phản ứng về “cân dầu thơm cam tùng nguyên chất quý giá” mà cô Maria
đổ lên chân Chúa Giê-su ; thế mà tối nay các môn đệ lại còn tưởng là Chúa
sai Giu-đa đi bố thí cho người nghèo.
“Sau khi ăn miếng bánh,
Giu-đa liền đi ra. Lúc ấy đã là đêm rồi”.
Chúa Giê-su là “ánh sáng thật đã đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).
Giu-đa đã tới gần ánh sáng, nhưng bị lôi ra khỏi tầm của ánh sáng mà lao vào
đêm tối. Giu-đa như bị “đêm tối “bắt cóc”. Lời Chúa nói với Giu-đa : “Anh làm
gì thì làm mau đi !” xem ra là lời Chúa hối thúc Xa-tan, vì
Xa-tan vừa nhập vào Giu-đa sau khi ông ăn miếng bánh Chúa trao. Từ ngày đầu sứ
vụ rao giảng, từ hôm dự tiệc cưới ở Ca-na, Chúa Giê-su đã hướng về GIỜ của
Chúa. Khi nó tới kề bên thì Chúa reo lên rồi lại thú nhận là nó làm Chúa ngọng,
líu lưỡi, không biết nói sao bây giờ. Lúc này thì Chúa như thúc Xa-tan : “Ra tay
lẹ đi !”
Tin Mừng Lu- ca cũng
diễn tả tâm trạng tương tự. Một đàng Chúa nói : “Thầy
những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình…”
Nhưng khi cầu nguyện ở Núi Ô-liu trước khi xông vào cuộc chiến quyết liệt thì
Chúa lâm vào tình trạng “bồi hồi xao xuyến”, “mồ hôi
Người như những giọt máu lớn rơi xuống đất” (Lc 22,15.44)
5. Giờ tôn vinh (Ga 13,21-38)
Sau khi Giu-đa đi ra lao mình vào
bóng đêm, Chúa Giê-su vừa như thở phào nhẹ nhõm, vừa reo lên vì thấy Giờ tôn
vinh của Chúa đã điểm. Tiếng cánh cửa sập lai sau lưng Giu-đa
vang lên thay tiếng cồng mở đầu cuộc song đấu của Chúa với Xa-tan, vì đêm đã
xuống, Xa-tan đã có mặt sẵn sàng trước cửa...
Khi Giu-đa đi
rồi, Đức Giê-su nói : “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa
cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên
Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh
Người.” (Ga 13,31-32)
Bây giờ căn phòng thật bình an.
Bây giờ Thầy và môn đệ “chỉ còn một vài giây phút cuối bên nhau”,
trong ánh lửa dịu dàng ấm cúng. Chúa bắt đầu mở cho môn đệ thấy tất cả trái tim
dạt dào yêu thương âu yếm dành cho họ, mời họ hòa nhịp trái tim của họ với trái
tim của Chúa : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em”.
33 “Hỡi anh em là những người
con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh
em sẽ tìm kiếm Thầy ; nhưng như Thầy đã nói với người Do-thái : ‘Nơi
tôi đi, các người không thể đến được’, bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như
vậy. 34 Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy
yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh
em. 35 Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở
điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau.”
Ông Phê-rô, lúc nãy đã “khều” “người
môn đệ Chúa Giê-su thương mến” để nhờ hỏi xem Chúa nói kẻ phản nộp
là ai đấy, bây giờ ông mạnh dạn trực tiếp đối thoại với Chúa :
36 Ông Si-môn Phê-rô nói với Đức
Giê-su : “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy ?” Đức Giê-su trả lời :
“Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được ; nhưng sau này anh sẽ
đi theo.” 37 Ông Phê-rô thưa : “Thưa Thầy x,
sao con lại không thể đi theo Thầy ngay bây giờ được ? Con sẽ thí mạng con
vì Thầy !” 38 Đức Giê-su đáp : “Anh sẽ thí mạng
vì Thầy ư ? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết : gà chưa gáy, anh đã
chối Thầy ba lần.”
Chúa biết lòng dạ ông Phê-rô, ông
hỏi một mà Chúa trả lời hai : “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến
được ; nhưng sau này anh sẽ đi theo”. Ông Phê-rô không muốn xa
Thầy nửa bước, nên ông bày tỏ hết tấm lòng của ông : “Con sẽ
thí mạng con vì Thầy !” Chúa Giê-su nói thẳng cho ông biết
chuyện gì sẽ xảy ra với ông trước khi gà gáy đêm nay. Gio-an sẽ
ngưng kể về ông Phê-rô sau khi tiếng gà gáy, nó báo cho ông rằng lời Chúa báo
trước cho ông đã ứng nghiệm rồi.
Giu-đa biến khỏi “màn hình ra-đa”
của Gio-an ngay sau khi hoàn thành việc của Xa-tan là
nộp Chúa.
Còn ông Phê-rô thì ta sẽ gặp lại
sau khi Chúa Phục Sinh. Chúa đã cho ông biết là Chúa không bỏ ông : “Sau này
anh sẽ đi theo”. Bây giờ ông chưa theo được, nhưng sau này ông sẽ
được theo. Số phận ông Phê-rô là môn đệ thì phải chờ. Chúa phải chết cho ông
trước đã. Ông được Chúa nhận lời ông cam kết, và cho ông biết là ông sẽ có dịp
“thí
mạng”, nhưng không phải cho Chúa mà là cho đoàn chiên của Chúa.
Giê-ru-sa-lem, ngày lễ các thánh
của Giê-ru-sa-lem, 8/11/2018
Linh mục Giu-se Nguyễn công Đoan,
S.J.
(1) Đọc các sách chú giải sẽ
thấy các nhà nghiên cứu tìm nhiều cách lý giải sự “so le” giữa Gio-anvà
các sách Tin Mừng Nhất Lãm về điểm này. Có lẽ cách giải thích hợp lý nhất là ở
chỗ các sách Tin Mừng không nhằm kể lại mọi việc đúng như đã xảy ra,
theo quan niệm thực nghiệm của người phương Tây về lịch sử, nhưng nhằm
làm sáng tỏ ý nghĩa của các biến cố trong lịch sử cứu độ. Đó là quan niệm
về lịch sử trong Sách Thánh và của người phương đông chúng ta. Vì thế phải đọc
từng sách Tin Mừng, từ đầu đến cuối, và bình tĩnh tìm hiểu xem mỗi sách trình
bày về Chúa Giê-su Ki-tô như thế nào. “Xào lẫn” bốn sách thành món “thập cẩm”
thì sẽ chỉ làm “rối chỉ”, chẳng lý giải được gì, vì mỗi sách Tin Mừng
trình bày một cách nhìn về Chúa Giê-su Ki-tô. Sự chọn lựa tài liệu và cách
dàn dựng, nối kết, phục vụ cho mục đích ấy.
(2) Tin Mừng Lu-ca không kể
việc Chúa rửa chân cho môn đệ, nhưng kể lời Chúa nói khi các ông cãi nhau trong
bữa ăn xem ai trong các ông là người lớn nhất : “Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với
kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai ? Hẳn là người ngồi ăn chứ ? Thế mà, Thầy
đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22,27)
(3) Thời Thế Chiến II, thánh
Mac-xi-mi-li-an Kôn-bê, xin chết thay cho một người tù. Thời sự năm 2018, một
Ki-tô hữu, ông Arnaud Beltrame, người Pháp, trung tá cảnh sát, chỉ huy cuộc đối
phó với kẻ khủng bố, tự ý nộp mạng làm con tin, thế cho một người phụ nữ đang
bị giữ, và đã chết thế cho bà ấy.
(4) Trong Tin Mừng thứ tư, nhân
vật “Người môn đệ Chúa Giê-su thương mến” xuất hiện lần đầu ở
chương 13 này và lần cuối ở chương 21. Tác giả sách Tin Mừng không cho ta biết
tên của ông, nhưng cho ta biết những nét đặc trưng của ông trong tương quan với
Chúa Giê-su. Người ta thường tốn thời giờ, công sức đi tìm xem tên ông là gì.
Tôi nghĩ như thế là “lạc đề”, cũng như tò mò tranh cãi nhau xem Chúa Giê-su
viết cái gì trên mặt đất ở Ga 8,6.8. Điều ích lợi hơn là
để cho tác giả dẫn vào những nét đặc trưng do chính tình thương của Chúa tạo
thành nơi ông, vì chân dung của ông là chân dung người môn đệ chân chính, kiểu
mẫu, mà tác giả muốn trình bày cho ta chiêm ngắm và noi theo. Có môn đệ nào mà
Chúa không thương mến đâu ? Thánh Phao-lô Tông Đồ sẽ tuyên xưng : “Người
đã yêu thương tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20).
Nhưng có phải mọi môn đệ đều nhận ra và đáp lại như thế không ? Có một bài
hát nổi tiếng bằng tiếng Anh [có thể thấy trên Youtube] : “Love
changes everything : tình yêu thay đổi mọi sự ; nothing
will ever be the same again : không gì có thể có khi nào lại
là như cũ nữa !
(5) Ở “giường tiệc”, người ăn ngả
mình tựa vào chiếc gối bên tay trái, dùng tay phải đưa đồ ăn vào miệng. Như vậy
la người môn đệ này ngả mình liền trước ngực Chúa Giê-su. Đó là vị trí giống vị
trí của La-da-rô nghèo trong lòng ông Áp-ra-ham [cùng
một kiểu nói trong bản văn Hy-lạp], ở bàn tiệc trên trời, như đứa con cưng nhất
(x. dụ ngôn người phú hộ và La-da-rô nghèo khổ, Lc 16,22-23).