Đường trường chông gai
Ga 15,1–16,33
(Tìm hiểu Tin Mừng theo thánh Gio-an) – Bài 14
Tác giả: Linh
mục Giu-se Nguyễn Công Đoan, S.J., ngày 20 tháng 1 năm 2019
Có
người thắc mắc, sao Chúa Giê-su đã hô “nào đứng dậy ! chúng ta đi khỏi
đây”, rồi lại nói tiếp… Ai muốn xem những câu trả lời “trăm hoa đua nở” có
thể đi tìm đọc trong sách của các nhà nghiên cứu. Câu hỏi ấy dựa trên giả thiết
bản văn đi theo trình tự các sự việc diễn ra, nếu vậy thì dễ trả lời, vì con
đường từ nhà Tiệc Ly tới thửa Vườn bên kia thung lũng Kít-rôn khá xa, Chúa còn
nhiều thời gian để tiếp tục nói với các môn đệ. Nhưng có thể đây là do công
trình biên soạn, qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn thêm một chút theo nhu cầu
quảng diễn cho cộng đoàn tín hữu. Chuyện có thể đơn giản hơn nếu, như đã nói ở
trên, ở đây người biên soạn đang theo mô hình diễn từ giã biệt của sách Đệ Nhị
Luật, nó cũng gồm ít là ba diễn từ của ông Mô-sê, trước khi kết thúc với bài ca
và lời chúc phúc. Diễn từ thứ nhất (Đnl 1,1–4,43) ôn lại lịch sử từ khi được
giải thoát khỏi Ai-cập cho tới Giao Ước Xi-nai ; diễn từ thứ hai (Đnl 4,44
–28,68) quảng diễn Luật Giao Ước ; diễn từ thứ ba (Đnl 26,16–31,30) dặn dò
cuối cùng và chuyển giao quyền lãnh đạo cho ông Gio-su-ê. Câu kết như gợi lên
một bầu trời giăng kín mây đen :
26 “Hãy
đem sách luật này đặt bên Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh
em ; ở đó sách ấy sẽ làm chứng cáo tội anh (em). 27 Vì tôi biết
anh (em) hay phản nghịch và cứng cổ : hôm nay tôi còn sống với anh em, mà
anh em đã phản nghịch chống lại ĐỨC CHÚA, huống chi là sau khi tôi chết !
28 Hãy
tập hợp lại chung quanh tôi hết mọi kỳ mục của các chi tộc anh em và các ký lục
của anh em ; tôi sẽ nói cho họ nghe những lời này, và lấy trời đất làm
chứng cáo tội họ. 29 Vì tôi biết rằng, sau khi tôi chết, chắc chắn
anh em sẽ ra hư hỏng, và sẽ đi ra ngoài con đường tôi đã truyền cho anh
em ; và tai hoạ sẽ xảy đến cho anh em sau này, vì anh em sẽ làm điều dữ
trái mắt ĐỨC CHÚA, để trêu giận Người bằng những việc tay anh em làm.”
Với
bài ca và lời chúc phúc (32,1–33,29), ông Mô-sê cuộn lại cuốn cuối của bộ Ngũ
Thư, gọi là “Luật” (Tô-ra), trao cho các Lê-vi đặt bên Hòm Bia, rồi lẳng
lặng chống gậy, một mình lên núi Ne-bô. Ông mở to đôi mắt để nhìn Đất Hứa một
lần, rồi từ từ nhắm lại vĩnh viễn. Hình dung mình đang chứng kiến cảnh này, tôi
bỗng nhớ câu hát tôi hay nghe các bạn trẻ nghêu ngao, khi sống với họ đàng sau
chấn song sắt ở khám Chí Hoà : “nhắm mắt chỉ thấy một chân
trời tím ngắt”.
Đối
chiếu với sách Đnl, chúng ta có thể nhận ra trong Tin
Mừng Gio-an, chương 13 tương ứng với phần ôn lại lịch sử trong bối
cảnh chia tay, Chúa Giê-su làm một cử chỉ thâu tóm ý nghĩa cuộc sống trần gian
và sự ra đi của Chúa, và đặt làm gương mẫu để truyền ban “Điều răn mới”
của Giao Ước Mới.
Chương
14, tương ứng với diễn từ thứ hai, quảng diễn Luật của Giao Ước Mới. Diễn từ
thứ ba, từ sau “lệnh lên đường” cho tới hết chương 16, Chúa Giê-su dạy cho các
môn đệ về con đường sứ mạng của họ trên trần gian. Khi phát “lệnh lên đường”,
Chúa nói “nào đứng dậy, chúng ta đi khỏi đây”, Chúa
đi vào cuộc chiến tay đôi quyết liệt với thủ lãnh thế gian, còn môn
đệ bước vào “đường trường chông gai”, tiếp tục sứ mạng của Chúa trên trần
gian.
Diễn
từ ở chương 14 vận dụng cách thức “hỏi – đáp”, nhưng lại nối với nhau như những
mắt xích : lời mở đầu của Chúa gợi thắc mắc, câu trả lời thắc mắc lại gợi
thêm thắc mắc khác ; cứ như thế mà chủ đề được khai triển, đào sâu. Kết
thúc cuộc hỏi đáp này thì Chúa hứa sẽ có Đấng Bảo Trợ khác đến dạy dỗ họ từ bên
trong ; đối lại với ông Mô-sê chỉ nhận ra thực tế là “Thiên Chúa chưa
ban cho dân lòng để biết, tai để nghe, mắt để thấy” rồi chịu bó tay. Diễn
từ giã biệt của ông Mô-sêchuẩn bị cho dân vào chiếm lãnh và sống trên Đất
Hứa như là kết thúc cuộc hành trình, không có tính cách sứ mạng.
Dân của Giao Ước Xi-nai trong thành tựu cuối cùng, được trưng bày như “hàng
mẫu” hay mô hình trong tủ kính về tình thương và quyền năng của Thiên Chúa, để
cho muôn dân thấy mà thán phục và thèm thôi, chưa đến phiên họ được hưởng (x.
tiêu biểu Đnl 4,1-8).
Diễn
từ của Ga 15–16 không dùng cách hỏi đáp, nhưng là độc thoại.
Chúa Giê-su dạy các môn đệ nhiều điều, nối kết theo kiểu mắt xích, lời giáo huấn
trước mở sang lời giáo huấn sau, lời giáo huấn sau móc vào lời giáo huấn trước,
khiến ta không thể tách ra theo kiểu phân tích của phương Tây.
Cây
nho trong Cựu Ước
Mở
đầu diễn từ “sai đi” này, Chúa Giê-su đặt nền tảng và nội dung cho sứ mạng của
môn đệ, với hình ảnh CÂY NHO.
Để
hiểu phần này, cần xem kỹ hình ảnh “Cây Nho” : các sách Ngôn
Sứ và Thánh vịnh đã dùng để nói về dân của Giao Ước
Xi-nai, ở đây Chúa Giê-su dùng nói về cộng đoàn Môn đệ của Chúa, dân của Giao
Ước Mới. Ý nghĩa giống nhau và khác nhau thế nào. Sự so sánh này là chìa khóa
giúp ta hiểu sâu hơn ý nghĩa của chương này.
Câu
đầu tiên “Thầy là cây nho thật”, đã ngầm gợi lên sự so sánh. Tại
sao phải nói “cây nho thật” ? Ta hãy lấy thí dụ trong đời sống hàng
ngày : tại sao người bán hàng phải rao : “đây là hàng xịn đấy” ?
Dĩ nhiên vì có hàng dổm trên thị trường. Người lương thiện thì công khai giới
thiệu “đồng hồ Rolex - nhái hiệu” đây, để bán cho những kẻ thích lòe thiên hạ
như con nít thích chơi súng nhựa. Cây nho thật thì sinh trái nho thật. Xem quả
biết cây.
Kiểu
nói này trực tiếp gợi lại bài ca của I-sai-a 5,1-7
1 Tôi
xin hát tặng bạn thân tôi bài ca của bạn về vườn nho của mình.
Bạn
thân tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ.
2 Anh
ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng,
giữa
vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho.
Anh
những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại.
3 Vậy
bây giờ, dân Giê-ru-sa-lem và người Giu-đa hỡi,
xin
phân xử đôi đàng giữa tôi với vườn nho.
4 Có
gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm ?
Tôi
những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại ?
5 Vậy
bây giờ tôi cho các người biết tôi đối xử thế nào với vườn nho của tôi :
hàng
giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang,
bờ
tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo.
6 Tôi
sẽ biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu,
không
tỉa cành nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm ;
sẽ
truyền lệnh cho mây đừng đổ mưa tưới xuống.
7 Vườn nho của ĐỨC CHÚA các đạo binh
chính là nhà Ít-ra-en đó ;
cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, ấy chính là người xứ
Giu-đa.
Người
những mong họ sống công bằng, mà chỉ thấy toàn là đổ máu ;
đợi
chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc
than.
I-sai-a dùng cả hai hình ảnh cây nho và vườn nho
để nói về dân của Giao Ước Xi-nai. Họ là cây nho Thiên Chúa đã tuyển chọn và
tạo mọi điều kiện để nó sinh trái nho tốt, ngon ngọt. Nhưng cây nho đã không
đáp lại mong ước và công khó của người trồng nho. Nó sinh trái nho dại, không
ăn được. Ngôn sứ giải thích trái nho tốt là gì, trái nho dại là gì.
Cây
nho thật và người trồng nho (Ga 15,1-4)
Chúa
Giê-su vận dụng hình ảnh cây nho này để áp dụng cho Chúa và các môn đệ, cộng
đoàn của Giao Ước Mới.
1 Thầy
là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho.
2 Cành
nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi ; còn cành
nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.
3 Anh
em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em.
4 Hãy
ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự
mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không
ở lại trong Thầy.
Chúa
Giê-su là Giao Ước Mới được ví như “cây nho thật”, người trồng nho vẫn
là Chúa Cha. “Cậy nho thật” ở đây không hàm nghĩa cây nho trong Cựu Ước không
phải là cây nho do Thiên Chúa trồng, nhưng là so sánh giữa cây nho giữ đúng bản
chất của mình, sinh trái ngon, với cây nho bị thoái hóa, sinh trái nho dại.
Chúa Giê-su đã thi hành mọi điều Chúa Cha truyền và sắp làm việc cuối cùng để
tỏ lòng yêu mến Cha ; đã chứng tỏ cây nho này là cây nho thật nên không có
thể bị bỏ rơi nữa. “Giao Ước Mới và Vĩnh Cửu” đây rồi. Chúa Giê-su đến
không phải để hủy bỏ Giao Ước Xi-nai, nhưng để kiện toàn (x. Mt 5,17).
Chúa Giê-su không loại bỏ cây nho của Giao Ước Xi-nai, nhưng biến đổi nó trở
thành cây nho thật, như Chúa đã biến đổi “nước dùng để thanh tẩy theo tục lệ
của người Do Thái” thành “rượu ngon” ở Tiệc Cưới Ca-na (x. Ga 2,1-11),
bằng cách đem tới điều mà ông Mô-sê đã nhận xét là Thiên Chúa chưa ban cho
dân : “lòng để biết, tai để nghe, mắt để thấy” (Đnl 29,3).
Chúa Giê-su là Con Một Yêu Dấu đẹp lòng Cha, đã nhập vào cây nho kia để biến nó
trở lại thành cây nho thật. Các môn đệ là những cành từ cây nho của Giao Ước
Xi-nai, đã tiếp nhận sự sống từ cây nho thật, được “sạch” nhờ đón nhận Lời Chúa
Giê-su, chỉ cần ở lại trong cây nho này để sinh trái ngon. Chúng ta, vốn là
“dân ngoại”, được tháp vào cây nho thật. Thánh Phao-lô dùng hình ảnh cành ô-liu
dại được tháp vào cây ô-liu thật : “Một số cành cây ô-liu đã bị chặt
đi, còn bạn là ô-liu dại đã được tháp vào đó, và cũng được hưởng sự sống dồi
dào từ rễ cây ô-liu chính. Vì thế bạn đừng có lên mặt khinh dể các cành khác…
Đâu phải bạn mang rễ mà rễ mang bạn… Nếu những cành tự nhiên, mà Thiên Chúa đã
không tha, thì Người cũng sẽ chẳng tha bạn đâu” (Rm 11,17-21).
Chúa Giê-su đã nói với người phụ nữ Sa-ma-ri : « Ơn cứu độ phát
xuất từ dân Do Thái” (Ga4,22). Chúa Giê-su sinh ra trong dòng dõi
Ap-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, dòng dõi vua Đa-vít, “từ cội rễ
Giét-sê” (Is 11,1 ; Mt1,1).
Người
trồng nho săn sóc cây nho bằng cách cắt tỉa : “Cành nào gắn liền với Thầy
mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi ; còn cành nào sinh hoa trái,
thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn”.
Việc cắt tỉa được diễn tả bằng một động từ trong tiếng Hy-lạp (ka-tha-ro),
có nghĩa là “làm cho sạch”, vì thế Chúa nói về các môn đệ : “3 Anh
em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em.” “Cũng như cành
nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em
cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.”
Muốn
hiểu “ở lại trong Thầy” nghĩa là gì và bằng cách nào, xin cứ đọc tiếp,
Chúa Giê-su sẽ giải thích. Nhưng Chúa lại không giải thích “cắt tỉa” là
gì, bằng cách nào. Nghe “cắt, tỉa” là chúng ta rùng mình, như nghe tiếng kéo
“xóc xóc” bên tai, thấy lưỡi dao lóe trước mặt ! Nhưng dao, kéo của Chúa
Cha cũng là lời Chúa Giê-su nói nhân danh Cha : “Anh em được thanh sạch
rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em” ; “Ai yêu mến Thầy thì giữ
lời Thầy” (Ga 14,23). Cắt tỉa là uốn nắn cho chúng ta sống đúng
Lời Chúa. “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn dao hai
lưỡi : xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy ; lời đó
phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Hr 4,12).
Nhưng Thiên Chúa cũng có cách khác để cắt tỉa, như thư Híp-ri diễn
tả rất thật : “Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối
xử với anh em như những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không
sửa dạy ?... Ngay lúc được sửa dạy thì chẳng ai lấy làm vui
thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ
gặt được hoa trái là bình an và công chính” (Hr 12,7.11).
Cây
nho và cành nho (Ga 15,5-11)
5 “Thầy
là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì
được. 6 Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho
và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. 7 Nếu
anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ
xin, anh em sẽ được như ý. 8 Điều làm Chúa Cha được tôn vinh
là : Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.
9 “Chúa
Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại
trong tình thương của Thầy. 10Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em
sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy
và ở lại trong tình thương của Người. 11 Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được
hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
Cành
nho chỉ có thể sinh trái nếu ở lại trong cây nho, đó là điều hiển nhiên. Áp
dụng vào tương quan giữa Chúa Giê-su và môn đệ : “Ai ở lại trong
Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì
không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”. Số phận của cành nho không ở lại
trong cây nho cũng hiển nhiên. Vấn đề là “ở lại trong Chúa” bằng cách
nào và sinh trái bằng cách nào. Ở lại trong Chúa bằng cách để cho Lời Chúa ở
lại trong ta, vì “Thần khí mới làm cho sống… Lời Thầy là thần khí và là sự
sống” (Ga 6,63). Chúa Giê-su là LỜI của Thiên Chúa đã thành
người phàm để nói với chúng ta, nên Lời Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa, “lời
ban sự sống đời đời”, như thánh Phê-rô tuyên xưng (Ga 6,68).
Lời Chúa Giê-su ở lại trong chúng ta thì thần khí và sự sống từ Chúa Cha lưu
chuyển qua Chúa Giê-su sang chúng ta, chúng ta sống bằng sự sống của Thiên Chúa
và sinh hoa trái như Thiên Chúa muốn. Thánh Phao-lô nói : “Tôi sống,
nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Khi ấy cùng với Chúa Giê-su, chúng ta chỉ muốn điều Thiên Chúa muốn, “xin
cho Ý Cha thể hiện”, nên “muốn gì anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý”.
Chúng ta chỉ muốn điều Chúa Cha muốn. Điều Chúa Cha muốn là “Danh Cha cả
sáng”. “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là : Anh em sinh nhiều hoa
trái và trở thành môn đệ của Thầy”. Trở thành môn đệ của Chúa là một tiến
trình liên lỉ, khởi đầu từ phép rửa tội. Trở thành môn đệ theo hình ảnh cành
nho ở trong cây nho, nghĩa là sinh hoa trái theo bản chất của cây nho, vì “xem
quả biết cây” (x. Mt 7,16-20). Hoa trái là do tác động của
Thiên Chúa chứ không phải do sức của chúng ta. Chính Chúa Giê-su cũng nhìn nhận :
“Chúa Cha ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình” (Ga 14,10).
“Ở
lại trong Thầy” còn đồng nghĩa với “ở lại trong tình yêu của Thầy”.
“Thiên Chúa là Tình Yêu” nên sự sống của Thiên Chúa lưu chuyển qua Chúa
Giê-su sang chúng ta cũng là Tình Yêu : “Chúa Cha đã yêu mến Thầy như
thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương
của Thầy”. Bằng cách nào ? “Nếu anh em giữ các điều Thầy truyền,
anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều Cha Thầy
truyền, và ở lại trong tình thương của Người.” (1) Có niềm vui nào lớn
hơn là niềm vui sống trong tình yêu, biết rằng mình được yêu và chính mình cũng
yêu. Đó là niềm vui Chúa Giê-su sống và đem cho chúng ta. Thánh Lu-ca kể
rằng khi Chúa Giê-su sinh ra ở Be-lem thì thiên sứ đến báo tin cho những người
chăn chiên : “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là
tin mừng cho toàn dân” (Lc 2,10). “Các điều ấy, Thầy đã nói
với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được
nên trọn vẹn.”
Trái
nho thật (Ga 15,12-15)
12 “Đây
là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em. 13 Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người
đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. 14 Anh em là bạn hữu
của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. 15 Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa,
vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả
những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.
Chúa
Giê-su nhắc lại “điều răn mới” (Ga 13,34), với tên gọi “điều
răn của Thầy”, và Chúa cho thước đo : “Không có tình thương nào cao
cả hơn tình thương của Người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”.
Chúa Giê-su đã yêu chúng ta bằng mức độ ấy, như thánh Phao-lô nói : “Người
đã yêu thương tôi và đã thí mạng vì tôi” (Gl 2,20). Và khi ấy
chúng ta chưa phải là bạn hữu của Người, chính Người thí mạng vì chúng ta để
làm cho chúng ta thành bạn hữu của Người. “Tình yêu cốt ở điều này, không
phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,
và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau.”
(1 Ga 4,10-11). Chúa Giê-su đặt mức ấy làm thước đo khi truyền “hãy
yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Thư 1Gio-an sẽ
nói rõ : “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì, đó là
Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải
thí mạng vì anh em” (1 Ga 3,16).
Thánh
Phao-lô coi điều này là cơ sở cho chúng ta được vững lòng cậy trông :
Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn
là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta .9 Phương chi bây giờ
chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ
được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. 10 Thật vậy, nếu
ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của
Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Người, phương chi bây giờ
chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người
Con ấy. (Rm 5,8-10).
Làm
sao sống xứng đáng với tình bạn ấy ? “14 Anh em là bạn hữu của
Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.” Dựa vào đâu mà
biết chúng ta là bạn hữu của Chúa Giê-su ? 15 Thầy không còn gọi
anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em
là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em
biết”.
Chung
sứ mạng với Chúa (Ga 15,16-17)
Chúa
Giê-su chọn các môn đệ để làm gì ? Không phải để cùng nhau vui chơi, nhưng
để cùng nhau thi hành sứ mạng. Sứ mạng của Chúa Giê-su là “Kể cho chúng ta
biết về Chúa Cha” (Ga 1,18). Chúa Giê-su Con Thiên Chúa đã đem
cả cuộc sống làm người và cái chết mà kể cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là
Tình Yêu. Được trở thành bạn hữu của Người, được Người cho biết tất cả những gì
Người đã nghe từ Chúa Cha, là để cùng với Người tiếp tục sứ mạng, kể ra cho mọi
người biết Thiên Chúa là Tình Yêu bằng cách sinh hoa trái của cây nho
thật : 16 “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy
đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa
trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh
Thầy, thì Người ban cho anh em. 17Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu
thương nhau.
Chung
thân phận với Chúa (Ga 15,18-25)
Là
bạn hữu của Chúa, cùng dấn thân vào sứ mạng với Chúa thì cũng phải chung thân
phận với Chúa : đem tình yêu đi làm chứng cho Tình Yêu, nhưng lại bị thế
gian ghét. Vì thủ lãnh của thế gian “là kẻ sát nhân ngay từ đầu”
(x. Ga 8,44).
18 “Nếu
thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19 Giả
như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng
vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế
gian, nên thế gian ghét anh em. 20 Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh
em : tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt
bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. 21 Nhưng
họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi
họ không biết Đấng đã sai Thầy.
22 “Giả
như Thầy không đến và không nói với họ, họ đã chẳng có tội. Nhưng bây giờ, họ
không thể chữa tội được. 23 Ai ghét Thầy, thì cũng ghét Cha
Thầy. 24 Giả như Thầy không làm giữa họ những việc không một ai khác
đã làm, họ đã không có tội. Nhưng nay họ thấy rồi mà vẫn ghét cả Thầy lẫn Cha
Thầy. 25 Như thế là ứng nghiệm lời đã viết trong Sách Luật của
họ : Chúng ghét con vô cớ.”
“Thế
gian” hiểu về cả nhân loại, là thế gian mà “Thiên Chúa yêu thương đến nỗi
ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời” (Ga 3,16) ; còn “thế gian” dưới quyền của “thủ
lãnh thế gian” (Ga 14,30), là kẻ thù truyền kiếp không đội trời
chung. Nó ghét Chúa Giê-su như bóng tối ghét ánh sáng, thì cũng ghét Cha của
Người và càng ghét cả bạn hữu của Người. “Ghét nhau, ghét cả tông ti họ hàng”.
Thực tế này bạn hữu của Chúa phải chấp nhận trước nếu muốn là bạn đường cùng đi
với Chúa (2).
Đấng
Bảo Trợ đến (Ga 15,26-27)
Chung
thân phận với Chúa không phải là chịu trận, nhưng để làm chứng cho Chúa. Làm
sao được ? Nhờ Đấng Bảo Trợ xuất phát từ Chúa Cha, Chúa Giê-su
sẽ gởi đến cho môn đệ, Đấng ấy làm chứng về Người và cho các môn đệ có khả năng
cùng làm chứng về Người, với tư cách là những người đã ở với Chúa Giê-su từ
đầu : 26 “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với
anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người
sẽ làm chứng về Thầy. 27Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở
với Thầy ngay từ đầu.
Ông
Mô-sê được Thiên Chúa truyền trao gậy chỉ huy lại cho ông Giô-su-ê, người đã ở
với ông Mô-sê từ đầu, để tiếp tục đưa dân vào Đất Hứa. Chúa Giê-su thì gởi Đấng
Bảo Trợ xuất phát từ Chúa Cha để đồng hành với các môn đệ trên đường sứ mạng.
Để
anh em khỏi vấp ngã (Ga 16,1-4)
1 “Thầy
đã nói với anh em các điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã. 2 Họ
sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng
tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa. 3 Họ sẽ làm như thế, bởi vì họ không
biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy. 4Nhưng Thầy đã nói với anh em những
điều ấy, để khi đến giờ họ hành động, anh em nhớ lại là Thầy đã nói với anh em
rồi.
Thủ
Lãnh tuyệt vời, Chúa Giê-su không muốn cho môn đệ bị bất ngờ khi đi vào sứ
mạng. Chúa biết trước mà vẫn cứ sai đi, lại còn cho môn đệ biết trước, nghĩa là
Chúa đã nắm chắc phần thắng rồi. Vậy thì còn sợ gì nữa !
Vai
trò của Đấng Bảo Trợ (Ga 16,4-11)
Chúa
cho biết trước chông gai trên đường để các môn đệ khỏi vấp ngã, nhưng môn đệ có
thể thắc mắc : sao bây giờ Thây mới nói ? Chúa trả lời trước khi họ
đặt câu hỏi. “Vì bấy lâu nay Thầy còn ở với anh em.” Tình thế đã thay
đổi : Thầy đi thì Đấng Bảo Trợ mới đến :
“Những
điều ấy, Thầy đã không nói với anh em ngay từ đầu, vì lúc ấy Thầy còn ở với anh
em. 5 Bây giờ Thầy đến cùng Đấng đã sai Thầy, và không ai trong anh
em hỏi : ‘Thầy đi đâu ?’ 6 Nhưng vì Thầy nói ra các điều
ấy, nên lòng anh em tràn ngập ưu phiền. 7Song, Thầy nói thật với anh
em : Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi,
Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em ; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng
ấy đến với anh em. 8 Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian
sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử : 9 về tội
lỗi : vì chúng không tin vào Thầy ; 10 về sự công
chính : vì Thầy đến cùng Chúa Cha, và anh em không còn thấy Thầy
nữa ; 11 về việc xét xử : vì Thủ lãnh thế gian này đã bị
xét xử rồi.
Đấng
Bảo Trợ đến để chứng minh thế gian ghét Chúa “vô cớ”. Chính
thế gian mới là kẻ có tội vì không tin vào Chúa, Chúa Giê-su là Đấng Công Chính
vì Chúa đã lên cùng Chúa Cha để có thể gởi Đấng Bảo Trợ đến. Sự hiện diện của
Người là lời kết án thủ lãnh thế gian. Người sẽ vạch mặt chỉ tên nó là cha sự
dối trá và là kẻ sát nhân. Nó giết được Chúa Giê-su như đã giết A-đam và con
cái A-đam, nhưng Chúa Giê-su vào tận sào huyệt của nó mà đạp dập đầu nó để giải
thoát A-đam và con cái.
Ngoài
việc chứng minh cho Chúa Giê-su và kết án thủ lãnh thế gian, Đấng Bảo Trợ là
Thần Khí Sự Thật sẽ hoàn tất việc dạy dỗ các môn đệ :
12 “Thầy
còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu
nổi. 13 Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật
toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe,
Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. 14 Người
sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh
em. 15 Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói :
Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em.
Nỗi
đau sinh con (Ga 16,16-23)
Nghe
Thầy nói, các môn đệ có một thắc mắc, thì thầm với nhau mà không dám hỏi Thầy.
Chúa Giê-su biết thế nên trả lời ngay :
16 “Ít
lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại
thấy Thầy.”
17 Bấy
giờ vài người trong nhóm môn đệ của Đức Giê-su hỏi nhau : “Người muốn nói
gì khi bảo chúng ta : ‘Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít
lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy’ và ‘Thầy đến cùng Chúa Cha’ ?” 18 Vậy
các ông nói : “‘Ít lâu nữa’ nghĩa là gì ? Chúng ta không hiểu Người
nói gì !” 19 Đức Giê-su biết là các ông muốn hỏi mình, nên bảo
các ông : “Anh em bàn luận với nhau về lời Thầy nói : ‘Ít lâu nữa,
anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy
Thầy.’ 20 Thật, Thầy bảo thật anh em : anh em sẽ khóc lóc và
than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh
em sẽ trở thành niềm vui. 21 Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì
đến giờ của mình ; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan
nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế
gian. 22 Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp
lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng ; và niềm vui của anh em, không ai lấy
mất được. 23 Ngày ấy, anh em không còn phải hỏi Thầy gì nữa.
Đang
nói chuyện tương lai về con đường chông gai, Chúa Giê-su chuyển về chuyện sắp
xảy ra bây giờ, khiến môn đệ thắc mắc. Chuyện sắp tới bây giờ là thế gian vui
mừng vì giết được Chúa Giê-su, còn môn đệ sẽ khóc lóc, than van, lo buồn. Nhưng
nỗi lo buồn của họ cũng như nỗi đau của Chúa đều ví như nỗi đau sinh con, nó sẽ
được tiếp nối bởi vui mừng, và “niềm vui ấy sẽ không ai lấy mất được”,
bởi vì Chúa sẽ chiến thắng sự chết, nó không làm gì được người nữa. Các môn đệ
cũng sẽ chung phần chiến thắng với Chúa. Khi Chúa Giê-su đã chiến thắng thì
Người gởi Đấng Bảo Trợ là Thần Khí sự thật đến, môn đệ sẽ được dạy dỗ từ bên
trong nên không còn phải hỏi Chúa nữa,
Để
niềm vui được trọn vẹn (Ga 16,23-28)
Chúa
Giê-su giải thích thêm tương quan mới giữa môn đệ với Chúa và với Chúa
Cha :
Thật,
Thầy bảo thật anh em : Anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban
cho anh em nhân danh Thầy. 24 Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì
nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn.
25 “Thầy
đã dùng dụ ngôn mà nói những điều ấy với anh em. Sẽ đến giờ Thầy không còn dùng
dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa Cha,
không còn úp mở. 26 Ngày ấy, anh em sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy
không nói với anh em là Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha cho anh em. 27 Thật
vậy, chính Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy, và tin rằng Thầy
từ Thiên Chúa mà đến. 28 Thầy từ Chúa Cha mà đến, và Thầy đã đến thế
gian. Nay Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha.”
Chính
môn đệ là con người mới đã được sinh ra nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa
Giê-su, và được đến với Chúa Cha trong Chúa Giê-su, nên nhân danh Chúa Giê-su
mà xin gì với Chúa Cha cũng sẽ được. Chúa Giê-su vốn “từ trong lòng Cha mà
đã đến thế gian, nay bỏ thế gian mà về cùng Cha”, nhưng không về một mình,
“Chúa kéo mọi người lên với Chúa” (x. Ga12,32 ;
13,1 ; 14,2-3 ; 16,28). Chúa Giê-su đưa các môn đệ vào trong lòng
Cha, cho họ tham dự đời sống thân mật với Chúa Cha : “Cha của Thầy cũng
là Cha của anh em” (Ga 20,17), đế nỗi Chúa không cần xin giùm
với Chúa Cha nữa, “vì Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy và tin
rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến.
Thầy
đã thắng thế gian (Ga 16,29-33)
29 Các
môn đệ Người thưa : “Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn
nào nữa. 30 Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và
Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà
đến.” 31 Đức Giê-su đáp : “Bây giờ anh em tin à ? 32 Này
đến giờ –và giờ ấy đã đến rồi– anh em sẽ bị phân tán mỗi người một ngả và để
Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với
Thầy. 33 Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được
bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên !
Thầy đã thắng thế gian.”
Ông
Mô-sê giã từ dân của ông rồi lủi thủi một mình chống gậy lên núi, lãnh “lô an
ủi” và “nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt”. Chúa Giê-su cũng phải
một mình xông vào cuộc chiến, vì các môn đệ tứ tán mỗi người mỗi ngả, bỏ Chúa
một mình, nhưng Chúa không cô độc, vì Chúa Cha ở với Chúa. Chúa có một an ủi
nhỏ là sau khi Chúa nói, các môn đệ thưa : “Giờ đây, chúng con nhận ra
là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng
con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến”. Và niềm vui lớn là Chúa cầm chắc
chiến thắng. Chúa báo trước cho môn đệ biết họ sẽ bỏ Chúa, nhưng có “Chúa
Cha ở với Thầy. Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy
anh em được bình an”. Chúa nhắc lại rằng Chúa đi vào cuộc chiến tay
đôi còn họ phải đi vào con đường sứ mạng đầy chông gai, nhưng Chúa nắm chắc
phần thắng cho Chúa và cho cả môn đệ rồi, nên có thể khích lệ họ : “Trong
thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã
thắng thế gian”. Vậy là trái với ông Mô-sê, Chúa Giê-su kết thúc diễn từ
giã biệt với một chân trời của bình minh rực ánh hồng trước mắt.
Giê-ru-sa-lem, Chúa nhật Tiệc Cưới
Ca-na, 20/1/ 2019
Linh mục Giu-se Nguyễn Công Đoan, S.J.
(1) Bản
văn dùng cùng một từ Hy-lạp (entolê), vẫn dịch là “điều răn” ;
ở đây Chúa Giê-su dùng cùng một từ Hy-lạp để nói về “các điều Thầy truyền
cho anh em” và “các điều Cha Thầy truyền cho Thầy”, như cách dịch ở
câu 14, có vẻ dễ nghe hơn.
(2) Cái
“thế gian dưới quyền Xa-tan” đã chen chân vào Hội Thánh từ khi có nhóm Mười Hai
cùng đi với Chúa Giê-su. Những “chuyện thế gian” xảy ra trong Hội Thánh thời
nay (ấu dâm, tiền bạc, quyền lực) đang được khai thác triệt để, với các phương
tiện pháp lý và truyền thông hiện nay, để đánh phá Hội Thánh một cách hợp pháp,
chứ không phải “vô cớ” – chỉ có Chúa Giê-su có thể nói về chính mình : “Ai
trong các ông chứng minh được là tôi có tội” (Ga 8,46) – Người
ta có cớ để đánh cả về vật chất (bao nhiêu vụ phá sản của giáo phận, dòng tu)
lẫn tinh thần (nó làm cho người ngoài và cả nhiều tín hữu nhìn giám mục, linh
mục, tu sĩ và cả Hội Thánh với con mắt khinh bỉ). Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đang
chiến đấu để loại cái tinh thần thế gian ấy ra khỏi Tòa Thánh Va-ti-can. Ngài
bị những người vẫn tự cho là mình trung thành với Hội Thánh, ngay trong
Va-ti-can, có cả những vị chức cao quyền trọng với nhiệm vụ giúp Ngài phục vụ
Hội Thánh, chống đối công khai và ngấm ngầm. Từ phút đầu tiên ra mắt trước
những người tụ họp chào mừng Tân Giáo Hoàng, Ngài đã ý thức về cuộc chiến không
cân sức này, nên đã khiêm tốn cúi đầu xin mọi người cầu nguyện cho Ngài trước
khi ban phép lành cho họ. Và mỗi khi có dịp, Ngài lại nhắc mọi người : “Xin
đừng quên cầu cho tôi”. Thánh Phao-lô cũng vẫn xin như vậy trong các thư.
Thấy tình trạng này, có người hoảng hốt, có người thở dài, có người lo sợ, có
người oán trách… Nhưng có lẽ thái độ hợp Tin Mừng hơn cả là xét mình, đấm ngực
mình, vì những vấp ngã của mình hàng ngày, tuy chưa thành cớ cho người ta tấn
công Hội Thánh, nhưng cũng góp phần làm suy yếu, giảm sức sống của Hội Thánh là
một thân thể : “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau”
(1 Cr 12,26). Mỗi người, nhất là giám mục, linh mục, tu sĩ, mỗi
cộng đoàn tín hữu, cộng đoàn tu sĩ phải thức tỉnh như thánh Phao-lô nhắc :
“Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12).
Tinh thần thế gian xâm nhập Hội Thánh qua mỗi người chúng ta. Đọc Tin
Mừng Gio-an, nhiều người thắc mắc : ngay từ đầu Chúa đã biết
Giu-đa là kẻ sẽ phản nộp (Ga 6,64.70-71), thế sao Chúa không loại
ngay đi ? ! Tôi nghĩ nếu “Chúa ra tay trước” kiểu đó, thì tôi đã ở
trong hỏa ngục lâu rồi… Không biết có ai nghĩ mình không đáng bị loại
không ?