Lời nguyện kết thúc diễn từ giã biệt
Ga 17,1-26
(Tìm hiểu Tin Mừng theo thánh Gio-an) – Bài 15
Tác giả: L.M.
Giu-se Nguyễn Công Đoan, S.J., ngày 24 tháng 1 năm 2019
Mô-sê
kết thúc diễn từ giã biệt bằng một bài ca (Đnl 32) và một lời chúc
phúc (Đnl 33).
Bài
ca thâu tóm lịch sử
của dân trong ba thì : 1- dân được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn và ra tay
quyền năng cứu thoát, cho hưởng phúc lộc dư tràn ; 2- nhưng dân phản bội
và bị tai ương ; 3- Chúa lại xót thương và vì danh dự của Chúa bị kẻ thù
xúc phạm, nên Chúa lại ra tay giải cứu.
Lời
chúc phúc cho từng bộ tộc
đều xoay quanh những phúc lộc trần gian : sức mạnh, thống trị, hoa màu
ruộng đất, phồn vinh, chà đạp quân thù để sống yên hàn. Viễn tượng hoàn tòan
trần thế, phù hợp với lời hứa của Thiên Chúa trong giao ước Xi-nai là một miền
đất “chảy sữa và mật”.
Trong
Tin Mừng thứ tư, Chúa Giê-su kết thúc diễn từ giã biệt bằng một lời cầu nguyện,
quen gọi là “lời nguyện hiến tế” (Ga 17,1-26).
Chúa
Giê-su nhắc đi nhắc lại lời “xin Cha tôn vinh Con”, vì mọi điều Chúa
Giê-su đã hứa với các môn đệ đều là kết quả của “cuộc tôn vinh” của Chúa qua
thập giá và phục sinh. Bao lâu Chúa Giê-su chưa được tôn vinh thì mọi lời hứa
kia chưa thực hiện được. Chúa Giê-su tha thiết xin được Cha tôn vinh là vì khao
khát tôn vinh Cha đến cùng. Cuộc tôn vinh của Chúa diễn ra trên thập giá, bằng
cái chết làm của lễ mà I-xa-ác, con một yêu dấu của ông Áp-ra-ham là hình bóng
báo trước trong Cựu Ước. I-xa-ác sẵn sàng để cha dâng mình làm của lễ, Chúa
Giê-su dâng mình cho Cha khi đi vào cuộc tôn vinh này, và xin Cha thực hiện ý
định của Cha về Chúa Giê-su và về các môn đệ.
Ông
Áp-ra-ham đi ba ngày đường, có lừa chở củi, có hai người tôi tớ theo hầu, nhưng
đến chân núi, ông bỏ hai người tôi tớ và con lừa ở lại chờ dưới chân núi, không
nhờ họ vác củi, cầm dao cầm lửa giùm (x. St 22,6-8). Trước khi
lên đường, ông đã tự tay chẻ củi, chất lên lưng lừa ; khi tới chân núi thì
ông chất củi lên vai cho con vác, còn ông thì tay cầm dao tay cầm lửa, “hai
cha con đi cùng nhau” lên núi để tế lễ. Trong trình thuật cuộc Thương Khó
của Gio-an, các môn đệ cũng bỏ Chúa Giê-su một mình, Chúa tự vác
lấy thập giá đi lên tới Gôn-gô-tha, không có cả Si-môn Ky-rê-nê trên đường.
Nhưng Chúa Cha ở với Chúa Giê-su, nghĩa là “hai cha con đi cùng nhau”
lên núi để tế lễ (1).
Xin
Cha tôn vinh Con để Con tôn vinh Cha (Ga 17, 1-3)
1 Nói
thế xong, Đức Giê-su ngước mắt lên trời và cầu nguyện : “Lạy Cha, giờ đã
đến ! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. 2 Thật
vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời
đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. 3 Mà sự sống đời đời đó
là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã
sai đến, là Giê-su Ki-tô.
Cha
đã trao cho Con quyền và sứ mạng ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã
ban cho con (x. Ga 1,3 ; 3,14-15 ; 5,21-26.40 ;
6,57-58.62-63 ; 8,51 ; 10,10 ; 11,25). Sự sống đời đời lại cốt ở
sự thông phần trọn vẹn với Cha và với con trong vinh quang. Con đang trong thân
phận làm người, phải lên trong vinh quang con vẫn có nơi Cha, thì mới thông ban
sự sống của Cha và Con cho họ được. Đó là Con tôn vinh Cha. “Con phải lên
nơi đã ở trước kia”, trong thân phận là Thiên Chúa, “Thiên Chúa là Thần
Khí” (Ga 4,24) ; “Thần khí mới làm cho sống, xác thịt
chẳng có ích gì” (Ga 6,62-63).
Con
đã tôn vinh Cha ở dưới đất (Ga 17,4-8)
4 “Phần
con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho
con làm. 5 Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha :
xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế
gian. 6 Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã
cho họ biết danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ
lời Cha. 7 Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều
do bởi Cha, 8 vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con ;
họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin
là Cha đã sai con.
Chúa
Giê-su đã tôn vinh Cha ở dưới đất khi hoàn tất công trình Chúa Cha giao cho
Chúa làm : đó là đón nhận những kẻ Cha đã chọn và ban cho Người, và kể cho
họ biết danh Cha. Họ vẫn là của Cha, và họ tuân giữ Lời Cha : họ đã đón
nhận những lời Cha gởi cho họ qua Con, họ biết và tin rằng Con từ Cha mà đến và
do Cha đã sai con chứ không phải do con tự ý đến.
Con
cầu nguyện cho những kẻ Cha đã ban cho con (Ga 17,9-13)
9 “Con
cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã
ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. 10 Tất cả những gì con có đều là
của Cha, tất cả những gì Cha có đều là của con ; và con được tôn vinh nơi
họ. 11 Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế
gian ; phần con, con đến cùng Cha. Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn
đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta. 12 Khi
còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã
canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng
nghiệm lời Kinh Thánh. 13 Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những
điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con.
Họ
thuộc về Cha, Cha đã ban cho con nên họ thuộc về con, nhưng bây giờ con lên
cùng Cha, còn họ ở trong thế gian và họ sẽ gặp nhiều gian nan vì bị thế gian
ghét. Con không cầu nguyện cho cái thế gian dưới quyền Xa-tan, vì nó ghét cha,
ghét con và ghét những người Cha đã ban cho con. Con cầu xin cho những kẻ Cha
đã ban cho con, vì họ vẫn thuộc về Cha, nhưng họ là vinh quang của con trên
trần gian.
Khi
con còn ở giữa họ, với quyền năng của Cha ban, con đã canh giữ họ, như canh giữ
đoàn chiên, không để mất một ai, trừ “đứa con của sự hư hỏng”, nó
vượt ngoài tầm tay của con.
Cụm
từ “đứa con của sự hư hỏng” nghĩa là gì ? ám chỉ ai ?
Người ta thường nghĩ là Giu-đa, vì Gio-an đã nhắc tới Giu-đa
nhiều lần, và lúc này thì “Xa-tan đã nhập vào Giu-đa” và “Giu-đa đã
đi ra”, lao vào bóng đêm để mau mau làm việc toan làm. “Để ứng nghiệm
lời Kinh Thánh”. Lời nào ? Gio-an không trích dẫn. Ta hãy xem các sách
Tin Mừng Nhất Lãm nói gì ?
Mt 26,23 : “Kẻ giơ tay chấm
chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. Đã hẳn, Con người ra đi theo như lời
đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người : thà kẻ đó đừng
sinh ra thì hơn. ”
Mc 14,18-21 : “có người trong
anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy… chính là một người
trong nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. Đã hẳn, Con
Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người
: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn.”
Lc
22,21-22 : “Này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy. Đã
hẳn Con Người ra đi như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người.”
Ga 17,12 : “Khi còn ở với họ,
con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và
không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh
Thánh.”
Lời
trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm xem ra ám chỉ rõ tới thánh vịnh 41/40,10 :
“ Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà
nay cũng giơ gót đạp con”. Cách thức Mat-thêu(27,4-8) kể về cái
chết của Giu-đa : Giu-đa và các thượng tế đều nhìn nhận đồng tiền họ trả
cho Giu-đa và Giu-đa trả lại là “giá máu” bán người vô tội. “Giu-đa
đi thắt cổ”, gợi lại cái chết của A-khi-tô-phen, vị quân sư đã phản bội vua
Đa-vít khi đi theo Áp-sa-lon làm phản (2 Sm 17,23).
Gio-an kể việc Chúa Giê-su tự tay chấm miếng
bánh trao cho Giu-đa. Giu-đa ăn xong miếng bánh, Xa-tan liền nhập vào ông ta.
Chúa bảo ông ta : “Anh làm gì thì làm mau đi !” (Ga 13,21-30).
Cách kể này xem ra tô đậm hơn nữa lời thánh vịnh kể trên, nhưng trong lời cầu
nguyện ở đây Chúa Giê-su lại dùng kiểu nói gặp trong Is 57,3-4,
theo bản Hy-lạp :
Phần
các ngươi, hỡi những đứa con vô đạo (= không có Luật),
hỡi
giống nòi dâm đãng ngoại tình, hãy đến cả đây !
4 Này
các ngươi nhạo cười ai vậy ?
Các
ngươi mở miệng, le lưỡi chống lại ai ?
Há
các ngươi không phải là con của sự hư hỏng,
là nòi
giống vô đạo hay sao ?
Trong
cách nói của tiếng Híp-ri thì “đứa con của sự hư hỏng” thường
có nghĩa là “đứa con hư hỏng”. Trong câu này, nó đi song song với “nòi
giống vô đạo” thì ý nghĩa đó càng rõ hơn.
Các
Tin Mừng Nhất Lãm liên kết lời Sách Thánh với việc “Con Người ra đi”, trong khi Gio-an lại có
vẻ liên kết với sự “hư mất”. Câu 21 trong chương 57 của I-sai-a :
“Phường độc ác gian tà không được hưởng bình an”. Đứa con hư hỏng thì hư
mất.
Điều
này không hề bao hàm rằng Giu-đa phải sa hỏa ngục đời đời như người ta thường
nghĩ. Nhưng trong viễn tượng của Tin Mừng Gio-an, có lẽ lời
Chúa Giê-su không thâu gọn vào nhân vật Giu-đa, mà mở rộng và xa hơn. Chúa đã
nói về thân phận môn đệ là sẽ bị thế gian ghét bỏ, loại trừ, thậm chí “sẽ
đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa” (Ga 16,3).
Và sẽ vẫn có những người trong hàng môn đệ sẽ phản bội mà đi theo thế gian,
cũng như những người mà I-sai-atố cáo là “con của sự hư hỏng”
“nòi giống gian dối” trong chương 57 vừa dẫn ở trên. Trong Gio-anchương
8, Chúa đã tố cáo nhưng người Do Thái ngoan cố : “Cha của các ông là
thằng quỷ… nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối.” Nó đối nghịch với
sự thật : “Còn tôi, chính vì tôi nói sự thật nên các ông không tin”
(Ga 8,44-45). Xa-tan đã nhập vào Giu-đa để dùng ông ta mà nộp Chúa
Giê-su. Cũng như Chúa Giê-su đã không giữ nổi Giu-đa, thì trong đoàn môn đệ
đông đúc sau này, sẽ vẫn có những “đứa con của sự hư hỏng” mà không ai
ngăn ngừa được, bởi vì Thiên Chúa không dùng xiềng xích mà giữ người ta, nhưng
chỉ dùng phương thế mà ngôn sứ Hô-sê diễn tả : “Ta lấy
dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng. Ta xử với chúng như người
nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má. Ta cúi xuống gần mà đút cho nó ăn…” (Hs 11,4).
Chúa Giê-su đã xử sự như thế với Giu-đa : Chúa tín nhiệm trao cho ông giữ
túi tiền chung, Chúa tự tay chấm một miếng bánh trao cho ông đấy.
Thư
thứ hai Tê-xa-lô-ni-ca sẽ
căn dặn cộng đoàn tín hữu : “Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào.
Trước đó [ngày Chúa quang lâm], phải có sự chối đạo, và người
ta phải thấy xuất hiện người của sự vô đạo[ho anthropos tes anomias], đứa
con của sự hư hỏng [ho huios tes apoleias] … Khi còn ở với anh em,
tôi đã từng nói những điều ấy, anh em không nhớ sao ?” (2 Tx 2,3.5).
Thư
thứ hai của thánh Phê-rô so
sánh tình trạng cộng đoàn tín hữu với cộng đoàn Cựu Ước : 1Trong
dân cũng đã từng xuất hiện những ngôn sứ giả ; giữa anh em cũng vậy, sẽ có
những thầy dạy giả hiệu, đó là những kẻ sẽ lén lút đưa vào những tà
thuyết dẫn tới diệt vong [haireseis apoleias]. Vì chối bỏ
vị Chúa Tể đã chuộc họ về, họ sẽ mau chóng chuốc lấy hoạ diệt vong [apoleian]. 2 Nhiều
người sẽ học đòi các trò dâm đãng của họ, và vì họ, con đường sự thật sẽ bị phỉ
báng. 3 Vì tham lam, họ dùng lời lẽ gạt gẫm anh em để trục lợi. Án
phạt họ đã sẵn sàng từ lâu, và hoạ diệt vong [he apoleia] đã
gần kề. (2 Pr 2,1-3).
Thư
thứ nhất của thánh Gio-an cũng cảnh giác :
1 Anh
em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin,
nhưng
hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không,
vì đã
có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian…
5 Các ngôn sứ giả đó thuộc về thế gian ;
vì
thế, chúng nói theo thế gian, và thế gian nghe chúng. (1 Ga 4, 1.5)
Đọc
trong mạch văn mở rộng này, chúng ta nhận ra nhân vật Giu-đa ở đây đã vượt khỏi
tính cách cá nhân để trở thành tiêu biểu cho tất cả “những đứa con của sự hư
hỏng”, nối liền “nòi giống vô đạo” từ cộng đoàn Cựu Ước tới
cộng đòan Tân Ước, bởi vì Thiên Chúa đã dựng nên A-đam và dòng giống có quả tim
để biết yêu và có tự do để chọn lựa, và Thiên Chúa tôn trọng công trình tạo
dựng của Người, Người chỉ tác động vào con tim chứ không ngăn chận tự do.
Chúa
Giê-su đang hướng về tương lai, cầu nguyện cho công đoàn môn đệ xuyên thời
gian. Chúa nhắc đến “đứa con của sự hư hỏng” trong nhóm môn đệ từng ở
với Chúa và Chúa ở giữa họ. Chúa không nhắc đến tên ai cả. Cộng đoàn tương lai
khi Chúa đã lên cùng Cha cũng sẽ có “những đứa con của sự hư hỏng” mà
Giu-đa là đại diện. Giu-đa là nhân vật phản diện của “người môn đệ Chúa
Giê-suyêu mến”, người luôn ở kề bên Chúa, nhạy bén với sự hiện diện và mọi
dấu chỉ của Tình Thương. Người môn đệ này cũng trở thành mô hình tiêu biểu cho
mọi người môn đệ biết đón nhận và để cho “dây nhân nghĩa, mối ân tình”
giữ cho mình gắn bó với Chúa Giê-su và Cha trên trời. Giu-đa và “người môn
đệ Chúa Giê-su yêu mến” là hai mô hình mẫu cho môn đệ chọn lựa. Người
nào cũng được Chúa Thiên yêu và muốn cho được sống cả. Sách Khôn Ngoan nói :
“Đừng
mãi sống lầm lạc mà lao vào chỗ chết,
chớ
có làm chuyện gì để mình phải diệt vong.
13 Thiên
Chúa không làm ra cái chết,
chẳng
vui gì khi sinh mạng tiêu vong. (Kn 1,12-13)
23 Quả
thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt.
Họ
được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người.
24 Nhưng
chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian.
Những
ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết (Kn 2,23-24).
Thư
thứ nhất Ti-mô-thê quả
quyết :
1 Trước
hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả
mọi người, 2 cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng
ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. 3 Đó
là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, 4 Đấng
muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. 5 Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa,
chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người : đó là một con
người, Đức Ki-tô Giê-su, 6 Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi
người. (1 Tm 2,1-5).
Xin
Cha gìn giữ họ khỏi ác thần (Ga 17,14-19)
Con
đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về
thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. 15 Con không xin
Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. 16 Họ
không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. 17 Xin
Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. 18 Như Cha đã
sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. 19 Vì họ, con
xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.
Chúa
Giê-su giải thích tại sao môn đệ bị thế gian ghét : Chúa Giê-su bị thế
gian ghét vì truyền đạt Lời Thiên Chúa. Môn đệ bị ghét vì đã đón nhân Lời Thiên
Chúa, nên thuộc về Thiên Chúa chứ không thuộc về thế gian nữa, giống như Chúa
Giê-su. Chúa Giê-su không xin Chúa Cha cất môn đệ khỏi thế gian, vì họ chung sứ
mạng làm chứng của Chúa Giê-su giữa thế gian : “Như Cha đã sai con đến
thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian”. Nhưng nguy cơ là họ bị
Xa-tan là cha sự dối trá, là thủ lãnh thế gian “bắt cóc” như đã bắt “đứa con
của sự hư hỏng”. Chúa Giê-su xin Cha gìn giữ họ cho khỏi ác thần bằng cách
thánh hiến họ bằng Lời Sự Thật. Chúa Giê-su bảo lãnh bằng cách thánh hiến chính
mình để chứng thực Lời Cha là Sự Thật.
Chúa
Giê-su cầu nguyện cho những ai nhờ lời các môn đệ mà tin vào Người (Ga 17,20-23)
20 “Con
không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà
tin vào con,21 để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha
để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai
con. 22 Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con,
để họ được nên một như chúng ta là một : 23 Con ở trong họ và
Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một ; như vậy, thế gian sẽ nhận
biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.
Chúa
Giê-su đã làm bao nhiêu dấu lạ để chứng tỏ Người được Chúa Cha sai đến. Trong
sứ mạng làm chứng, môn đệ sẽ làm gì để cho thế tin rằng Chúa Giê-su đúng là
Đấng Thiên Chúa đã sai đến ? “Tất cả nên một như Cha ở trong Con và Con
ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta”. Loài người được tạo dựng giống
hình ảnh Thiên Chúa đã bị “ác thần Xa-tan” làm cho tan rã, phân tán từ đầu. Chỉ
có Thiên Chúa có thể tái tạo sự hiệp nhất bằng cách ôm loài người vào trong sự
hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi. Các môn đệ đã được Chúa Giê-su chung chia “vinh
quang của Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14), đó là
nền tảng của sự hiệp nhất. Sự hiệp nhất trọn vẹn của môn đệ sẽ làm chứng cho
thế gianh nhận biết rằng Cha đã yêu thương Con và sai Con đến, vì các môn đệ
cũng được Cha yêu mến như Cha đã yêu mến Chúa Giê-su. Chúa Giê-su bày tỏ vinh
quang của Cha bằng những dấu lạ, còn môn đệ biểu tỏ Vinh Quang của Cha bằng
cách tỏ ra mình được Cha yêu và đang sống trong Tình Yêu của Cha. Vì chỉ có
Tình Yêu ấy mới hiệp nhất được chúng ta.
Con
ở đâu thì họ cũng ở đó với Con (Ga 17,24-26)
24 “Lạy
Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với
con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con,
vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành. 25 Lạy
Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha,
và những người này đã biết là chính Cha đã sai con. 26 Con đã cho họ
biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở
trong họ, và con cũng ở trong họ nữa.”
Gio-an
đã giải thích ý nghĩa tiên tri của lời thượng tế Cai-pha về cái chết của Chúa
Gê-su :
50 các
ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là : thà một người chết thay
cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.” 51 Điều đó, ông không tự
mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức
Giê-su sắp phải chết thay cho dân, 52 và không chỉ thay cho dân mà
thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.
Mục
đích cái chết của Chúa Giê-su là “qui tụ con cái Thiên Chúa tản mác khắp nơi
về một mối”, sự hiệp nhất này không dựa trên mầu da tiếng nói, chủng tộc,
miền đất, nhưng dựa vào chính Thiên Chúa, qui tụ trong Thiên Chúa. Mà Thiên
Chúa là Tình Yêu nên là quy tụ trong Tình Yêu. “Thầy ban cho anh em một điều
răn mới, là anh em yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Người
ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy…” (Ga 13,34-35).
Điều này có thể thực hiện được, vì đó không phải là lệnh truyền từ bên ngoài,
nhưng vì “Tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ và Con cũng ở trong họ nữa.” Chính
Tình yêu liên kết Ba Ngôi liên kết chúng ta.
Khi
áp dụng hình ảnh cây nho, Chúa Giê-su là cây nho, chúng ta là cành ; như
cành phải gắn liền với cây mới sinh trái, chúng ta phải ở lại trong Chúa
Giê-su. Bằng cách nào ? “Ở lại trong tình thương của Thầy” ;
“giữ các điều Thầy truyền” ; mà “điều Thầy truyền là anh em hãy
yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”
Thư
thứ nhất của thánh Gio-an sẽ
triển khai điều này :
Anh
em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ
Thiên Chúa.
Phàm
ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa.
8 Ai
không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.
9 Tình
yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này :
Thiên
Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được
sống.
10 Tình
yêu cốt ở điều này :
không
phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,
và
sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.
11 Anh
em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế,
chúng
ta cũng phải yêu thương nhau.
12 Thiên
Chúa, chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.
Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại
trong chúng ta,
và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo.
13 Căn
cứ vào điều này, chúng ta biết được rằng
chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng
ta :
đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta.
14 Phần
chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng :
Chúa
Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian.
15 Hễ ai
tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy
và người ấy ở lại trong Thiên Chúa.
16 Còn
chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào
tình yêu đó.
Thiên Chúa là tình yêu :
ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa,
và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. (1 Ga 4,7-16)
Sự
hiệp nhất có được là vì Chúa Giê-su ở trong chúng ta, Thánh Thần ở trong chúng
ta và đưa chúng ta vào ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Lúc
ấy Tình Yêu của Thiên Chúa nên hoàn hảo nơi chúng ta, vì nối kết được chúng ta
với nhau và với Thiên Chúa, như dòng điện được đóng lại và ánh sáng tỏa ra :
cộng đoàn môn đệ, Hội Thánh của Chúa Giê-su, trở thành cuộc hiển linh mới của
Thiên Chúa, Đấng mà mà chưa ai được chiêm ngường bao giờ. Chúa Giê-su biểu lộ
vinh quang của Thiên Chúa bằng dấu lạ, và chính Chúa Giê-su là sự biểu lộ Tình
Yêu lớn nhất của Thiên Chúa vì đã ban Con Một cho chúng ta. Chúng ta biểu lộ
dung nhan Thiên Chúa bằng tình yêu thương : THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU, và
chính quyền năng vinh hiển của Thiên Chúa thực hiện điều đó.
Giê-ru-sa-lem, ngày cuối tuần cầu nguyện
cho Hội Thánh được hiệp nhất, 2019
L.M. Giu-se Nguyễn Công Đoan, S.J.
(1) Gio-an nhắc
đến tên Gia-cóp và Áp-ra-ham, và cho thấy Chúa Giê-su hơn hẳn Gia-cóp :
Chúa là cái thang Gia-cóp đã thấy trong giấc mơ (St 28,13 // Ga 1,51) ;
nước giếng của Gia-cóp uống rồi lại khát, nước mạch Chúa Giê-su cho thì uống
rồi không bao giờ khát nữa (Ga 4,13-14). Áp-ra-ham đã thấy Chúa
Giê-su và đã hớn hở vui mừng ; trước khi có Áp-ra-ham thì Chúa Giê-su hằng
hữu (Ga 8,56-58). I-xa-ác thì không bao giờ được nêu tên trong Tin
MừngGio-an, nhưng lại như hình in chìm, ẩn phía sau ngay từ chương đầu,
khi Gio-an Tẩy Giả giới thiệu “Đây là Con Chiên của Thiên Chúa”, gợi lại
lời Áp-ra-ham nói với I-xa-ác : “chiên để làm lễ toàn thiêu thì
Thiên Chúa sẽ tự lo liệu cho mình, con ạ” (St 22,8 // Ga 1,29.36) ;
khi Chúa Giê-su nói “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một” (St 22,2
// Ga 3,16) ; Áp-ra-ham đã thấy Chúa Giê-su khi thấy
I-xa-ác và đã hớn hở vui mừng (St 17,15-17 ; 18,10-15 ;
21,1-7 // Ga 8,57-58).