Trên đường hoán cải của Mùa Chay, nhìn lại :
Những
Điều Kiện Để Làm Môn Đệ Chúa Giê-su Và Điều Răn Đứng Đầu Trong Cựu Ước
L.M.Nguyễn
công Đoan S.J.
Ngày 14
tháng 3 năm 2019
Điều
kiện để làm môn đệ
Các
sách Tin mừng Nhất
Lãm đều kể rằng sau khi ông Phê-rô tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô”, Chúa
Giê-su bắt đầu nói về con đường Đức Ki-tô phải đi (các bản in quen cho tựa đề “Chúa Giê-su loan báo cuộc Thương Khó
lần thứ nhất”…) là con đường chịu sỉ nhục, bị đóng đinh thập giá,
chết và trỗi dậy từ cõi chết.
Liền
sau đó, Chúa Giê-su nói đến điều kiện để đi theo và làm môn đệ của Chúa, hay
con đường của môn đệ cũng là con đường thập giá, độc đạo, không có đường tắt,
cũng không có đường song song. Muốn làm môn đệ thì chỉ có một cách là đi theo
đàng sau Chúa trên con đường này, mang trên vai cùng một bộ “đồ nghề” là thập
giá.
Rồi Đức
Giê-su nói với các môn đệ :
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 25 Quả
vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống
mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. 26 Vì nếu người ta được
cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta
sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?” (Mt 16,24-26).
34 Rồi Đức
Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại.
Người nói với họ rằng : “Ai muốn theo tôi, phải
từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 35 Quả vậy, ai muốn cứu
mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì
Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 36 Vì được cả thế giới mà
phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì ? 37 Quả
thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình ? 38 Giữa thế hệ
ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con
Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên
thần, trong vinh quang của Cha Người”. (Mc8,34-38).
23 Rồi Đức
Giê-su nói với mọi người :
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà
theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn
ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 25 Vì
người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì
nào có lợi gì ? 26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì
Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình,
của Chúa Cha và các thánh thiên thần. (Lc 9,23-26).
Lu-ca còn
kể một lần khác, trên đường lên Giê-ru-sa-lem để được cất lên trời (x. Lc 9, 51) :
25 Có
rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ :
26 “Ai
đến với tôi mà không ghét [dịch
sát] cha mẹ, vợ con,
anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi
được. 27 Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm
môn đệ tôi được.
28 “Quả
thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống
tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không ? 29 Kẻo
lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ
lên tiếng chê cười mà bảo : 30 ‘Anh ta đã khởi công xây, mà
chẳng có sức làm cho xong việc.’ 31 Hoặc có vua nào đi giao chiến với
một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem
một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình
chăng ? 32Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua
đã phải sai sứ đi cầu hoà. 33 Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ
hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”. (Lc 14,25-33)
So với
cách phát biểu lần trước trong Lu-ca thì
ta có cảm tưởng như, lần trước (Lc 9,23-26)
là “định lý thuận”, lần này là “định lý đảo” trong toán học. Như vậy thì không
tránh né vào đâu được nữa. Câu 26 có thể gây thắc mắc, vì Chúa bảo phải ghét cha mẹ… So với Mt 10,37 : “yêu cha mẹ… hơn tôi”, thì ý nghĩa rõ
ràng là nếu phải chọn giữa Chúa và cha mẹ… thì sẽ chọn Chúa hơn tất cả mọi
người thân yêu. So với Lc 16,13
// Mt 6,24 :
“Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ
này mà khinh dể chủ nọ”.
Cách
lập luận hơi lạ : Chúa kể hai thí dụ về sự khôn ngoan thông thường đòi
phải tính toán, cân nhắc (câu 28-32), rồi kết luận : “33 Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết
những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”. “Cũng vậy” nghĩa là giống
như vậy. Nhưng kết luận đưa ra lại có vẻ gạc bỏ sự tính toán, cân, đo, đong, đếm.
Trong tự điển của người muốn theo Chúa không có năm động từ vừa kể, chỉ
có TẤT CẢ thôi.
“Cũng vậy”,
muốn theo làm môn đệ của Chúa thì phải theo sự khôn ngoan của Chúa chứ đừng
theo sự khôn ngoan của thế gian.
Thánh
Phao-lô sẽ giải thích sự khôn ngoan của Thiên Chúa là gì, tại sao Thiên Chúa
lại chọn sự khôn ngoan ngược với thế gian (x. 1 Cr 1,18-31).
Điều
răn lớn nhất và đứng đầu
Muốn
hiểu sâu hơn những điều kiện để làm môn đệ của Chúa Giê-su, chúng ta hãy nhìn
lại “điều răn lớn nhất và
đứng đầu mọi điều răn”. Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta
thấy một cuộc tranh luận giữa các kinh sư với Chúa Giê-su về “Điều răn lớn nhất
đứng đầu các điều răn”. Chúng ta quen đọc “Đạo
Đức Chúa Trời có mười điều răn : thứ nhất, thờ phượng kính mến Đức Chúa Trời
trên hết mọi sự”, thì nghe câu hỏi của các kinh sư chúng ta ngạc
nhiên, nghĩ bụng : bộ không thuộc giáo lý hay sao mà hỏi kỳ cục vậy !
Nhưng họ lúng túng và tranh luận hoài, vì đời này qua đời khác các thầy dạy
Luật đã lập “hàng rào” bảo vệ Mười Điều Răn, với 613 điều, gồm phải làm (răn)
và không được làm (giới), nên con cháu họ đứng trước cánh rừng giới và răn,
không còn biết điều nào lớn nhất, điều nào đứng đầu.
Tin
Mừng Lu-ca kể về một kinh sư đứng lên hỏi thử Chúa Giê-su :
Và này
có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng : “Thưa
Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” 26 Người
đáp : “Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?”27 Ông ấy
thưa : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết
linh hồn, hết sức lực,và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như
chính mình”. 28 Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông trả lời đúng lắm.
Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.
29 Nhưng
ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng : “Nhưng
ai là người thân cận của tôi ?” 30 Đức Giê-su đáp : “Một
người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp.
Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa
chết. 31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông
thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi.32 Rồi cũng thế, một thầy
Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33 Nhưng
một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng
thương. 34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho
người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán
trọ mà săn sóc. 35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ
quán và nói : ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu,
thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.’ 36 Vậy theo ông nghĩ,
trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận
với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” 37 Người
thông luật trả lời : “Chính là kẻ đã thực thi lòng
thương xót đối với người ấy”. Đức Giê-su bảo ông ta :
“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. (Lc 10,25-37)
Ông ta
trân trọng gọi Chúa là Thầy thì Chúa trả lời bằng cách bắt ông ta trả bài. Nghe
trả bài rồi Chúa khen ông ta thuộc bài, giỏi lắm và mời ông ta cứ làm như vậy là sẽ được sống. Lời
phê của Chúa như ngầm bảo ông ta : “Biết
rồi thì làm đi, sao còn bày đặt hỏi Thầy !”
Điều lý
thú trong Tin Mừng Lu-ca, là
khi một người thủ lãnh giàu có tới hỏi Chúa cùng một câu y như ông kinh sư đã
hỏi, thì cuộc đối thoại lại dẫn tới lời Chúa mời ông ta đến theo đàng sau làm
môn đệ của Chúa :
18 Có
một thủ lãnh hỏi Đức Giê-su : “Thưa
Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia
nghiệp ?” 19 Đức Giê-su đáp : “Sao ông nói
tôi nhân lành ?
Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một
mình Thiên Chúa. 20 Hẳn ông biết các
điều răn : Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng
gian, hãy thờ cha kính mẹ”. 21 Ông ta nói : “Tất cả những việc
đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. 22Nghe vậy, Đức Giê-su bảo ông :
“Ông chỉ còn thiếu có một điều, là hãy bán tất cả những gì ông có mà phân phát
cho người nghèo, và ông sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. 23 Nghe
vậy, ông ta buồn lắm, vì ông rất giàu. (Lc 18,18-23)
Lời
thưa gởi mở đầu của ông này khác với lời thưa gởi của ông kinh sư : “Thưa thầy nhân lành”.
Chúa Giê-su bắt ngay lấy để làm chìa khóa mở cho ông ta một chân trời. Người kể
đã cho chúng ta biết ngay từ đầu vai vế của ông là một người thuộc hàng thủ lãnh và
đến cuối cho chúng ta biết rõ thêm : “ông rất giàu”. Tất nhiên là cách ăn mặc
của ông ta đã để lộ hai yếu tố này, khỏi cần hỏi “sao biết ?”. Chúa bắt
đầu từ đầu với cái tính từ ông ta gắn với “Thầy”. Dịch là “nhân lành” có lẽ làm
giới hạn ý nghĩa từ Hy-lạp và cái nền Híp-ri của nó. Tạm dịch bằng : “TỐT
lành”. Ông ta là người quyền quý và giàu có, tới hỏi cách làm giàu thêm :
“Tôi làm gì thì sẽ
được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” Ông ta đã có phần
gia nghiệp giàu, lại biết làm giàu, nay muốn được thêm cả sự sống đời đời làm
gia nghiệp nữa, nên hỏi Thầy xem phải làm gì. Cách đặt vấn đề của ông ta cho
thấy trong tâm trí ông ta, của cải trần gian và sự sống đời đứng cùng một hàng
với nhau. Có vẻ Chúa nhận lời chào của ông ta là chân thành chứ không phải
“nịnh”, nên Chúa cũng tỏ ra là thầy tốt lành, không bắt ông ta trả
bài, chỉ ôn tồn nhắc bài : “Hẳn
ông biết các điều răn : Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ
trộm cắp, chớ làm chứng gian, hãy thờ cha kính mẹ”. Chúa đọc
các giới và răn trong bảng thứ hai của Bia ghi Luật Giao Ước.
Nhưng trước tiên Chúa tìm cách nâng lòng ông ta lên một mặt bằng khác để nhìn
vấn đề. “Sao ông nói
tôi tốt lành ? Chẳng có ai tốt lành cả, trừ một mình Thiên Chúa”. Từ TỐT trong
tiếng Híp-ri dùng như danh từ ở dạng số nhiều nghĩa là “của cải”. Sự
sống đời đời không phải là một trong hàng những của cải ông có thể làm ra, nhưng là chính
Thiên Chúa, Thiên Chúa vừa là Đấng Tốt lành vừa là Sự TỐT tuyệt đối, không gì
sánh được và là chính sự sống đời đời. Con đường Luật Giao Ước đã mở là các
giới răn Thiên Chúa đã ban qua tay Mô-sê, gồm những điều về tương quan với
Thiên Chúa và những điều về tương quan với đồng loại. Chúa không nhắc đến những
điều ở bảng thứ nhất (tương quan với Thiên Chúa : Kính mến Thiên Chúa hết lòng hết sức…),
bởi vì các giới răn ở bảng thứ hai là bằng chứng có thực thi các giới răn ở
bảng thứ nhất hay không, như thư
thứ nhất Gio-an diễn tả :
Nếu ai
nói : “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói
dối ;
vì ai
không yêu thương người anh em mà họ trông thấy,
thì
không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.
Đây là
điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người :
ai yêu
mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình. (1 Ga 4,20-21)
Nghe
Chúa kể các giới răn, ông ta thành thật đáp : “Tất cả những việc đó, tôi đã tuân giữ
từ thuở nhỏ”. Trong trình thuật của Lu-ca ông ta không
hỏi thêm. Nhưng “Thầy Tốt Lành” tự ý cho ông ta biết thêm ngay : “Ông chỉ còn thiếu có một điều, là hãy bán tất cả những gì ông có mà
phân phát cho người nghèo, và ông sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy
đến theo tôi”.
Chúa
thật là Thầy Tốt Lành, vì sẵn sàng chỉ cho ông ta kho tàng ở trên trời. Nếu
muốn thì ông phải đổi bằng tất
cả những gì ông có, đừng giữ lại, gởi người nghèo giữ
giùm trong bụng họ. Thế là ông được kho tàng trên trời ngay bây giờ : kho
tàng ấy là chính tôi đây. Ông đến theo sau tôi mà giữ kho tàng của
ông. Tội nghiệp ông thủ lãnh giàu có. Sự rất giàu có đã
cột chân cột tay nên ông không dám “làm” điều Thầy Tốt Lành chỉ cho ông.
Ông thủ
lãnh “rất giàu”
trở thành “rất buồn”. Lu-ca kể tiếp
ngay :
24 Đức
Giê-su nhìn ông ta và nói : “Những người có của thì khó vào Nước Thiên
Chúa biết bao ! 25 Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ
hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. 26 Những người nghe Đức Giê-su
nói liền hỏi : “Thế thì ai có thể được cứu ?” 27 Người
đáp : “Những gì không thể được đối với loài người, thì đều có thể được đối
với Thiên Chúa”.
28 Ông
Phê-rô thưa : “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ những gì là
của mình mà theo Thầy”.29 Người đáp : “Thầy bảo thật anh
em : chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước
Thiên Chúa, 30 mà lại không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh
cửu ở đời sau”.
Lu-ca không
kể “ông ta bỏ đi”
như Mc 10,22
và Mt 19,23.
Ông vẫn đứng đó với bộ mặt buồn rầu.Lu-ca như
đóng khung “bức chân dung sống” này cho chúng ta cùng nhìn với Chúa Giê-su mà
nghe Chúa dạy tiếp : “Đức
Giê-su nhìn ông ta” mà bình luận về nỗi khó khăn của người có của
như ông ta để vào Nước Thiên Chúa. Lời bình luận của Chúa khiến cho “Những người nghe Đức Giê-su nói liền
hỏi : “Thế thì ai có thể được cứu ?” Thầy Tốt Lành
trả lời ngay : “Những
gì không thể được đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa”. Thiên
Chúa là Đấng Tốt Lành muốn ban chính Mình làTỐT tuyệt đối cho người ta làm gia
nghiệp (x. Tv 16/15)
nên dùng Quyền Năng của mình mà làm điều loài người không thể làm được, bởi vì
không ai có thể làm gì để được Thiên Chúa, chỉ mình Thiên Chúa có thể tự ban
chính mình, và có thể làm cho người ta mở lòng mở tay đón nhận. “Tôi có là gì cũng là nhờ ơn Thiên
Chúa” (1 Cr 15,10).
“Vậy ra Thiên Chúa cũng ban
cho dân ngoại ơn sám hối để được sự sống” (Cv 11,18).
Chúng
ta không biết “ông thủ lãnh rất giàu và rất buồn” nghe thế rồi thì phản ứng ra
sao. Nhưng Lu-ca cho
chúng ta nhìn ngay một bức chân dung ngược lại với ông thủ lãnh :
28 Ông
Phê-rô thưa : “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ những gì là của
mình mà theo Thầy”.29 Người đáp : “Thầy bảo thật anh em : chẳng
hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa, 30 mà
lại không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau”.
Ông
Phê-rô là một dân chài ở Biển Hồ, nhưng cũng có nhà, có gia đình, có lưới có
thuyền của mình chứ không phải kẻ làm thuê làm mướn. Dân làng chài như thế đã
là khá giả rồi. Anh em nhà Dê-bê-đê có vẻ còn khá giả hơn vì có người làm công
nữa. “Chúng con đã bỏ tất cả
những gì là của mình mà theo Thầy”. Trong trình thuật của Lu-ca ông Phê-rô
ngưng ở đây chứ không hỏi them “vậy
chúng con sẽ được gì ?” như Mt 19,27. Lu-ca lại đóng khung
giúp chúng ta chiêm ngắm chân dung sống của “ông Phê-rô và các môn đệ rất hạnh
phúc vì đã bỏ mọi sự mà theo Thầy», tương phản với “chân dung ông thủ lãnh rất
giàu có mà rất buồn vì không dám đánh đổi”. Trong khi trình thuật Mt và Mckể lời ông Phê-rô “chúng con đã bỏ mọi sự”, Lu-ca nói “những gì là của mình”,
tương ứng với lời Chúa bảo ông thủ lãnh “bán
tất cả những gì ông có” ; lời này lại tương
ứng với “định lý đảo” của Chúa ở Lc14,33 :
“Ai không từ bỏ hết những
gì thuộc
về mình [tôi
dịch sát], thì không thể làm
môn đệ tôi được”.
Đọc các
trình thuật này theo Lu-ca chúng
ta thấy hiện rõ tương quan hòa hợp giữa Điều Răn Thứ Nhất của Cựu Ước với
những điều kiện để
làm môn đệ Chúa Giê-su.
Điều
răn thứ nhất ghi trong sách Đệ
Nhị Luật :
4 Nghe
đây, hỡi Ít-ra-en ! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy
nhất. 5 Hãy yêu mến ĐỨC
CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). 6 Những
lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng. 7 Anh
(em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi
trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy, 8 phải
buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu, 9 phải
viết lên khung cửa nhà anh (em), và lên cửa thành của anh (em). (Đnl 6,4-9)
Điều
răn thì ngắn gọn có một hàng, lời khuyến dụ đi trước cũng một hàng, nhưng những
lời căn dặn giúp ghi tạc vào lòng thì tới 5 hàng. Người Do-thái đạo đức ngày
nay vẫn tụng niệm lời kinh này hàng ngày, và giữ kỹ những lời căn dặn giúp “ghi
tạc vào lòng”, giúp trí nhớ. Khi cầu nguyện thì họ đeo lên trán cái hộp màu đen
chứa lời kinh này, quấn lên cánh tay một sợi giây màu đen. Họ gắn trên khung
cửa nhà, cửa phòng (cả ở bệnh viện, khách sạn, trường học), ở cổng thành
Giê-ru-sa-lem.
[Theo
thống kê mới nhất thì trong số gần 9 triệu người Do-thái sống tại nước Ít-ra-en
hiện nay, 48% không tin Chúa, cũng chẳng giữ luật nào của đạo Do-thái, còn 52%
chia làm nhiều mức độ từ màu đậm của cực hữu (ultra-orthodoxe) nhạt dần xuống
cho tới trắng của 48% không theo đạo].
Trào
lưu Đệ Nhị Luật (sách Đệ Nhị Luật là kết
quả của trào lưu), tiêu biểu là ngôn sứ Hô-sê, chuyển từ tâm tình “kính sợ”
sang “yêu mến” ; mời gọi chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa đã được giãi
bày qua lịch sử cứu độ của Dân Chúa, và đáp lại bằng tấm lòng yêu mến triệt để
[dịch sát] : bằng tất
cả trái tim ngươi, bằng tất cả sự sống của ngươi, và bằng tất cả sức mạnh của
ngươi.
Trái
tim vẫn là biểu tượng của tình yêu trong văn hóa của Cựu Ước
và nhiều nền văn hóa.
Sự sống,
hay mạng sống (cũng
có thể dịch là tâm hồn, hết
dạ) là tất cả sự hiện hữu của con người.
Sức
mạnh của một người không chỉ là sức lực thể xác, nhưng gồm tất
cả những gì làm nên sức mạnh của một người khiến người khác nể sợ : của
cải, quyền lực, địa vị, con cái (x. Tv 127/126).
Ba yếu
tố này diễn tả toàn diện con người sống trên trần gian, bản thân họ, cái
họ là và
cái họ có.
Điều
răn truyền yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả con người, mọi khả năng và mọi sự
thuộc về con người, vì tất cả là quà tặng của Tình Yêu của Thiên Chúa Toàn
Năng. Tình Yêu đáp lại Tình Yêu. “Tình
cho không biếu không, chớ nên mua bán tình yêu”.
“Định
lý đảo” trong Lu-ca 14,26-33
diễn tả tính trọn vẹn, toàn diện này. Muốn theo Chúa Giê-su thì phải yêu mến Chúa Giê-su như
Điều Răn thứ nhất truyền.
– Đặt Chúa Giê-su lên trên tất cả những
người thân yêu nhất : yêu mến Chúa bằng tất cả trái tim
– Vác thập giá mình mà đi theo Chúa
- Từ bỏ chính mình, đặt Chúa lên trên bản thân mình và trên cả
chính mạng sống mình nữa.
– Đặt Chúa lên trên mọi sự mình
có : của cải, quyền lực, danh dự…
Trong
thực hành thì Lu-ca cho
chúng ta thấy nhiều kiểu mẫu, mức độ khác nhau :
Các
tông đồ, Nhóm
Mười Hai, bỏ mọi sự, kể cả nhà cửa, vợ con mà đi theo
Chúa.
Nhóm
phụ nữ thì ôm tài sản đi theo mà giúp đỡ Chúa và các môn đệ
Chị em
Mác-ta và Ma-ri-a thì ở nhà mở rộng cửa tiếp đón Chúa
và các môn đệ
Ông
Da-kêu thì chia nửa gia tài cho người nghèo
Ông
Giô-xép A-ri-ma-thê, một thành viên thường hội đồng rất có
thế giá, một mình chống lại tất cà thượng hội đồng, dùng thế lực của mình để
xin Phi-la-tô cho lãnh xác Chúa mà mai táng.
Ngày lễ
Ngũ Tuần có tới 120 người tụ họp quanh thân mẫu Chúa Giê-su và Nhóm Muời Hai
(đã bổ túc cho đủ số).
Mẫu số chung là coi Chúa hơn tất cả,
dù có bỏ tất cả mà theo, ôm tất cả mà theo, hay sống với tất cả, nhưng đến khi
phải chọn lựa như trường hợp tử đạo thì nhất loạt chọn Chúa hơn tất cả, tuyên
xưng Danh Chúa, dù phải mất tất cả và mất chính mạng sống của mình.
Tin
Mừng Mác-cô lại
có một cách trình bày khác để dẫn chúng ta tới chỗ nhận ra tương quan giữa Điều
Răn thứ nhất và điều kiện để theo làm môn đệ Chúa Giê-su.
Mác-cô
kể truyện một người
giàu có đến hỏi Chúa Giê-su khi Chúa vừa lên đường rời
Ga-li-lê đi lên Giê-ru-sa-lem :
17 Đức
Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và
hỏi : “Thưa Thầy tốt lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia
nghiệp ?” 18 Đức Giê-su đáp : “Sao anh nói tôi là tốt
lành ? Không có ai tốt lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 19 Hẳn
anh biết các điều răn : Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ
làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ”. 20 Anh ta
nói : “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. 21 Đức
Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta : “Anh
chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ
được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. 22 Nghe lời đó,
anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. (Mc 10,17-22)
Mác-cô không
nói địa vị xã hội của người này, và mãi đến cuối mới cho ta biết rằng anh
ta có nhiều của cải.
Không biết anh ta từ đâu tới nhưng thấy Chúa vừa lên đường thì anh ta chạy lại quỳ xuống trước mặt Người mà
hỏi. Thái độ thật là thành khẩn, trân trọng. Câu hỏi của anh
và câu trả lời của Chúa giống như đã thấy trong Lu-ca, tuy có thêm
một giới. Câu
anh đáp lại cũng như trong Lu-ca.
Nhưng
Chúa Giê-su phản ứng cách đặc biệt : “Đức
Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”. Nhiều lần Mác-cô cho
chúng ta chiêm ngắm đôi mắt của Chúa Giê-su để cảm được tâm tình của Chúa. Chúa
đặt trên anh ánh mắt đầy trìu mến, vì câu đáp của anh bộc lộ sự khao khát cái
gì hơn nữa trong tâm hồn. Bốn môn đệ đầu tiên được gọi đều như lọt vào mắt
Chúa, giữa bao nhiêu người dân chài bên bờ hồ : Chúa đi ngang, Chúa thấy,
Chúa gọi. Người giàu có này đến quỳ gối trước mặt Chúa để hỏi và bộc lộ một tâm
hồn đầy khát vọng. Chúa đáp lại nỗi khao khát của anh : “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi
bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi
hãy đến theo tôi”. Người thủ lãnh giàu có trong Lu-ca cũng nhận được
lời đề nghị y như thế. Nhưng “nghe
thế ông ta rất buồn”. Người thiện chí trong truyện của Mác-cô phản ứng dứt
khoát : “Nghe lời đó,
anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Anh
khao khát được thêm sự sống đời đời như thêm một thứ của cải, chứ không muốn
đánh đổi mọi của cải để được sự sống đời đời.
Mác-cô lúc
nào cũng chú ý nhìn theo cặp mắt của Chúa. Ta có cảm tưởng như máy quay phim
vừa cho thấy người giàu có quay lưng đi, liền theo ánh mắt của Chúa Giê-su quét
một đường vòng quanh. Chúa Giê-su lắc đầu nhẹ, chặc lưỡi thốt lên một tiếng thở
dài về nỗi khó khăn của người có của khi đứng trước cửa vào Nước Thiên Chúa.
Sao Chúa lại đưa mắt chung quanh rồi nói với các môn đệ ? Ta đã bắt gặp
cái nhìn tương tự khi thân nhân đến tìm Chúa lúc Chúa đang ngồi giữa đám đông
khao khát nghe Lời Thiên Chúa (x. Mc 3,34). Thấy mặt các môn đệ sững sờ, Chúa
âu yếm nhắc lại mạnh hơn : “Các
con ơi…Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn…” Các môn đệ lại càng sững sờ hơn
nữa… Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói : “Đôi với loài
người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối
với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10,25-30). Sao
Chúa lại nhìn thẳng vào các ông mà nói về quyền năng Thiên Chúa làm
được mọi sự. Ánh mắt của Chúa như kéo ông Phê-rô ra khỏi tình trạng sững sờ,
đơn sơ như một em bé vừa được vỗ về khuyến khích, ông reo lên thay cho cả
nhóm : “Thầy coi, phần
chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy !” Ông
Phê-rô không hỏi “chúng con sẽ được gì”, nhưng Chúa Giê-su như được an ủi, vui
sướng nói cho các ông biết sẽ được gì : “Thầy bảo thật anh em : Chẳng hề có ai bỏ nhà
cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, 30 mà ngay bây giờ, ở đời
này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.
“Cái bỏ” theo
Mt 19,29 : “nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng
đất” ; theo Lc
18,29 : “nhà, vợ, anh em, cha mẹ hay con cái” ; Mc 10,29 : “nhà
cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất”. Mc kể
“cái bỏ” từ cái nhà ra tới ruộng đất ; trong nhà thì có anh em, chị em, mẹ
cha, con - đó là những người thân yêu nhất.
“Cái
được” theo Mt và Lc thì chỉ “gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu”, Mác-cô giống như kiểu
“mua hàng có thưởng” thời nay : mua một lấy hai, thêm phần thưởng. Chúa
“khuyến mãi” thì vô địch : mua một lấy một trăm, thêm phần thưởng. Phần thưởng cho thêm là sự bách hại. Mc không kể các mối
phúc như Mt và Lc, nhưng cái phần
thưởng thêm này chính là mối phúc kèm theo cái được.
Động
lực từ bỏ, theo Mt 19,29 :
“vì Danh Thầy”,
theo Lc 18,29 :
“vì Nước Thiên Chúa”, Mác-côgom cả hai : “vì Thầy và vì Tin Mừng”.
Thực ra, trong Lu-ca,
thì Nước Thiên Chúa cũng chính là Chúa Giê-su ; trong Mác-cô thì chính Chúa
Giê-su là Tin Mừng và là Đấng loan báo Tin Mừng. Cả ba sách Tin mừng Nhất Lãm
đều đã nói về liều mất mạng sống khi nói về điều kiện làm môn đệ rồi. Vậy có
thể kết luận cả ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều hòa nhập điều kiện làm môn đệ với
Điều Răn Thứ Nhất. Muốn theo sau làm môn đệ của Chúa Giê-su thì phải yêu mến
Chúa theo như Điều Răn Thứ Nhất truyền dạy.
Đọc
tiếp Tin Mừng Mác-cô, sẽ
còn một điều đặc biệt nữa với câu chuyện về Điều Răn Thứ Nhất tại
Giê-ru-sa-lem. Trong khi Mt kể
câu hỏi về Điều Răn Thứ Nhất trong khung cảnh cuộc “xa luân chiến” ở Đền Thờ
thì Lu-ca kể
trong khung cảnh trên đường lên Giê-ru-sa-lem. Mc cũng kể trong khung cảnh cuộc “xa
luân chiến” ở Đền Thờ, nhưng cung cách của người hỏi lại có tính thán phục, và
hai bên [Chúa Giê-su và ông kinh sư] tâm đắc. Kinh sư khen Chúa, Chúa khen lại
ông : “Ông không còn xa
Nước Thiên Chúa đâu”.
“Không còn xa” thì cũng vẫn
là còn ở ngoài. Giữa Điều Răn Đứng Đầu và Nước Thiên Chúa còn khoảng cách
nào ? Hai bên gặp nhau ở đâu ? Gặp nhau ở trong Đức Giê-su Ki-tô Con
Thiên Chúa và là Chúa chúng ta.
Điều
này được Mác-cô diễn
tả cách tinh vi qua truyện đồng xu nhỏ của bà góa nghèo, theo sau cuộc thảo
luận thân thiện này.
Đức
Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem
đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. 42 Cũng
có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng
xu Rô-ma. 43 Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói :
“Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai
hết. 44 Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem
bỏ vào đó ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào
đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi
sống mình (Mc 12,41-44).
Sau
cuộc trao đổi thân thiện, “không
ai dám chất
vấn người nữa” (Mc 12,34).
Chúa ra câu đố về “Đấng Ki-tô vừa là Con vừa là Chúa của vua Đa-vít” để cho mọi
người “làm bài tập”, rồi Chúa thảnh thơi ngồi quan sát người ta bỏ tiền vào hòm
dâng cúng. Thấy cử chỉ khiêm tốn và chân thành của bà góa nghèo - bà góa vốn
đứng đầu bộ ba tiêu biểu cho người nghèo : “bà góa, con côi, khách ngụ cư”.Đức Giê-su
liền gọi các môn đệ lại và nói. Vẻ trang trọng này chúng ta đã gặp khi Chúa
dạy bài cuối cùng trong nhà tại Ca-phác-na-um ở Ga-li-lê, trước khi lên đường
đi về phía Giê-ru-sa-lem (Mc 9,33-37).
Đó là bài học về noi gương Chúa Giê-su sống màu nhiệm thập giá. Lần thứ hai
Chúa gọi các ông lại mà nói xảy ra sau khi Chúa loan báo cuộc khó lần thứ ba,
hai anh em nhà Dê-bê-đê “đi cửa hậu” để dành hai vị trí cao nhất, khiến mười
người kia tức với họ. Hai lần các môn đệ đều đi ngược chiều với Chúa. Lần này
thì Chúa ngồi sẵn đó và gọi các ông lại mà chỉ cho các ông thấy bà goá này như
hình ảnh của Chúa.
Bà góa
nghèo này đã sống thật như Điều Răn Đứng Đầu : “bà rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ
vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi
sống mình”. Bà không có dư, tất cả tài sản của bà chỉ có bấy
nhiêu để sống. Số tiền đó chỉ đủ mua một miếng bánh mì nhỏ cho một người ăn một
bữa thòm thèm. Thế mà bà đã bỏ vào đó tất cả. Vậy thì bà đã yêu mến bằng tất cả
những gì bà có và bằng tất cả mạng sống của bà. Hai cái tất cả này diễn tả cái
tất cả thứ ba : tất cả trái tim. Bà đã trải tất cả trái tim của bà ra
trước mắt Thiên Chúa.
Chúa
Giê-su nhận ra ở bà góa nghèo này hình ảnh của Chúa và những gì Chúa đang bước
vào. Chúa sắp thực hiện lòng yêu mến tột cùng đối với Cha và đối với loài người
mà Chúa đã đến chung phận : Chúa sắp dâng tất cả, đến mảnh vải cuối cùng
và cả mạng sống mình trên thập giá vì yêu mến Cha trên trời và yêu mến anh em
của Chúa ở dưới đất.
Khi
Chúa loan báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất thì Mt và Mc cho biết là ông Phê-rô dãy nảy lên,
Chúa quở trách ông Phê-rô rồi công bố các điều kiện để làm môn đệ của Chúa,
chẳng biết các ông có nghe hay không. Chúa đưa ông Phê-rô và hai anh em nhà
Dê-bê-đê lên núi và cho thấy trước vinh quang Phục Sinh của Chúa, sau đó Chúa
loan báo cuộc Thương Khó lần thứ hai, các ông không hiểu và không dám hỏi,
nhưng khi tiếp tục đi đàng sau Chúa trên đường thì lòng các ông lại đi ngược
chiều : “Khi đi đường
các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9,34) ; Lc
sửa chân dung cho các ông một chút : “Một
câu hỏi chợt đến với các ông : trong các ông, ai là người lớn nhất”
(Lc 9,46).
Cãi nhau hay chỉ nghĩ tưởng trong lòng trong trí thì Chúa cũng biết (x. Tv 139/138), nên Chúa
sửa dạy ngay. Đến khi Chúa loan báo lần thứ ba thì bùng nổ lớn. Mt và Mc cho chúng ta
biết câu chuyện của anh em nhà Dê-bê-đê. Mc không nể nang, kể thẳng là hai anh em
ỷ váo chỗ được ưu đãi cùng với ông Phê-rô, đến nói nhỏ với Chúa để xí chỗ ngồi
bên tả bên hữu Chúa. Mt vốn
hay sửa chân dung cho Nhóm Mười Hai, nên kể rằng “bà mẹ anh hùng” dẫn hai con
tới, nói riêng với Chúa để xí chỗ cao nhất cho hai quí tử. Mười ông còn lại
cũng có tai có mắt để thấy anh em nhà nó đang âm mưu chuyện gì, nên “tức” với
hai anh em nhà nó. Chúa sửa dạy nghiêm túc. Lu-ca có vẻ sửa chân dung kỹ hơn, không
kể âm mưu ám muội này, nhưng lại đưa cuộc “cãi nhau sôi nổi” vào bữa Tiệc Ly,
sau khi Chúa đã ban Mình và Máu của Chúa để lập Giao Ước Mới. Cách đổi khung
cảnh này cho chúng ta ý nghĩa sâu xa hơn nữa. Chúng ta sẽ có dịp trở lại bữa
Tiệc Ly và sẽ đề cập chi tiết này.
Ở đây
chỉ xin chú ý tới khía cạnh là sau bao nhiêu lời giáo huấn các ông cũng chưa
“đồng lòng đồng ý” với Chúa. Lời nói về con đường thập giá của Chúa và con
đường của môn đệ vác thập đi đàng sau Chúa, cứ như nước mưa rơi xuống tảng đá,
không thấm được vào lòng các ông. Hôm nay, sau khi cho ông kinh sư thiện chí,
đã tỏ ra đồng thuận với Chúa về Điều Răn Đứng Đầu, biết rằng “ông không còn xa Nước Thiên Chúa”.
Ông kinh sư “không còn xa
Nước Thiên Chúa”, vì ông mới thuộc bài thôi, chưa thực hành. Bà góa
này thực hành.
Chúa
Giê-su là Nước Thiên Chúa đang ở giữa các môn đệ, các ông đã bước theo Chúa
nhưng chưa hiểu và chưa dám yêu mến như vậy. Chúa gọi các môn đệ lại, mời các
ông cùng với Chúa nhìn bà góa này như một kiểu mẫu thực thi Điều Răn Đứng Đầu.
Tôi thấy Chúa Giê-su như bà mẹ dẫn con tới nhà trẻ ngày đầu, phải chỉ cho con thấy
các bạn cùng lứa tuổi vui chơi như thế nào, để con chịu buông mẹ ra mà ở lại
với cô bảo mẫu và các bạn. Chúa Giê-su đã dẫn môn đệ vào tới nơi Chúa sắp tự
hiến dâng mình làm của tế lễ, Chúa như dỗ dành các môn đệ, chỉ tay về phía bà
góa, các con nhìn kìa :
Bà góa
nghèo chỉ có một xu : đem mua bánh, thòm thèm một bữa, nhưng nhịn bụng dể
dành tất cả, cúng Đền Thờ hết cả một xu.
Các con
đã “bỏ mọi sự mà theo Thầy”,
Thầy trò mình đều chẳng có một xu. Mình còn gì để bày tỏ lòng yêu mến Cha trên
trời ? Còn đấy, còn chính mình và mạng sống mình. Nhìn bà góa kìa, bà đứng
hàng chót trong xã hội, chẳng tranh dành địa vị với ai được, chẳng ai thèm để ý
tới bà đâu, bà rón rén lại nơi dâng cúng, “bà
bỏ vào đó tất cả những gì bà có để sống rồi đấy”. Thế là hôm nay bà
chẳng có gì ăn ; bà đã dâng cúng cả mạng sống của bà rồi đó, thấy
không ?
Thầy
chẳng còn gì cả, chỉ còn mạng sống này, mà Thày cũng sắp hiến dâng trên thập
giá tại Thành Thánh này đấy. Các con đã theo Thầy tới đây, có dám theo Thầy đến
cùng không ? Đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, chẳng lẽ lại không dám theo đến
cùng à ? Bà ấy làm được một mình kìa, sao các con không làm
được ? Thầy có để các con đi một mình đâu mà sợ ! Thầy đi trước, các con theo đàng sau
Thầy thôi mà ! Các con dám không nào ? Theo sau Thầy
nhé !
Chúa là
nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào… Dầu cha mẹ có bỏ con
đi nữa, thì hãy còn có Chúa đón nhận con ! Xin dạy con đường nẻo Ngài, lạy
Chúa, Dẫn con đi trên lối phẳng phiu Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh dạn lên
nào ! (Tv 27/26,1.10-11.14)
Trong
sách Xuất Hành có
một cảnh giúp chiêm ngắm truyện này. Sau khi dân phản bội, Thiên Chúa toan hủy
diệt họ, nhưng ông Mô-sê năn nỉ được Thiên Chúa tha cho họ, và Thiên Chúa
truyền cho ông tiếp tục dẫn họ lên Miền Đất Hứa. Được thể, ông năn nỉ
thêm : “Nếu Ngài không
đích thân đi, xin Ngài đừng đưa chúng con lên khỏi đây…” Thiên Chúa
đáp : “Cả điều ngươi
vừa nói đó Ta cũng sẽ làm, vì ngươi đã được nghĩa với Ta và Ta biết đích danh
ngươi” (xin đọc Xh 33,12-17).
Hôm nay
Chúa Giê-su cũng đối xử với những kẻ Người đã gọi đích danh để cầm đầu Dân của
Giao Ước Mới như thế. Họ đã không hiểu và không muốn hiểu lời nói về thập giá
như là cách thực hành Điều Răn Đứng Đầu, thì Chúa tự ý dỗ dành họ, hứa cùng đi
với họ trên con đường vào cuộc sống đời đời.
Tin
Mừng Gio-an
Tin
Mừng Gio-an không
kể cuộc tranh luận về Điều Răn Đứng Đầu, cũng không kể truyện bà góa nghèo,
nhưng nói thẳng về cách Chúa Giê-su tỏ lòng yêu mến Cha và mời gọi môn đệ đi
cùng một đường với Chúa.
Khi tự giới
thiệu là Mục Tử Đẹp, “Mục Tử
Đẹp hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”, Chúa đã giải
thích : “17 Sở dĩ
Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. 18 Mạng
sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống
mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh
lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được”. (Ga 10,17-18)
Khi tới
ngưỡng cửa cuộc Thương Khó, Chúa tuyên bố với các môn đệ : “Thầy sẽ không còn nói
nhiều với anh em nữa, bởi vì Thủ lãnh thế gian đang đến. Đã hẳn, nó không làm
gì được Thầy. 31 Nhưng chuyện đó xảy ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến
Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy. Nào đứng dậy ! Ta đi khỏi
đây !” (Ga 14,30-31).
Khi reo
lên : ”Đã đến
giờ” thì Chúa mời gọi : “23 Đã đến giờ Con Người được tôn vinh ! 24 Thật,
Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó
vẫn trơ trọi một mình ; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác. 25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. 26 Ai
phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy ; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở
đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy”. (Ga 12,23-26).
Phục vụ
Chúa là phục vụ sứ mạng của Chúa. Con đường sứ mạng ấy dẫn Chúa tới đâu thì môn
đệ cũng tới đó. Mà trước khi vào trong vinh quang với Chúa thì cũng phải cùng
với Chúa nếm trải điều mà chỉ nghĩ đến thôi là Chúa đã ngọng, đã líu lưỡi
rồi : “27 Bây
giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ? Lạy
Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. 28 Lạy
Cha, xin tôn vinh Danh Cha”. (Ga 12,27-28).
Chúa
bảo môn đệ đi theo Chúa để sống đến cùng Điều Răn Đứng Đầu, chứ không bắt môn
đệ đi một mình.
Chúa để
chúng ta tự do, vì tình yêu chẳng ai mua được, chẳng ai ép được. Chúa chẳng ép
chúng ta đâu, cũng như Chúa chẳng níu kéo nhóm Mười Hai khi nhiều môn đệ khác
đã bỏ đi : “không phải
anh em cũng muốn bỏ đi sao ?” [tôi sửa bản dịch, cách đặt câu
hỏi ở đây trong tiếng Hy-lạp chờ câu trả lời “không !”] và ông Phê-rô đã khẳng
định : “Thưa Thầy, bỏ
Thầy chúng con biết đến với ai ?” (Ga 6,67-68).
Đường
làm môn đệ là thế đấy, yêu mến Chúa Giê-su theo Điều Răn Đứng Đầu và cùng với
Chúa Giê-su yêu mến Chúa Cha như vậy.
Chúa
hô : “Nào đứng dậy, ta
đi khỏi đây !”
Tôi có
yêu mến Chúa Giê-su để dám đứng dậy cùng đi với Chúa và các môn đệ không ?
Giê-ru-sa-lem,
kỷ niệm 6 năm Đức Thánh Cha Phan-xi-cô được bầu chọn.
13-03-2013
– 2019
Linh
mục Giu-se Nguyễn Công Đoan, S.J.