Mc 4,1-9. Dụ ngôn gieo giống

 

 

Tác giảGiuse Lê Minh Thông, O.P.

Email: josleminhthong@gmail.com

Ngày 16 tháng 06 năm 2020. 

 

 

Nội dung 

 

Dẫn nhập
I. Giảng dạy bằng dụ ngôn (4,1-34)
   1. Bối cảnh dụ ngôn gieo giống (Mc 4,1-9)
   2. Hai kiểu cấu trúc Mc 4,1-34
   3. Một số từ khóa trong Mc 4,1-34
II. Phân tích dụ ngôn gieo giống (Mc 4,1-9)
   1. Cấu trúc dụ ngôn (4,1-9)
   2. Phân biệt “Vương Quốc Thiên Chúa” và “Nước Trời”
   3. Giải thích bản văn Mc 4,1-9
Kết luận

 

Dẫn nhập

Trong Tin Mừng Mác-cô, đoạn văn 4,1-34 trình bày về việc Đức Giê-su giảng dạy bằng dụ ngôn với kỹ thuật hành văn chèn vào đoạn văn đang kể, (xem bài viết: “Tác giả đối thoại với độc giả.”) Phần giảng dạy dân chúng bằng dụ ngôn thuật lại qua hai đoạn văn 4,1-9 và 4,26-32. Phần chèn vào nói riêng với các môn đệ và những kẻ ở chung quanh Người ở 4,10-25. Phần liên quan đến dụ ngôn gieo giống (4,1-20) được trình bày qua ba bài viết: (1) Mc 4,1-9. Dụ ngôn gieo giống(2) Mc 4,10-12. Mầu nhiệm Nước Thiên Chúavà những kẻ ở ngoài; (3) Mc 4,13-20. Áp dụng dụ ngôn gieo giống. Bài viết thứ nhất (Mc 4,1-9) trình bày hai mục: (I) bối cảnh và cấu trúc phần giảng dạy bằng dụ ngôn (4,1-34); (II) phân tích dụ ngôn gieo giống (Mc 4,1-9).

I. Giảng dạy bằng dụ ngôn (4,1-34)

Để chuẩn bị tìm hiểu dụ ngôn gieo giống (Mc 4,1-9), phần này trình bày bối cảnh và cấu trúc phần Đức Giê-su giảng dạy bằng dụ ngôn (Mc 4,1-34) qua ba điểm: (1) bối cảnh dụ ngôn gieo giống; (2) hai kiểu cấu trúc đoạn văn Mc 4,1-34; (3) một số từ khoá Mc 4,1-34.

    1. Bối cảnh dụ ngôn gieo giống (Mc 4,1-9)

Phần Đức Giê-su giảng dạy bằng dụ ngôn (Mc 4,1-34) gồm các trình thuật sau:

4,1-9 Dụ ngôn gieo giống
4,10-12 Mầu nhiệm Vương quốc Thiên Chúa và dụ ngôn
4,13-20 Áp dụng dụ ngôn gieo giống
4,21-23 Hình ảnh cái đèn
4,24-25 Hình ảnh đấu đong
4,26-29 Dụ ngôn đất tự sinh hoa trái
4,30-32 Dụ ngôn hạt cải 

4,33-34 Kết luận về giảng dạy bằng dụ ngôn

    2. Hai kiểu cấu trúc Mc 4,1-34

Đoạn văn lớn Mc 4,1-34 có thể cấu trúc theo hai kiểu: (1) Cấu trúc đồng tâm A, B, C, D, C’, B’, A’. Trong đó yếu tố trọng tâm D là phần áp dụng dụ ngôn; (2) Cấu trúc A, B, C, B’, A’ với yếu tố trọng tâm C trình bày hai hình ảnh về sự đón nhận: cái đèn và đấu đong. Hai kiểu cấu trúc này cho thấy sự phong phú của bản văn và giúp độc giả chú ý đến những điểm nhấn khác nhau trong trình thuật. Kiểu cấu trúc thứ nhất đề cao dụ ngôn gieo giống, và kiểu cấu trúc thứ hai đề cao cách sống của người môn đệ.

Trong cấu trúc đồng tâm trên đây, yếu tố A. 4,1-2 (dẫn nhập) song song với A’. 4,33-34 (kết luận) là phần kể của người thuật chuyện. Yếu tố B. 4,3-9 (dụ ngôn gieo giống) song song với B’. 4,26-32 (dụ ngôn đất tự sinh hoa trái và hạt cải) là phần Đức Giê-su giảng dạy đám đông trong đó có các môn đệ. Ba yếu tố in nghiêng (C // C’ và D) là phần Đức Giê-su nói riêng với “những kẻ ở chung quanh Người cùng với Nhóm Mười Hai”. Đoạn văn 4,10-25 gồm ba yếu tố C, D, C’ được chèn vào để minh họa cho câu kết luận ở 4,34: “Người không nói với họ, nếu không dùng dụ ngôn. Nhưng khi ở riêng, Người giải thích mọi điều cho các môn đệ của Người.”

Kiểu cấu trúc thứ hai có yếu tố C. 4,21-25 ở trọng tâm. Cấu trúc này đề cao cách sống của người môn đệ qua hình ảnh cái đèn và đấu đong. Hai hình ảnh này không phải là dụ ngôn vì hai lý do (a) không diễn tả Vương Quốc Thiên Chúa; (b) Đức Giê-su nói riêng với các môn đệ không có đám đông. Theo 4,11.33, dụ ngôn dành để giảng dạy đám đông.

    3. Một số từ khóa trong Mc 4,1-34

Trước khi phân tích dụ ngôn gieo giống (4,1-9) cần tìm hiểu một số từ khoá trong đoạn văn Mc 4,1-34.

- “Dụ ngôn”, dt., parabolê13 lần trong Mác-cô (8 lần trong ch. 4) 3,23; 4,2.10.11.13a.13b.30.33.34; 7,17; 12,1.12; 13,28.

- “Lời”, dt., logos, 24 lần trong Mác-cô (9 lần trong ch. 4) 1,45; 2,2; 4,14.15a.15b.16.17.18.19.20.33; 5,36; 7,13.29; 8,32.38; 9,10; 10,22.24; 11,29; 12,13; 13,31; 14,39; [16,20].

- “Gieo giống”, đt., speirô, 12 lần trong Mác-cô, tất cả ở trong ch. 4: 4,3a.3b.4.14a.14b.15a.15b.16.18.20.31.32. Trong đó 2 lần nói đến người gieo (ho speirôn) ở 4,3.14 là hình thức động tính từ của động từ “speirô”.

- “Sinh hoa kết quả” (hoa trái), dt., karpos, 5 lần trong Mác-cô (3 lần trong ch. 4): 4,7.8.29; 11,14; 12,2.

- Không sinh hoa kết quả, akarpos, 1 lần, 4,19.

- Cải (cây), dt., sinapi, 1 lần, 4,31.

- Hạt (cải), dt., kokkos, 1 lần, 4,31.

- Hạt giống, dt., sporos, 2 lần 4,26.27.

- Liềm hái, dt., drepanon, 1 lần 4,29.

- Mùa gặt, dt., therismos, 1 lần: 4,29.

Quan sát trên cho thấy các từ xuất hiện nhiều lần tập trung vào các đoạn văn liên quan đến dụ ngôn gieo giống (4,1-20): “dụ ngôn”, “Lời”, “gieo giống”, “sinh hoa kết quả”.

Từ “hạt” dùng trong bản dịch tiếng Việt Mc 4,3-8 không có trong bản văn Hy-lạp. Bản văn chỉ nói trống: “trong khi gieo thì rơi xuống vệ đường” (4,4a). Ở 4,5a.7a dùng tính từ “allos” (khác) ở số ít “allo”, hiểu là “một số khác” thì rơi trên sỏi đá (4,5a). Đặc biệt trường hợp đất tốt, tính từ “allos” ở số nhiều “alla” dịch là “có những hạt khác” rơi vào đất tốt, cho thấy những hạt giống không sinh hoa kết quả chỉ là số ít, còn số nhiều là sinh hoa kết quả.

II. Phân tích dụ ngôn gieo giống (Mc 4,1-9)

Dụ ngôn gieo giống được tìm hiểu qua ba mục: (1) cấu trúc dụ ngôn (4,1-9); (2) phân biệt Vương Quốc Thiên Chúa và Nước Trời; (3) giải thích bản văn Mc 4,1-9.

    1. Cấu trúc dụ ngôn (4,1-9)

Phẩm chất của đất là yếu tố quyết định cho kết quả của hạt giống được gieo, chứ không phải do phẩm chất của người gieo hay do phẩm chất của hạt giống.

Mạch văn gợi ý rằng sự rao giảng của Đức Giê-su về Nước Thiên Chúa gặp phải sự chống đối của các kinh sư, những người Pha-ri-sêu và ngay cả gia đình của Người. Lý do sự chống đối và khước từ là mảnh đất được gieo không đủ phẩm chất để hạt giống phát triển và sinh hoa kết quả.

    2. Phân biệt “Vương Quốc Thiên Chúa” và “Nước Trời”

Từ “basileia” (vương quốc, nước, triều đại) xuất hiện 20 lần trong Mác-cô: 1,15; 3,24a.24b; 4,11.26.30; 6,23; 9,1.47; 10,14.15.23.24.25; 11,10; 12,34; 13,8a.8b; 14,25; 15,43. Trong đó, 14 lần chỉ “Vương Quốc của Thiên Chúa” (hê basileia tou theou): 1,15; 4,11.26.30; 9,1.47; 10,14.15.23.24.25; 12,34; 14,25; 15,43. 6 lần chỉ quốc gia: 3,24a.24b; 6,23; 11,10; 13,8a.8b. Tin Mừng Mác-cô chỉ dùng kiểu nói: “Vương Quốc Thiên Chúa” (hê basileia tou theou) dịch sát: “Nước của Thiên Chúa” hay “Triều đại của Thiên Chúa”. Mác-cô không dùng từ “Nước Trời” (hê basileia tôn ouranôn) như Tin Mừng Mát-thêu hay dùng (Mt 3,2; 5,3...), dịch sát: “Vương Quốc của các tầng trời”.

    3Giải thích bản văn Mc 4,1-9

4,1“Người lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Một đám đông lớn tụ họp chung quanh Người, nên Người xuống thuyền trên Biển Hồ mà ngồi, còn tất cả đám đông ở trên đất, ven bờ Biển Hồ.”

- 4,1a: “Người lại bắt đầu giảng dạy”. Động từ “didaskô”  (giảng dạy) xuất hiện 17 lần trong Mác-cô: 1,21.22; 2,13; 4,1.2; 6,2.6.30.34; 7,7; 8,31; 9,31; 10,1; 11,17; 12,14.35; 14,49. Lần xuất hiện thứ tư của động từ này ở 4,1. Danh từ “sự giảng dạy” (didakhê) xuất hiện 5 lần trong Mác-cô: 1,22.27; 4,2; 11,18; Lần xuất hiện thứ 3 ở 4,2. Như thế, công việc giảng dạy của Đức Giê-su trong ch. 4 nối kết với sự giảng dạy của Người trước đó và nối kết với phần sau. Một trong những cách thức giảng dạy quan trọng trong Mác-cô là giảng dạy bằng dụ ngôn.

- 4,1b: “Biển Hồ” là nơi hoạt động thường xuyên của Đức Giê-su trong Tin Mừng Mác-cô với 19 lần từ “thalassa” (biển): 1,16a.16b; 2,13; 3,7; 4,1a.1b.1c.39.41; 5,1.13a.13b.21; 6,47.48.49; 7,31; 9,42; 11,23. Kiểu nói đầy đủ: biển hồ Ga-li-lê (tên thalassan tês Galilaias) chỉ xuất hiện 2 lần (1,16; 7,31). Giữa hai lần nói đầy đủ này, bản văn chỉ gọi tắt: “thalassa” dịch là “Biển” hay “Biển Hồ” (viết hoa) để chỉ biển hồ Ga-li-lê . Mác-cô không dùng kiểu nói: “biển Ti-bê-ri-a” như trong Ga 6,1.23; 21,1.

- 4,1c: “Người xuống thuyền trên Biển Hồ mà ngồi”. Dịch sát: “Người ngồi trên (trong) Biển” (kathêsthai en têi thalassêi), còn đám đông “ở trên đất (epi tês gês), ven bờ Biển”. Khoảng cách này được thiết lập vì có nhiều đám đông tụ họp quanh Người. Tuy nhiên, lối hành văn nhấn mạnh và xác định rõ khoảng cách giữa Đức Giê-su và đám đông, cho độc giả biết khoảng cách giữa nội dung dụ ngôn và việc hiểu ý nghĩa dụ ngôn. Thực vậy, “những kẻ ở chung quanh Người cùng với Nhóm Mười Hai” đã không hiểu ý nghĩa dụ ngôn, và đã hỏi Đức Giê-su ở 4,10.

4,2: “Người dạy họ nhiều điều bằng dụ ngôn. Người nói với họ trong lời giảng của Người:”

- 4,2a: “Người dạy họ nhiều điều bằng dụ ngôn”. Đây là lần đầu tiên người thuật chuyện cho biết cách giảng dạy của Đức Giê-su là bằng dụ ngôn (4,1-9). Nghĩa là nội dung giáo huấn của Đức Giê-su ẩn chứa trong dụ ngôn.

4,2b: “Người nói với họ trong lời giảng của Người:...”. Những dấu hiệu văn chương cho phép hiểu phần dẫn nhập (4,1-2) do Mác-cô biên soạn, vì trong hai câu này có nhiều từ Mác-cô hay dùng. Phần 4,3-9 có thể được tác giả lấy từ truyền thống và hầu như không sửa đổi gì.

4,3: “Các người hãy nghe. Này, người gieo giống đi ra gieo giống.”

- 4,3a: “Các ngưi hãy nghe”. Lời mời gọi lắng nghe được nhắc lại hai lần (4,3.9) và gợi đến hai ý tưởng. (1) Lưu ý cử tọa và người đọc về tầm quan trọng của dụ ngôn này. Dụ ngôn này là chìa khóa để hiểu các dụ ngôn khác. (2) Phải chú ý lắng nghe để hiểu, vì không đơn giản để hiểu ý nghĩa dụ ngôn. Đức Giê-su nói ở 4,13 trước khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ: “Anh em không hiểu biết dụ ngôn này, thì làm sao hiểu được tất cả các dụ ngôn?” Điều này cho thấy dụ ngôn gieo giống giúp hiểu tất cả các dụ ngôn khác.

4,3b: “Người gieo giống” (ho speirôn). Nội dung dụ ngôn (4,3-9) và phần áp dụng (4,13-20) không cho biết người gieo giống là ai. Nhưng mạch văn cho phép nghĩ về Đức Giê-su là người “nói Lời” (2,2) và “dạy dỗ” (2,13) dân chúng. Đồng thời, “Người gieo giống” cũng gợi về các nhân vật khác như: Thiên Chúa, các Tông Đồ, các Ki-tô hữu rao giảng về Đức Giê-su (13,11).

4,3c: “đi ra”. Động từ “đi ra” (exerkhomai) áp dụng cho Đức Giê-su ở 1,38: Người đi nơi khác để rao giảng; và ở 2,13: Người đi ra bờ Biển Hồ để giảng dạy.

4,3d: “gieo giống”. Bản văn chỉ nói đến hành động “gieo giống” chứ không nói gì đến người gieo giống, vì thế nếu gọi đoạn văn Mc 4,1-9 là “dụ ngôn người gieo giống” thì chưa diễn tả được nội dung dụ ngôn. Có thể gọi “dụ ngôn gieo giống”, vì dụ ngôn nói về những gì xảy ra cho hạt giống, khi hạt giống rơi vào những vùng đất khác nhau. Dụ ngôn không nói đến tài khéo của người gieo hay chất lượng của hạt giống. Trọng tâm của dụ ngôn nói về phẩm chất của những loại đất khác nhau, nơi hạt giống được gieo. Phần áp dụng dụ ngôn (4,13-20) cho biết cụ thể phẩm chất của từng loại đất. Có tác giả cho rằng Mc 4,1-9 không phải là “dụ ngôn người gieo giống”, cũng không phải là “dụ ngôn hạt giống” mà là dụ ngôn về “đất đón nhận hạt giống.” Xem Tolbert, M.A., Sowing the Gospel: Mark’s World in Literary-Historical Perspective, Minneapolis, 1989, tr. 149.

4,4: “Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất.” Hai yếu tố có trách nhiệm: (1) vệ đường, đất cứng nên không có giao tiếp giữa lời rao giảng và người nghe; (2) chim chóc lấy đi hạt giống ấy nơi con người.

4,5-6: “5 Có hạt rơi trên sỏi đá, nơi không có nhiều đất, nó lập tức mọc lên, vì không có độ sâu của đất, 6 và khi mặt trời mọc lên, nó bị cháy; vì không có rễ, nó bị chết khô.”

4,5c: “nó lập tức mọc lên”. Trường hợp này đã có giao tiếp giữa hạt giống và đất, hạt giống đã mọc lên. Tuy nhiên, mặt trời là yếu tố bên ngoài, vừa cần thiết cho cây phát triển, vừa tác hại đến cây nếu cây không có rễ.

4,7: “Có hạt rơi vào bụi gai, bụi gai mọc lên làm nó chết nghẹt và nó không sinh hoa trái.”

- 4,7a: “Có hạt rơi vào bụi gai”. Loại thứ ba ở mức độ cao hơn: hạt giống mọc thành cây, yếu tố mới so với hai lần trước là nói đến việc sinh trái.

- 4,7b: “chết nghẹt”. Từ này cho thấy cây thiếu không gian, thiếu những yếu tố cần thiết để cây phát triển như ánh sáng mặt trời. Lời Đức Giê-su không có chỗ để phát triển nơi người nghe. Nói cách khác, “hạt giống Lời” không được người nghe dành một chỗ, một không gian xứng đáng, nên Lời bị các yếu tố khác bóp nghẹt. Tuy đã phát triển thành cây nhưng “không sinh hoa trái”, dịch sát: “không cho trái”.

4,8: “Có những hạt khác rơi vào đất tốt và sinh hoa trái, nó mọc lên, lớn lên và đem lại kết quả, hạt được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm.”

-4,8b: “hạt được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm”. Ba lần hạt giống được gieo bị thất bại, không sinh hoa trái, đối lại một lần hạt giống rơi vào đất tốt. Kết quả liệt kê ba lần, theo chiều tiến lên: 30, 60, 100. Đây là kết quả vượt quá mức bình thường so với thực tế. Theo các nghiên cứu nông nghiệp, được mùa là gấp 10 lần còn bình thường là gấp 5-7 lần. Hiện nay với kỹ thuật hiện đại, gấp 30 lần chỉ có trong những năm được mùa. Với kết quả ngoài sức tưởng tượng như trong dụ ngôn (30, 60, 100 lần), bản văn đề cao sự dồi dào phong phú của Triều Đại Thiên Chúa. Sự thất bại với ba loại đất trên chỉ là phần nhỏ, không thể so sách với kết quả đạt được. Hình ảnh đồng lúa cũng nhấn mạnh sự thành công, vì tỷ lệ hạt giống rơi xuống vệ đường, sỏi đá và bụi gai là không đáng kể so với hạt giống được gieo vào đất tốt trong cánh đồng.

Kết luận

Nếu chưa đọc phần áp dụng dụ ngôn gieo giống (Mc 4,13-20), các nhân vật trong trình thuật và độc giả có thể hiểu dụ ngôn gieo giống (4,1-9) là hình ảnh về sứ vụ Đức Giê-su. Người ra đi rao giảng Vương Quốc Thiên Chúa, Người bày tỏ uy quyền của Người trên thần ô uế và quỷ. Người có quyền tha tội và có quyền trên ngày sa-bát. Người có khả năng chữa lành bệnh mọi thứ bệnh tật và tỏ lòng ưu ái với những người tội lỗi. Tuy nhiên, Người đã gặp chống đối từ phía các kinh sư và những người Pha-ri-sêu, kể cả thân nhân của Người cũng không đón nhận Người.

Thất bại trên không do Đức Giê-su là người gieo giống, cũng không do hạt giống là lời rao giảng của Người về Vương Quốc Thiên Chúa, mà nguyên nhân là do cách thức nghe và đón nhận từ phía con người. Thính giả được ví như các loại đất: vệ đường, sỏi đá, bụi gai, đất tốt. Dụ ngôn gieo giống cho thấy sự khước từ lời Đức Giê-su rao giảng ở nhiều mức độ khác nhau, tuỳ theo nơi hạt giống rơi vào. Nhưng ba loại đất đầu tiên (vệ đường, sỏi đá, bụi gai) kết quả giống nhau: “không sinh hoa trái”.

Chỉ có những hạt giống gặp đất tốt mới sinh hoa kết quả, và kết quả cũng không đồng đều vì khả năng mỗi người khác nhau. Điều quan trọng là “sinh hoa kết quả”. Như thế, chỉ có hai loại: “sinh hoa trái” hay “không sinh hoa trái”. Ba lần không sinh hoa trái nhằm giải thích lý do tại sao không sinh hoa trái. Ba trường hợp thất bại không thể so sánh với trường hợp thành công là mảnh đất tốt. Kết quả ngoài sức tưởng tượng như trên gợi đến sự thành công của Đức Giê-su. Đồng thời gợi đến sứ vụ rao giảng của các môn đệ trong tương lai. Hội thánh đã phát triển mạnh mẽ trong những thế kỷ đầu. Qua dụ ngôn, Đức Giê-su mời gọi thính giả và độc giả chuẩn bị lòng mình trở thành mảnh đất tốt để có thể đón nhận, nghe và hiểu lời Đức Giê-su. Tuy nhiên ý nghĩa của dụ ngôn sẽ được triển khai thêm trong phần Đức Giê-su nói riêng với các môn đệ (4,10-25), tự bản chất dụ ngôn có nhiều cách áp dụng. Hai bài viết tiếp theo sẽ trình bày về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa và những kẻ ở ngoài (Mc 4,10-12); và tầm quan trọng của dụ ngôn gieo giống và một cách áp dụng dụ ngôn gieo giống (Mc 4,13-20)./.

Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2020/06/mc-41-9-du-ngon-gieo-giong.html

 


Trang Kinh Thanh